Các Bài Suy Niệm Lễ Mình Máu Thánh – Năm C

CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ MÌNH MÁU THÁNH – NĂM C

(St 14, 18-20; 1 Cr 11, 23-26; Ga 6, 51-52)

 

1/ ĐÂY LÀ MÌNH THẦY

(ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên)

Thánh lễ chúng ta dâng được gọi là “cử hành Thánh Thể” hay Hy tế tạ ơn (Eucharistie). Trung tâm của Phụng vụ Thánh lễ là việc Chúa thiết lập Bí tích Thánh Thể. Những lời của Chúa Giêsu được linh mục chủ tế lặp lại cách khoan thai, rõ ràng và trân trọng: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn, vì này là mình Thầy… Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy”. Trong ngôn ngữ bình dân, những lời này được gọi là “lời truyền phép”. Bởi lẽ, sau khi linh mục chủ tế đọc những lời này, thì bánh trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu và rượu trở nên Máu Thánh Người. Thánh lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu được Đức Thánh Cha Urbano IV thiết lập từ năm 1264, một năm sau khi phép lạ Thánh Thể xảy ra tại Tiệp Khắc vào năm 1263. Trong Tông sắc thiết lập ngày lễ này, Đức Thánh Cha đã viết: “Để củng cố và đề cao Đức Tin chân thật, sau khi cân nhắc cẩn thận, Ta truyền lệnh rằng, ngoài những cuộc tưởng nhớ hằng ngày mà Giáo hội thể hiện đối với Bí Tích rất thánh này, mỗi năm sẽ còn có một Đại Lễ đặc biệt nữa được cử hành vào một ngày nhất định, và cụ thể là vào ngày thứ Năm sau tuần Bát Nhật kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong ngày đó, dân thánh thiện sẽ sốt sắng và mau chóng tập trung lại trong các ngôi Thánh Đường của chúng ta, và tại đó, các bài Thánh Ca sẽ được vang lên bởi các Giáo sĩ và các Giáo dân với trọn niềm vui thánh thiện”. Hiện nay, vì lý do mục vụ, hầu hết các địa phương đều dịch ngày lễ này vào Chúa nhật kế tiếp.

“Đây là Mình Thầy”. Lời nói của Đức Giêsu đi cùng với cử chỉ trao bánh cho các môn đệ trong bữa tiệc ly đã diễn tả tình thương mến của Chúa đối với các ông và đối với các tín hữu ở mọi thời đại. Thánh Gioan đã khẳng định: “Người đã yêu thương các môn đệ, và đã yêu thương đến cùng” (Ga 13,1). Ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa nhắc lại cho chúng ta tình yêu kỳ diệu ấy. Đây là tình yêu có một không hai. Bởi lẽ trên đời này không ai có thể trao tặng cho người khác chính bản thân mình. Mầu nhiệm Thánh Thể là sự nối dài của mầu nhiệm Nhập Thể. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa làm người và cự ngụ giữa chúng ta. Qua mầu nhiệm Thánh Thể, Con Thiên Chúa phó trót thân mình để ở với chúng ta cho đến tận cùng thời gian. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Việc hiến trao trót thân mình cho các môn đệ chính là bằng chứng của tình yêu cao cả nhất của Chúa Giêsu đối với nhân loại.

“Đây là Mình Thầy”. Cử chỉ hiến thân của Chúa nhằm mục đích trở nên lương thực thiêng liêng cho các môn đệ và cho các tín hữu. Trong hành trình Đức tin là hành trình về quê trời, người tín hữu không chỉ được nuôi dưỡng bằng lương thực vật chất, mà còn bằng lương thực thiêng liêng. Ngôn sứ Êlia trong Cựu ước (x 1V 21,1-29) trên đường đến núi của Thiên Chúa (núi Horeb), đã được nuôi dưỡng bằng bánh và nước, nhờ đó ông đủ sức để tiếp bước trong hành trình chạy trốn sự săn đuổi của vua A-cáp và hoàng hậu Giêzabel, người tín hữu trong hành trình về Quê Trời được tiếp sức bằng Thánh Thể để có thêm nghị lực thiêng liêng chống lại những cám dỗ đang bao bọc tư bề. Thánh Thể cũng là linh dược, tức là thuốc thiêng đối với đời sống người tín hữu. Nhờ linh dược này, mà những tổn thương tâm hồn được chữa lành, những tội lỗi được tha thứ, buồn sầu sẽ được thay thế bằng niềm vui. Vì vậy, Mình Thánh Chúa những bệnh nhân đón nhận cùng với Bí tích Xức dầu, chúng ta thường gọi là « Của Ăn Đàng ». Đó là nguồn trợ lực siêu nhiên giúp người tín hữu đi đến đích điểm trong bình an.

“Đây là Mình Thầy”, Giáo Hội Công giáo tin rằng lời của Chúa Giêsu luôn có hiệu lực, mỗi khi các linh mục cử hành Thánh Thể. Chúa vẫn hiện diện trong hình Bánh và hình Rượu, kể cả khi thánh lễ đã kết thúc. Nghi thức cung nghinh Thánh Thể ra ngoài thánh đường chính là khẳng định Đức tin vào sự hiện diện thánh thiêng ấy. Trong cuộc cung nghinh này, Chúa Giêsu đi đến với mọi người mọi nhà, để chúc lành và nâng đỡ phận người giữa những đau khổ chông gai của cuộc sống. Hành trình cuộc đời – cũng là hành trình thập giá – của con người không còn đơn lẻ, nhưng có Chúa đồng hành và nâng đỡ. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta đến với Người.

“Đây là Mình Thầy”. Cử chỉ trao ban chính bản thân của Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học về chia sẻ. Thánh Thể chính là sự cho đi vì người khác. Trước nỗi thống khổ về tinh thần cũng như thể xác của bao người xung quanh, Chúa mời gọi chúng ta hãy quảng đại chia sẻ. Khi chia sẻ và cho đi, chúng ta sẽ có được niềm vui, vì “cho đi là còn mãi” như người ta thường nói. Hơn thế nữa, đối với Kitô hữu, giúp người bất hạnh cơ nhỡ là giúp chính Chúa Giêsu, vì Người đồng hoá với họ (x. Mt 25,31-46).

Chúng ta hãy đến tôn thờ Thánh Thể. Nơi Bí tích này, Thiên Chúa hiện diện với loài người, thiên đàng ở giữa nơi trần thế. Nhờ lĩnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, con người được ăn bánh các thiên thần và được thần linh hoá, nên giống Đức Giêsu, Đấng Cứu độ chúng ta.

2/ NÀY LÀ MÁU TA

(ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.

Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.

Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.

Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.

Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.

Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.

Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.

Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?

2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?

3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?

4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?

3/ SỐNG MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG THÁNH THỂ

(Lm. Vinhsơn Ngọc Biển SSP)

Khi diễn tả hành vi của tình yêu cho người mình thương mến, chúng ta thường trao cho họ những kỷ vật để làm bằng chứng về tình yêu mà mình muốn dâng hiến. Với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.

Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đến trần gian hầu cứu độ con người, và khi biết mình sắp trở về với Đấng đã sai mình, Ngài đã yêu thương họ đến cùng, nên đã để lại cho Giáo Hội một bảo chứng nhằm diễn tả tình yêu tuyệt đối của Ngài cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh Thể.

Vì thế, Bí tích ThánhThể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11). Các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như điểm quy chiếu, và, trải qua bao thế hệ, Giáo Hội luôn coi Bí tích Thánh Thể là gia tài của mình, nơi đó tuôn chảy và phát xuất ra mọi năng lực cho Giáo Hội (x. Porta Fidei, số 9).

Khi thiết lập Bí tích này, Chúa Giêsu muốn ở với chúng ta luôn mãi (x. Mt 18,20). Ngài yêu chúng ta đến cùng (x. Ga 13,1), đến nỗi hiến mạng sống vì chúng ta (x. Ga 15,13). Không những thế, Ngài muốn chúng ta nên một với Ngài bằng cách ban chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Nhờ đó, chúng ta được trở nên một với Chúa và hiệp thông với nhau cách trọn vẹn.

1. Thánh Thể: Bí tích hiệp thông

Khi diễn tả sự hiệp thông Thánh Thể, Giáo Hội khởi đi từ việc nhắc cho con cái của mình ý thức sự liên kết với Chúa Giêsu trong chiều kích quy Kitô. Vì thế, mọi sự đều hướng về Chúa Giêsu như điểm hội tụ. Từ Ngài tỏa ra và chi phối toàn bộ đời sống của con người.

Với suy tư như trên, chúng ta xác tín rằng: khi tham dự Tiệc Thánh Thể, ấy là lúc chúng ta sống trong sự hiệp thông sâu xa với Chúa và với nhau. Khi rước lễ, chúng ta đón nhận chính Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Đầu, thì “mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12,27).

Sự hiệp thông này gợi lại cho chúng ta lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu: “Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta, như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).

Trong Kinh Tiền tụng Thánh Thể cũng nhắc lại cho chúng ta ý nghĩa này: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”. Công thức này cho thấy rõ ràng hiệu quả của Bí tích Thánh Thể, đó là sự hiệp nhất với nhau trong tinh thần hiệp thông với Chúa qua Giáo Hội.

Trong Thông điệp Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển rõ ràng và sâu xa, giúp toàn thể Giáo Hội sống hiệp thông với Chúa cách trọn vẹn. Ngài viết:

“… Thánh Thể xuất hiện như là đỉnh cao của tất cả các Bí tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha, bằng cách đồng hoá với Người Con yêu dấu duy nhất của Người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần”. Nói cách khác, khi ta rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu, thì trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ta và Thiên Chúa cùng chung nhau một giòng máu. Chúng ta trở nên “những người thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Điều này cũng được diễn tả khi linh mục pha chút nước vào rượu và dâng lời nguyện: “Nhờ dấu chỉ nước hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con”.

Như vậy, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu (Sacramentum Caritatis). Vì yêu, Chúa Giêsu đã cho chúng ta được liên kết nên một với Ngài. Khi hợp nhất với Ngài, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau trong mọi chiều kích, nhất là hiệp thông với người nghèo.

Thật mâu thuẫn tận căn khi chúng ta cử hành Thánh Thể và thiếu đi tính hiệp thông sâu xa này. Bởi vì “Thánh Thể tạo nên sự hiệp thông và cổ vũ sự hiệp thông”. 

2. Liên đới với người nghèo là sống sự hiệp thông Thánh Thể

Hiện nay, trên thế giới, dân số lên đến gần 7 tỷ người. Nhưng có tới 1/3 người nghèo, tức là hơn 2 tỷ người đang sống dưới mức nghèo khổ. Riêng Việt Nam, trong số gần 90 triệu người, có 15% dân nghèo không kiếm đủ 1 USD/ ngày.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, biết bao nhiêu thứ dư thừa và lãng phí được huỷ bỏ ngay trên xác chết của những người đói khát. Rồi những nguồn lực kinh tế thì tập trung vào một số người và tập đoàn, trong khi đó biết bao nhiêu người phải vĩnh biệt cuộc sống chỉ vì thiếu một gói mì với giá 2.000 VNĐ, hay một ly nước, một viên thuốc. Nạn phá thai và cổ võ phá thai trở nên hiện tượng bình thường.

Lại còn biết bao nhiêu tiền bạc đổ dồn vào những quán nhậu, quán bar mỗi khi thành phố lên đèn, số tiền chi trả lên đến bạc triệu sau mỗi cuộc vui chơi trác táng. Bên cạnh đó là những Lazarô nghèo đói, ghẻ lở đang bị những con chó đến liếm những mụn nhọt đã ung thối.

Hay vì thiếu đi tính liên đới, trách nhiệm của những người có bổn phận bảo vệ sự trong sạch của môi trường, nên thảm họa ô nhiễm môi sinh ngày càng gia tăng lên đến mức báo động đang ngày đêm đe dọa sự sống của con người và loài vật cũng như thực vật… gây nên hậu quả khôn lường cho cuộc sống con người hiện tại và tương lai lâu dài!

Đứng trước thực trạng đó, là người Kitô hữu, chúng ta không được phép dửng dưng, vô cảm, ngược lại, mỗi người đều có trách nhiệm ít nhiều trong việc thăng tiến con người để thể hiện tinh thần hiệp thông, liên đới.

Đây cũng là sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta.

Thánh sử Luca đã đã làm toát lên lòng thương xót của Chúa Giêsu khi trình thuật thật ấn tượng hành vi của Đức Giêsu chạnh lòng thương dân chúng và ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân. Mặt khác, ngài cũng làm toát lên sự liên đới, hiệp thông của người có năm chiếc bánh và hai con cá…

Thật vậy, chúng ta thấy, nếu mỗi người chỉ nghĩ đến cái bụng của mình mà không biết nghĩ đến cho người khác, thì làm sao có 5 chiếc bánh và 2 con cá để Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng? Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá qua sự quảng đại của người hiến tặng, Chúa đã làm một việc cả thể là nuôi 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em. Không phải vì Chúa không làm được phép lạ từ không thành có để nuôi dân chúng, nhưng vì Chúa muốn cho con người sống tinh thần liên đới, trách nhiệm, hiệp thông khi biết đóng góp phần mình trong công việc chung vì ích lợi của người khác.

Như vậy, mỗi người chúng ta hãy biết liên đới với người khác, biết đặt sự sống của mình vào trong hoàn cảnh của họ, để thấy được thế nào là đói khát, đau bệnh và cô đơn… hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc đại đồng cho tất cả mọi người.

Mừng Lễ Mình và Máu Cực Thánh Chúa Giêsu, xin cho mỗi người biết sống mầu nhiệm tự huỷ của hạt lúa, trái nho để đem lại sự sống cho người khác. Xin cho người Kitô hữu cũng biết liên đới với anh chị em chung quanh mỗi khi họ cần đến chúng ta, để yêu thương, chia sẻ, đồng hành với họ. Được như thế, chúng ta đang làm cho sự hiệp thông nơi Bí tích Thánh Thể sống động nơi con người và hành vi của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tôn thờ, chúc tụng Chúa. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con khi rước Mình và Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, thì cũng được hiệp thông thần tính với Chúa và liên đới với nhau. Amen.

4/ LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.

I. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời

Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn mươi năm trường. Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có lương thực để ăn? Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân. Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người. Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời…” (Ga. 6, 32).

Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niêm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh em;” cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em” (Mc. 14, 23-24).

Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người. Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người. “Ai không ăn bánh này, sẽ không có sự sống nơi mình” (Ga.6, 53).

II. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa

“Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?” (Ga. 6,52). Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật “khó nghe” đối với không chỉ con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại. Đứng trước người phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất đặc biệt.

Đứng trước lời nói “sống sượng” của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa. Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ Ngài: “Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi” (Ga. 6,60). Đức Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: “còn các anh, các anh có muốn bỏ đi không?” (Ga. 6,67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: “bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Ga. 6,68). Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy. Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.

Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác? Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt. Người này phải có một nguồn gốc thần linh. Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức Giêsu. Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người khác. Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.

III. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô

Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabbát để nghe đọc Lời Chúa. Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Giêsu phục sinh cho người Do Thái. Với niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh: “Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán…” (Mc.14, 22). Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.

Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết. Ngày nay, với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người ta không cần đến với nhau nữa. Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.

Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo. Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô. Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức Giêsu không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể. Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có bị khủng hoảng niềm tin vào bí tích Thánh Thể bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.

2. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống đức tin Kitô hữu không?

3. Đức Giêsu Kitô hiện diện nơi cung lòng bạn và hiện diện nơi bí tích Thánh Thể khác nhau như thế nào? Xin giải thích theo sự hiểu biết của bạn.

 

bài liên quan mới nhất

Ngày 23/11: Thánh Clêmentê I, Giáo hoàng, Tử đạo và Thánh Columbano, Viện Phụ

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng