Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật XVII Thường Niên – Năm C

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

( St 18, 20-32; Cl 2, 12-14; Lc 11, 1-13)

 

1/ TÌNH CHA

(ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên)

Trong cuộc sống thực tế, người cha thường hay nghiêm khắc đối với con cái, nhưng lại dạt dào tình thương. Nói đúng hơn, cách thể hiện tình cảm của người cha khác với người mẹ. Tuy vậy, tình cha không kém gì tình mẹ, vừa rộng mở, vừa bao dung. Nếu có nghiêm khắc, là vì muốn cho con nên người, bởi lẽ “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Cũng trong quan niệm thông thường của người Việt Nam, chữ “tình” rất quan trọng. “Trăm cái lý không bằng một tý cái tình”. Vì tình nghĩa, người ta dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, “chín bỏ làm mười”, để quên đi quá khứ và sống hài hoà với nhau trong một làng, một xóm hoặc một đại gia đình.

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được xưng tụng là Cha. Ngài rất khiêm khắc đối với tội nhân, nhưng lại bao dung đối với những ai thành tâm sám hối. Ngài là Đấng “nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30,6). Câu chuyện ông Abraham “mặc cả” với Chúa đã diễn tả lòng nhân từ của Ngài. Thời đó, dân thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra sống trong tội lỗi và sa đọa, khiến Thiên Chúa bừng bừng nổi giận. Ngài quyết định sẽ trừng phạt họ. Ông Abraham đã “năn nỉ” với Chúa và dần dần từng bước hạ thấp điều kiện. Từ con số năm mươi người công chính, ông đã hạ xuống chỉ còn mười người, nhờ đó mà Chúa thay đổi ý định trừng phạt. Thiên Chúa đã bớt giận trước lời nài xin của ông Abraham và Ngài đã đồng ý: nếu có được mười người công chính thì Ngài sẽ không tru diệt hai thành này. Tác giả sách Sáng thế đã dùng lối văn “như nhân” để diễn tả Thiên Chúa. Ngài nguôi giận trước sự van xin của con người. Nếu đọc tiếp đoạn Sách thánh này, chúng ta sẽ thấy, điều kiện có mười người công chính cũng không đạt được. Thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra đã bị lửa diêm sinh từ trời thiêu rụi. Tất cả đã bị tru diệt, chỉ trừ gia đình ông Lót, là người kính sợ Chúa. Khi vừa chạy khỏi thành, bà vợ ông Lót, vì tiếc của quay lại, bỗng hoá thành tượng muối.

Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn trước sự xúc phạm của con người, thì con người cũng phải kiên nhẫn cậy trông để thoát khỏi trừng phạt. Người hàng xóm trong Tin Mừng thánh Luca đã kiên trì nhẫn nại để vay bánh vào lúc nửa đêm. Sự kiên trì đã làm thay đổi lòng chai đá của chủ nhà, mà trỗi dậy lấy bánh cho người hàng xóm. Chúa Giêsu đã dùng một tình huống đời thường để liên hệ đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Nếu người thường còn làm thế, huống chi Cha trên trời. Hãy kiên trì cầu nguyện. Hãy phó thác nơi Thiên Chúa những lo lắng của cuộc đời. Ba động từ được Chúa Giêsu nhắc tới, đó là: xin, tìm, gõ cửa. Cả ba hành động này đều diễn tả sự kiên nhẫn, lòng cậy trông và tin tưởng phó thác. Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài luôn lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng ta.

Cầu nguyện làm nên cốt lõi đời sống người tin Chúa. Vì cầu nguyện chính là than thở với Ngài, để trình bày với Ngài về nỗi niềm nhân thế. Cầu nguyện cũng là xin Chúa đỡ nâng trên đường đời còn mang nhiều truân chuyên. Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Lời Kinh “Lạy Cha” diễn tả mối dây thiêng liêng giữa Thiên Chúa và người tín hữu. Chỉ có Chúa Giêsu mới được gọi Thiên Chúa là Cha, vì Người là Con của Chúa Cha, như Người nhiều lần khẳng định. Lời cầu nguyện mà Người dạy các môn đệ khởi đầu bằng hai chữ “Lạy Cha”, hoặc “Thưa Cha”, hoặc “Cha ơi”. Như vậy, Chúa Giêsu đã cho phép chúng ta gọi Chúa là Cha, giống như bản thân Người. Nói cách khác, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu mà chúng ta được gọi Chúa là Cha với tâm tình thân thương trìu mến.

Nếu chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và thân thưa với Ngài: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, là nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.  Thánh Phaolô nói với chúng ta: trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta. Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi mọi chướng ngại ngăn bước chúng ta đến gần Thiên Chúa.

Khác với lối cầu nguyện kể lể dài dòng và nhằm phô trương nơi những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kịch liệt lên án, kinh Lạy Cha ngắn gọn, đơn sơ mà lại mang nội dung rất phong phú. Đây là tâm tình đơn sơ của người con thảo thân thưa với Chúa. Điều cầu nguyện ưu tiên là ước mong cho vinh quang Chúa tỏ hiện giữa lòng nhân thế, để mọi người trên thế giới nhận biết Chúa là Cha vinh hiển quyền năng. Tiếp đó là những ý cầu nguyện xin cho bản thân và cho những người anh chị em bạn hữu. “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Lời kinh khiêm tốn nhẹ nhàng, vừa hướng chúng ta về Chúa, vừa liên kết chúng ta với tha nhân. Lời kinh cũng thể hiện thiện chí sống hài hoà với mọi người nhờ ơn Chúa, để có được trái tim bao dung như Ngài.

Với tâm tình yêu mến, phó thác và cậy trông, chúng ta cùng thưa với Chúa; “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Chắc chắn lời kinh sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an, trong mọi tình huống của cuộc đời.

2/ LẠY CHA CHÚNG CON

 (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.

1. Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.

Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.

Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.

Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.

Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.

2. Mọi người là anh em

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.

Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.

Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.

Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.

Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.

Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?

2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?

3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?

3/ LỜI KINH TUYỆT DIỆU CỦA MUÔN THẾ HỆ

(Lm. Vinhsơn Ngọc Biển SSP)

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập. Nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái…, từ đó nảy sinh các mối tương quan như: thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… Đó là các mối liên hệ tự nhiên. Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường trên, nơi các tôn giáo và trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt. Vì thế, với người tín hữu Kitô, chúng ta luôn cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu.

1. Kinh lạy Cha, khuôn mẫu cầu nguyện

Với người Công Giáo, tâm tình đó được khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Không những thế, Ngài còn dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. 

Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.

Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài. Ngài cũng muốn cho các môn đệ có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.

Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có. Từ đây, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và mỗi người đều được trở thành nghĩa tử của Người.

Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” “Triều đại Cha mau đến”.

Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Vì thế, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại. Không! Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa và từ đó nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha.

Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình. Những lời nguyện đó là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người. Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.

Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”.

Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau. Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta.

Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân, bởi lẽ, con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện. Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa. Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù.

Khi dạy các môn đệ xong, Đức Giêsu đảm bảo cho những lời nguyện xin ấy nếu phát xuất từ sự chân thành, tin tưởng, phó thác thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời, vì: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”.

Như vậy, có thể nói, không có lời kinh nào ý nghĩa và giá trị cho bằng Kinh Lạy Cha, bởi vì kinh này do chính Đức Giêsu dạy cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta. Vì thế, đây là lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh.       

2. Thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta

Trong đời sống đạo của chúng ta ngày nay, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, hoặc cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm. Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả. Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha. Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác mà quên mất nhu cầu tâm linh.

Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt.

Cầu nguyện như thế, vô hình trung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người.

Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn. 

Tuy nhiên, cần phải kiên trì trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” và chưng ra hình ảnh trai lỳ của người làm phiền trong đêm.

Cuối cùng, ông chủ khó tính cỡ nào cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này.

Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, nhưng đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người. Thế nên, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái”.

Tắt một lời, kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.

Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con! Xin ban cho chúng con biết năng chạy đến với Chúa như con thơ bên lòng mẹ hiền, để được Chúa yêu thương, ban ơn và tha thứ cho những thiếu xót của chúng con. Amen.

4/ LỜI CẦU NGUYỆN THAY ĐỔI SỐ PHẬN

(Lm. Giuse Lê Danh Tường)

Nói đến số phận con người, ta dễ liên tưởng đến một sự định đoạt cho mỗi người, một định đoạt về cuộc sống, một định đoạt về cái chết. Số phận được coi như bất di bất dịch, không thể thay đổi. Và người ta chỉ còn biết đón nhận nó khi thấy an vui hạnh phúc, hay chấp nhận nó khi nghiệt ngã đau thương. Nhưng với lời cầu nguyện, số phận hoàn toàn được biến đổi.

Sống trong một xã hội đầy rẫy những rủi ro, người ta dễ thốt lên câu “thôi, chấp nhận số phận này”. Một tai nạn hay một ác bệnh xảy đến, người ta thường hay tự an ủi với cái định đề: số phận đã định. Nhưng rồi rủi ro xảy ra nhiều hơn, nó xuất hiện như cơm bữa mọi nơi mọi lúc khiến người ta phải dừng lại tìm hiểu nguyên do. Nại đến pháp lý là đi tìm cái đúng cái sai, ai đúng ai sai, ai chịu trách nhiệm cho sự vụ này.

Năm xưa dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra mà bài đọc 1 nhắc đến (x. St 18, 20-32) đã rơi vào cảnh khốn cùng. Dường như họ sắp bị diệt vong. Giữa cái như là số phận ấy, Abbraham đã nhận ra thủ phạm dẫn lối đến tình trạng be bét này là những con người tội lỗi, xấu xa đang sống trong thành đó. Và giữa những thành phố ấy có những con người ngay chính đã bị vạ lây nên phải sống trong cảnh lầm than. Trước cảnh ngộ đó, Abbraham đã lên tiếng. Ngài đã lên tiếng với Chúa, đã cầu nguyện với Chúa. Chút “láu cá” của thánh Tổ phụ Abbraham trong việc năn nỉ Chúa đã kéo dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra ra khỏi thảm trạng diệt vong.

Abbraham đã làm gì? Ngài đã lôi cả 2 thành phố đặt lên bàn cân trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã “lạm dụng” lòng thương xót của Chúa để xin Chúa can thiệp vào dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra (x. St 18, 22-32). Với sự can thiệp của Thiên Chúa, cái số phận như định sẵn ấy đã được biến đổi. Họ đã từ cõi chết mà được sang cõi sống.

Trong bài Tin Mừng (x. Lc 11, 1-13 ), lời cầu nguyện của thánh Gioan tiền hô và của Chúa Giê-su năm xưa ắt hẳn có sức biến đổi lạ thường nên mới khiến các môn đệ thưa với Thầy:  “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông” (Lc 11,1).

Đức Giê-su đã lên tiếng dạy các ông cầu nguyện một lần duy nhất và là tất cả. Chữ đầu tiên của lời cầu nguyện đã kéo lòng người môn đệ hướng thẳng về Trời cao. Khi thốt lên “Lạy Cha” (Lc 11,2) ta hướng lòng về Chúa đơn sơn như một đứa bé gọi bố mình “Bố ơi!”. Một tâm tình tự nhiên, không lý luận, không điều kiện, không đắn đo tính toán. Đơn giản là một sự thân tình mật thiết trong tình cha con. Và rồi tất cả những gì tiếp theo của lời cầu nguyện là mong cho mọi người cùng nhận biết Chúa và đến với Chúa như con thơ, là phơi bày cuộc sống của mình trước Chúa và để cho Chúa can thiệp: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11, 4).

Đứng trước những trắc trở của cuộc sống, người ta dễ đi tìm những phương thế theo suy luận của con người để giải quyết. Nhưng đời này qua đời khác, khoa học phát triển không ngừng, nhưng vẫn còn đấy vấn nạn của “số phận con người”. Đi đến tận cùng của vấn nạn, ta lại bắt gặp trở lại câu chuyện của dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra năm xưa. Cái bấp bênh của cuộc sống xem ra lại là hậu quả của một cuộc sống xa đọa, tội lỗi của chính mình, hay của ai đó quanh ta. Nó hoàn toàn không phải là số phận đã định sẵn cho tôi hay cho bạn. Và cái tội gây ra mọi tội lỗi ở đời ấy là sự phớt lờ Thiên Chúa, chối bỏ Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện chính là lúc đặt lại đời mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa; Chấp nhận Ngài một cách vô điều kiện, phó thác chính con người của mình cho Ngài; Chấp nhận đi theo sự chỉ dẫn của Ngài và mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn của Ngài. Khi ấy ta sẽ được biến đổi và dần trở nên thánh thiện trong vinh quang của Ngài.

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 (x. Cl 2, 12-14) đã cảm nhận rất rõ thế nào là đời sống của một con người được sống trong Chúa. Chính khi thánh Phaolô chấp nhận Chúa Giê-su là khi ngài được biến đổi. Từ con người đi lùng bắt và bách hại các Ki-tô hữu, ngài trở nên con người đi làm cho thiên hạ trở thành Ki-tô hữu. Ngài đã thổ lộ với dân thành Cô-lô-sê: “Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta” (Cl 2, 13)

Nếu sự sa đọa tội lỗi của người này khiến người khác bị vạ lây, thì lời cầu nguyện của ta cũng có sức biến đổi chính những con người tội lỗi. Bởi khi ấy, không phải ta đã làm người tội lỗi biến đổi, nhưng chính Chúa đã biến đổi họ.

Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.

 

bài liên quan mới nhất

Ngày 20/4: Thánh Anê Môntepuxiano (1268-1317)

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng