Vừa thấy tôi, một bà rụt rè chỉ ngón tay về phía tôi, rồi nói điều gì đó. Mấy bà kia quay lại nhìn tôi, tủm tỉm cười, làm tôi hơi chột dạ. Tôi tới gần, một bà tươi cười hỏi: “Có phải cha viết bài “Chụp cắt lớp giới Gia trưởng” không?” Tôi khẽ gật đầu. Bà ta nói ngay: “Vậy tháng tới cha có chụp cắt lớp chúng con không?” Tôi chưa biết trả lời thế nào, thì cả nhóm đã bịt miệng cười. Tôi chợt nói: “Tôi không dám chụp cắt lớp các bà đâu”. Cả nhóm lại phá lên cười. Về nhà, nghĩ lại mẩu chuyện ấy, tôi nhủ thầm: Mình không chụp cắt lớp giới Hiền mẫu, nhưng nhất định sẽ dùng “Kính chiếu yêu” để nhìn cho rõ “căn bệnh mãn tính” của các bà.
Chuyện kể rằng: ở Tây Trúc có một Chiếc Cốc vàng của Phật Tổ. Chiếc Cốc quí giá ấy có thể khiến Phật pháp cảm hóa được muôn người, xua tan cả tà ma. Chỉ có bậc cao tăng đắc đạo, thấu triệt Phật pháp vô biên, mới có thể cầm được Chiếc Cốc vàng quí giá ấy. Ngày kia, ở Trung Nguyên có một nhà sư trẻ đạo hạnh, vì muốn cứu chúng sinh thoát khỏi khổ nạn, nên đã lên đường đi lấy Chiếc Cốc ấy về. Sư phụ rất kì vọng vào anh ta, liền trao cho anh ta “Chiếc kính chiếu yêu”, để anh ta có thể chống lại tà ma trên đường. Anh ta bắt đầu cuộc hành trình gian khổ với hành trang là một chiếc bát và chiếc kính chiếu yêu. Ngày kia, trên đường đi, anh gặp một người con gái bị té gãy chân. Nhà sư liền dùng thảo dược cầm máu và băng bó vết thương cho cô. Nhưng vô tình chiếc kính chiếu yêu rơi ra, soi rõ cô gái ấy thực chất là con Hồ ly tinh, chuyên dụ dỗ ăn thịt thanh niên trai tráng. Nhà sư hoảng hốt niệm thần chú phòng thủ. Con Hồ ly tinh cũng hiện nguyên hình và tấn công nhà sư. Nhờ có võ nghệ thâm hậu, nên nhà sư đã giết chết được con Hồ ly tinh ấy.
Tôi muốn dùng điển tích “chiếc kính chiếu yêu”, để nhìn thoáng qua một vài căn bệnh “thâm căn cố đế” của giới Hiền mẫu. Hi vọng không riêng gì các bà, mà tất cả chúng ta, sẽ khám phá ra chính mình, để “phúc âm hóa” bản thân mình trong năm nay.
Căn bệnh thứ nhất của các bà là thích nói: Có người cắt nghĩa như sau: Sở dĩ phụ nữ nói nhiều hơn đàn ông, vì họ sống bằng tình cảm, họ có nhiều cảm xúc hơn đàn ông. Hơn nữa, khi người phụ nữ nói ra được những cảm xúc chất chứa trong lòng họ, thì họ sẽ cảm thấy nhẹ lòng và hạnh phúc hơn. Còn đàn ông thường sống bằng lí trí và ưa kiềm chế cảm xúc. Hình như trong trái tim của người phụ nữ có một đường cao tốc với 8 làn xe rộng rãi, để họ chuyển tải tình cảm của họ. Còn đàn ông thì chỉ có một con đường mòn nhỏ hẹp dành cho điều đó (?).
Người khác thì cho rằng: Sở dĩ phụ nữ nói nhiều hơn các ông, vì do bẩm sinh, bộ não của người nữ chứa rất nhiều “protein ngôn ngữ”, nên họ thích nói. Thậm chí có bà bị “đột biến gien protein ngôn ngữ”, nên họ chỉ biết nói, nói và nói; chứ không hề chịu lắng nghe, hay nhìn nhận vấn đề, hoặc suy xét cho tỏ. Có khi họ nói chỉ với mục đích là cho có chuyện để nói, bất kể người nghe có muốn nghe hay không. Phải chăng đó cũng là mầm bệnh “buôn dưa lê”?
Tính nói nhiều của phụ nữ hình như càng ngày càng tăng theo tỉ lệ thuận với độ tuổi. Thực vậy, tính nói nhiều phát triển nhanh khi họ có chồng, tăng mạnh cả về âm thanh lẫn cường độ khi họ có con; và tăng cực đại khi họ làm mẹ chồng. Hậu quả của tính nói nhiều là biến họ thành người nói dai, nói dài, nói dở; nói đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất và cả trong âm phủ. Chuyện nọ xọ chuyện kia, không đâu vào đâu. Vì thế nhiều ông chồng thường phải vận công lực để im lặng cho qua, hoặc bực mình quá thì quát lên: “Đàn bà biết cái quái gì!”
Phải chăng “thích nói” đã trở thành căn bệnh mãn tính của người phụ nữ. Nhất là khi các bà đánh hơi được “chuyện bí mật”, hay gặp phải những điều chướng tai gai mắt, thì các bà chẳng chịu để yên. Lạ lùng là chính các bà cũng là người rất dễ bị tổn thương về căn bệnh quái ác này. Những lúc đó, đòi hỏi người đàn ông phải hết sức tế nhị, thông cảm, lắng nghe và chia sẻ. Dường như rất ít ông làm được việc này. Nhiều ông chỉ biết im lặng, hoặc trách móc, hờn dỗi. Một số khác thì ra ngoài tìm thú vui mới, tìm quên chuyện gia đình. Họ có biết rằng chính khi ấy người phụ nữ lại rất cần sự chia sẻ, lắng nghe và cảm thông của người chồng.
Căn bệnh thứ hai của các bà là thích “bao sân”. Nghĩa là hay ôm đồm, lo lắng đủ mọi thứ chuyện, từ trong nhà ra ngoài ngõ. Sở dĩ người phụ nữ có cái tật “bao sân”, là vì ngay từ thuở mới lọt lòng mẹ, bé gái đã được huấn luyện tận não rằng: “Con gái phải biết lo việc nhà như quét dọn, nấu cơm, giặt đồ, trông em, coi nhà…”. Do đó, vô tình khi lớn lên và lấy chồng, người phụ nữ luôn ở trong tâm thế “Mình là nội tướng”, nên bất kể việc lớn hay việc nhỏ trong nhà, họ cũng muốn ôm hết. Họ tự nguyện “bao sân”. Và điều gì phải đến cũng sẽ đến, đó là họ bị quá tải, khi vừa phải lo kiếm tiền, vừa phải lo chu toàn “việc nhà” và hàng trăm thứ “việc không tên” khác. Dù cực khổ như thế, nhưng khi hỏi tại sao họ không buông bỏ, hoặc chia việc bớt cho chồng cho con, thì câu trả lời muôn thuở của họ là “tại vì, bởi vì, chả lẽ”.
Có người cho rằng: Cái tính “bao sân” ôm đồm này đã có nguồn gốc từ xa xưa. Khi ấy người phụ nữ luôn phải chịu những sự thiệt thòi trong gia đình, nhất là khi họ sống trong cảnh “chồng chúa vợ tôi”. Người phụ nữ phải “đầu tắt mặt tối” lo chuyện bếp núc nội trợ, nâng khăn sửa túi, quán xuyến việc nhà, chuyện con cái. Xã hội ngày nay tuy đã phát triển, đời sống được nâng cao, vai trò của phụ nữ cũng đang được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn. Nhưng cái tính “bao sân”, quá lo lắng, vẫn ăn sâu vào trong xương tủy của người phụ nữ, khiến nhiều bà luôn có tư tưởng mình là “tay hòm chìa khóa”, là “nội tướng” trong gia đình. Hậu quả là vì quá ôm đồm công việc, mà họ gặp rất nhiều áp lực, bị “stress”, rối loạn tiền đình, mệt mỏi, thậm chí cô đơn và trống vắng ngay trong gia đình.
Căn bệnh thứ ba của các bà là thích “suy diễn”. Có lẽ đây là hệ quả tất yếu của tính đa nghi. Nhiều phụ nữ có thói quen thích suy diễn, thổi phồng mọi vấn đề. Chẳng hạn: Nếu thấy chồng không nghe điện thoại, thì ngay lập tức họ nghĩ rằng chồng đang làm việc gì đó mờ ám. Nếu người chồng quên không mua món đồ mình đã dặn, có bà đã bù lu bù loa kết luận rằng chồng vô tâm, không chăm lo đến mình. Những lời càm ràm trách móc ấy không bao giờ cùng. Cứ thế, ngày qua ngày, bản danh sách suy diễn “những điều bị thổi phồng” cứ kéo dài bất tận. Nhiều ông chồng cảm thấy ngao ngán trước tình huống “chuyện bé xé ra to” của các bà; và cho đó là lối suy nghĩ thiếu khôn ngoan, có nguy cơ phá vỡ hạnh phúc gia đình.
Hình như khi tạo dựng nên người nữ, Thượng đế đã ban cho họ một trí khôn rất dễ bay bổng, khiến họ hay mơ mộng, suy diễn và dẫn dắt các tình huống rất giỏi. Họ có một trí tưởng tượng hết sức phong phú, bay cao và bay xa như cách người ta quảng cáo sữa Yomost. Thực vậy, nếu họ nhắn tin mà không thấy hồi âm, thì họ bắt đầu nhá máy, nhá liên tục. Nếu nhá máy mà vẫn không được đáp trả, thì lát sau thế nào cũng có đoạn tin nhắn "làm gì, đi đâu, ở với ai mà em gọi mãi không được?” Bó tay.
Cái tính thích suy diễn này rất là tai hại, đặc biệt trong vấn đề tình cảm. Người ta bảo rằng: Tính thích suy diễn và tính ghen ghét là hai chị em sinh đôi. Một khi “cặp đôi hoàn hảo” này len lỏi vào tâm trí ai, thì không những người ấy khổ; mà ai sống gần người ấy cũng rất khổ, vì nó cứ bào mòn sự tin tưởng lẫn nhau. Nếu muốn biết sự thật, tại sao ta không tìm hiểu vấn đề bằng nhiều cách khác. Nếu cứ suy diễn rồi đơn phương kết luận, thì chỉ đi vào ngõ cụt mà thôi. Hơn nữa, cuộc sống này rất cần những điều thông thoáng, nhẹ nhàng và tha thứ, bằng cách bỏ qua những lỗi lầm thiếu sót của nhau. Tôi nhớ mãi câu nói của một người bạn: "Thời gian yêu thương của tụi mình ngắn lắm, chẳng được bao lâu, thì lấy đâu ra thời gian để mà suy diễn rồi giận hờn nhau. Kiếp người quá phù vân". Người bạn ấy nói đúng.
Chuyện kể rằng: Sau khi nhận được Chiếc Cốc vàng từ tay Phật Tổ, trên đường trở về nhà, vị sư trẻ kia vô tình để “Chiếc kính chiếu yêu” soi vào chính mình, bất giác ông nhận ra biết bao “tham-sân-si” vẫn còn ẩn núp trong tâm hồn ông. Về đến nhà, ông trao tất cả báu vật cho Sư phụ, rồi xin phép lánh mình vào một khu rừng tĩnh mịch để đêm ngày tu thân, dưỡng tính. Trong “Năm tân Phúc âm hóa các Giáo xứ” này, tôi và anh chị em rất cần những khoảng không gian tĩnh mịch, để cho “Chiếc kính Lời Chúa” chiếu soi vào tận cõi lòng mình. Nhờ vậy, ta có thể biết mình là ai và phải làm gì, để từng ngày cố gắng “nên hoàn thiện như Cha trên Trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).