Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật XV Thường Niên – Năm C

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – NĂM C

(Ðnl 30, 10-14; Cl 1, 15-20; Lc 10, 25-37)

 

1/ LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH

(ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên)

Cách đây vài ngày, ngày 25-6-2019, báo chí đưa tin và hình ảnh Camera ghi lại một chiếc taxi hãng Vinasun tông xe vào một đôi nam nữ đang chạy xe gắn máy trên đường tại Sàigòn khiến hai người bất tỉnh. Người tài xế dừng xe, bước xuống quan sát và khi không thấy ai ngoài hai nạn nhân, anh ta lạnh lùng lên xe và tẩu thoát. Ngày 8-7-2019, một thông tin khác cho hay tại Gia Lâm (Hà Nội) một chiếc xe hơi đã tông thẳng vào người phụ nữ lao công đang làm việc, khiến chị bị văng bên lề đường và tử vong. Người tài xế “máu lạnh” này cũng bỏ chạy, để mặc nạn nhân. Những thông tin này cho thấy con người càng ngày càng vô trách nhiệm và vô cảm đối với tha nhân, nhất là đối với những nạn nhân do chính họ gây nên.

Truyền thống văn hoá Việt Nam của chúng ta có biết bao lời giáo huấn về tình liên đới, ca ngợi những nét đẹp thể hiện qua sự đùm bọc cứu giúp lẫn nhau: “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…”, “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Trong thời buổi hiện đại này, những nét đẹp truyền thống ấy có nguy cơ bị quên lãng do sự ích kỷ của con người.

Đối với một số tín hữu Công giáo, việc đón nhận giáo huấn của Chúa và của Giáo Hội chỉ dừng lại ở lý thuyết và không có thực hành. Đó là lý do tại sao vẫn tồn tại những tranh chấp nơi các cộng đoàn. Đây đó vẫn có những người nhận mình là Kitô hữu mà sống ngược lại với giáo huấn của Chúa. Người tín hữu đích thực là người lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để rồi Lời Chúa là kim chỉ nam hướng dẫn và soi rọi mọi hành vi cử chỉ và lời nói của mình. Thiếu thực hành, đời sống đức tin có nguy cơ biến thành một truyền thống văn hoá hoặc những chỉ dẫn luân lý thuần tuý trần gian. Đó là điểm nhấn trong giáo huấn của Lời Chúa hôm nay.

Thiên Chúa không chỉ là Đấng ngự trên chín tầng cao xanh. Tác giả Đệ nhị Luật đã khẳng định điều đó. Xuyên suốt lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa luôn phù trợ đồng hành và che chở. Ngài đã mặc khải cho ông Môisen: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp. Điều này có nghĩa, Ngài là Thiên Chúa gần gũi với con người và luôn cứu giúp con người. Vì vậy, luật của Chúa cũng không phải điều gì xa xôi, mà gần gũi với con người, để rồi ai cũng có thể thực hành được, tùy hợp với khả năng và bậc sống của mình.

Nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa được trình bày như một Đấng che chở đồng hành với Dân được tuyển lựa, thì đến thời của Tân ước, Chúa sai Con của Ngài nhập thể để ở cùng nhân loại, đồng cam cộng khổ với con người, để chia sẻ kiếp sống nhân sinh đầy thử thách gian nan và đau khổ. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Đấng vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Điều đó có nghĩa, nếu con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa, thì họ có thể gặp ngài qua Người Con, là Ngôi Lời nhập thể (Bài đọc II). Người Samaritanô nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giêsu. Người đã cứu vớt và chữa lành cả nhân loại đã bị tổn thương do tội lỗi. Người đã mang lấy nỗi đau và bệnh tật của con người, để cho họ được hạnh phúc và bình an. Kitô giáo là Đạo nhập thể, là tôn giáo khẳng định “Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta”.

Nếu Thiên Chúa đã cúi mình xuống để cưu mang và cứu độ con người, thì con người lại dửng dưng đối với nhau. Trong dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”, Chúa Giêsu đã nhắc tới hai người được đào tạo và có chức vị trong Do Thái giáo, đó là một tư tế và một trợ tế. Họ là những người “cầm cân nẩy mực” để đánh giá và duy trì những chuẩn mực luân lý và mức độ đạo đức của người dân. Khi thấy người bị nạn, bầm dập vết thương và bị bỏ rơi nửa sống nửa chết bên vệ đường, hai người này đã dửng dưng bỏ đi. Họ được giáo dục về lòng yêu mến tha nhân, nhưng lòng yêu mến đó chỉ dừng lại ở sách vở và lý thuyết, còn những con người đau khổ cụ thể thì họ lại bỏ qua. Trong khi đó, người Samaritanô, một người “dân ngoại” và vô danh, lại mang một trái tim nhân hậu. Những chi tiết được nhắc tới trong dụ ngôn cho thấy anh là một người chu đáo tận tâm. Anh chấp nhận những hệ luỵ và mọi tốn kém để cứu giúp người bị nạn. Anh còn chu đáo dặn người chủ quán: “Nhờ anh chăm sóc giúp người này, tốn phí bao nhiêu, tôi sẽ thanh toán khi trở về”. Anh đã coi người bị nạn như người thân cận của mình, và hơn nữa, như chính bản thân mình vậy.

Lời Chúa hôm nay vừa dạy chúng ta cảm thương cứu giúp những người bị nạn, vừa thay đổi những thành kiến về những người xung quanh. Như đã nói ở trên, trong quan niệm của người Do Thái nói chung thời bấy giờ, những người Samaritanô là người bị coi thường và đáng khinh bỉ. Đây là những hệ luỵ vừa mang tính lịch sử vừa mang tính tôn giáo. Khi diễn tả người Samaritanô cảm thương cứu giúp người bị nạn, Chúa Giêsu muốn lên án sự kỳ thị chia rẽ và phân biệt. Đừng coi thường những người không cùng chủng tộc và tôn giáo với mình, vì họ mang trái tim nhân hậu, trong khi những người xưng mình là công chính chưa chắc đã tốt như họ.

“Lạy Thày, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Chúa Giêsu đã trả lời bằng cả một câu chuyện đong đầy ý nghĩa sâu sắc. Người Samaritanô vốn bị khinh bỉ coi thường, bỗng trở thành mẫu gương cho mọi người: “Hãy đi và làm như vậy!”. Đây vừa là câu trả lời dành cho người thông luật, vừa là mệnh lệnh Chúa gửi đến chúng ta. Quả vậy, Lời Chúa không chỉ là những lý thuyết suông, nhưng phải được thực hành cụ thể trong đời sống. Vâng, chúng ta hãy đi vào cuộc sống. Hãy có lòng nhân hậu đối với tha nhân. Hãy có trái tim nhân hậu và lòng nhân từ như Cha trên trời.

2/ NHỚ MANG THEO TRÁI TIM

(ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời”.

Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.

Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như sau:

Đó phải là một trái tim nhạy bén.

Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.

Đó phải là một trái tim quan tâm.

Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.

Đó phải là một trái tim chung thuỷ.

Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.

Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?

2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?

3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm gì?

4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?

3/ CÓ XÓT THƯƠNG MỚI ĐƯỢC CỨU ĐỘ

(Lm. Vinhsơn Ngọc Biển SSP)

 “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10, 25). Đây là câu hỏi của nhà thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay và cũng là tiếng vọng được vang lên từ trong sâu thẳm của con người ở mọi nơi và mọi thời. Tuy nhiên, muốn có sự sống đời đời cần phải có ý ngay lành và phải thực thi đức ái trong lòng mến thì mới hy vọng đạt được.

Hôm nay, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đưa tới sự sống ấy qua dụ ngôn người Samari nhân hậu. Qua đó, Ngài cũng mời gọi mỗi người hãy xót thương như thế thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

1. Bối cảnh câu chuyện

Khởi đi từ câu chuyện giữa Đức Giêsu và người thông luật: ông này lên tiếng hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10, 25). Dựa trên những hiềm khích sẵn có, nên câu hỏi này không phải xuất phát từ ý hướng ngay lành, nhưng nó là một sự gài bẫy để như một cái cớ nhằm cơ hội đánh bại Đức Giêsu nếu Ngài bị lỡ lời! Điều mà ông ta mong mỏi, đó là hy vọng Đức Giêsu sẽ đưa ra một mớ lý thuyết, một lô nghi lễ và dày đặc những nguyên tắc để trả lời!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tước lấy vũ khí ngay trong tay đối phương khi Ngài hỏi ngược lại vấn đề: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” (Lc 10, 26). Người thông luật đã trả lời cách chính xác: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình” (x. Lc 10,27). Nghe xong, Đức Giêsu đã dạy cho ông ta một bài học sống động ngay trên chính câu trả lời của ông, Ngài nói: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10, 28).

Chính câu hồi đáp này đã làm cho người thông luật chưng hửng và thất bại. Bởi lẽ, câu hỏi của Đức Giêsu đã làm đảo lộn tình thế. Từ chỗ Ngài là đối tượng để gài bẫy, đến chỗ chính cái bẫy ấy đã tố cáo và vạch trần những điều ám muội bởi lương tâm đê tiện của nhóm thông luật mà ông là người đại diện.

Thấy được lối sống hình thức của nhà thông luật, nên Đức Giêsu mới kể cho ông nghe dụ ngôn về người Samari nhân hậu.

Câu chuyện ấy là: một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Bất ngờ anh bị bọn cướp tấn công. Khiến anh ta nửa sống nửa chết. Có một thầy Lêvi đi qua, ông trông thấy rồi bỏ đi. Một Tư tế cũng lựa chọn như vậy. Nhưng người Samari trông thấy, ông đã chạnh lòng thương và ra tay cứu giúp.

Tưởng cũng nên biết thêm: Giêrusalem cao cách mặt nước biển 766 mét. Trong khoảng 32 km, con đường này đã đổ dốc tới 1.200 mét. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô có rất nhiều đèo và đường xá chật hẹp, quanh co, khúc khửu. Đây là điều kiện thuận lợi cho bọn cướp hoành hành. Vì thế, người ta thường gọi đoạn đường này là “con đường máu”, ai muốn được an toàn khi đi trên con đường này thì hoặc là đi thành từng đoàn hay phải tính giờ để về nhà lúc mặt trời chưa lặn.

2. Ý nghĩa câu chuyện

Khi kể cho nhà thông luật câu chuyện trên, Đức Giêsu muốn vận dụng nó vào trong bối cảnh cụ thể, nhằm dạy cho ông ta một bài học sống động về việc thi hành luật.

Để hiểu sâu sắc ý nghĩa của nó, chúng ta cùng phân tích ý nghĩa của từng nhân vật.

Trước tiên là khách bộ hành: vị khách này không được Đức Giêsu nói rõ là ai, hình dạng ra sao hay thuộc dân tộc nào, mà chỉ nói là người lữ khách lâm nạn. Nhưng cứ theo sự thường thì có lẽ là người Dothái và ông ta phải là một người rất liều lĩnh. Bởi vì chỉ đi có một mình mà lại mang nhiều tư trang hành lý. Vì thế, ông ta bị cướp và bị đánh đập là lẽ đương nhiên trên con đường đầy nguy hiểm này.

Tuy nhiên, điều đáng nói là hình ảnh của những người đi đường khi trông thấy người lâm nạn.

Trước tiên là thầy Tư tế: ông ta trông thấy nạn nhân nằm quằn quại bên lề đường. Nhanh tay, nhanh mắt, thầy Tư tế đã tránh sang một bên và bỏ qua. Có lẽ vị tư tế này không dám đụng vào nạn nhân vì sợ bị ô uế bởi Luật. Vì trong Luật có chép rằng: nếu ai đụng vào người đã chết thì bị ô uế đến 7 ngày (x. Ds 19,11). Vì thế, có thể ông ta suy diễn: nếu giúp đỡ người bị nạn, ông sẽ không còn thanh sạch để xứng đáng tế lễ, và đương nhiên ông bị mất phiên phục vụ trong đền thờ! Như vậy, thầy Tư tế này đã có lựa chọn: ông ta đặt lễ nghi trên tình thương. Đền thờ và nghi lễ đã làm cho lòng trắc ẩn của ông bị đóng khung bởi luật.

Thứ đến là thầy Lêvi: cũng cùng một lựa chọn như thầy Tư tế, nên ông đã ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi khổ đau của người gặp nạn. Tuy chỉ là người giúp việc cho thầy Tư tế. Bổn phận của ông cũng theo đó mà nhẹ nhàng hơn. Thế nhưng, ông không dám đụng vì sợ liên lụy, nên đã “đào vi thượng sách” cho an thân.

Cuối cùng là người Samari: ông cũng thấy người gặp nạn như thầy Tư tế và Lêvi. Nhưng, thay vì tránh né, phủi tay, ông đã chạnh lòng thương và đến để cứu giúp người lâm nạn.

Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Ai là người thân cận của người gặp nạn?” (x. Lc 10, 36). Nhà thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 37).

3. Sứ điệp Lời Chúa

Có lẽ khi đọc qua câu chuyện trên, nhiều người trong chúng ta không khỏi bức xúc và buông những lời chỉ trích nặng nề đến những người đã vô tâm và lạnh lùng không giúp đỡ người lâm nạn. Đồng thời không ngớt trầm trồ khen ngợi người Samari nhân hậu.

Tuy nhiên, nếu suy niệm dưới ánh sáng đức tin và dưới cái nhìn liên đới, hẳn chúng ta thật bỡ ngỡ vì những hình ảnh và lựa chọn của thầy Tư tế và Lêvi trong câu chuyện trên lại đang tiếp diễn nơi những hành vi và lựa chọn của chúng ta. Còn tấm lòng và nghĩa cử nhân ái của người Samari lại quá xa vời trong đời sống đạo của mỗi người!

Vì thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn thấy đây đó sự dửng dưng, vô cảm và thiếu vắng lòng thương xót ngay tại những trung tâm tôn giáo với nhiều lễ nghi tối ngày… Hay vẫn còn đó biết bao người đói khát, rét mướt, không nhà cửa ngay tại những trung tâm thành phố sầm uất, tráng lệ. Hoặc biết bao trẻ em mồ côi, người già neo đơn không nơi nương tựa đang ngày đên cầu cứu tại các chợ trời, gầm cầu!!!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: dù là ai, làm việc gì, trong đạo hay ngoài đời, ngôn hành phải đồng nhất. Nếu chỉ tập trung lo tổ chức lễ nghi hay sự kiện nhằm mục đích “võ sĩ dương oai” mà quên đi việc thăng tiến con người, nhất là người nghèo, khổ đau, bị gạt ra bên lề xã hội, thì tất cả mọi chuyện chúng ta làm chẳng khác gì một tay hề trên sân khấu tôn giáo! Điều đáng nói, đó là: chúng ta sẽ phải trả lời trước Vị Thẩm Phán chí công, giàu lòng thương xót trong ngày chung thẩm về đức ái mà mình có với tha nhân chứ không phải là những thành công nơi những công trình hay lễ nghi bề ngoài. Mặt khác, nếu vì kiêu ngạo mà bám víu vào một mớ kiến thức rồi đưa ra những khái niệm, định nghĩa để phân tích phải – trái, nhưng không hề có lòng xót thương như người Samari, thì chắc chắn ơn cứu độ sẽ vuột mất ngay trong tay chúng ta. Hãy nhớ lại lối sống giả nhân giả nghĩa và kết cục bi đát của Giuđa để làm bài học cho chính mình!

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho cho chúng con có được tấm lòng thương xót như người Samari, để khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa được hiện tại hóa nơi hình ảnh và hành vi của mỗi chúng con. Được như thế, chúng con mới hy vọng có được sự sống đời đời. Amen.

4/ HÃY YÊU THƯƠNG THÌ SẼ ĐƯỢC SỐNG

(André Sève - Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Rõ ràng là từ yêu thương được nói đến nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm vì nếu không có hai từ này, từ yêu thương sẽ không đứng vững nổi: làm và sống.

Đàng khác, mở đầu câu chuyện diễn ra rất nhanh:

– Tôi phải làm gì để được sống? Luật sĩ hỏi.

– Hãy yêu thương, Chúa Giêsu nói, cứ làm như thế ngươi sẽ được sống

Vào lúc kết thúc, sau câu chuyện đẹp về tình yêu thương, tiếng nói chiến thắng chính là: cứ làm như thế. Để chiến thắng, Chúa Giêsu đã huy động hai nét của khoa sư phạm: cuộc đối thoại đanh thép và câu chuyện không thể quên được.

Cho nên phải làm gì để được sống? Yêu mến Chúa và anh em. Đây là hai tình yêu thương liên kết chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không nói về giới răn thứ nhất và thứ hai. Chúa Giêsu công nhận lời mô tả ngắn ngủi của luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa và thương yêu anh em”. Đây cũng là một dòng chảy tình yêu. Chắc chắn cần phải dựa vào mối liên kết giữa hai tình yêu bởi vì trong một trong những bản văn cuối cùng của Tân Ước, thánh Gioan vẫn còn lấy lại ý tưởng: “Nếu ai thấy anh em mình cần đến của cải phải giúp đỡ mà đóng cửa lòng mình lại, có lý nào đức ái Thiên Chúa ở cùng người ấy được” (1Ga 3,17). Đây là lời khuyên cho những kẻ tin rằng với chút ít lòng thương xót người ta có thể tự cho phép mình ích kỷ hoặc có tính xấu.

Chúng ta hãy xem xét khẳng định của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức yêu thương bằng được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu có, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của chúng ta. Nhưng đây là điều phải kiểm chứng.

Khi Chúa Giêsu nói đến yêu thương ở đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình yêu hoặc tình bạn, là những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu thương anh em rất có tính cách bó buộc, cụ thể. “Phải làm điều đó!”. Và đây không luôn luôn là điều làm thích thú.

Trên đường Giêricô, thầy tư tế và thầy Lêvi không tích cực làm việc thiện! Thậm chí nghĩ rằng người kia đã chết, họ sợ bị ô uế “theo tập tục” (theo những luật lệ Do Thái giáo), điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là việc họ thiếu nhiệt tình cứu giúp một kẻ nào đó. Hai người kia dường như không xác tín rằng “yêu thương là được sống”.

Tuy vậy chỉ cần so sánh họ với người Samari hay thương người để thấy đâu là sức sống! Không phải nơi những bản chất nhỏ nhặt này mà một điều không là gì cả làm rầy hay làm hoảng sợ. Than ôi người ta thấy những Kitô hữu khá bị sự khôn ngoan ích kỷ này cám dỗ, với cái giá phải trả là một cuộc sống được sống nhỏ giọt.

Người Samari đã chọn một cuộc sống hao tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó, ông có lẽ đã cảm thấy cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống của ông chiến thắng những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động lòng thương và ông làm mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không tính toán. Không chờ đợi một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm, hạnh phúc vì đã làm một người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp tục sống lay lắt. Còn người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống”.

 

bài liên quan mới nhất

Thứ Năm tuần IV Phục Sinh: “Nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng