Chúa Nhật XXXII TN, Năm B: đồng tiền bà goá...


Lời Chúa: 1V. 17, 10-16; Dt. 9, 24-28; Mc. 12, 38-44

———
Mục lục
1.    Niềm vui khi trao tặng (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2.    Đại dịch và từ thiện (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
3.    Miếng bánh, chút nước và đồng tiền của bà góa (Jorahte Nắng Tím)
4.    Dâng hết  (Lm. Thái Nguyên)
5.    Ít hay nhiều  (Lm. Jos DĐH. Gp.Xuân Lộc)
6.    Ai cũng có hai đồng tiền kẽm  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
7.    Của lễ mọn hèn  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
8.    Giá trị thật  (Lm. Vũ Đình Tường)
9.    Lòng tin và sự chân thành (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10.    Cái nhỏ chứng tỏ cái to (Trầm Thiên Thu)
11.    Cần có một tấm lòng (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
12.    Ảnh hưởng mạng xã hội hôm nay  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
13.    Đồng tiền bà góa  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
14.    Đồng tiền của bà góa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
15.    Tại tâm  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
16.    Dâng cho Chúa với tấm lòng biết ơn  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
17.    Lòng quảng đại  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
18.    Của ít lòng nhiều (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
19.    Chuyện ít – nhiều  (Trầm Thiên Thu)
20.    Suy niệm Chúa Nhật 32 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
21.    Nghèo mà hạnh phúc (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
22.    Hiến dâng tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
23.    Ở đời quí nhất tấm lòng  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
24.    Sống đức ái vẹn toàn (Lm. Jos. DĐH.Gp. Xuân Lộc)
25.    Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
26.    Chúa Nhật 32 Thường niên_B  (Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Đức)
27.    Hũ ân sủng không vơi, vò đức tin không cạn  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
28.    Bác ái (Lm. Vũ Đình Tường)
29.    Niềm tin của hai bà góa phụ  (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
30.    Suy niệm chú giải Tin Mừng – Chúa Nhật 32 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
31.    Kinh sư và bà góa (Jorathe Nắng Tím)
32.    Tấm lòng bà góa  (JM. Lam Thy, ĐVD)
33.    Chúa Nhật 32 Thường niên_B.  (Lm. Antôn)
34.    Tấm lòng  (Lm. Giuse Nguyễn)
35.    Quảng đại  (Lm. Thái Sơn)
36.    Của cho và cách cho (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
37.    Ánh mắt Thiên Chúa  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt) 
38.    Cho bằng tấm lòng  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
39.    Hai đồng ân phúc (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
40.    Đồng kẽm đồng xu của tôi đâu?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
41.    Nhỏ mà to  (Trầm Thiên Thu) 
42.    Một số tiền nhỏ nhưng tấm lòng thật lớn  (Văn Hào, SDB)
43.    Quảng đại và tự do (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
44.    Chúa Nhật 32 Thường niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
45.    Tất cả những gì bà có (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
46.    Hai bà góa  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
47.    Tin vào sự quảng đại của Thiên Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
48.    Sẻ chia tận tình  (Huệ Minh)
49.    Đạo đức giả và quảng đại thật  (Lm. Pet. Lê Thanh Phục, CSsR) 
50.    Để “của cho” nên lễ dâng đẹp lòng Chúa  (Lm. Đan Vinh – HHTM)
51.    Bà góa nghèo (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ)
52.    Lòng quảng đại và tín thác không giới hạn  (Dã Quỳ) 
53.    Tình góa  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
NIỀM VUI KHI TRAO TẶNG
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thời nào cũng thế, người ta có thói quen nhận xét và đánh giá một người ở sự giàu có phong lưu, thể hiện qua phong cách chưng diện và đồ dùng. Cũng vậy, trong thời đại hôm nay, khi mà nhiều người lấy kim ngân làm thước đo cho mọi giá trị, những nhận định về một người lại càng lầm lẫn hơn. Người ta chú trọng đến sự giàu có bề ngoài mà ít để ý đến giá trị đích thực của một con người. Lời Chúa hôm nay muốn giúp chúng ta nhìn rõ hơn, để rồi trong mối tương quan thường ngày, chúng ta trân trọng những giá trị cao cả, mà lại ở dưới một vỏ bọc xem ra là rất bình dị đơn sơ.
Lời Chúa hôm nay nói đến hai người phụ nữ goá bụa. Một người ở thành Sarepta thời ngôn sứ Elia, một người thời Chúa Giêsu. Mỗi người một cách, cả hai đều quảng đại và chân thành. Trong truyền thống Do Thái thời xưa, người phụ nữ goá bụa bị coi như đồ bị chúc dữ (x. Tb 3,7-9). Họ phải chấp nhận rất nhiều thiệt thòi trong đời sống hằng ngày và trong những sinh hoạt cộng đồng. Goá bụa đã là điều đau khổ và bất hạnh, người đàn bà goá trong Tin Mừng còn được diễn tả là người nghèo. Cái nghèo của bà được thể hiện qua cách bà len lén đến gần hòm tiền công đức của Đền Thờ. Cái nghèo cũng thể hiện qua số tiền mà bà đã bỏ vào đó, chỉ có hai đồng tiền kẽm, trị giá bằng một phần tư đồng xu Rôma. Tuy vậy, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, số tiền nhỏ mọn bà này dâng, lại là số tiền có giá trị lớn hơn cả. Chúa Giêsu đã giải thích: vì bà này đã rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào hòm tiền công đức tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Chúng ta chú ý tới câu nhấn mạnh của Chúa ở chữ “tất cả” mà chúng ta vừa nghe. Người đời vẫn nói: của cho không bằng cách cho. Với hai đồng kẽm, người đàn bà goá nghèo đã dâng vào Đền thờ cả tấm lòng, kèm theo đức thờ phượng và tâm tình yêu mến.
Các nhân vật được nêu trong Bài đọc I và bài Tin Mừng thuộc hai thái cực đối lập, khi xét theo địa vị xã hội. Một bên là những người biệt phái và những kinh sư, bên kia là những người đàn bà goá bụa nghèo khổ. Biệt phái và kinh sư là những người uyên bác về trí tuệ, hoàn hảo trong tư cách thể hiện; những bà goá mang thân phận hẩm hiu, vừa nghèo về tiền bạc, lại không có chỗ trong các buổi hội họp và sinh hoạt cộng đồng. Ấy vậy mà những người uyên bác lại bị Chúa trách mắng nghiêm khắc, và những người goá bụa bị mọi người quên lãng thì lại được Chúa khen. Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều diễn tả Thiên Chúa là Đấng yêu thương bênh vực những người goá bụa, cô nhi và kẻ cô thân cô thế. Ngài là chỗ dựa cho họ. Các ngôn sứ và các tác giả thánh vịnh còn khẳng định rõ: ai đối xử bất công với những người thiệt thòi này sẽ bị Thiên Chúa báo oán. Người phụ nữ quê ở Sarépta đã quảng đại với ngôn sứ Elia, đến nỗi chỉ còn một chút bột cuối cùng cũng dành cho vị ngôn sứ. Lòng quảng đại của bà đã được Chúa thưởng công tức khắc. Khi nhắc lại cách công đức của bà góa nghèo, Chúa Giêsu khẳng định: cùng với tặng vật, người cho cần có một tấm lòng. Người muốn chúng ta nhìn nhận một người không dựa vào những gì là bề ngoài, nhưng nơi tấm lòng của họ. Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng thế, có những trái tim nhân hậu, những tấm lòng quả cảm và những nhân cách cao thượng được ẩn giấu nơi những bề ngoài đơn sơ chất phác và khiêm tốn bình dân. Mọi người đều đáng tôn trọng quý mến, vì trước mặt Chúa, hết thảy đều bình đẳng. Mọi người đều được dựng nên giống hình ảnh của Chúa. Ai cũng được mời gọi sống thánh thiện, và sống thánh thiện tức là nên giống Chúa, vì Chúa là Đấng Chí thánh và là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Lời Chúa hôm nay vừa lưu ý chúng ta hãy thay đổi cách nhận định về một con người hay một sự việc, vừa nhắc bảo chúng ta, nghĩa cử chia sẻ luôn có giá trị trước mặt Chúa và giúp bản thân chúng ta nên hoàn thiện. Chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh. Chúa dạy chúng ta: cho thì có phúc hơn nhận. Những gì chúng ta giúp đỡ người bất hạnh, sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an thanh thản trong tâm hồn. Nghĩa cử chia sẻ của chúng ta giống như lửa, càng cho đi, càng lan rộng mà không hề mất đi. Niềm vui của những tấm lòng rộng rãi sẽ luôn tồn tại và được nhân lên mãi.
Tác giả thư Do Thái mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng Đức Giêsu Thượng tế. Người đã hy sinh vì tội lỗi nhân loại. Người đã mang trên thân mình tất cả những đau khổ đáng lẽ chúng ta phải chịu, để nhờ đau khổ của Người mà chúng ta được hạnh phúc và bình an. Noi gương Chúa, chúng ta hãy hy sinh, chia sẻ, cho đi chính sức lực, thời gian, tinh thần, vật chất, để đem lại cho cuộc sống này nhiều niềm vui.
Kính thưa anh chị em, chúng ta đã bước sang tháng Mười một dương lịch, là tháng cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục. Thiên Chúa là Đấng Chí thánh. Con người muốn đến gần Chúa thì phải được thanh tẩy khỏi những gì bất xứng. Những ai khi kết thúc cuộc đời trần thế, mà còn vương vấn tội nhơ, thì cần được thanh tẩy. Luyện ngục cũng là bằng chứng về lòng thương xót của Chúa. Ngài không nỡ trừng phạt các tội nhân, nhưng thanh tẩy họ để họ nên tinh tuyền, xứng đáng vào hưởng hạnh phúc vinh quang của Ngài. Cầu nguyện cho những người đã khuất, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra sự mong manh của kiếp người. Dù sang trọng giàu có hay nghèo hèn lận đận, cuộc sống cũng chỉ như một hơi thở thoáng qua, như một đoá hoa vô thường. Con người chỉ sống một lần. Nếu cuộc sống là một cuộc hành trình, thì hành trình nào cũng có đích điểm, tức là có hồi kết thúc. Cầu nguyện và suy tư bên mộ những người thân, mỗi chúng ta hãy lắng nghe lời nhắn nhủ của những người đã khuất bóng. Cuộc đời của họ có biết bao điều muốn nói với chúng ta. Tiền nhân đã dạy: “Hổ chết để lại da, người ta chết để lại tiếng”. Có những người sau cuộc sống trần gian, tên tuổi của họ được lưu mãi đến thiên thu. Có những người khi sống độc ác gian hùng, tên họ cũng được nhắc lại, nhưng như một nỗi kinh hoàng ám ảnh. Người tín hữu Công giáo tin rằng, những ai sống ngay chính thánh thiện, danh thơm của họ không chỉ lưu lại cho hậu thế, mà còn được Thiên Chúa khắc ghi vào sổ Sự Sống. Tháng Mười một vừa là tháng thể hiện lòng hiếu thảo tri ân, cũng là lúc chúng ta suy tư về ý nghĩa cuộc đời. Thông điệp của những nấm mộ, là lời mời gọi sống thánh thiện chân thành, trân quý mọi giá trị của cuộc sống và luôn sẵn sàng cho cuộc lên đường về với Vĩnh Cửu.
Một tác giả đã viết:
Khi một người chết đi, anh ta nắm trong tay chỉ những gì mình đã cho đi khi còn sống. When a man dies he clutches in his hands only that which he has given away during his life time (Sưu tầm).
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhớ: kiếp sống con người chỉ như làn gió thoảng qua. Duy chỉ những đức hạnh và những việc thiện hảo là vĩnh cửu vững bền. Xin cho chúng con luôn biết cậy dựa vào Chúa là lý tưởng và cùng đích của cuộc đời, để chúng con chiến thắng những cám dỗ, vượt qua mọi rào cản và trọn đời theo Chúa. Amen.
ĐẠI DỊCH VÀ TỪ THIỆN
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Trong đại dịch lần thứ tư này, chúng ta chúng ta không thể quên ơn những con người đã hy sinh giúp đỡ những nạn nhân bởi cúm Tàu?
Đó những bác sĩ, các nhân viên y tế, các tình nguyện viên, cảnh sát và quân đội đã hy sinh rời xa gia đình để phục vụ tuyến đầu đầy căng thẳng và mệt mỏi.
Đó là những tấm lòng quảng đại của những gia đình khá giả đã bao bọc cho những hoàn cảnh khó khăn. Đặc biệt các thiện nguyện viên luôn miệt mài kiếm rau, kiếm thực phẩm cung cấp cho các khu phong tỏa mà chẳng ngại gian nan.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những người có chức, có quyền lại lợi dụng để ăn chặn, hay ăn hối lộ ngay trong nỗi đau của toàn dân. Họ là người nói thật hay nhưng làm thì chẳng thấy được việc gì?
Thế nên, mới có chuyện vui kể rằng:
Có một cô vợ suốt 4 tháng cứ mì tôm, rồi lại cơm rau luộc đạm bạc nên thở dài:
–       Chả biết ăn cái gì nữa? chứ cứ ăn uống kiểu này chán quá, mà ngồi ăn không thì tiền núi cũng hết.
–       Thằng con góp ý: Chỉ có …’ăn hối lộ’ là không chết! mà có tiền thì muốn cái gì cũng có.
–       Anh chồng bảo rằng: nghe nói trong đại dịch này nhiều người giầu lên nhờ “ăn chặn” của người nghèo. …
Ở đời luôn có hai cách sống của những kẻ có quyền, có chức. Có người làm quan thì toàn tâm lo cho dân. Có người làm quan chỉ để hưởng thụ và vun quén cho giầu có thêm. Có người dấn thân quảng đại. Có người thì tính toán chi ly. Có lợi thì làm. Có rủi thì trốn.
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy cung cách của hai thành phần địa vị khác nhau và tấm lòng cũng khác nhau. Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng lại tham lam chỉ tìm cách lấy của chung thành của riêng. Họ là những người có chức, có quyền nhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.
Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.
Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.
Cuộc sống con người chỉ có giá trị khi biết quảng đại cho đi, khi biết sống có ích cho tha nhân. Người tín hữu còn cần phải có một tấm lòng quảng đại để yêu thương và chia sẻ đến mọi phận người. Tấm lòng thì của ít lòng nhiều vẫn quý hơn tiền nhiều mà khoe khoang. Tấm lòng thì chân thành cho đi mà không so đo tính toán thiệt hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta có một tấm lòng chân thành để sống với tha nhân như bà goá giầu lòng quảng đại chân thành. Nhưng đừng bao giờ hèn hạ ăn chặn của người nghèo kẻo phải trả lẽ công bằng trước mặt Chúa ở đời sau. Amen.
MIẾNG BÁNH, CHÚT NƯỚC
VÀ ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA
Jorathe Nắng Tím
Hàng loạt những thuộc từ người ta thường gán cho các bà goá như nghèo, khổ, một mình lầm lũi, thui thủi, không vị thế xã hội, không ô dù, thế lực chống lưng, vô danh tiểu tốt thì mọi thời đều giống nhau, và hình ảnh bà góa được làm nổi bật qua các bài đọc của chúa nhật này.
1.    Hình ảnh nghèo khó của bà góa:
Cựu Ước nói đến bà góa rất nghèo ở Xarépta mà ngôn sứ Êlia đã gặp và xin bánh, nước: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống”, và “cho tôi miếng bánh nữa” (1V 17,10-11). Nhưng vì nghèo, bà chỉ có thể đi lấy nước cho ngôn sứ, còn bánh thì bà không có: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi” (1 V 17,12).
Thật không còn gì thê thảm và bi thương hơn hoàn cảnh  “không còn gì để sống” của mẹ con bà goá giữa thời hạn hán, đến nỗi chính miệng bà đã phải thốt lên trước mặt ngôn sứ:  “Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1V 17,12), như thể “nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò” sẽ là bữa ăn sau cùng của đời bà và con bà.
Còn bà goá trong Tin Mừng Máccô cũng là bà góa rất nghèo có mặt giữa đám đông đang bỏ tiền dâng cúng Đền Thờ. Bên cạnh “lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền” (Mc 12,41), bà góa nghèo “đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm” chẳng đáng giá là bao, nhưng đó là “tất cả  tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” như chính  lời Đức Giêsu (Mc 12 ,44).
Cả hai bà goá, một của thời Cựu Ước, một của thời Tân Ước, cũng là của mọi thời, là những người rất nghèo, sống một đời túng thiếu, từng ngày, từng bữa đói no.
2.    Tấm lòng qủang đại của người nghèo:
Tấm lòng của hai bà goá được kể trong Sách Các Vua  và Tin Mừng Máccô thật cao đẹp, quảng đại.  Cao đẹp vì sẵn sàng cho đi ngay cả phần thiết yếu nhất còn lại của mình và con mình như bà goá thành Xarépta đã lấy bột và dầu làm bánh cho ngôn sứ Êlia ăn trước, rồi sau đó mới làm cho bà và con bà (x. 1V 17,13). Còn bà goá ở Đền Thờ Giêrusalem thì đã dâng cho Thiên Chúa  “tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12,44).
Tấm lòng của hai bà góa nghèo còn là tấm lòng qủang đại, khi cho đi một cách đơn sơ, dễ dàng; dâng tặng một cách hào sảng, hồn nhiên, mà không cầu kỳ, khó khăn, so đo, tính toán, yêu sách, điều kiện.
Thực vậy, người nghèo, tuy nghèo vật chất, tiền của, nhưng tấm lòng không nghèo, không keo, và trong thực tế,  người nghèo là người rộng lòng chia sẻ,  sẵn lòng thi ân và trái tim người nghèo luôn bén  nhậy với những thiếu thốn, khó khăn, cơ cùng của người khác. Chẳng thế mà Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi: “bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).
3.    Thiên Chúa làm giàu người nghèo :
Không cần quảng diễn thêm, chúng ta cũng thấy Đức Giêsu đã  tỏ ra rất trân trọng bà góa có tấm lòng cao đẹp và quảng đại  trong Tin Mừng Máccô. Ngài tuyên dương tấm lòng cao cả của bà, ca ngợi hành động quảng đại của bà, và lấy bà như mẫu gương cho các môn đệ của Ngài x. Mc 12,43).
Ngôn sứ Êlia thì qủa quyết ơn huệ của Thiên Chúa sẽ “làm giàu” và nuôi nấng  người đàn bá góa bụa và con cái trong suốt thời gian “chẳng có mưa, có sương, và suối cạn khô”, vì bà  đã rộng lòng nhường cơm bánh  của mình và con mình  cho “người của Thiên Chúa” khi ông tuyên sấm: “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất.” (1 V 17,14).
Vâng, hình ảnh hai bà goá đã quảng đại cho đi tất cả những gì mình có là hình ảnh của Đức Giêsu: Thượng Tế và Hy Lễ  trên Thánh Giá (x. Dt 9,25-26). Chính Ngài đã hiến dâng tất cả những gì thuộc về mình, là mình để xóa tội và trở  nên lương thực nuôi sống nhân loại.
Ngồi trong Đền Thờ hôm xưa “quan sát đám đông”, hôm nay ở trong Giáo Hội, Đức Giêsu cũng đang ngồi nhìn nhìn đám đông đến với Ngài, để “ban lương thực cho kẻ đói ăn…., cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên …, và  nâng đỡ cô nhi qủa phụ” (Tv 145,7.8.9), vì Ngài là Đấng giữ lòng trung tín với những ai  trông cậy Ngài, và quảng đại ban ơn lộc đầy dư, để họ được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
DÂNG HẾT
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Bài Phúc Âm mở đầu bằng việc Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ phải coi chừng lối sống giả hình của nhóm kinh sư. Họ lợi dụng sắc phục bên ngoài để được người ta kính nể; làm ra vẻ đạo mạo để được kính phục; tỏ ra đạo đức để được kính tôn; đọc kinh cầu nguyện lâu giờ để được kính yêu, và cũng là mưu mô để nuốt gia tài các bà góa. Con người thời nào cũng hay đeo mặt nạ với nhau, ngoài việc tìm kiếm lợi lộc và danh giá thì còn muốn tạo hào quang cho mình. Cách chung, người ta muốn sống hơn những gì mình có, muốn thể hiện hơn những gì mình là: cố làm cho mình trẻ đẹp hơn nhờ trang điểm; cố cho người khác thấy mình tài giỏi hơn nhờ ăn nói; cố tạo cho mình cái dáng vẻ quí phái, trí thức, đạo đức, để thu phục tình cảm của mọi người.
Điều éo le là những người Đức Giêsu cảnh giác không phải là nhóm dân thường mà lại là thành phần lãnh đạo tôn giáo, lợi dụng chức sắc để tìm danh lợi cho bản thân. Thật ra đạo giáo nào cũng không tránh được những loại người này, nhưng đặc biệt thời Đức Giêsu, tình trạng tôn giáo đã bị tha hóa và xuống cấp trầm trọng, con người đã đánh mất tấm lòng, chỉ còn lại luật lệ và hình thức bên ngoài, như có lần Chúa Giêsu đã nhắc lại lời ngôn sứ Isaia:“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8).
Đi ngược với sự tham lam và giả hình của các kinh sư là hình ảnh một bà góa nghèo, nhưng rộng lượng và đơn sơ chân thành. Đức Giêsu thấy bà rón rén đến bỏ một phần tư xu vào thùng tiền của Đền thờ. Số tiền quá ít ỏi chẳng đáng gì, nhưng Ngài gọi các môn đệ lại và cho họ biết “bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” vì đó là “tất cả những gì bà có để sống”. Trước mặt Chúa, cái nhỏ nhất lại thành cái lớn nhất, cái người ta coi là tầm thường lại trở nên phi thường.
Chúng ta thường dựa vào cái bề ngoài để đánh giá đúng-sai hay tốt-xấu, mà ít khi xét đến cái giá trị cốt lõi bên trong; dựa vào số lượng công việc hay thành tích mà ít khi xét đến chất lượng hay chiều sâu của vấn đề. Bản thân ta cũng thế, xem ra vẫn bị xáo trộn trước những lời khen chê. Thích khen và sợ chê khiến ta dễ trở nên nô lệ cho dư luận, cứ phải chịu tác động của người khác, không có tự do để hành động. Các nhà tâm lý và tu đức thường khuyên ta: Hãy trở về với mình và hãy là chính mình, đừng để lòng mình xu hướng theo thiên hạ và chạy theo những thứ phụ thuộc bên ngoài. Hãy tập nhận diện mình dưới cái nhìn của Chúa, vì dưới lăng kính của Ngài, mọi sự đều sáng tỏ. Điều quan trọng là xem mình có chân thành và quảng đại không? Có dám dâng cho Chúa nhiều hơn không? Dám dâng hết không?
Thế nhưng câu chuyện bà góa nghèo bị đặt vấn đề: phải chăng cứ sống thiếu thốn nghèo nàn để được Chúa khen thưởng? Phải chăng bỏ cả những nhu cầu thiết yếu để được vào nước Trời? Điều chắc chắn là Tin Mừng không bao giờ đề cao sự bần cùng. Đức Giêsu đến để con người được sống và sống dồi dào. Ơn cứu độ cũng không chỉ là “phần hồn” nhưng toàn vẹn, đồng thời bắt đầu chớm nở ngay tại thế chứ không phải giấc mơ xa xôi. Tuy nhiên, với tâm hồn yêu mến, người ta muốn dâng hiến cách quảng đại, không chỉ dâng nhiều hơn mà còn là nhiều nhất. Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa muốn nơi con người. Yêu Ngài bằng tất cả trái tim và tất cả sức lực của mình, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa dẫn đến sự sống muôn đời (Lc 10, 27).
Thật ra, sự nghèo túng tự nó không đem lại hạnh phúc cho ai, nhưng hạnh phúc là vì người nghèo biết vui lòng đón nhận hoàn cảnh hiện tại, bình an sống cuộc đời thanh bạch mà không ham hố lợi lộc, và điều quan trọng là biết chờ đợi mọi sự nơi Chúa. Họ không xây dựng đời mình trên vật chất hay chiếm hữu, nhưng trên tình yêu, để sẵn sàng cho đi và dâng hiến. Họ mới thật là những người khôn ngoan (Lc 1, 49). Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, phải chăng Chúa Giêsu muốn cổ võ một lối sống siêu thoát, đồng thời muốn thiết lập một xã hội công chính và nền văn minh tình thương, nhờ biết cho đi và chia sẻ. Và qua đó, Ngài muốn thay đổi cái nhìn của chúng ta về giá trị nhân sinh, để hướng tới một sự sống mới trong Nước Trời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Suy niệm Lời Chúa khiến con nhớ,
chuyện người hành khất đi từng nhà,
chợt thấy xe Vua óng ánh đến từ xa.
lòng thầm nhủ Đức Vua sắp đi qua,
thế là hy vọng trong anh bừng sáng dậy,
kiếp nghèo không còn nữa kể từ đây.
Anh đang chờ Vua bước xuống xe,
ban phát cho anh nhiều vàng bạc,
để đời anh chấm dứt cảnh lang thang.
Thấy Vua đi tới mỉm cười,
lòng anh vui sướng như người trên mây,
thế nhưng Ngài lại chìa tay,
hỏi xem anh có gì chăng cho Ngài?
Quá sửng sờ khiến lòng anh bối rối,
ai có ngờ Ngài lại đến xin mình,
thôi thì chỉ có hạt lúa đây,
anh đành phải lấy để dâng tặng Ngài,
Vua lên xe xa khuất trên đường dài,
anh lại lang thang miệt mài y như cũ.
Thế rồi khi chiều về dốc túi ra,
bất ngờ lại thấy một điều lạ,
giữa những hạt lúa có hạt vàng lấp lánh,
anh lặng người trong cảm xúc xuyến xao,
lệ rưng rưng anh nghẹn ngào tự bảo:
phải chi tôi dâng trao cho Ngài hết,
để chẳng còn gì cho bản thân,
thì giờ đây đã vui sướng vô ngần.
Lạy Chúa, đã bao lần con lưỡng lự,
muốn cho đi nhưng rồi lại muốn giữ.
Ước chi con hoàn toàn buông xả,
để Chúa là tất cả của đời con. Amen.
ÍT HAY NHIỀU
Lm. Jos DĐH.
Con người tồn tại trên thế giới này không phải vì giầu có, chính xác là được yêu thương. To khoẻ béo bền, gầy gò ốm yếu, mưu trí hơn người hay ít học kém tài, vẫn không ảnh hưởng đến ước muốn bình an, niềm vui, hạnh phúc của ta. Kinh nghiệm cho thấy, đeo nhiều vòng vàng lên con lừa, nó vẫn mãi chỉ là con lừa. Con người giới hạn, có ăn cao lương mỹ vị, vận toàn gấm lụa đắt tiền, cũng chẳng ai gọi bạn là vua chúa bụt thần. Lắm tiền nhiều của, nghèo hèn túng thiếu, hoặc quyền cao chức trọng, tầm thường vô duyên, cũng không ảnh hưởng đến việc thành “chánh quả” của kiếp người. Trong thế giới ăn nhậu, họ biện minh: nam vô tửu như cờ vô phong, một lít ít hơn một xị. Khi đề cao cách sống đơn giản không cầu kỳ, các đấng bậc cho rằng: đội cũng vào chợ, gánh cũng vào chợ. Trong tinh thần bác ái phục vụ, cha ông chúng ta thì căn dặn con cháu: của cho không bằng cách cho.
Ít hay nhiều, không phải chỉ là mối bận tâm về số lượng, đúng hơn, mọi người vẫn lưu ý đến nét đẹp của việc làm, hoặc chất lượng vững chắc của thành công. Ít hay nhiều nét đẹp của tinh thần, đang tô vẽ và làm sáng tỏ truyền thống tin yêu, dù gia đình hoàn cảnh có phần khác nhau. Câu chuyện gia đình, giáo dục và phát triển tình hiệp nhất yêu thương, tất cả đang phản ánh sự liên đới rất cụ thể trong bình an và niềm vui. Ít hay nhiều gì, cũng đang khơi dạy trách nhiệm phải xây dựng gia đình hạnh phúc. Dù bạn có yêu nhiều đến mấy, nhưng thiếu hành động, tình yêu ấy làm sao không phai nhạt ? Đức Giêsu cảnh giác đám đông đừng để gương xấu: ăn trên ngồi trốc, lộng lẫy hình thức, phô trương việc đạo đức, làm tổn thương sự thuỷ chung cao đẹp vốn có nơi tâm hồn.
Hành động của niềm tin không tính bằng số lượng ít hay nhiều, đúng hơn là có cao hoặc thấp, chỉ hai đồng tiền: “bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết”. Hành động bác ai không phải là việc của người giầu, mến Chúa yêu người, đâu phải là sứ mạng của bậc cao niên, xây dựng tâm hồn sạch đẹp chẳng phải của nỗ lực cá nhân, ít nhiều cũng là sự thật: không thầy đố mày làm nên. Đức Giêsu cho các học trò và đám đông hôm đó thấy được giá trị thật của niềm tin: “tất cả những người kia đã bỏ của dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Đức Giêsu không lên án người giầu, không có ý chê các luật sĩ thiếu đạo đức, nhưng Ngài ghét bỏ và kịch liệt phản đối hành động xấu xa của từng cá nhân. Đức Giêsu không nhầm lẫn ¼ đồng xu to lớn hơn khác thường, không khen bà cụ đẹp lão, nhưng tán dương hành động cao đẹp của bà cụ không hề nhỏ bé.
Xây dựng tâm hồn mới không phải là bổn phận của người thánh thiện, xây dựng và phát huy niềm tin phải là của đại gia đình kitô giáo, dù hoàn cảnh lịch sử địa lý không giống nhau. Việc sống đức tin không phải là đếm ngày tính tháng, lập trường vững chắc ở chỗ: một khi ai đó yêu bạn thực lòng, họ sẽ không ngần ngại bày tỏ cho cả thế giới cảm nhận được hành động yêu thương của họ. Đến nhà thờ hàng ngày, hàng tuần, nghe lời Chúa, suy gẫm lời Chúa, sống đời sống các bí tích, sống ảo hay sống thực, vẫn là cơ hội để mỗi người minh chứng niềm tin của mình đúng và chuẩn nhất. Tiền nhân chúng ta quả là sâu sắc khi nói: người ăn thì còn, con ăn thì hết, tiền của nhiều hay ít không phải là là vấn đề chính, quan trọng ở chỗ mỗi người sử dụng đúng, đẹp, ra sao.
Có đông các luật sĩ biệt phái, có nhiều ơn gọi linh mục tu sĩ, có đông người đến nhà thờ, có dồi dào tiền giỏ, tiền thùng, không hề xấu, ở đời người ta biết nói: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xanh vỏ đỏ lòng, với Thiên Chúa, hành động đức tin mới là điều trọng tâm. Đức Giêsu không phê phán cái đẹp hình thức, xem thường số tiền dư thừa của người giầu, Ngài vẫn trân trọng giá trị truyền thống: con lợn có béo thì lòng mới ngon. Thiên Chúa thấu biết hành động của con người, giá trị cao đẹp tuỳ thuộc ở tấm lòng được thể hiện nơi cuộc sống. Một nghĩa cử đẹp, một việc làm có chất, một tình yêu chân thật, mới trở nên cao sâu trong đức tin và đức ái kitô giáo, dù xã hội tự nhiên có quan niệm gia đình lý tưởng là gia đình trong đó các thành viên phải vừa tài vừa đức.
Một xã hội văn minh hiện đại là một xã hội giầu tình người, một gia đình hạnh phúc là một gia đình mà các thành viên thể hiện được sự hoà thuận yêu thương. Nhiều hay ít tâm hồn thanh sạch, ít hay nhiều tấm lòng bác ái yêu thương, đủ hay thiếu, dư hay thừa, tất cả chỉ có ý nghĩa, khi mỗi người biết hành động trong tình yêu thương với Đấng Kitô. Ngụ ngôn Thỏ và Rùa chạy đua về đích, ít nhiều vẫn đẹp cho hành trình của người tín hữu chúng ta. Thỏ chạy nhanh, Rùa nhẫn nại, về tới đích mới quan trọng chứ đâu phải trước hay sau. Kẻ giầu, người nghèo, người quảng đại, kẻ keo kiệt, người chức quyền, kẻ thường dân, xung quanh chúng ta quả là phong phú, hành động đẹp, tinh thần phục vụ cao, nỗ lực và liên đới trách nhiệm trong tình yêu Đức Kitô, đó chính là đích đến của niềm tin chúng ta. Amen.
AI CŨNG CÓ HAI ĐỒNG TIỀN KẼM
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, trong lúc giảng dạy, Thầy Giêsu đã lên án lối sống đạo đức giả của các kinh sư và khuyên các môn đệ phải coi chừng lối sống ấy. Sau đó, Người ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng trong Đền Thờ, quan sát xem người ta bỏ tiền vào thùng. Người dừng lại trước một bà góa nghèo, cảm mến vì tấm lòng quảng đại của bà. Bà đã dâng hai đồng kẽm, trị giá bằng một phần tư đồng xu Rôma. Đó là cả tài sản bà có, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Người dạy cho các môn đệ hiểu được đâu là điều cốt lõi của lòng yêu mến Chúa.
Nghe Thầy Giêsu khiển trách các kinh sư, ta tự hỏi: Ta có đang mải mê tự tạo cho mình một cái vỏ bên ngoài thật đẹp mà quên chăm sóc cho tâm hồn mình không? Phải chăng, từ trước tới nay, ta cũng đã chỉ ưa thích vẻ bên ngoài, phô diễn cho người khác nhìn thấy sự thánh thiện đạo đức của mình. Ta khao khát sống thánh thiện và đạo đức, chăm chú đọc kinh cầu nguyện mà đôi lần lại ngần ngại giúp đỡ người anh chị em đang cần đến mình. Ta đã mong muốn yêu mến Chúa thật nhiều và cố gắng giữ luật nhưng lại bỏ qua lòng bác ái với người khác, dù đó là một việc làm nhỏ bé: giúp người chị em đang phải khiêng đồ nặng, cầm hộ chai nước cho một người già yếu, mở cửa sổ khi vào lớp học, … Có bao việc làm nhỏ mọn khác mà ta có thể làm mà ta đã không làm chỉ vì ta chưa biết sống cho người khác. Thật may mắn cho ta vì ta được nghe Lời Chúa, được nhìn lại bản thân để thấy mình rõ hơn, để thấy rằng mình không thánh thiện như mình tưởng, thấy rằng mình còn nhiều giới hạn lắm. Tin Mừng kể rằng, có một người thông luật hỏi Chúa Giêsu điều răn nào trọng nhất, và ai là người thân cận của ông. Người đã cho ông biết điều răn trọng nhất là mến Chúa, điều răn thứ hai là yêu người. Có một ý nghĩ rất mới thoáng đến trong tâm trí ta và làm cho ta phải xấu hổ. Quả là, từ trước đến nay, ta cũng chỉ quan tâm xem ai là người thân cận của mình. Khi ta quy về mình, ta đã chỉ mong chờ sự cho đi từ người khác, hay muốn người khác nhận tấm lòng của ta. Ta không nghĩ rằng mình phải trở thành người thân cận của người khác. Nghĩa là ta phải khiêm tốn đón nhận tấm lòng của người khác khi họ ngỏ lời muốn giúp đỡ ta, muốn lắng nghe ta, muốn trò chuyện với ta, dù họ thật khác ta, dù họ không phải là người ta quý mến. Ta có thấy mình cần đến sự hiện diện của những người bên cạnh ta không? Sự hiện diện của họ là một món quà mà Chúa gửi đến cho ta. Chỉ khi ta phải sống trong tình cảnh phải cách ly vì dịch bệnh ta mới hiểu được nỗi khát khao sống cùng người khác là thế nào, muốn được làm điều gì đó cho những người khác. Ta khát khao được ở bên trò chuyện, muốn nhận lấy những cử chỉ quan tâm dù nhỏ bé của họ. Học cách cho đi và học cách đón nhận là hai bài học mà ta phải học và rèn luyện cả đời, làm sao để cho những cử chỉ, lời nói, suy nghĩ của ta đều xuất phát từ tấm lòng chân thành chứ không dừng lại ở hình thức bên ngoài.
Bà góa nghèo đã dâng hai đồng kẽm và việc làm của bà rất đẹp lòng Chúa. Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại để nói cho họ biết về tấm gương dâng hiến của bà. Người cũng cho họ thấy: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12, 4). Điều đó có nghĩa là bà đã phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, bà dâng hết những gì mình có, dâng Chúa cả tình trạng túng quẫn của mình, cả cái sự nghèo khó của mình mà không than thân trách phận, không sợ xấu hổ, không sợ người khác chê bai, chỉ trỏ. Chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã chia sẻ, khi đến với Chúa, có những lúc chị cũng không có gì để dâng Chúa và chị dâng Chúa cả cái không có gì đó. Hai đồng tiền kẽm của ta là gì? Đó chẳng phải là tấm lòng đơn sơ chân thành khi đến với Chúa sao. Đó chẳng phải là sự phó thác, tin yêu: dâng Chúa những buồn đau, những lo lắng, những thử thách, thành công hay thất bại, dâng Chúa trọn con người mình. Đặt mình thường xuyên trước mặt Chúa, ta sẽ được Người dẫn đi qua đêm tối của cuộc đời, vì vẫn còn đó một ngọn đèn luôn luôn cháy sáng trong tâm hồn ta. Vẫn còn đó “hai đồng tiền kẽm” là tất cả cuộc sống của ta để dâng Chúa trọn cả trái tim.
Lạy Chúa! Chúa cao cả và giàu sang vô cùng. Cảm tạ Chúa đã luôn đón nhận con, dầu cho con đã từng thờ ơ và vô tâm với anh chị em con đang khi con nghĩ mình yêu Chúa. Ngay khi Chúa làm cho con nhận ra tình trạng của mình, con liền chạy đến với Chúa và được Chúa thứ tha và xót thương. Chúa hằng dạy dỗ con từng điều nhỏ nhặt nhất, dạy con cả trong những vấp ngã, trong những lần con lạc xa Ngài. Lạy Chúa! Chúa vui lòng nhận lấy “hai đồng tiền kẽm” của con, xin Chúa cũng dạy con biết nhận lấy hai đồng tiễn kẽm từ tấm lòng của người khác, và không ngần ngại hay xấu hổ khi bản thân chỉ có “hai đồng tiền kẽm” để trao cho họ; vì biết rằng điều con trao gửi là cả trái tim. Amen.
CỦA LỄ MỌN HÈN
Thiên San
 Đức Giêsu ngồi dối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ và quan sát người ta bỏ tiền vào thùng. Nhiều người nối đuôi nhau đến bỏ tiền vào thùng. Họ có biết rằng có một người đang quan sát họ? Những người giàu có bỏ vào đó nhiều tiền. Tiếng leng keng của các đồng tiền rớt xuống va vào nhau nghe rất vui tai. Trong số đó, có một bà góa nghèo cũng tiến đến, bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Thấy vậy, Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà rằng; “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12, 43). Lạ thay, của lễ mọn hèn của bà góa nghèo đã được Con Thiên Chúa nhìn nhận và trân quý.
Ngày nay, nhiều người rộng rãi, có lòng đóng góp cho việc chung, cho nhà thờ. Có người cho đi nhiều nhưng họ lại không muốn mọi người biết đến. Đó là điều đáng trân trọng. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho chúng ta một cái nhìn thật khác lạ: Giá trị của việc cho đi không tính bằng số lượng nhưng bằng tấm lòng khao khát muốn cho đi. Hai đồng kẽm bé nhỏ của bà góa nghèo thì lớn hơn tất cả số tiền những người giàu có bỏ vào. Vì bà ấy đã rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì có thể nuôi sống bà (x. Mc 12, 44). Nếu là bà góa, chúng ta có đủ khiêm tốn, can đảm để bỏ vào thùng số tiền ít ỏi của mình? Hay chúng ta sợ người khác chê cười, sợ bị đánh giá. Đối với Thiên Chúa, nhiều ít không phải là vấn đề nhưng quan trọng là ở tấm lòng. Người biết rõ lòng mỗi người.
Những người nghèo, các bà góa là những những người được Đức Giêsu quan tâm cách đặc biệt. Người nhìn đến họ, chân nhận và yêu thương họ. Bằng chứng là Người đã lên tiếng bênh vực các bà góa, Người cảnh cáo thái độ hống hách của các kinh sư đã nuốt hết tài sản của các bà. Người nhìn đến hai đồng kẽm nhỏ bé của bà góa nghèo và coi nó là của lễ lớn lao. Noi gương Người, chúng ta được mời gọi dành sự quan tâm đặc biệt đến những người nghèo khổ trong xã hội. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi đặt cái nhìn của mình trong Thiên Chúa. Nghĩa là, chúng ta cần biết chân nhận, quý trọng sự hiện diện, đóng góp nhỏ bé của những anh chị em nghèo khổ. Hơn nữa, nếu chúng ta biết bỏ qua cái nhìn, sự đánh giá của người đời để dâng lên Chúa tất cả những gì chúng ta có, dù nó nhỏ bé nhưng với tất cả tấm lòng thì Thiên Chúa sẽ rất vui vì điều đó.
Lạy Chúa! Chúng con biết rằng, lời ca tụng, những đóng góp của chúng con không thêm gì cho Chúa nhưng chính việc chúng con cảm tạ Chúa và đóng góp với hết tấm lòng sẽ đem lại ơn lành lớn lao cho chúng con. Chúng con tin rằng, Chúa không nhìn hay đánh giá như người đời. Tấm lòng của Chúa rộng lớn bao la, sẵn sàng đón nhận của lễ mọn hèn chúng con dâng. Tin tưởng như thế chúng con hân hoan, vui sướng đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng Nước Chúa. Xin cho chúng con biết quan tâm, đón nhận và giúp đỡ nhau trong đời sống đặc biệt là quan tâm đsặc biệt đến những người nghèo khổ. Amen.
GIÁ TRỊ THẬT
Lm Vũđình Tường
Hai dụ ngôn nhắc đến hai giai cấp xã hội của thế kỉ đầu tiên. Giai cấp giầu có, trưởng giả, Kinh Sư và giai cấp nghèo của bà goá, là nạn nhân của giới Kinh Sư. Cả hai dụ ngôn liên quan đến của cải và cách dùng của cải. Nhóm Kinh Sư đây không phải là nhóm lãnh đạo thường mà là lãnh đạo Đền Thờ. Bà goá không chỉ thuộc phận nghèo hèn, mà còn là người đàn bà goá bụa. Xã hội thế kỉ đầu giới nghèo đã nghèo, thành goá bụa còn nghèo hơn. Bà goá dù là một mình nhưng bà đại diện cho giới nghèo khổ trong xã hội. Xã hội nào giới nghèo cũng nhiều hơn giới lãnh đạo và trưởng giả. Ngày nay công nhân lao động chân tay đông hơn công nhân trí thức làm việc bằng trí óc.
Khác biệt giữa giới lãnh đạo và công nhân thật rõ nét. Đức Kitô chê trách, cảnh tỉnh môn đệ ngài về giới lãnh đạo Đền Thờ. Ngài nhắn nhủ các ông,
‘Anh em phải coi chừng những ông Kinh Sư ưa dạo quanh, xúng xính trong áo thụng, thích được chào hỏi nơi công cộng’ Mc 12,38
Đối với bà goá nghèo, Đức Kitô khen bà trước mặt các môn đệ. Giới Kinh Sư ham của cải, thích tích trữ của cải làm của riêng. Bà goá cũng gom góp, tích trữ của cải, không làm của riêng nhưng để cho đi, dâng hiến cho Đền Thờ. Theo tinh thần bài học tuần trước, bà goá yêu mến Thiên Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn. Bà yêu mến Thiên Chúa với tất cả tấm lòng. Dâng hiến của cải cho Đền Thờ tâm hồn bà rộn lên niềm vui. Bà không bị lệ thuộc vào vật chất.
Yêu mến chân thành không giới hạn. Đức Kitô nói với môn đệ về bà như sau,
‘Mọi người đều rút từ tiền dư, bạc thừa mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình’ Mc 12:44
Đức Kitô dậy môn đệ, tình yêu bà dành cho Đền Thờ Thiên Chúa không phải đo bằng của cải vật chất, nhưng đo bằng tấm lòng chân thành bà dành cho Đền Thờ. Đức Kitô nhìn thấu con tim bà, con tim chan hoà lòng yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta không biết bà nghĩ gì, nhưng có thể đoán trong tâm bà, bà tin tưởng những gì bà hiện có đều do Chúa ban. Vì thế bà rất vui dâng cúng tất cả những gì bà có cho Đền Thờ. Trao dâng cho Đền Thờ tất cả những gì có để nuôi sống mình là dấu chỉ hoàn toàn, tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng.
Bởi vì bà cho tất cả những gì bà có để nuôi sống mình, vì thế nhiều học giả cho rằng đây là hành động bác ái thiếu khôn ngoan. Giải thích theo chiều hướng đó xem ra có vẻ quá giới hạn. Ngày nay chúng ta hiểu tiền bạc cách rộng rãi hơn. Tất cả những gì làm ra tiền, hoặc không tốn tiền, đều được coi là của cải. Trong đó bao gồm cả thời gian, trả lương theo giờ, tài năng, kiến thức, hiểu biết, khôn ngoan và ngay cả sức khoẻ. Tất cả đều làm ra tiền. Ngoài ra còn kể thêm tinh thần. Có được một tâm hồn thanh thản, con tim bình an, giấc ngủ ngon trong đêm là những ‘của cải’ tinh thần vô giá bởi không gì mua được chúng.
Không biết bà goá có nguồn của cải vật chất, tinh thần nào. Chỉ biết bà nghèo. Bà dành dụm được ít tiền để tự nuôi thân. Rất có thể bà có những người bạn chân thành sẵn sàng hỗ trợ bà trong cơn túng thiếu. Không giống như một số Kinh sư sống trong ảo vọng, mong được người ta ca tụng, tán dương. Thiếu những thứ đó họ thiếu vui. Bà goá, trái lại sống một cách chân tình, chân thành với chính mình và với tha nhân. Niềm vui của bà đến từ cho đi, từ dâng cúng; trong khi niềm vui của một số Kinh Sư đến từ bên ngoài, từ lời ca tụng của tha nhân. Chính vì tìm nguồn vui nơi tha nhân mà giá trị thực sự của con người họ bị che khuất, giá trị trình diễn lộ ra qua cách trang phục.
Đền Thờ lộng lẫy. Người Do Thái hết lời ca tụng. Đức Kitô nói với các môn đệ, Đền Thờ đó cũng có ngày qua đi. Quả thật, bốn mươi năm sau, Đền Thờ bị phá tan hoang. Điều này cho biết không gì trên thế giới này, dù lớn, cao sang, vĩ đại đến đâu cũng có ngày qua đi. Chỉ có một điều tồn tại đó chính là tình yêu ta dành cho Chúa bởi chính Chúa làm cho tình yêu đó bền vững muôn đời.
Cuộc sống của ta lệ thuộc vào công ăn việc làm và sức khoẻ. Luôn nhớ cả công việc lẫn sức khoẻ đều rất bếp bênh. Công ti làm ăn thua lỗ, phá sản, côn nhân mất việc. Tai nạn xảy ra, sức khoẻ đi đong. Tuổi già kéo đến vừa sinh tật, vừa sinh bệnh. Hệ thống kinh tế hoàn cầu lúc tiến, phát triển, khi co cụm, thụt lùi. Đầu tư trọn đời vào tài chánh, kinh tế, của cải vật chất, khi chúng ra đi còn lại gì, ngoài nước mắt và nuối tiếc. Người ta thích đầu tư trọn đời mình vào của cải vật chất bởi xã hội trọng giới giầu, khinh giới nghèo. Đức Kitô cảnh tỉnh môn đệ, giá trị thực của con người không phải do lắm của, nhiều tiền mà chính là con tim chân thành, yêu mến. Bạn xét mình xem, mình chọn sống theo cung cách nào? Cung cách của Kinh Sư hay cung cách của bà goá.
LÒNG TIN VÀ SỰ CHÂN THÀNH
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Cấu trúc ba bài đọc Lời Chúa hôm nay là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt về lòng tin và sự chân thành.
Bài đọc 1 trích sách Các Vua kể chuyện bà goá thành Xarêpta. Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Êlia xin bánh, dù bà goá không đủ bột làm bánh cho hai mẹ con nhưng với lòng tin cậy vào lời hứa của Thiên Chúa nên đã chân thành dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Chúa đã trả công bội hậu cho bà thoát cảnh đói khổ “hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Thiên Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”.
Nơi bài đọc hai, tác giả thư Do thái trình bày một điều căn bản trong đức tin Kitô giáo “Đức Kitô đã tự hiến chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người”, điều chỉ có sự thành tín của Thiên Chúa mới thực hiện được.
Bài Tin mừng kể lại chuyện Đức Giêsu biểu dương tấm lòng thành của bà goá nghèo dù bà chỉ dâng hai đồng tiền kẽm.
Đức Giêsu thảnh thơi ngồi quan sát xem đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng ra sao. Người thấy một cảnh đối chọi thật chát chúa: có những người giàu bỏ thật nhiều tiền (thấy tay họ cầm và tiếng tiền kêu leng keng trong thùng!”), lại cũng có “một bà góa nghèo, đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma”. Phản ứng của Đức Giêsu thật đặc biệt: “Người liền gọi các môn đệ lại mà nói”. Lần trước “Người ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói” (Mc 9,35) là để sửa dạy các ông vì khi đi dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn nhất, trong khi các ông không dám hỏi lại về những lời Người loan báo trong Cuộc Thương Khó. Hôm nay Người ngồi sẵn đó, Người gọi các môn đệ lại, chỉ cho các ông thấy bà góa nghèo này và nói. Tại sao hình ảnh bà góa này dâng cúng hai đồng kẽm, đáng giá một phần tư đồng xu Rôma, lại kéo sự chú ý của Người như thế? Nghe kỹ lời bình luận của Người: “Mọi người đều rút từ tiền bạc dư thừa của họ mà bỏ vào đó; còn bà góa này thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có thể nuôi sống bản thân mình”. Những người khác bỏ nhiều tiền vào thùng, nhưng rút từ tiền bạc dư thừa, chứ không phải tất cả tiền dư bạc thừa, nên tuy bỏ nhiều nhưng chưa đụng tới đời sống của họ. Còn bà góa này rút từ cái túng thiếu của mình, bỏ vào đó “tất cả tài sản, tất cả những gì bà có thể nuôi sống mình”. Số tiền này chỉ đủ mua bánh mì ăn một bữa.
Trong cuộc hỏi đáp với ông kinh sư, Người vừa đọc lại điều răn thứ nhất. Bây giờ Người bắt gặp bà goá nghèo này đang thực hành điều răn ấy triệt để. Điều răn bảo “yêu mến bằng tất cả trái tim, tất cả mạng sống và tất cả những gì người có”. Bà góa này túng thiếu, không có dư thừa, bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có thể nuôi sống mình, thế là bà đã yêu mến bằng tất cả những gì mình có, bằng cả mạng sống. Có yêu bằng tất cả trái tim hay không thì làm sao kiểm chứng được. Nhưng yêu mến bằng tất cả những gì mình có và bằng cả mạng sống thì chứng minh được, như bà góa này vừa làm. Đã yêu mến như thế thì chắc chắn là yêu bằng cả trái tim rồi.(x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).
Bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, với niềm tin và bằng lòng mến nồng nàn đối với Thiên Chúa. Bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm, tuy nhỏ nhất nhưng đó là tất cả những gì thiết yếu cho cuộc sống của bà, như thế bà đã dâng cả mạng sống. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người”.
Chiêm ngắm hai thái độ, hai hành động của bà goá trong Cựu Ước và Tân Ước, họ có chung một điểm đó là tấm lòng chân thành khi cho đi và tâm hồn hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Kết quả là họ không mất gì cả mà được tất cả. Bà goá ở Xarépta được một hủ bột không cạn và bình dầu không vơi. Bà goá nghèo trong Tin Mừng tuy không biết kết quả sau này thế nào nhưng việc làm của bà lại đẹp lòng Thiên Chúa, như vậy đã đủ đối với một con người tin tưởng phó thác vào Chúa.
Đây là sứ điệp Lời Chúa gởi đến chúng ta hôm nay: Con hãy sống và hành động chân thành, nhiệt tâm và tin tưởng. Nếu con giúp đỡ ai, con hãy giúp đỡ cách thành tâm và hết lòng, theo khả năng con có thể. Nếu dâng cúng tiền của hay bất cứ điều gì cho Thiên Chúa và Giáo Hội, con hãy dâng cúng theo khả năng của con, nhưng phải dâng một cách thành tâm. Bởi vì trước mặt Thiên Chúa, của lễ cũng như số lượng của lễ hoàn toàn không quan trọng. Chính tâm tình con thảo và tấm lòng tin tưởng của con mới là điều Thiên Chúa muốn. Ðối với của lễ dâng cúng, không phải lễ vật và trị giá của nó, mà chính là sự chân thành và lòng tin của con mới là điều quan trọng và đáng kể.
Đối với Thiên Chúa, lễ vật dâng tiến không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.
Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng.Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”. Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận.
Khi khen tặng bà góa nghèo, có vẻ như Chúa muốn nói rằng “Hãy nhìn, đây là một mẫu gương của một người nghèo chân thành cho đi tất cả những gì bà có vì lợi ích chung”. Đóng góp vào việc xây dựng Giáo xứ là bổn phận của mọi tín hữu. Đối với Giáo Hội, người Kitô hữu có bổn phận sống bác ái, chia sẻ và góp sức xây dựng nhà Chúa, giáo họ, giáo xứ ngày càng khởi sắc, ngày càng đi lên, ngày càng tốt đẹp. Nói thì dễ, thực hiện nhiều khi cũng có những lấn cấn, khó nói, khó làm. Trong vai trò lãnh đạo giáo xứ, tôi muốn biểu dương những công việc và hy sinh của mọi thành viên. Họ là những vị hội đồng giáo xứ, những bà mẹ mỗi chiều 3 giờ đến nhà thờ đọc kinh lòng thương xót, những ca viên, giáo lý viên, các chú lễ sinh, nhóm quét nhà thờ, người giật chuông, ông bà cao niên đọc kinh sáng tối. Những hội viên caritas, hội giúp đỡ kẻ liệt, các giới các đoàn thể… Họ là những người phục vụ theo khả năng của mình. Không có họ, giáo xứ không sinh hoạt sống động. Những đóng góp của họ dù là tiền bạc, dù là công sức đều có giá trị trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội. Rồi còn có các bà goá, những người bệnh hoạn tật nguyền, những người lao động chân tay hay trí óc. Tất cả đều cống hiến để xây dựng Giáo xứ. Chắc chắn Chúa cũng nhìn đến công lao của mỗi người và cũng khen thưởng như khen thưởng bà goá: “Thầy bảo thật anh em, người này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.
Có lẽ tài sản quý giá nhất chúng ta có là thời giờ của mình. Đôi lúc cho đi tiền của lại là điều dễ thực hiện hơn; cái khó là cho đi thời giờ, tài năng và khả năng của mình. Hãy biết cho đi. Thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều. Không chỉ cho đi những gì là vật chất mà còn những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa, những lời an ủi chân thành…mà còn cho đi lời cầu nguyện trong đời sống siêu nhiên.
Trong tháng 11 này, chúng ta tưởng nhớ những người đã qua đời. Họ đang yên nghĩ, họ cần điều gì nhất? Họ cần đến lòng thương xót Chúa. Họ cần chúng ta nhớ đến họ bằng tình yêu thương của trái tim. Họ muốn chúng ta đừng quên họ nhưng hãy nhớ đến họ bằng kinh nguyện và thánh lễ.
Họ đã bước vào cõi thinh lặng ngàn thu. Họ chỉ cần chúng ta nhớ đến và cầu nguyện. Họ muốn chúng ta cho họ những bông hoa tưởng nhớ, những nụ hoa cầu nguyện, những mật hoa bác ái, những hương hoa hy sinh.
Người Công Giáo được khuyến khích thực hiện những điều thiết thực, như xin Lễ, dự Lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc đức… để chuyển cầu cho những người đã ra đi mà còn đang vướng mắc một vài trở ngại nào đó khiến họ chưa hoàn toàn chia sẻ vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa. “Cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh” (2 Mcb 12, 46; GH, 50). Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ, mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn” (GLCG, số 958). Những việc lành phúc đức cho chúng ta một cảm giác hạnh phúc và ý nghĩa bởi vì thân nhân của chúng ta đã và sẽ còn được tưởng nhớ đến mãi.
Trên giường hấp hối, mẹ Monica đã nhắn nhủ con trai Augustinô: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.
Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời. Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung.
Trong suốt tháng các linh hồn này, hãy chân thành và tin tưởng dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hàng ngày.
CÁI NHỎ CHỨNG TỎ CÁI TO
Trầm Thiên Thu
Có lần đề cập sự lo lắng và tin tưởng, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì?” (Lc 12:26) Và khi nói về việc trung tín trong cách sử dụng tiền của, Ngài nói: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.” (Lc 16:10)
Người ta coi thường cái lỗ thủng nhỏ nhưng bất ngờ con thuyền bị đắm. Kiến tha lâu cũng đầy tổ, đó là vấn đề tích cực. Miệng ăn núi lở, đó là vấn đề tiêu cực. Những cái nhỏ có vẻ chẳng đáng gì nhưng lại rất quan trọng. Cuộc sống có nhiều thứ không như chúng ta tưởng. Có những thứ nghịch mà thuận, nhỏ mà vĩ đại, ít mà dồi dào, bình thường mà rất khác thường.
Có một ví dụ thú vị mà các triết gia đã tốn nhiều công sức để phân định xem một ly nước “BỊ cạn một nửa” hay “ĐƯỢC đầy một nửa.” Bị hay Được cũng là dạng thụ động, ngoại ngữ chỉ có thể diễn tả một kiểu, còn Việt ngữ có thể diễn tả hai cách – cái tốt gọi là Được, cái xấu gọi là Bị.
Cách suy nghĩ cũng khác nhau về cách nhìn vấn đề. Người bi quan thấy ly nước BỊ CẠN MỘT NỬA và họ LO SỢ nước sẽ tiếp tục cạn, người lạc quan thấy ly nước ĐƯỢC ĐẦY MỘT NỬA và họ HY VỌNG nước sẽ được đổ thêm cho đầy hơn. Quan điểm hay thế giới quan là điều khó thay đổi vì nó chính là lăng kính mà qua đó, chúng ta nhìn mọi sự xảy ra. Cái ly trong mắt người bi quan sẽ không bao giờ đầy và cái ly trong mắt người lạc quan sẽ không bao giờ cạn.
Vấn đề nhỏ – to cũng “dính líu” con người. Trong xã hội, người ta tự phân chia đa cấp – người trọng, kẻ khinh. Ngày xưa, một dạng bị coi thường là người góa bụa. Góa là tình trạng của một người đã lập gia đình nhưng chết vợ hoặc chết chồng, nhưng người ta thường có ý nói về phụ nữ: Bà góa, góa phụ, quả phụ hoặc sương phụ. Góa phụ và quả phụ đều là phụ nữ chết chồng – có thể có con hoặc không, và có khác một chút xíu: Quả phụ là người còn trẻ, góa phụ là người đã luống tuổi. Kể cũng lạ, “gà trống nuôi con” thì người ta thấy thương cảm, còn “gà mái nuôi con” thì người ta lại thấy… bình thường! Loại phụ nữ góa bụa thường bị xã hội coi thường, xưa cũng như nay, vì vậy mà họ cũng thường cảm thấy cô độc và tự ti mặc cảm. Thế nhưng Chúa Giêsu lại chú ý và đề cao “giai cấp” khốn khổ này.
Thân phận không ảnh hưởng cách sống. Thật vậy, trình thuật 1 V 17:10-16 kể về một bà góa tốt bụng đã nuôi ngôn sứ Êlia.
Ngày đó, sau một thời gian hạn hán, Đức Chúa bảo ông Êlia đi Xarépta thuộc Siđôn, và ở lại đấy, rồi sẽ có một bà góa ở đó nuôi ông. Thế là ông đi ngay. Vừa đến cổng thành, ông thấy có một bà góa đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và xin nước uống. Bà ấy liền đi lấy nước cho ông, rồi ông bảo bà cho ông xin miếng bánh. Bà lấy danh Thiên Chúa mà thề rằng bà không có bánh, chỉ còn nắm bột và chút dầu trong vò, bà đi lượm vài thanh củi về nhà nấu nướng cho mẹ con bà ăn bữa cuối rồi chờ chết. Ông Êlia bảo bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói, nhưng trước tiên hãy làm một chiếc bánh nhỏ cho ông ăn trước, sau đó làm cho mẹ con bà. Ông nói rằng Thiên Chúa đã hứa hũ bột sẽ không vơi và vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Ngài đổ mưa xuống trên mặt đất.
Không chú đắn đo, bà góa làm theo lời ông Êlia. Bà góa này thực sự đạo đức. Cả mẹ con bà và ông Êlia có đủ ăn lâu ngày, vì hũ bột không hề vơi và vò dầu chẳng hề cạn, đúng như lời Đức Chúa đã hứa. Phép lạ nhãn tiền.
Chắc chắn chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm như vậy, bởi vì duy nhất một mình Ngài là Tạo Hóa chứ chẳng có thần linh nào khác. Người Việt chúng ta, kể cả những người không tin vào Thiên Chúa, thường cầu xin khi trời nắng lâu ngày: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm.” Cuộc sống cho thấy rằng El Niño hay La Niña thì chúng ta cũng đều khổ sở, vì khô quá hoặc ướt quá cũng bất thường, bất ổn!
Theo tiếng Tây Ban Nha, El Niño nghĩa là “bé trai,” có ý nói đến Chúa Hài Đồng. Trung bình cứ 3-10 năm, ngư dân vùng biển ở Peru lại thấy nước biển ấm dần lên vào mùa đông, khoảng vài tuần trước Lễ Giáng Sinh. Đó là một nghịch lý, nhưng nó vẫn tồn tại có chu kỳ và kéo theo hiện tượng hơi nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như lớn. Người ta gọi đó là hiện tượng El Niño để đánh dấu thời điểm nó xuất phát gần dịp Giáng Sinh. Còn La Niña nghĩa là “bé gái,” hiện tượng này trái ngược với El Niño. La Niña thường bắt đầu hình thành từ tháng Ba đến tháng Sáu hằng năm, ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng Hai năm sau. La Niña xảy ra ngay sau khi hiện tượng El Niño kết thúc. El Niño là hiện tượng nước biển tăng độ nóng, La Niña là hiện tượng nước biển tăng độ lạnh – còn gọi là El Viejo hoặc Anti-El Niño.
Thiên Chúa nhân hậu nhưng cũng công bằng. (x. 1 Pr 1:17; Rm 2:2; Kh 19:11) Thánh Vịnh gia cho biết: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính.” (Tv 146:7-8) Ngài giàu lòng thương xót, yêu thương mọi người, không phân biệt và không thiên vị ai, đặc biệt xót thương những người bị xã hội ruồng bỏ: “Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:9-10)
Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng và yêu thương chúng ta đến cùng, yêu thương đến muôn đời. Thánh Phaolô minh chứng: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng NGƯỜI ĐÃ VÀO CHÍNH CÕI TRỜI, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa CHUYỂN CẦU CHO CHÚNG TA. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.” (Dt 9:24-25) Hy lễ của Đức Giêsu Kitô chỉ một mà trọn vẹn tất cả, nhưng Ngài vẫn chấp nhận tiếp tục chịu đau khổ vì chúng ta. Thật kỳ diệu vô cùng!
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần để TIÊU DIỆT TỘI LỖI bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là PHẢI CHẾT MỘT LẦN, rồi sau đó CHỊU PHÁN XÉT. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để CỨU ĐỘ NHỮNG AI TRÔNG ĐỢI NGƯỜI.” (Dt 9:26-28)
Có sự trùng hợp thú vị: Cuối Năm Phụng Vụ cũng là thời điểm cuối năm đời thường. Cuối năm như lời nhắc nhở mỗi chúng ta về đoạn cuối cuộc đời của mình – không chỉ đối với người già mà cả người trẻ. Sắp hết năm và chắc chắn sẽ hết, cuộc đời cũng sẽ hết và chắc chắn chúng ta sẽ chết. Chuyện nhỏ hay to, bình thường hay đặc biệt? Chết rồi còn gì chăng? Mọi thứ vật chất chúng ta sở hữu sẽ thuộc về người khác, chỉ những gì chúng ta trao tặng thì còn lại mãi với chúng ta. Đó là các nhân đức và công phúc, đặc biệt là đức ái, vì đức ái còn mãi mãi: “Lúc hiến thân là lúc nhận lãnh, lúc quên mình là lúc gặp lại chính mình.” (Thánh Phanxicô Assisi)
Trình thuật Mc 12:41-44 (≈ Lc 21:1-4) nói về việc dâng cúng của bà góa nghèo, tức là đề cập việc trao tặng, biếu hoặc cho. Điều này cho thấy rằng động từ “cho” là động từ quan trọng lắm: “CHO thì có Phúc hơn là NHẬN.” (Cv 20:35) Thật vậy, “hãy làm mọi sự vì Đức Ái.” (1 Cr 16:14)
Một hôm, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền, cũng có một BÀ GÓA NGHÈO đến bỏ vào đó HAI ĐỒNG TIỀN KẼM – trị giá 1/4 đồng xu Rôma. Đồng kẽm (số ít: lepton, số nhiều: lepta) là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất thời La Mã. Khi lưu hành ở Palestine, 1 lepton trị giá khoảng 6 phút làm công theo lương trung bình mỗi ngày. Thực tế rất đời thường, nhưng Đức Giêsu dùng sự thật này để dạy bài học vô giá: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng NHIỀU HƠN AI HẾT. Quả vậy, mọi người đều rút từ TIỀN DƯ BẠC THỪA của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, TẤT CẢ NHỮNG GÌ BÀ CÓ để nuôi sống mình.” Bà góa nghèo bị người ta khinh miệt nhưng bà lại là “thầy dạy” của chúng ta về cách làm việc từ thiện.
Chúa Giêsu đề cao bà góa với ngụ ý chỉ trích giới lãnh đạo Do Thái giáo là những kẻ đạo đức giả, họ dâng cúng chỉ để người khác chú ý và được tôn trọng. Ngài có chỉ trích chúng ta? Liệu chúng ta có cảm thấy thanh thản?
Dâng cúng là điều cần thiết, rất tốt. Điều răn thứ năm của Giáo Hội có đề cập. Tuy nhiên, những gì chúng ta gọi là “việc thiện” hoặc “việc đạo đức” thì phải thực sự có “chất” đạo đức và thánh thiện. Có lẽ chúng ta cần cảnh giác mà đặt vấn đề, kẻo “chưa rối đạo mà lại rối việc đạo!”
Thế nào là nhỏ hay to? Ông A dâng cúng bạc tỷ thì nhận bằng ân nhân đặc biệt, bà B dâng cúng vài chục triệu thì nhận bằng ân nhân bậc I, II hoặc III, anh C dâng cúng vài triệu thì nhận bằng ân nhân bình thường, còn chị D không ai chú ý vì chị không có nhiều tiền để dâng cúng, chị ngó trước ngó sau rồi vội vàng bỏ vài chục ngàn đồng vào thùng ở cuối nhà thờ. Sợ người ta nhìn thấy nên chị rất ngại!
Lạy Thiên Chúa cảnh báo chính trực, xin giúp chúng con sống thật và hành động đúng, xin để đừng để chúng con “ra vẻ” để được người khác chú ý, xin tận diệt mọi thứ xấu xa trong chúng con, dù chỉ là ý nghĩ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong ngôn ngữ “nhà Đạo”, câu nói “Đồng tiền của bà goá” đã trở thành thông dụng, ám chỉ những điều rất nhỏ mọn và đơn sơ nhưng được thực hiện với thiện ý và tấm lòng chân thành.
Lời Chúa hôm nay nói đến hai người phụ nữ goá bụa. Một người ở thành Sarepta thời ngôn sứ Elia, một người thời Chúa Giêsu. Mỗi người một cách, cả hai đều quảng đại và chân thành. Trong truyền thống Do Thái thời xưa, người phụ nữ goá bụa bị coi như đồ bị chúc dữ (x. Tb 3,7-9). Họ phải chấp nhận rất nhiều thiệt thòi trong đời sống hằng ngày và trong những sinh hoạt cộng đồng. Vậy mà Lời Chúa hôm nay lại muốn khẳng định với chúng ta: họ là những người đáng tôn trọng, bởi họ đã có những nghĩa cử đẹp. Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều diễn tả Thiên Chúa là Đấng yêu thương bênh vực những người goá bụa, cô nhi và kẻ cô thân cô thế. Ngài là chỗ dựa cho họ. Các ngôn sứ và các tác giả Thánh vịnh còn khẳng định rõ: ai đối xử bất công với những người thiệt thòi này sẽ bị Thiên Chúa báo oán.
Người phụ nữ thời ngôn sứ Elia, nghèo đến mức chỉ còn một chút bột và chút dầu trong bình, nhưng cũng sẵn sàng làm cho vị ngôn sứ tấm bánh. Tấm bánh mà bà tặng cho vị ngôn sứ là tất cả những gì bà có, là niềm hy vọng cuối cùng của hai mẹ con bà. Vậy mà bà hy sinh tất cả. Sự hy sinh của bà đã được ghi nhận và thưởng công ngay lập tức. Từ đó, hũ bột của bà không vơi và bình dầu của bà không cạn cho đến khi mưa xuống trên xứ sở. Đó chính là sự thưởng công “nhãn tiền” mà bà được hưởng, do lòng rộng rãi của bà đối vị ngôn sứ.
Người phụ nữ thứ hai được nhắc đến trong Tin Mừng cũng là người đàn bà goá nghèo. Bà công đức vào Đền thờ chỉ vẻn vẹn hai đồng tiền kẽm, là số tiền rất nhỏ so với giá trị tài chính đương thời, nhưng Chúa Giêsu khẳng định: bà đã dâng cúng tất cả mình có với lòng quảng đại và như thế có nghĩa bà bỏ nhiều hơn những người giàu có. Tác giả Tin Mừng cũng nhắc đến sự tương phản trong thái độ và y phục của những người cùng bước vào Đền thờ hôm ấy: trước hết là những kinh sư súng sính trong bộ áo thụng để phô trương và biểu diễn, rồi đến những người giàu có vênh vang khoe sự giàu sang. Bên cạnh họ, người đàn bà goá khiêm hạ, chỉ công đức được một chút tiền bạc. Tấm lòng của bà đã được ghi nhận, của cho không bằng cách cho. Khi nhắc lại cách công đức của bà góa nghèo, Chúa Giê-su khẳng định: cùng với tặng vật, người cho cần có một tấm lòng.
Lời Chúa hôm nay muốn lưu ý chúng ta hãy thay đổi cách nhận định về một con người hay một sự việc. Thông thường, chúng ta hay quan sát và đánh giá theo những dáng vẻ bên ngoài. Tuy vậy, con người phải được tôn trọng trước hết là vì nhân phẩm của họ, rồi đến tư cách đạo đức và tấm lòng chân thành của họ đối với những người xung quanh. Sự thận trọng trong nhận định sẽ giúp ta tránh mọi sai lầm đáng tiếc, và tránh những thiệt hại cho những người có liên quan. “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, súng sính trong bộ áo thụng…, họ thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc… nuốt hết tài sản của các bà góa”. Những lời cảnh báo này nhắc chúng ta phải nhìn lại chính mình, để rồi chúng ta có cách hành xử cho đúng đắn.
Lời Chúa cũng nhắc bảo chúng ta, nghĩa cử chia sẻ luôn có giá trị trước mặt Chúa và giúp bản thân chúng ta nên hoàn thiện. Chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh. Những gì chúng ta giúp đỡ người bất hạnh, sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an thanh thản trong tâm hồn. Nghĩa cử chia sẻ của chúng ta giống như lửa, càng cho đi, càng lan rộng mà không hề mất đi.
Tác giả thư Do Thái mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng Đức Giêsu Thượng tế. Người đã hy sinh vì tội lỗi nhân loại. Người đã mang trên thân mình tất cả những đau khổ đáng lẽ chúng ta phải chịu, để nhờ đau khổ của Người mà chúng ta được hạnh phúc và bình an. Noi gương Chúa, chúng ta hãy hy sinh, chia sẻ, cho đi chính sức lực, thời gian, tinh thần, vật chất, để đem lại cho cuộc sống này nhiều niềm vui.
“Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng” – Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã diễn tả điều này trong một nhạc phẩm nổi tiếng. Quả vậy, không có tấm lòng, mọi sự đều trở nên vô nghĩa, hay nói theo Thánh Phao-lô, thiếu đức ái, những gì ta làm, dù lớn lao và hoành tráng đến mấy, cũng chỉ giống như thanh la não bạt, vang dội mà rỗng tuếch.
Khi một người chết đi, anh ta nắm trong tay chỉ những gì mình đã cho đi khi còn sống. When a man dies he clutches in his hands only that which he has given away during his lifetime (Sưu tầm).
ẢNH HƯỞNG MẠNG XÃ HỘI HÔM NAY
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Ngàyhôm nay rất nhiều người sống không thể thiếu mạng xã hội. Đây là cách mà con người thời đại tiếp cận với xã hội và nhất là những vấn đề nóng của xã hội. Tuy nhiên, với bản tính của con người  thích soi xétchuyện người khác và thích thỏi phồng những tin nóng, thì mạngxã hội nhiều khi trở thành một “pháp trường” nơi đám đông mặc nhiên thể hiện sự tàn nhẫn. Họ ném đá những người họ không thích, bất kể đúng sai. Họ cười nhạo kẻ khác biệt mình không một giây suy nghĩ. Họ soi mói đời sống riêng tư, thậm chí thích thú trước nỗi khổ của người khác. Họ coi thế giới ảo như một trò chơi, phủi tay tắt máy là câu chuyện kết thúc. Nhưng mạng xã hội không phải là trò chơi. Hậu quả của những việc tưởng như vô bổ trên mạng tàn khốc hơn nhiều.Nó đã cướp đi rất nhiều sinh mạng chỉ vì con người thích xét đoán người khác.
Mới đây thôi, một em gái ở Đồng Nai tự vẫn khi bị người yêu đăng clip nhạy cảm lên mạng. Gia đình chạy đến hết chỗ này nơi khác để cứu em, nhưng vô vọng. Cô bé mới 16 tuổi, không thể chống đỡ áp lực từ cơn bão mạng. Kẻ đăng clip đã gián tiếp giết em và cả những người lan truyền nó nữa.
Cũng có những trường hợp chỉ là vô tình trong lúc làm việc có những cử chỉ thái độ thiếu nghiêm túc liền bị ném đá tập thể một cách không thương tiếc như trường hợp của mộtbác sĩ Bệnh viện đa khoa Lâm Thao, Phú Thọ. Trong lúc khám cho bệnh nhân, anh gác một chân lên giường bệnh. Một chiếc smartphone giơ lên, hình ảnh được tung lên mạng.
Cộng đồng phẫn nộ về y đức của anh, đòi phải xử lý thật nghiêm. Anh bị miễn nhiệm và sau đó thì tự nguyện xin từ chức. Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng lẽ một cái chân đặt sai tư thế lại là vi phạm nghiêm trọng đến vậy?
Tôi không cho rằng, việc bác sĩ đặt chân lên giường bệnh là đúng, nhưng cái tôi cần biết hơn: anh chăm sóc người bệnh ra sao, hoàn thành công việc như thế nào, . . .Tiếc thay, nhiều người chỉ phán xét quanh cái chân để nhầm chỗ.
Hôm nay Chúa Giê-su dạy cho chúng ta cách đánh giá về một con người. Tư cách của họ và tấm lòng của họ không dựa trên thế giá. Không dựa trên cách ăn mặc đi đứng. Điều quan yếu là nhìn vào hành động của họ. Cách sống của họ sẽ thể hiện tấm lòng của họ chứ không phải chỉ nói hay là làm giỏi.
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra hai nhận định khác nhau về hai loại người. Nhận định thứ nhất về nhóm biệt phái, đại diện cho thành phần có chức có quyền. Nhận định thứ hai về bà goá nghèo, đại diện cho những con người thấp hèn, nghèo đói. Cả hai đều lên đền thờ với hai thái độ khác nhau. Bà goá nghèo khiêm tốn. Nhóm biệt phái giầu có lại kiêu căng. Bà goá nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Chúa. Người biệt phái chỉ có lòng tự cao tự đại.
Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng lạitham lam chỉtìmcách lấycủa chung thành của riêng. Họ là những người cóchức, có quyềnnhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.
Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.
Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.
Thếnên đánh giá hay xét đoán một con người đừng chỉ nhìn vào một phút sơ hở của họ để rồi vội kết án họ xấu xa. Nhất là trong thời đại thông tin công nghệ 4.0 thì một lời kết án thiếu chân thực của chúng ta sẽ giết chết một con người, hay ít ra cũng huỷ hoại nhân cách một con người, một khi lời đó được lan tải trên mạng xã hội. Và nhất là một sự chia sẻ thiếu hiểu biết của chúng ta sẽ gây nên những cơn bão đau khổ cho một con người.
Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương mới gọi chúng ta chỉ nói và làm những điều gì có lợi cho tha nhân. Đừng cố tình đẩy anh em vào đau khổ. Hãy sống nhân đạo với nhau thi châm ngôn:”điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy”.
Xin Chúa giúp chúng ta có một tấm lòng chân thành để sống với tha nhân như bà goá giầu lòng quảng đại chân thành. Và xin cho chúng ta cũng có tấm lòng nhân hậu để đừng xét đoán anh em một cách thiếu suy nghĩ, nhưng luôn lấy lòng từ bi để nói tốt, nghĩ tốt cho anh em. Amen.
ĐỒNG TIỀN BÀ GÓA
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Đồng tiền giá trị nhiều hay ít giá trị tùy vào thời điểm nó thực hiện giao dịch có tính tạm thời hay vĩnh cửu. Đồng tiền sử dụng khôn ngoan là đồng tiền mua lấy Nước Trời (Lc 16, 9). Ít hay nhiều tiền mới mua được Nước Trời không quan trọng, tùy theo cách mỗi người đầu tư.
Giây phút lấy tiền ra khỏi túi.
Lúc quyết định thực hiện đầu tư là lúc đưa tay vào túi quyết định nhiều hay ít. Việc lấy từ túi tiền ra để bỏ vào thùng là lúc cho biết mình là ai, ít hay nhiều cho thấy một thái độ cần thiết về Nước Trời hay chỉ là một kênh đầu tư phòng hờ rủi ro.
Con số nhỏ dùng như một kênh đầu tư trong nhiều khoản đầu tư khác, người ta đầu tư vào kênh Nước Trời để có cửa thoát thân. Cách đầu tư này là cách mang tính phòng hờ, sống đạo theo cách đối phó hơn là dấn thân.
Với tấm lòng hảo tâm, quảng đại, giá trị đồng tiền có một giá trị tùy thuộc vào tấm lòng. Từ lúc quyết định đến lúc lấy từ túi tiền ra là thời gian đo lường lòng hảo tâm. Người đóng góp biết được tấm lòng mình rộng hẹp ra sao, có thể tự lượng định được.
Đóng góp theo tấm lòng tạ ơn, vì Chúa đã ban cho nhiều và đóng góp phần nào để tạ ơn. Cũng thế, quyết định ít hay nhiều theo phần hoa lợi thu được về. Tiền của đóng góp nhiều hay ít là thước đo của lòng mến. Chúa nói “kẻ yêu mến nhiều vì được tha nhiều” (Lc 7, 47)
Bà góa được khen bỏ nhiều nhất.
Vét sạch túi để cho như người đàn bà góa, thật là hiếm họa trong cuộc sống, ngoại trừ số ít người trước khi chết trăn trối tài sản mình cho nhà thờ hay cho giáo hội.
Còn sống vẫn còn cần tiền đề phòng. Tuy nhiên, thái độ thế nào về tiền của mà mình đang năm giữ mới mang tính quyết định cuối cùng. Vậy Chúa mới bảo dùng tiền của cách khôn ngoan mua lấy bạn bè và nước trời.
Một cách khôn ngoan, người Do Thái dạy “Điều gì không thuộc về bạn mà bạn cứ giữ lấy như của riêng bạn mãi mãi, thật sự là nguy hiểm, của cải là một thứ đó”.
Người làm chủ túi tiền mình cách khôn ngoan, họ biết đồng tiền dẫn mình tới đâu? Mang lại một hạnh phúc thật chứ không phải thứ hạnh phúc nhất thời, đánh bóng mình, hay hủy hoại chính mình.
Người khôn ngoan biết nhìn bao quát, đời này và đời sau, thật và giả, cám dỗ và buông thả. Điều người khôn ngoan biết dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, là người biết sống tử tế, công bằng và liêm khiết, bác ái và yêu thương. Thế giới chung quanh họ sống là một thế giới thanh thản, an bình, vui tươi. Theo cách Chúa dạy: “Trước tiên tìm sự công chính và Nước Trời” (Mt 6, 33)
Tiền của mua được đời sống vĩnh cửu là đồng tiền khôn ngoan nhất. Như đồng tiền bà góa, như đồng tiên mua lấy bạn hữu, mua lấy tình thân, mua lấy nhân nghĩa và mua được Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng con biết dùng tiền của cho phải lẽ.
ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Câu chuyện đồng bạc của bà góa nghèo mà Tin mừng của thánh Máccô thuật lại Chúa Nhật hôm nay đã gây cảm xúc và ấn tượng cho rất nhiều người ở nhiều thế hệ. Bà góa đã bỏ vào thùng đền thờ tất cả những gì mình có để nuôi sống bản thân ( Mc 12,44 ). Điều đặc biệt bà góa nghèo đã làm cho nhiều người cảm kích, xúc động và thán phục, đó là bà đã hy sinh cả chính mạng sống của mình để dâng cho Chúa cái gia tài, món quà quý giá nhất bà dành dụm để nuôi thân. Đây là điều đáng trân trọng, đáng ghi nhớ. Bởi vì, thường người ta vẫn chỉ dâng cúng một phần nào đó mà thôi số tiền mình đang có. Hay có lúc người ta chỉ dâng cúng của dư thừa…
Đức Giêsu khi đi rao giảng cùng các môn đệ đã dựa trên mọi hoàn cảnh, mọi tình huống xẩy ra, diễn ra xung quanh để dạy con người, để giáo dục con người và để nói lên một chân lý nào đó. Vì thế, Ngài đã tiếp xúc với mọi lớp người, mọi hạng người, Ngài không loại trừ bất cứ ai và luôn đem lại cho con người niềm hy vọng, sự hạnh phúc vv…Hôm nay, ngồi trước mặt tiền Đền Thờ, Chúa Giêsu đã quan sát những người bỏ tiền vào hòm đựng tiền, dâng cúng cho Đền Thờ, Ngài đã thấy rất nhiều người đi qua và dừng lại bỏ tiền.Tuy nhiên, Chúa đã đánh giá, khen ngợi người đàn bà góa, Ngài nói :” Thầy nói thật với các con: Trong những ngưởi đã bỏ tiền vào hòm,bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết “ ( Mc 12,43 ).
Đức Giêsu đã cho chúng ta hiểu sâu xa thế nào là dâng cúng ! Ngài thấy thực sự có rất nhiều người bỏ tiền, tuy nhiên họ bỏ tiền nhưng vẫn còn dư dật. Có nhiều người bỏ tiền nhưng muốn cho người khác thấy, cho người khác biết mình bỏ nhiều vv…Họ dâng cúng vì khoe khoang của cải, vì vênh vang, tự cao, tự đắc. Chúa muốn con người, chúng ta đừng bắt chước ngườu Pharisêu, bọn Biệt phái giả hình, kiêu ngạo, khoe khoang, khoác lác. Ngài nói rằng làm phước tay phải, đừng cho tay trái biết, Ngài dạy chúng ta bài học khiêm tốn,ý hướng ngay lành :” Còn ngươi khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được kín đáo. Và Cha của ngươi, Đấng thấu suốt những gì kín đáo,sẽ trả công cho ngươi “ ( Mt 6,3-4 ) hoặc “ Khi ăn chay hãy xức thuốc thơm trên đầu vv và vv…”. Chúa Giêsu nhắc nhở con người, nhắc nhớ chúng ta đừng ham danh, lợi dụng địa vị, chức quyền để trục lợi vật chất. Người ta cho người khác, cho Chúa của dư dật, còn bà góa nghèo cho Chúa của nuôi thân…
Chúa Giêsu mời gọi nhân loại, con người và chúng ta hãy biết chia sẻ, làm giầu tâm hồn, bản thân bằng chính sự cho đi sức khỏe, tài năng, tiền của đối với những người nghèo khổ, những người bất hạnh vì chính lòng quảng đại, sự chân thành chia sẻ của chúng ta sẽ làm cho những người khác được hạnh phúc. Vâng, người ta chỉ cho đi cái mình có.Cái cho đi không chỉ giá trị ở món quà đắt tiền, hay món quà có giá trị, mà cái giá trị nằm ở tấm lòng cao quý cho đi của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấu suốt cõi lòng của mỗi người chúng con. Chúa khen ngợi bà góa nghèo đã dâng cúng số tiền nhỏ nhoi so sánh với những người giầu, nhưng đó lại là của mưu sinh, nuôi sống bản thân của bà. Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con biết cho đi mà không tính toán vì chính khi hiến thân là khi được vui sống, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa Giêsu bắt gặp người đàn bà góa nghèo này ở đâu ?
2.Tại sao lại bỏ tiền trong hòm tiền của Đền Thờ ?
3.Đền Thờ này tên gì ?
4.Chúa Giêsu đánh giá bà góa nghèo này thế nào ?
5.Thái độ chúng ta phải có khi dâng cúng ?
TẠI TÂM
Lm. Giuse Trần Việt Hùng 
Coi chừng Luật Sĩ giả hình,
Bên ngoài áo thụng, tâm linh hẹp hòi.
Công trường ưa được đua đòi,
Hội đường ghế nhất, gương soi mắt trần.
Kinh dài giả bộ lắm vần,
Gia tài nuốt hết, chia phần thù lao.
Chúa ngồi đối diện lối vào,
Bỏ tiền cúng hiến, đồng hào cắc xu.
Người giầu dâng cúng đền bù,
Có người bà góa, vài xu bỏ thùng.
Chúa vời môn đệ đến cùng,
Hãy xem, bà góa, bao dung tấm lòng.
Bà còn túng thiếu ăn đong,
Dám cho tất cả, sạch trong túi tiền.
Chắt chiu mong mỏi cửa thiền,
Tinh thần nghèo khó, cõi thiên tìm về.  
Luật sĩ là những người có học thức và thông hiểu luật lệ. Họ có quyền giải thích và thêm bớt các chi tiết của bộ luật. Hôm nay Chúa cảnh cáo: Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Có lẽ họ nói một đường, làm một nẻo hoặc nói mà không thực hành, nên Chúa đã trách cứ họ. Họ ưa được người ta chào hỏi và thích xuất hiện giữa đám đông. Họ mong muốn tìm chút vinh hoa cho đời tạm này. Chúa Giêsu tố cáo họ là chỉ thích tỏ lộ ra bên ngoài cái không có trong tâm hồn.
Các luật sĩ là những kẻ kế thừa lãnh đạo dân chúng. Họ được dân chúng kính trọng và được xem là những người đạo đức. Họ đã cố gắng chu toàn các chi tiết luật lệ do chính họ suy diễn ra hơn là giữ chính luật. Họ lạm dụng sự tin tưởng và qúy mến của dân chúng để tìm mối lợi cho chính mình. Chúa Giêsu đã vạch trần những sự giả dối của họ.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nghe những lời các luật sĩ giảng dạy, nhưng đừng bắt chước họ vì họ nói mà không làm. Đọc tới đây chúng ta cũng thấy giật mình vì như chính Chúa đang nói với chúng ta. Nhiều lần chúng ta cũng đã khuyên dạy người này người kia làm điều này, thực hiện điều nọ, nhưng chính chúng ta lại không làm được. Nhất là những người có trách nhiệm giảng dạy như giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và các thầy dạy hay các bậc phụ huynh, chúng ta phải cố gắng không ngừng sống những gì mình giảng dạy. Thực tế cuộc sống, chúng ta phải chấp nhận rằng chúng ta là những con người yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Chúng ta còn khoảng cách rất xa với lý tưởng. Như thánh Phaolô dạy: Điều tốt tôi muốn tôi không làm. Điều xấu tôi không muốn, nhưng tôi cứ làm. Chúng ta chỉ có một Thầy dạy tuyệt hảo đó là Chúa Giêsu Kitô.
Giả như khi chúng ta đi khám bác sĩ. Bác sĩ khuyên chúng ta hãy bỏ hút thuốc. Hút thuốc sẽ có hại cho sức khỏe và dễ bị ung thư phổi. Trong khi đó bác sĩ vẫn phì phèo điếu thuốc. Hỏi rằng chúng ta có phải nghe lời ông bác sĩ không? Các Bác sĩ dựa vào những khám phá của khoa học và hậu qủa sẽ xảy ra. Chính bác sĩ không thực hành được. Chúng ta không vì thế mà không nghe lời khuyên của bác sĩ.
Thực hành những lời khuyên đúng, sẽ có ích lợi cho chúng ta. Các vị bề trên giảng dạy đúng đường lối của Chúa, chúng ta có bổn phận lắng nghe, tuân giữ và thực hành. Chúa sẽ nhìn thấu tận tâm can của con người. Chúa Giêsu đã quan sát và biết được đáy lòng của người đàn bà góa, cho dù bà chỉ bỏ có hai đồng tiền vào hòm. Chúa khen bà thật tâm đã bỏ tất cả những gì bà có. Chúng ta sẽ lãnh nhận phần thưởng nếu chúng ta thực hành các điều Chúa dạy với cả tấm lòng thành.
DÂNG CHO CHÚA VỚI TẤM LÒNG BIẾT ƠN
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Cuộc sống tại Việt Nam có nhiều điều nghịch lý: Người đi đường có thể đứng hàng giờ để xem một tai nạn hoặc một cuộc đánh lộn xảy ra, rất nhiều người quay film, nhưng không có ai ra tay giúp nạn nhân hoặc can ngăn cuộc đánh lộn. Người ta dễ dàng đãi bạn bè ăn nhậu, nhưng lại tiếc khi biếu bố mẹ già tấm bánn. Người ta có thể la cà tại quán cà phê, quán nhậu mấy tiếng đồng hồ không sốt ruột, nhưng tham dự thánh lễ chừng 50 phút họ kêu lễ lâu. Người ta bỏ ra vài trăm ngàn hay bạc triệu cho một bữa nhậu, cho đó là rẻ, còn khi bỏ tờ năm mươi ngàn vào thùng nhà thờ thì thấy quá lớn.
Hôm nay, Lời Chúa chỉ cho chúng ta biết việc dâng cúng như thế nào là đẹp lòng Chúa. Hai câu chuyện trong bài đọc một và bài Tin Mừng có những điểm giống nhau. Bài đọc một kể câu chuyện bà góa nghèo thành Sarepta quảng đại dâng tặng cho người của Thiên Chúa cả phần lương thực cần thiết nuôi sống mẹ con bà. Lúc đó, hạn hán xảy ra trong khắp đất Israel, mùa màng thất bại, dân chúng rơi vào cảnh đói kém. Trên đường vào thành Sarepta, tiên tri Êlia thấy có một bà góa nghèo đang nhặt củi. Ông xin bà cho ông chút nước và một chút bánh để ăn cho đỡ đói. Người đàn bà này dù cũng đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, bà thưa thật với Êlia: “Thưa ông, tôi chỉ còn một nắm bột và một chút dầu chỉ đủ cho mẹ con tôi ăn một bữa rồi chết thôi”.Dù biết hoàn cảnh bà như vậy, nhưng vị tiên tri vẫn yêu cầu bà cứ làm và trước hết đem cho ông bánh và nước, còn phần bà, Chúa sẽ làm cho hũ bột không cạn và bình dầu không vơi. Bà góa này đã tin vào lời của ông Êlia và làm như ông chỉ dạy. Thiên Chúa đã trả lại cho bà theo như sự tin tưởng và lòng quảng đại của bà. Thiên Chúa đã nuôi sống mẹ con bà đúng như lời vị tiên tri đã nói: “hũ bột không cạn và bình dầu không vơi”.
Người đàn bà Sarepta này đã dám cho đi phần ăn cuối cùng của mẹ con bà, bà dám cho đi cả những gì bà đang rất cần cho cuộc sống. Bà không quan tâm cũng không tính toán cho tương lai của mẹ con bà vì bà tin vào lời Êlia và nhận ra Thiên Chúa ở nơi con người đang ngửa tay xin bà chút nước và miếng bánh. Bà cũng tin rằng, bà cứ quảng đại với người khác, Thiên Chúa sẽ quảng đại với bà; bà cứu giúp người khác, Thiên Chúa sẽ cứu giúp mẹ con bà. Vì nghĩ và tin như thế bà đã  đón rước Êlia về nhà và Thiên Chúa đã nuôi sống gia đình bà, bà đã cho đi và Thiên Chúa đã trả lại cho bà vượt quá sự mong đợi của bà.
Nếu như câu chuyện bà góa Sarepta muốn nói đến việc quảng đại đối với người khác, thì câu chuyện Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại sự quảng đại của một bà góa đối với nhà Chúa. Việc dâng cúng cho Thiên Chúa cho thần linh là việc làm luôn có trong các tôn giáo. Trong các tôn giáo khác, khi dâng cúng cho thần linh, các tín đồ dâng cúng để làm cho thần linh bớt giận, để lấy lòng thần linh. Nhiều người khi dâng cúng còn mang tâm trạng của người đời, vì họ coi việc dâng cúng như để đút lót, hối lộ cho thần linh theo kiểu “tốt lễ, dễ kêu”. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải vậy.
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên tất cả mọi loài mọi vật và là đấng quan phòng chăm lo cho tất cả mọi vật, mọi loài và từng người. Mọi sự đều thuộc về Chúa, đều là của Chúa, Thiên Chúa là đấng đầy tràn và không thiếu thốn điều gì. Như thế, việc người tín hữu dâng cúng hay dâng tặng lại cho Thiên Chúa, cho nhà của Chúa không phải là việc bố thí cho Chúa, cũng không phải là dịp để kể lể ghi công ghi sổ nợ cho Thiên Chúa, mà phải là một thái độ chân thành, dâng lên Thiên Chúa với tâm tình biết ơn.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng đã làm với tâm tình như thế, bà được Chúa Giêsu khen và còn lấy để làm gương cho các tông đồ. Lúc đó, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi quan sát đám đông bỏ tiền vào thùng. Có những người giàu có bỏ vào đó số tiền khá lớn, Chúa Giêsu không khen những người này, vì thái độ và cách thức của họ khi dâng cúng làm giảm bớt giá trị của lễ họ dâng cúng. Những người biệt phái và những người giàu trong câu chuyện khi dâng cúng họ đặt nặng hình thức bên ngoài để cho mọi người phải biết, phải thấy việc họ làm. Khi dâng cúng vào đền thờ, họ thiếu một thái độ quan trọng, đó là lòng biết ơn về tất cả những gì Chúa đã ban cho họ. Trái lại, họ bỏ tiền vào đền thờ như thể họ là người bố thí cho đền thờ, bố thí cho Thiên Chúa, mua chuộc Thiên Chúa. Khi đóng góp vào nhà thờ với thái độ huênh hoang như thế, thực ra họ đang đi mua lời khen từ nhừ những người chung quanh hơn là vì lòng yêu mến Thiên Chúa.
Có một bà góa nghèo, chẳng ai quan tâm đến bà vì dáng vẻ khắc khổ bên ngoài của bà. Hơn nữa, trong xã hội Do Thái lúc đó, bà góa là tầng lớp thấp kém trong xã hội, những người lệ thuộc và phải đón nhận sự trợ giúp của cộng đồng. Bà góa này lặng lẽ bước đến bên thùng tiền, móc hết trong ruột tượng của mình được hai đồng kẽm, tương đương một phần tư xu. Bà bỏ vào thùng để dâng cho Chúa, rồi lặng lẽ biến mất vào đám đông. Thế nhưng, trong mắt của Chúa Giêsu, bà không hề bị biến mất, trái lại bà còn được nêu lên như một tấm gương cho các môn đệ của Chúa. Hai đồng kẽm chẳng đáng là gì so với người giàu, nhưng lại là một món tiền lớn, là cả một gia tài của bà góa nghèo. Bà không tiếc gì đối với Chúa vì bà tin rằng cuộc sống của bà và mọi sự của bà đều là của Thiên Chúa, do Thiên chúa ban cho bà, nuôi sống bà. Vì thế, bà sẵn sàng dâng lại cho Chúa của tích góp ít ỏi của mình với lòng chân thành biết ơn Thiên Chúa. Bà đang phải sống nhờ người khác giúp đỡ, nhưng bà còn tin mạnh mẽ rằng, chính Thiên Chúa đang nuôi sống bà mỗi ngày qua những người quảng đại. Vì thế, bà cũng không cần phải tính toán gì với Chúa, vì tất cả những gì bà tích góp được cũng là của Chúa ban.
Trước mặt Thiên Chúa việc dâng nhiều hay dâng ít không quan trọng cho bằng việc dâng lên Chúa với tâm tình nào. Chúa Giêsu đã khen bà góa và còn kể bà là người đã bỏ vào thùng nhiều nhất. Vì các người khác dâng cúng những của dư thừa, nhưng bà góa này còn dâng cho Chúa cả tương lai và cuộc sống của bà cho Chúa, bà dâng cho Chúa tất cả những gì cần thiết để nuôi sống bản thân.
Ngày nay trong các giáo xứ có rất nhiều người quảng đại với công việc chung của nhà Chúa, sẵn sàng hy sinh bớt những chi tiêu của nhà mình để dành điều tốt nhất cho nhà Chúa. Cũng có rất nhiều người có tấm lòng rộng mở bằng việc chia sẻ với các anh chị em khó khăn. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay vẫn muốn chúng ta mỗi khi dâng tặng cho Chúa hoặc chia sẻ với anh em túng nghèo, chúng ta cần có một ý hướng ngay lành, có mục tiêu trong sáng và nhất là luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Chúng ta dâng tặng lại cho Chúa hoặc chia sẻ với anh em vì tin rằng mọi sự chúng ta có, ta được là do Thiên Chúa ban. Vì vậy, việc dâng cúng cho Thiên Chúa là ta lấy chính của Chúa đã ban để dâng lại cho Chúa với lòng biết ơn chân thành. Cũng vậy, chúng ta chia sẻ với anh em vì tin rằng Chúa yêu thương chúng ta nhiều, cho chúng ta có cơ hội và khả năng nhiều hơn các anh chị em khác. Vì vậy, việc chia sẻ cũng là việc làm tri ân Thiên Chúa và lòng thành của mình nghĩ tới anh chị em.
Nhưng điều sâu xa hơn Chúa muốn nơi chúng ta là dám sống phó thác, tin tưởng vào Chúa, dám đặt trọn đời sống ta trong tay Chúa. Dù Chúa ban cho chúng ta có của dư dật hoặc túng thiếu, một khi ta dám quảng đại với Thiên Chúa và với anh em, thì Thiên Chúa không quên việc chúng ta làm và Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của chúng ta. Cần gạt bỏ khỏi mình lối sống hình thức, giả tạo với Chúa và phô trương với mọi người, mà không có sự chân thật bên trong. Cũng cần cảnh giác với các phong trào từ thiện như là dịp để đánh bóng tên tuổi của mình hay của nhóm mình mà thiếu đức bác ái thật sự. Vì bác ái Kitô giáo không chỉ là việc bố thí, cho đi những của dư thừa, cũng không phải là công tác từ thiện xã hội, mà là sự chia sẻ ngay cả những cái mình đang cần đang dùng. Việc dâng tặng cho Chúa và giúp đỡ anh em là vì nhận ra Chúa là chủ mọi loài và anh em là hình ảnh của Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta theo gương bà góa trong Tin Mừng hôm nay dám sống quảng đại với Chúa và anh em, phó thác hoàn toàn cuộc sống hiện tại và tương lai cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.
LÒNG QUẢNG ĐẠI
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao tấm lòng quảng đại của hai bà goá nghèo. Bà góa thời Cựu ước, tiên tri Êlia gặp ở cửa thành Sarephta. Bà đã hi sinh cho vị tiên tri một chiếc bánh nhỏ. Còn bà góa thời Tân ước, Đức Giêsu gặp ở cửa đền thờ Giêrusalem, Bà dâng cúng đồng tiền nhỏ vào Đền thờ.
Thế thì, do đâu mà hai bà goá này được đề cao trong Thánh kinh?. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì đâu! Một đồng xu nhỏ chẳng có giá trị là mấy! Thế nhưng, hai bà được đề cao là do lòng quảng đại biết cho đi. Bởi vì, chiếc bánh nhỏ mà bà goá cho vị tiên tri, là cả sự sống còn lại của mẹ con bà. Đồng xu nhỏ của bà goá nghèo dâng vào Đền thờ là cả tài sản của bà.
Bài đọc I ghi lại: Khi ấy, cả xứ Sarephta gặp nạn đói lớn, do hạn hán mất mùa, nên lương thực cạn kiệt. Bà goá nghèo chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu ăn. Bà đi kiếm củi về nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho hai mẹ con ăn lần cuối rồi nằm chờ chết.
Thế mà, khi tiên tri Êlia ngỏ lời xin bà chiếc bánh ấy, chiếc bánh trong hoàn cảnh lúc này thật cần thiết cho sự sống biết bao, vậy mà bà sẵn sàng nhường phần cho vị tiên tri. Chính việc chia sẻ tấm bánh trong lúc đói kém như vậy, đã làm nổi bậc lên tấm lòng quảng đại biết cho đi, nhưng rồi Chúa không thua lòng quảng đại, đã bù đắp cho bà hủ bột sẽ không vơi và bình dầu sẽ không cạn.
Chúng ta biết nền tảng của Đạo Chúa là yêu thương: Kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như Chúa yêu. Mà đặc tính của yêu thương là trao ban, là hi sinh. Thương ít thì cho ít, thương nhiều thì cho nhiều.
Và của cho không bằng cách cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Và của cho quý nhất chính cái mình đang cần thiết. Như bà goá xứ Sarephta, chỉ còn chiếc bánh cuối cùng dành cho hai mẹ con bà, nhưng vì yêu thương bà sẵn sàng cho đi hết. Và bà goá ở Giêrusalem cũng thế, dù chỉ dâng trong đền thờ một đồng xu nhỏ, nhưng đó là cả gia tài của bà.
Từ việc Đức Giêsu quan sát bà góa nghèo dâng tiền trong đền thờ, cho chúng ta thấy Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ, nghèo hèn.
 Tin Mừng ghi lại: Có lắm người giầu có dâng cúng nhiều tiền trong đền thờ, vậy mà Chúa chẳng để ý, mà chỉ quan tâm đến một người nghèo hèn nhất. Quả thật, Chúa như người mục tử nhân lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc bé nhỏ. Như người phụ nữ đốt đèn tìm cho bằng được một đồng tiền nhỏ bị đánh rơi.
Biết bao người giầu sang Chúa không nhìn, mà chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy còm rách rưới.
Biết bao người dâng cúng những đồng tiền lớn trong đền thờ mà Chúa chẳng khen, mà chỉ khen một người phụ nữ nghèo, dù chỉ dâng hai đồng xu nhỏ.
Lời khen ấy Chúa nói rõ với các môn đệ: “Trong những người bỏ tiền vào hòm, chỉ có bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết, vì bà đã dâng hiết những gì mình có”.
Thì ra, Chúa đánh giá không dựa theo số lượng nhưng theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Một tấm lòng quảng đại biết cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống mình.
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, là chúng ta đi dâng của lễ cho Chúa. Bởi vì, vị linh mục chủ tế mời gọi “Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi và của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”. Như vậy, anh chị em dâng lễ vật gì cho Chúa?.
Các tín hữu thời sơ khai mỗi lần đi dâng lễ họ đều mang của lễ dâng cho Chúa. Ai có thứ gì thì mang dâng cho Chúa thứ đó. Chắc chắn, Chúa không đòi chúng ta nhiều, nhưng đòi hết những gì chúng ta có để dâng cho Ngài.
Anh chị em thử nghĩ xem, mỗi ngày có 24 giờ. Mỗi tuần có 168 giờ, nhưng thử hỏi chúng ta dành cho Chúa, dành cho việc sống đạo được bao nhiêu giờ?.
Trong khi đó điều răn thứ Ba Chúa dạy: Giữ ngày Chúa Nhật, ấy thế mà, có những người làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật.
Thậm thí, dành cho Chúa một giờ đi tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật, nhưng có người lại đi trễ về sớm, chưa kể lo ra chia trí khi ít khi nhiều, khi nào cũng có.
Lẽ ra, tất cả những gì chúng ta có đều là của Chúa, thì xin dâng lại cho Chúa, để tùy Chúa sử dụng theo thánh ý Ngài. Thế nhưng, thực tế đôi khi chúng ta còn tính toán với Chúa nhiều lắm.
Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ, với tất cả ý thức, chúng ta dâng của lễ tấm lòng lên cho Chúa. Dâng bánh rượu là hoa màu ruộng đất và công lao khó nhọc, để Chúa biến thành Mình và Máu thánh Chúa cho chúng ta.
Dâng những vui buồn, những thành công thất bại, dâng cả những tội lỗi, dâng những người đau khổ, bệnh tật, dâng cả thế giới và các linh hồn trong luyện ngục, để rồi Chúa sẽ ban lại ơn bình an theo như lòng chúng ta ước nguyện.
Noi gương hai bà góa nghèo được đề cao trong Thánh kinh. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết sống quảng đại với Chúa, và quảng đại với nhau, như Chúa đã không ngừng quảng đại với chúng ta. Amen.
CỦA ÍT LÒNG NHIỀU
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Người đời thường hành động theo phương châm :”Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại” (Tục ngữ). Ai cũng muốn cho mình được người ta ca tụng, không muốn bị người ta chê cười, nên tìm cách ếm nhẹm những cái xấu  mà chỉ phô ra những cái tốt của mình. Luật sĩ là những người chỉ thích khoe những cái tốt đẹp của mình để lòe thiên hạ, nhưng những cái họ khoe ra không có thực mà chỉ là ảo, nghĩa là họ giả hình giả bộ  cốt lấy tiếng khen của mọi người.
Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu : luật sĩ và bà góa để nói lên cái tương phản của hai loại người : giả dối và thành thực. Luật sĩ dâng cúng cho Đền thờ không vì lòng mến Chúa mà cốt tìm tiếng khen, còn bà góa đã dâng cúng  với tất cả tấm lòng thành, với lòng mến yêu nồng nàn đối với Chúa. Bà đã âm thầm dâng cúng tất cả những gì thiết yếu đối với bà, kể cả mạng sống, mà không cần ai biết đến. Nhìn cung cách dâng cúng của  bà, Đức Giêsu đã khen :”Bà này đã dâng cúng nhiều hơn hết mọi người”.
Thiên Chúa không xét giá trị theo của dâng cúng nhưng xét theo tấm lòng của người dâng cúng.  Người ta thường nói :”Cách cho quí hơn của cho”. Người ta có thể cho một cách miễn cưỡng, hay cho vì bổn phận bó buộc hay cho vì lòng hảo tâm, vì lòng thương mến.  Bà góa này đã cho đi một cách tự nguyện, quảng đại, thơm thảo, bất vụ lợi… nên việc dâng cúng của bà được đánh giá cao. Bà góa này đã dâng cúng với cung cách tốt đẹp đó, nên đã được Đức Giêsu  khen là bà đã dâng cúng nhiều hơn hết mọi người vì bà là người  có “của ít lòng nhiều”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
          + Bài đọc 1 : 1V 17,10-16
Khi tiên tri Êâlia phải lánh nạn để tránh cơn giận của hoàng hậu Jézabel, ông cảm thấy mệt nhọc và kiệt sức. Ôâng xin bà góa làng Serepta cho trú nhờ và xin cho ăn một chút bánh hiếm hoi của bà. Bà sẵn sàng làm bánh cho ông ăn và Chúa đã thưởng công do lòng quảng đại của bà :”Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ không cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”.
          + Bài đọc 2 : Dt 9,24-28
          So sánh chức tư tế Do thái giáo và chức Thượng Tế của Đức Giêsu, tác giả thư Do thái làm nổi bật sự siêu việt của lễ tế do Đức Giêsu dâng hiến hoàn hảo và đời đời.
1.    Trong tư tế là Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Ngôi Lời nhập thể. Hiến tế mà Ngài dâng trên đồi Calvê có một giá trị vô cùng và tuyệt đối.
2.    Từ khi phục sinh và lên trời, Ngài còn tiếp tục hiến dâng lễ vật này, tiến dâng mãi mãi để tôn vinh Chúa Cha và không ngừng nguyện cầu ơn phúc cho nhân loại.
          + Bài Tin mừng : Mc 12,38-44
Hình ảnh trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai đối chọi : luật sĩ và bà góa. Bề ngoài có vẻ như không ăn khớp, nhưng thực tế bổ túc cho nhau.
          1 Người luật sĩ chỉ có cái vỏ bề ngoài, trong lòng thì rỗng tuếch : kiêu căng, tham lam, khoe khoang, giả hình.
          2 Bà góa thì khiêm nhường, âm thầm, thành thật, nghèo tiền nhưng giầu lòng.
Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp  nên “gọi môn đệ đến” chỉ cho thấy và khuyên các ông hãy noi gương bà góa đó.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tục ngữ Việt nam dùng câu “Vật khinh hình trọng” có ý nói đến con người là quí trọng, còn của cải thì coi thường. Con người có giá trị hơn của cải.
Cũng có câu khác ý nghĩa tương tự :”Thèm lòng chẳng ai thèm thịt” hoặc :”Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy”, đều có ý nói : người ta đến giỗ tết hiếu hỷ vì quan hệ tình cảm chứ không phải cốt để ăn uống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai hình ảnh trái ngược. Bà góa đã sống theo phương châm “vật khinh hình trọng” nghĩa là bà đã dâng cúng cho Chúa với “của ít lòng nhiều” hay “của một đồng công một nén” (Tục ngữ) : của dâng cúng của bà thì tít, nhưng tâm tình thì dạt dào.
Ngược lại, các luật sĩ lại sống trái ngược với phương châm trên mà họ đã đổi lại thành “vật trọng hình khinh”, họ chỉ chú trọng đến số lượng mà quên đi chất lượng hay phẩm chất, điều mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi người dâng cúng. Họ chỉ thích sống theo cái vỏ bề ngoài mà trong lòng thì trống rỗng. Trước mặt Chúa họ đúng là những người sống theo tiêu chẩn “Thùng rỗng kêu to”, mà kiểu sống đó đã bị Đức Giêsu chỉ trích.
I. HAI KHUÔN MẶT ĐIỂN HÌNH.
1.    Khuôn mặt người luật sĩ.
Các luật sĩ là những người chuyên nghiên cứu Thánh Kinh và pháp luật. Họ giải thích Thánh Kinh cho người khác và làm cố vấn pháp luật cho dân chúng. Họ là bậc thầy thuộc giới thượng lưu nên được người ta kính trọng. Nhưng Đức Giêsu lại chỉ trích miệt thị họ vì họ là những người kiêu căng và giả hình giả bộ.
Những người này làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng, lợi dụng chức quyền  để nuốt trửng tài sản của các bà góa…  Họ hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu căng. Xét theo giá rị đạo đức họ bị Đức Giêsu xếp vào hạng xấu : “Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
2.    Khuôn mặt hai bà góa.
Phụng vụ hôm nay đề cập tới hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. Họ là những người giữa đường đứt gánh, một mình gánh vác giang sơn nhà chồng. Vì không có sự bao bọc của người chồng, người góa phụ  chỉ còn nhờ vào tài sản của chính mình, không ai giúp đỡ. Bởi vì họ có gì đâu ? Của cải chồng họ để lại thuộc về trưởng nam. Có thể trước đó họ đã gửi gắm ở đâu được một chút của nào đó. Hay tài sản riêng họ  có trước khi về nhà chồng, họ đã gửi nơi các luật sĩ mà họ tưởng là những người đạo đức nâng đỡ họ.  Ai ngờ bọn này lại lợi dụng và dã tâm ngốn cả nhà cửa của họ.
Theo Thánh Kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22).
a) Bà góa thành Serepta.
Sách Các Vua hôm nay kể lại truyện có một bà góa ở Serepta đang đi kiếm củi. Tiên tri Êlia thấy bà đội một cái bình dầu trên đầu thì tưởng bà ta đi múc nước. Nhưng không, đó là một cái vò đựng một chút bột còn sót lại.  Bà đi kiếm mấy thanh củi rồi về nướng làm bánh cho con trai ăn và mình ăn rồi cũng chết. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, mà theo lời yêu cầu của Êlia, bà vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho nhà tiên tri ăn, dù không biết ông là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó, Thiên Chúa đã làm phép lạ cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và tiên tri Êlia nữa.
Bà góa này không những tỏ ra rất nhân đạo, nhưng nhất là còn tin ở lời vị tiên tri và tin vào Lời Chúa. Chính niềm tin này khiến bà dám làm bánh cho nhà tiên tri ăn trước. Bà như quên và như bỏ mạng sống của mẹ con bà vì tin lời nhà tiên tri.  Và Chúa đã thưởng công lòng tin này, khiến câu chuyện về bà hôm nay đáng được dùng để dẫn nhập vào bài Tin mừng.
b) Bà góa trong Tin mừng.
Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng tiền để giúp cho Đền thờ, chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng.
Khung cảnh của Tin mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x. 2V12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi  cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng.
Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú ý đến  người đàn bà góa nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào hai đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu bị thống trị bởi đế quốc Rôma. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bằng bạc, một đồng cân nặng 3,8 g và tương đương với 0,875  quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin mừng dâng cúng  vốn giá trị chẳng đáng là gì , nhưng đối với Đức Giêsu , Ngài đã khen :”Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”(Mc  12,43).
II. BÀI HỌC TỪ HAI BÀ GÓA
1.    Giá trị việc dâng cúng.
Tại sao Đức Giêsu lại nói với các môn đệ:”Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết”  ? Lý do để Đức Giêsu khen thật rõ ràng : đó là số tiền mà dòng người kia tấp nập bỏ vào thùng tiền dâng cúng Đền thờ là những đồng tiền dư thừa. Số tiền mà họ bỏ vào dâng cúng không làm  hụt đi tài sản và thanh thế của họ mà còn tô thêm uy danh cho kẻ lắm bạc nhiều tiền. Còn bà góa, trái lại, bà đã rút ra từ cái túng thiếu, cái nghèo đói của mình, từ giá trị của hai đồng tiền kẽm chính là tài sản duy nhất nuôi sống mình để dâng cúng vào Đền thờ.
Như vậy, giá trị của việc dâng cúng không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.
Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng  do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh.
Chính vì vậy mà chân phước Têrêsa Calcutta nói :”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.
Truyện : Bà Oseola Mc Carthy
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy : Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói :”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình  cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”(Thiên Phúc).
2.    Có ba cách cho.
Người ta nói rằng có ba cách cho : người cho một cách bất đắc dĩ, người cho vì bổn phận và người cho với tâm tình yêu thương.
Người cho một cách bất đắc dĩ thì nói :”Tôi bực mình vì phải cho…” . Người cho vì bổn phận thì nói :”Tôi buộc phải cho…”. Còn người cho vì tình thương thì nói :”Tôi muốn cho…”
Nói cách khác, kẻ cho một cách bất đắc dĩ thì cho một cách miễn cưỡng, bực mình vì phải cho.  Kẻ cho vì bổn phận thì cũng cho một cách miễn cưỡng nhưng lòng nặng trĩu vì bị bổn phận trói buộc. Còn người cho vì tình thương thì tự ý cho và cho thật lòng.
Câu chuyện bà góa trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ tuyệt hảo về sự trao tặng với tâm tình yêu thương trìu mến. Bà cho đi mà không phải vì bị ép buộc hay vì bổn phận thúc đẩy, nhưng với tất cả tấm lòng.
Truyện : Nhường phòng cho khách
Cách đây khá lâu, một đêm kia, có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị mắc phải cơn mưa rào dữ dội. Không thể đi xa hơn nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ về hướng một căn nhà có thắp ngọn đèn lù mù. Khi họ bước vào nhà thì gặp đôi vợ chồng già tay cầm đèn dầu tiến ra cửa. Người thanh niên trình bầy tình trạng khó khăn, đoạn yêu cầu :”Quí ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không ? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được”.
Ngay lúc đó có vài hạt cơm dính trên mái tóc người thiếu phụ mới đến rơi xuống sàn nhà. Đôi vợ chồng chủ nhà  liếc thấy liền đưa mắt nhìn nhau thông cảm. Bà chủ nhà lên tiếng :”Được chứ, các cháu ! Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe khi chồng tôi và tôi dọn dẹp căn phòng  cho tươm tất một chút”.
Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy hai vợ chồng già, họ lặng lẽ mặc quần áo, đoạn họ đặt tờ 10 đôla lên chiếc tủ, rồi nhón chân đi xuống cầu thang. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy  đôi vợ chồng già đang nằm ngủ trên những chiếc ghế dựa.  Té ra cặp vợ chồng già này đã nhường cho đôi tân hôn căn phòng ngủ duy nhất của họ. Chàng thanh niên và cô vợ nén lại vài phút, đoạn anh ta nhón chân quay lên cầu thang và đặt thêm 5 đôla nữa lên chiếc tủ (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr.78).
3.    Cho với tấm lòng chân thành.
Qua nội dung ba bài đọc Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Đức Giêsu gồm ba điểm chính :
a)    Thương thì phải cho, vì yêu là cho đi.
b)    Của cho không bằng tấm lòng người cho.
c)    Chỉ chính cái mình quí nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất.
Ở đây chúng ta chú trọng vào tấm lòng của người cho. Các luật sĩ dâng cúng cho Chúa nhiều thật, nhưng với những ý đồ không tốt. Họ dâng cúng chỉ là để khoe khoang, chứ không với tấm lòng chân thành để dâng kính Chúa vì lòng mến Chúa.  Kiểu dâng cúng như thế cũng đi ngược với tâm lý người Việt nam :”Người ta thèm lòng chứ đâu thèm thịt”(Tục ngữ).
Người Việt nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn như :
                   “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”
          Hoặc :
                   “Cái nết đánh chết cái đẹp’
Gỗ là giá trị chân chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của con người, còn vẻ đẹp duyên dáng bên ngoài là phụ thuộc, chóng phai, chóng tàn. Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng.
Truyện : Người buôn cam
Ngày xưa, ở Hàng châu có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc.
Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà không thèm ? Cơ tôi cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Tôi liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc :
– Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm.
Người buôn cam mỉm cười nói :
– Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Oâng thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Cao Dao, Y Doãn không ? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp hộ hỏng không biết sửa đổi.  Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ hách dịch vô cùng!…
Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bên trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì ? Sao ông không chịu xet những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam tôi “?
Câu chuyện buôn cam trên đây nói lên thực trạng mai mỉa của xã hội ngày nay. Đức Kitô đã nhiều lần lên án gắt gao bọn mũ cao áo dài thể ấy :
Hỡi những kẻ giả hình,
          Các ngươi không khác chi những nấm mồ bôi vôi
          Vỏ ngoài thì xem xinh xắn lắm,
          Nhưng bên trong là thây ma và mọi thứ xú uế.
          Bên ngoài các ngươi có vẻ công chính đối với ngươi ta
          Nhưng bên trong  thì đầy giả dối và vô đạo”
                   (Mt 23,27-28)
Cụ Nguyễn Khuyến thì gọi họ là nộm, hữu danh vô thực :
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
III. BIẾT LẤY GÌ DÂNG CHÚA BÂY GIỜ ?
Mỗi khi đọc câu Thánh vịnh :
Tôi biết lấy gì dâng lại cho Chúa
              Để đền đáp những gì Ngài ban tặng cho tôi.
             Tô xin nâng chén hồng ân cứu độ
             Và kêu cầu danh thánh Chúa.
Chúng ta cảm thấy lòng dạt dào lòng tri ân đối với Chúa vì muôn hồng ân Chúa đã ban tặng cho ta. Nhìn trời, nhìn trăng sao, nhìn đất, nhìn hoa lá cỏ cây… tất cả đều nói lên tình thương yêu của Chúa đối với chúng ta, trong việc tạo dựng mọi sự vật cho chúng ta một cách dồi dào :
                   Chúng tôi xin một bông hoa, thì Ngài cho cả bó,
                   Chúng tôi xin một giọt nước, thì Ngài cho cả đại dương,
                    Chúng tôi xin một hạt cát, thì Ngài cho cả một bờ biển,
                   Chúng tôi xin một lá cỏ, thì Ngài cho cả một bồn,
                   Chúng tôi xin ăn, thì Ngài ban cho cả Thịt Máu Ngài.
                                      (Mark Link)
Trước tình thương bao la của Chúa, chúng ta không bao giờ được trở nên những kẻ vô ơn. Chúng ta phải đáp lại tình thương đó bằng những của hiến dâng xứng đáng được Chúa chấp nhận. Của dâng Chúa phải là những của lễ thơm thảo nhất, thân thiết nhất mà chúng ta dành cho tha nhân.
Văn hào Louis Veuillot khi chết, có để lại một bao thơ dầy cộm với mấy hàng chữ ghi :”Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp cho người nghèo” .
Tư tưởng của Chúa, cách phán đoán và đánh giá sự vật cũng như con người của Ngài không phải là của chúng ta. Ngài thấu suốt tận thẳm sâu tâm hồn. Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài đâu.
Thường người ta thích hình thức hơn là thực chất, thích tự đề cao giá trị thực sự. Trái lại, Thiên Chúa không nhìn diện mạo, y phục, không nhìn vật chất nhưng nhìn vào tâm hồn. Thánh Kinh đã không nói rằng “Người thấu suốt tâm can sao” ? Không thể đánh lừa Ngài được đâu. Vàng quí không phải là thứ vàng giới thiệu trên tay, nhưng là thứ vàng hiện diện trong tâm hồn. : vàng ròng của tình yêu.
Chúng ta hãy theo gương bà góa trong Tin mừng, hãy biết cho đi, cho đi tất cả. Với hai đồng tiền kẽm, bà góa đã cho đi tất cả, trao phó tất cả mạng sống cho Thiên Chúa vì bà tin rằng  Đấng bà tin theo không bao giờ để bà thiệt thòi. Vâng, khi chúng ta cho đi chính là lúc chúng ta nhận lãnh và nhận lãnh càng dồi dào những hồng ân của Thiên Chúa. Một thi sĩ đã gợi cho chúng ta những ý tưởng rất hay :
                             Quà tặng đẹp nhất
                             Cho kẻ thù,  chính là sự tha thứ
                             Cho bạn bè, là sự trung thành
                             Cho các em bé, là những gương sáng
                             Cho một người cha, là lòng tôn kính
                             Cho một bà me,ï là trái tim ta
                             Và cho người lân cận, là đôi tay ta.
                                (Cảm hứng do Francis Balfour)
CHUYỆN ÍT – NHIỀU
Trầm Thiên Thu
Giàu hoặc nghèo đều sinh ra tay trắng
Sướng hay khổ cũng chết vẫn trắng tay
Đó là chân lý bất biến muôn thuở mà ai cũng biết. Sinh ra và lớn lên, cuộc sống mỗi người đều khác nhau về mọi phương diện, nhưng giống nhau về cái khoản “tay không” lúc đến (sinh) và lúc đi (chết), dù cả đời vốn liếng NHIỀU hay ÍT.
Thật “thú vị” với cách nói của người Việt: Giàu sang và nghèo hèn. Ai “giàu” thì thường cũng được coi là “sang”, còn ai “nghèo” thì thường bị coi là “hèn”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”. Điều đó còn tùy nhân cách của người đó. Thể thụ động ĐƯỢC hoặc BỊ của Việt ngữ rất độc đáo – “được” dùng cho cái tốt, “bị” dùng cho cái không tốt, ngoại ngữ không thể lột tả hết tình trạng thụ động như Việt ngữ.
Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!
Trong cuộc sống đời thường, người ta thường khôi hài thực tế: “Đi xe khỏe hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Nhưng thật ra chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng, như một dạng cảnh báo mà thực tế đã chứng minh:
Chớ thấy áo rách mà cười
Những giống gà nòi lông nó lơ thơ
Đề cập động tác “đi” là ngụ ý phải sử dụng đôi chân – theo nghĩa đen. Tuy nhiên, theo nghĩa bóng thì người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi” – nhanh hay chậm không thành vấn đề mà là không “bán đồ nhi phế”, quyết tâm kiên trì tới cùng.
Trình thuật 1 V 17:10-16 cho biết một “sự lạ” về chuyện ít – nhiều khá thú vị thế này…
Vào một ngày nọ, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1 V 17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ KHÔNG VƠI, vò dầu sẽ CHẲNG CẠN, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).
Không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt, bà góa liền làm theo lời ông Êlia nói. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, y như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà tuyên phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn quên mình, trọn lòng yêu thương và bác ái vô điều kiện.
Cách bác ái của bà góa lá cấp độ yêu thương cao nhất, như vậy mới thực sự là bác ái. Bình thường thì chúng ta chỉ ở mức BỐ THÍ (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc CÔNG BẰNG (dư thì cho, thậm chí là cho đồ thừa). Còn BÁC ÁI là CHO CÁI MÀ MÌNH VẪN CẦN, yêu thương vô điều kiện – vì người chứ không vì mình. Người nào thực sự sống đức bác ái mới đúng là thánh nhân. Quả thật, không hề đơn giản như chúng ta tưởng hoặc suy luận!
Đấng yêu thương là Thiên Chúa, luôn chạnh lòng thương xót, động lòng trắc ẩn, và chính Ngài cũng là nguồn sống: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Thật vậy, cũng chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Còn chúng ta? Có thể trả lời ngay và dám trả lời thật?
Đó là tình yêu của Thiên Chúa, và Con-Tim-Yêu của Chúa Giêsu như thế đấy – chúng ta gọi Trái-Tim-Yêu đó là Thánh Tâm, là Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (Ep 2:4), là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10). Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội xa lánh, ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài, nếu không thì chỉ là giả hình, lẻo mép. Sự thật có thể làm “mất lòng” như thế đấy!
Mạnh mẽ minh định, Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Thế nhưng “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a). Hai dạng ít – nhiều khác nhau.
Và rồi Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).
Vậy ai là người trông đợi Đức Kitô giáng lâm? Đó là các tín nhân – những người tín thác vào Chúa. Ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, ai muốn sống đức tin thì phải yêu thương tha nhân. Tuy nhiên, yêu tha nhân không phải là chỉ yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, kể cả kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44), “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em,28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28). Yêu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động cụ thể. Đó là cách thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Ngày xưa, trong một lần giảng dạy, Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ƯA dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, THÍCH được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ƯA chiếm ghế danh dự trong hội đường, THÍCH ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ NUỐT hết tài sản của các bà goá, lại còn LÀM BỘ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Các chữ “Ưa – Thích – Nuốt” đáng quan ngại biết bao! Đọc lời trực ngôn này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không hề liên quan. Nếu thế thì “lầm to”, bởi vì Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ chẳng trừ ai ráo trọi. Có thể chúng ta không tỏ vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, rất khó có thể nhận ra. Và rồi nếu có bị người khác phát hiện thì lại biện hộ với đủ lý do và rất đúng quy trình.
Có thể mỗi nước, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc khác nhau về văn hóa và phong cách, nhưng hẳn là vẫn có “nét” nào đó tương tự. Tại Việt Nam, người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là những người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì với loại áo “đặc biệt” đó?
Người xưa cũng mưu mô đáo để đấy, vạt nào dài và vạt nào ngắn đều có đặc dụng của nó. Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-có-vạt-trước-ngắn và vạt-sau-dài. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,… cần có vạt trước ngắn để không vướng víu, vạt sau dài để che chắn “khu nhạy cảm”. Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-có-vạt-sau-ngắn và vạt-trước-dài. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, truyền lệnh, thị uy, hét ra lửa,… cần có vạt trước dài để che chắn và vạt sau ngắn để không vướng víu.
Và chính mỗi chúng ta cũng thường “sử dụng” hai loại áo ấy để… “đối phó” – nói văn hoa là “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!
Kinh Thánh cho biết rằng, một hôm Đức Giêsu vào Đền Thờ và ngồi đối diện với thùng tiền (hòm tiền, giỏ tiền) dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó thế nào. Có lắm người giàu bỏ thật NHIỀU TIỀN, họ ngó quanh rồi hãnh diện “giơ cao, thả mạnh”. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma, bà lúi cúi đến gần thùng tiền rồi bước đi nhanh, sợ người khác nhìn thấy, bởi vì bà… ngại lắm, thậm chí bà còn “sợ” bị người ta phát hiện mình bỏ ÍT TIỀN vô cái thùng to đùng kia.
[Xin được mở cái ngoặc bé xíu: Theo Hy ngữ, đồng tiền kẽm gọi là “lepton” (số ít, “lepta” là số nhiều). HAI đồng kẽm có giá trị bằng MỘT quadrans, tương đương 1/4 đồng xu Rôma – đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của đế quốc Rôma thời đó. Khi tiền đó được lưu hành ở Palestine, một lepton trị giá khoảng “sáu phút làm công” theo mức lương trung bình mỗi ngày].
Chúa Giêsu quan sát thấy “phong cách” của mỗi người khác nhau, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng NHIỀU hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó nghe! Thế nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ TIỀN DƯ BẠC THỪA của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, TẤT CẢ NHỮNG GÌ BÀ CÓ để nuôi sống mình” (Mc 12:44). Có lẽ vóc dáng của bà không cao lớn nhưnh tấm lòng của bà to lớn quá!
Có thể có những người trong chúng ta vẫn ảo tưởng khi đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi lại chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động. Xét để Sửa là tốt!
Trên website CWN (ngày 29-10-2012) có đăng một tin ngắn về việc TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, CÁC BÍ TÍCH KHÔNG ĐƯỢC CỬ HÀNH ĐỂ LẤY TIỀN. Thương mại hóa sự thánh thiêng là BUÔN THẦN BÁN THÁNH (practice of simony). ĐÓ LÀ TỘI LỖI”. Một giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Thiên Chúa, chỉ vì lợi ích cho chính Thiên Chúa và nhân dân của Ngài. Tin tức đã cũ nhưng ý tưởng vẫn luôn mới nguyên!
Quả thật, đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “tự xét mình” một cách nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử – vì lúc đó không thể chấn chỉnh chi được nữa!
Lạy Thiên Chúa muôn trùng cao cả, con thành tâm xin lỗi Chúa, xin giúp con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau của những con người hèn mọn hằng ngày ở xung quanh con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay, tất cả chỉ để vinh danh Chúa chứ không vì tiếng tăm riêng đời này, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của con ngay ở đời này. Ngài ở đâu thì xin cho con cũng được ở đấy. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_B
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có hai hình ảnh cực kỳ đối chọi với nhau.
– Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh về những người luật sĩ: Họ rất cao sang, vinh dự với áo thụng, với chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Cứ bề ngoài mà xét thì xem ra họ là những người rất đạo đức, rất tốt. Có lẽ có nhiều người cũng mong có được cuộc sống như vậy.
– Hình ảnh thứ hai là hình ảnh một bà góa: Bà rất nghèo. Vì nghèo cho nên chẳng được ai để ý tới. Bà cũng chẳng có áo thụng, thứ áo dài quét đất, có tua, mặc vào để nhắc nhớ mình là tuyển dân của Thiên Chúa. Vì nghèo cho nên cũng chẳng có bao giờ bà có được một chỗ tốt nơi công cộng, chẳng được ai để ý đến mà chào hỏi. Thông thường thì có lẽ chẳng mấy ai mong muốn phải sống nghèo như thế.
– Bây giờ chúng ta xem cách nhìn của Chúa. Chúa thấy gì qua những hình ảnh đó. Rõ ràng là cái nhìn của Chúa không giống với cái nhìn thông thường của con người. Những người luật sĩ  rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất…người ta thì thấy như thế là sang, là đẹp….còn Chúa thì Chúa lại thấy đó chỉ là cái vỏ bên ngoài, nhưng ẩn sâu dưới cái vỏ đó là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối. Có lần Chúa bảo “họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát rất đẹp nhưng bên trong toàn là mùi xú uế bẩn thỉu”
Ngược lại người đàn bà góa bụa nghèo khó…bên ngoài chẳng bằng ai, không có gì để lôi cuốn, để hấp dẫn. Và thông thường thì có lẽ cũng chẳng có mấy ai ưa chuộng cuộc sống như thế. Thế nhưng đối với Chúa thì lại khác. Bà góa ấy tuy nghèo tiền nhưng lại rất giàu lòng. Bà dám làm những việc mà ít ai dám làm: dâng cho Chúa cả sự sống của bà. Chúa Giêsu khen ngợi cuộc sống đó. Đối với Chúa đó là cuộc sống rất đẹp. Chính vì nó đẹp cho nên Chúa mới gọi các môn đệ lại và bảo họ phải noi gương.
BÀI HỌC
Qua câu chuyện của bà góa nghèo Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Có rất nhiều bài học chúng ta có thể rút ra từ câu chuyện đầy ấn tượng này, nhưng ở đây tôi chỉ xin gợi lên mấy điều tôi tưởng là rất cần cho chúng ta..
Trước hết câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với Chúa và Giáo Hội. Bà góa rất nghèo nhưng bà đã ý thức được bổn phận của mình đối với Chúa, với cộng đoàn. Bà đã sãn sàng hy sinh, hy sinh cả sự sống của mình để giúp Giáo Hội.
Ông Sam Jones một nhà truyền giáo rất nổi tiếng, một lần kia gặp một tín hữu lúc nào cũng than van về những khoản ông phải đóng góp.
– Thưa ngài, tôi phải đóng góp cho Hội Thánh nhiều quá.
– Bao nhiêu?
– 5 USD một năm.
– Thế ông theo Chúa bao lâu rồi?
– Đã 4 năm.
– Trước khi theo Chúa ông làm gì?
– Tôi nghiện rượu.
– Mỗi năm ông uống hết bao nhiêu tiền?
– Chừng 250USD
– Khi ấy ông có ruộng đất gì không?
– Tôi mướn đất cày bừa với một con bò
– Bây giờ ông có gì không?
– Tôi có một khu ruộng và một đôi ngựa cày.
– Trước kia ông cho ma quỉ mỗi năm 250USD để được cày trên một thửa ruộng đi thuê muớn với một con bò. Nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, ông chỉ dâng cho Ngài 5USD một năm để được cày ruộng của mình với một đôi ngựa. Vậy mà ông còn kêu là nặng nề ư? Ông là người bội bạc từ đỉnh đầu cho đến bàn chân!
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng như vậy. Chúng ta nhận được từ Chúa và Giáo Hội quá nhiều nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta nghĩ tới bổn phận chúng ta phải xây dựng Giáo Hội bằng những hy sinh của chúng ta không?
Cách dâng cúng đẹp lòng Chúa.
Thứ đến: Chuyện bà góa làm tôi phải giật mình. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, có khi ít mà là nhiều. Nhiều người dâng những số tiền rất lớn. Xem ra là rất nhiều nhưng Chúa lại bảo là ít vì họ dâng những cái dư thừa. Ngược lại một bà góa, bà chỉ bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là lepton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng tiền có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Thế nhưng Chúa Giêsu lại nói phần đóng góp đó là nhiều hơn tất cả mọi người khác, và Chúa cắt nghĩa: vì những người khác bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi bà góa nghèo này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Nhiều đối với Chúa không phải ở số lượng bỏ ra mà là ở tấm lòng và sự hy sinh của người dâng hiến.
Ngày xưa, lâu lắm rồi, một ông vua ở Ấn Độ, mời Đức Phật vào cung làm lễ. Hôm ấy vua cho đốt rất nhiều đèn dầu trong cung nhất là dọc theo hành lang từ cung vua đến cung Phật ở. Lúc đó có một bà góa nghèo khó cũng muốn dâng lên Đức Phật ngọn một ngọn đèn dầu, nhưng không làm sao có tiền để mua. Bí quá Bà phải đi ăn xin suốt một ngày ròng, khắp kinh đô…mãi đến tối mới được hai đồng. Bà dùng hai đồng đó…. tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên Phật. Bà khấn: “Nếu đời sau con được thành đạo, thì xin ngọn đèn này được sáng suốt đêm mà không tắt”.
Sáng hôm sau, khi một nhà sư lên cung Phật đi tắt đèn thì thấy mọi ngọn đèn của vua đã tắt tự bao giờ, riêng dĩa đèn của bà ăn xin vẫn tỏa sáng ngời ngợi, không làm cách nào tắt được. Nhà sư thấy sự lạ, lên thưa với Đức Phật. Người bảo: “Bà cụ tâm thành tu thân tích đức, về kiếp sau sẽ trở thành Phật Như Lai”.
Vua nghe chuyện, hỏi một vị quan trong triều, tại sao vua cúng đèn nhiều như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão chỉ dâng có một ngọn đèn? Quan đáp: “Bởi vì bà của ít lòng nhiều, bà dâng có một dĩa đèn, nhưng tấm lòng bà thành kính thiết tha”.
Câu truyện tình tiết xem ra có hơi khác nhưng nội dung sao mà giống với truyện của bà góa quá. Xem ra đạo nào cũng thế. Chân lý chỉ có một.
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
NGHÈO MÀ HẠNH PHÚC
Anna Cỏ May
Được sống trong nhà cao cửa rộng, đầu đủ mọi tiện nghi, có một công việc thuận lợi là điều ai cũng mong ước. Nhưng liệu đó có phải là hạnh phúc thật không? Hạnh phúc không chỉ đến từ việc lãnh nhận hay sở hữu nhưng hạnh phúc còn đến từ sự chia sẻ, trao ban.
Hôm nay, Tin Mừng theo Thánh sử Mác cô đã cho chúng ta một hình ảnh tuyệt đẹp về sự dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của một người nghèo. Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài thấy có lắm người giàu có bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, giá trị một phần tư đồng tiền Rôma (x.Mc 12, 41-42). Ngài đã thấy nhiều người cùng chung một hành động là bỏ tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Thế nhưng giá trị đồng tiền lại khác nhau. Những người giàu có bỏ vào số tiền dư thừa nhưng bà goá nghèo chỉ bỏ một đồng tiền nhưng lại là cả một gia tài đối với bà. Bà bỏ đồng tiền của mình một cách không chần chừ và với niềm tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa. Bà không có ai chăm sóc, phải tự nuôi sống mình, phải tiết kiệm dành dụm nên bà đã dùng tiền đó để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Bà biết mình không còn sống được bao lâu ở trần gian, chỉ còn hy vọng là sống hạnh phúc trên Nước Trời. Bởi vậy, Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì nuôi thân” (Mc 12, 43-44).
Ngày nay, có nhiều kiểu người giàu. Người giàu trong sự chắt chiu và tiết kiệm; có người giàu nhờ sự bất chính trong làm ăn nhưng cũng có người giàu trong sự công chính. Có rất nhiều người giàu biết chia sẻ tinh thần Phúc Âm, là yêu người thân cận như chính mình (x.Mc 12, 31). Song, cũng có người chia sẻ với mọi người vì hư danh giữa đời. Vậy người giàu nào sẽ vào Nước Trời? Ngược lại người giàu có là những người nghèo. Có người nghèo vật chất lẫn tinh thần nhưng có người nghèo vật chất nhưng lại quảng đại bao dung với người nghèo và cần nhu cầu hơn mình. Cái nghèo vật chất không đáng sợ cho bằng cái nghèo Nước Trời. Bà goá nghèo đã đón nhận cái nghèo và sự cô đơn ở trần gian nhưng bên trong tâm hồn bà lại là một sự giàu có Nước Trời. Trong Tám mối phúc, Chúa Giê-su đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Bà goá nghèo đã hưởng trọn mối phúc chúc lành của Chúa Giê-su.
Lạy Chúa, cuộc sống khác biệt giữa người giàu và người nghèo luôn tiếp diễn. Hạnh phúc ảo và hạnh phúc thật vẫn còn đó. Xin cho mỗi người chúng con biết đón nhận cuộc sống hiện tại của mình. Dù nghèo hay giàu, xin cho chúng con cũng biết tin tưởng, phó thác và thực thi tinh thần Phúc Âm là mến Chúa yêu người. Amen.
HIẾN DÂNG TÌNH YÊU
Bông hồng nhỏ
Người ăn xin bước tập tễnh trên con đường bụi mù mịt, tay cầm cái nón lá, lấy chút gió mát giữa trưa hè nóng nực. Người thanh niên vai mang balô đạp xe qua. Thấy ông, anh dừng xe lại, mở balô như muốn tìm kiếm thứ gì. Người ăn xin như chờ một vận may.
•    Thưa ông. Cháu chỉ có chai nước này, ông uống cho mát ạ.
Nói rồi anh nở nụ cười dễ mến, nhìn ông. Ông đưa tay đón lấy, rồi mở nước uống vài ngụm.
•    Cám ơn cậu! Cậu đã cho tôi thứ tôi cần nhất lúc này.
Giá trị của lòng bác ái không hệ tại ở vật chất được trao ban nhưng hệ tại ở tình yêu được trao tặng.
Trong âm thanh rộn ràng của những đồng tiền dâng cúng bỏ vào hòm, bước chân rộn rã của những người vào Đền Thờ, Thầy Giê-su chọn một chỗ ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ở đây, Thầy lặng lẽ quan sát cách người ta bỏ tiền vào thùng. Trong đám đông, có một người rất đặc biệt, đó là một bà goá nghèo. Bà này bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, giá trị một phần tư đồng xu Rôma (x.Mc 12, 42). Thầy gọi các môn đệ lại gần để xem, dạy các ông biết đâu là lòng yêu mến Thiên Chúa thật sự. Các kinh sư luôn cầu nguyện lâu giờ, nắm rõ Lề Luật nhưng họ lại sống xa rời Thiên Chúa. Họ đã không yêu mến Thiên Chúa thật tâm. Bởi vậy, Thầy Giê-su đã lên án họ và dạy các môn đệ của mình phải coi chừng lối sống ấy. Còn bà goá nghèo tuy chỉ bỏ vào hai đồng tiền kẽm để dâng lên Thiên Chúa nhưng lại được Thầy Giê-su khen ngợi và lấy làm gương cho các môn đệ. Điều quan trọng không phải là số tiền ta đã dâng cúng nhiều hay ít, công trạng ta lập được ra sao nhưng điều cần thiết nhất và quan trọng nhất là ở lòng mến Chúa. Nếu ta dâng cúng thật nhiều tiền, bố thí thật nhiều tiền để cho người khác biết, chỉ ham hư danh thì tất cả những điều ta làm đó chẳng là gì cả, vì ta đã chẳng có lòng mến Chúa và yêu người thật sự. Thế nhưng, trong hoàn cảnh túng thiếu của mình, ta vẫn quảng đại dâng lên Thiên Chúa với lòng yêu mến chân thành thì Thiên Chúa đã chúc phúc cho ta. Ai biết phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa thì sẽ tìm được hạnh phúc trong chính tâm hồn mình.
Bà goá nghèo đã bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Trong cái nghèo của mình, bà có thể giữ cho mình chút tiền ít ỏi ấy để sống qua ngày. Thiên Chúa biết rõ tình trạng của bà và Ngài sẽ chẳng trách tội. Nhưng chính lòng quảng đại của bà, niềm phó thác trọn vẹn cả cuộc sống và sự sống của mình nơi bà đã trở thành của lễ tuyệt đẹp dâng lên Thiên Chúa. Bà nghèo thật nhưng bà rất giàu tình yêu. Ta có giàu tình yêu Chúa như bà goá nghèo không? Ta có dâng tất cả tài sản, tất cả cuộc sống, và dâng cả sự sống mình cho Thiên Chúa?
Lạy Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu! Cảm tạ Chúa đã cho con diễm phúc được làm con của Chúa, được sống trong tình yêu quan phòng của Chúa. Phận làm con, con phải thờ phượng và kính mến Chúa trên hết mọi sự. Xin cho con biết yêu mến đời sống cầu nguyện, khao khát làm đẹp lòng Chúa và nhất là, xin cho đời sống của con được thống nhất. Xin cho con nhớ rằng chính lúc con yêu thương anh chị em mình là lúc con đang thờ phượng Chúa và làm vinh danh Chúa. Con xin hiến dâng chính mình con cho Chúa. Amen.
Ở ĐỜI QUÍ NHẤT TẤM LÒNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ai cũng biết dâng cúng là sẻ chia, là cho đi một phần những gì mình có. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại lời Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ : “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35), nhưng để trở thành phúc nhân, cầu phải cho đúng cách mới mong có cái kết hậu thì không phải ai cũng biết và thực hành.
Người xưa cũng khái quát được vấn đề bằng câu “Của cho không bằng cách cho”. Quả thật, trước khi cho đi ta phải nghĩ đến “của cho” và “cách cho”. “Của cho” xét cho cùng không quan trọng bằng “cách cho”. Cho thế nào để nói lên tấm lòng chân thành của mình và nhất là làm cho người nhận cảm thấy vui lòng. Đặc biệt đối với Chúa, tấm lòng chân thành dâng hiến luôn được Chúa coi trọng: “Ta muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ”.
Cho đi là quý nhưng không phải cho suông mà cho với cả tấm lòng. Một cuộc đời biết cho đi là một cuộc đời hạnh phúc. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mức độ và cách thức chúng ta trao ban cho tha nhân những gì mình có. Sống vì và sống cho người khác là cách làm tăng trưởng nhân cách và phẩm giá của mỗi người. Cho đi là cả một nghệ thuật mà chúng ta cần phải trau dồi cho bản thân mỗi ngày. Thế nhưng, cho đi cái gì và cho như thế nào lại là một vấn nạn. Học biết cho đi đã khó, nhưng học biết cách thức cho đi lại càng khó khăn gấp bội.
Bà goá ở Xarepta có vẻ miễn cưỡng phải cho, bà ngập ngừng, lúng túng trước lời xin của Êlia, hoàn cảnh khốn khổ của bà làm cho bà khó làm phúc. Nhưng rồi cuối cùng bà cũng dám cho đi cái phần để nuôi sống mẹ con bà với tấm lòng tin tưởng phó thác và đầy tôn trọng đối với người xin bà. Còn bà goá nghèo được Tin mừng nhắc đến hôm nay có một thái độ rất anh hùng. Chúa Giêsu đã đề cao bà như một gương mẫu cho chúng ta về cách cho đi mà không tính toán, để các môn đệ cũng như chúng ta ngày hôm nay noi gương bắt chước học đòi.
Câu hỏi được đặt ra : Các bà góa nghèo đã dâng gì và dâng như thế nào ?
Tin Mừng theo thánh Marcô thuật lại cho chúng ta câu chuyện diễn ra trong Đền thờ Giêrusalem nơi dân chúng bỏ tiền dâng cúng. Có nhiều người giàu bỏ bao nhiêu đồng tiền, song có một góa phụ nghèo, chỉ bỏ hai đồng xu nhỏ. Chúa Giêsu quan sát kỹ lưỡng người đàn bà ấy và Người lưu ý các môn đệ về sự tương phản trong cảnh tượng này. Chúa Giêsu nói, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết, bà tuy thật túng thiếu, nhưng đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Còn những người khác rút từ túi mình tiền dư bạc thừa của họ mà dâng cúng. Vậy là thước đo không phải là số lượng nhưng là với cả tấm lòng thành. Đây không phải là vấn đề ví tiền, nhưng là con tim, là tấm lòng. Có sự khác biệt giữa ví tiền và con tim.
Những người giàu có khoa trương cho đi những điều dư thừa, trong khi bà góa, kín đáo và khiêm tốn, do sự nghèo khó cùng cực của bà, lẽ ra bà có thể chỉ cúng một đồng cho Đền thờ và một đồng kia giữ lại cho mình. Nhưng bà không muốn kiểu sống nửa với, nghĩa là dâng cho Thiên Chúa nửa chừng; bà dâng tất cả. Vì thế, Chúa Giêsu nói, bà đã cho nhiều hơn tất cả những người khác. Trong sự nghèo khó của mình, bà hiểu rằng, có Chúa là có tất cả; bà cảm thấy được Chúa hoàn toàn yêu thương và đáp lại bà yêu Chúa trọn vẹn. Gương của bà già ấy mới đẹp làm sao!
Kinh nghiệm cho thấy có những khi chúng ta cho đi, nhưng người khác lại không đón nhận, hoặc có lúc người ta đón nhận nhưng chỉ đón lấy trong sự ép buộc chứ không mấy vui vẻ. Thành thực mà nói, nhiều khi ta trao tặng mà người kia không đón nhận, có lẽ không phải vì món quà không có giá trị, nhưng vì cách thức chúng ta cho đi có vấn đề. Chúng ta hãy cho đi bằng tất cả tấm lòng và hãy học cách cho đi như chính Đức Giêsu đã cho đi.
Nhìn lại trong dòng lịch sử, không có ai có cách cho đi đẹp cho bằng Đức Giêsu. Người đã cho đi tất cả kể cả mạng sống của mình chỉ vì yêu thương nhân loại. Sự trao hiến của Người là một sự cho đi đến tận cùng, một sự cho đi không tính toán. Người không những cho đi chính mình mà còn dạy cho nhân loại chúng ta biết nghệ thuật của sự cho đi. Có thể nói, cả cuộc đời Đức Giêsu là một lời giáo huấn liên tục về sự cho đi và cách thức cho đi.
Như thế, kim chỉ nam của sự cho đi chính là sự chân thành phát xuất từ một con tim biết cảm thông và yêu thương. Một khi chúng ta biết cho đi bằng cả tấm lòng thì chắc chắn món quà của chúng ta sẽ được người khác đón nhận với tất cả lòng biết ơn và lòng cảm mến. Nghệ thuật cho đi là bài học chúng ta cần trau dồi mỗi ngày hầu có thể hoàn thiện bản thân và đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho tha nhân.
Xin Chúa giúp cho chúng ta hiểu rõ giá trị của sự cho đi với tấm lòng quảng đại theo gương Chúa. Hãy quảng đại đối với Chúa và mọi người để được hưởng tấm lòng quảng đại của Chúa dành cho chúng ta. Amen.
SỐNG ĐỨC ÁI VẸN TOÀN
Lm. Jos. DĐH.
Trong ứng xử hàng ngày, ít nhiều chúng ta cũng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm khá chủ quan: đàn bà rậm tóc thì sang, đàn ông rậm tóc chỉ toan nặng đầu ; khô chân gân mặt, đắt tiền cũng mua ; chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy. Xã hội từ xa xưa vẫn kính trọng người tài đức, vị nể các đại gia, sợ kẻ quyền thế, chính sự tương đối về hình thức, nội dung, hay giá trị của “phẩm và lượng”, vẫn đầy nguy cơ làm sai lệch đi tính chuẩn mực khách quan. Hình dáng diện mạo, bằng cấp trình độ, phong cách sống, hoặc mục đích hướng tới, cũng chỉ là nét đẹp bên ngoài so với sự xinh đẹp an bình trong tâm mỗi người. Thật giả lẫn lộn, tốt xấu, không dễ kiểm chứng, cũng vì vậy mà bậc sinh thành thường nhắc con cháu lưu ý đến thời gian: thức khuya mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân.
Bầu khí đến trường của học sinh sinh viên có phải là đến lĩnh hội kiến thức, hay chỉ là đến cho hết ngày hết tháng hết năm ? Khởi đầu ngày mới, ai cũng có quyền mơ ước thành công, niềm vui, hạnh phúc, điều đó sẽ tuỳ vào cách sống, ý chí quyết tâm của mỗi người. Hàng ngày, hàng tuần, người kitô hữu chúng ta đến nhà thờ cầu nguyện, xin ơn, tạ ơn, nhưng đâu phải là không có tình trạng đến vì thói quen, đến với Chúa, gặp Chúa hay không, vấn đề lại phức tạp hơn nhiều ! Trước khi nói tới việc sống đức ái, Chúa Giêsu cảnh giác đám đông về tính chất thật giả, cái đẹp bắt mắt, đáng sợ: ăn mặc diêm dúa, phung phí tài sản công, phóng khoáng trong suy nghĩ, ưa chuộng hình thức bề ngoài.
Xã hội thời nào cũng kêu gọi tấm lòng vàng, đề cao chữ tình chữ nghĩa, hãy chung sức chung lòng xoá đói giảm nghèo, sống công bình, chống tham nhũng, chủ trương dân giầu nước mạnh, loại bỏ những phần tử tiêu cực, thích an nhàn, thụ hưởng,.. Nối tiếp truyền thống: giầu tình giầu nghĩa mới cho là giầu, Chúa Giêsu chỉ dẫn các môn đệ sống niềm tin cụ thể rõ ràng, sống yêu thương như bà goá nghèo. Phép tính “cộng trừ”, mọi người đều thuần thục từ khi có trí khôn, còn phép tính về “đức ái, đức độ”, giầu tình, giầu nghĩa”, Chúa Giêsu mời gọi con người hãy “học và hành” theo tinh thần của bà goá. Của cho không bằng cách cho, lời chào cao hơn mâm cỗ, chúng ta đã nghe, còn “tấm lòng” vĩ đại của bà goá lớn hơn mọi giá trị vật chất tiền bạc, hẳn chúng ta chỉ rõ khi Chúa Giêsu khai thông.
Kinh nghiệm của người xưa cho rằng: thừa tiền thì đem mà cho, đừng đi xem bói đem lo vào mình. Còn các triết gia lại quả quyết: lòng tốt là một vòng tuần hoàn, khi trao ban, nó sẽ trở về với bạn, khi gieo hạt giống lương thiện, nó sẽ cho hoa thơm trái ngọt. Chúa Giêsu không đóng khung lòng tốt, không văn hoa mỹ từ, trau chuốt câu cú vần điệu, Ngài cho thấy tấm lòng vàng khởi đi từ việc biết sống trọn vẹn đức ái. Tính cao đẹp của người goá phụ nghèo không phải vì bà có hai đồng tiền giá trị hơn người, mà do cách sử dụng số tiền đó trọn vẹn với cả trái tim của bà. Chúa Giêsu không khiển trách người ta công đức ít hay nhiều, không khen hai đồng xu, Ngài khích lệ mọi người đừng ngại sống đức ái chân thật với anh chị em của mình.
Đường đông phố vui mà sao vẫn buồn, tài cao đức lớn, sẻ chia tiền của nhiều như các đại gia, cho đi không tiếc như các luật sĩ biệt phái, thế mà Chúa không động lòng ! Trong khi nỗi cô đơn của một goá phụ, với hai xu bé nhỏ tưởng không thuyết phục được ai, ấy vậy mà Chúa rất vui, Ngài lý giải cho thấy tấm lòng của goá phụ đó thật sống động. “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”. Điều hết sức ngạc nhiên là người lắm tiền nhiều của, người ăn mặc sang trọng, người đọc kinh cầu nguyện nhiều giờ, Chúa không khen, Ngài lại chú ý đến người phụ nữ nghèo hèn, chỉ với số tiền nhỏ bé, bà goá đã cho đi với cả tấm lòng thành.
Sống đức ái vẹn toàn, sống tinh thần người môn đệ Đức Kitô, sống trọn vẹn ơn gọi làm công dân nước Chúa, thật là khó, làm sao ta có thể hoàn thành sứ mạng bằng khả năng công sức của mình ? Sống đức ái là sống hết tình, hết mình, sống như chỉ có hôm nay là ngày cuối, sống bằng niềm tin được chia sẻ của người goá phụ: thương nhau nước đục cũng trong, ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ !  Giầu nghèo, tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, kẻ thánh thiện người tội lỗi, chúng ta phân biệt, nhìn thấy, xã hội con người cần chúng ta chia sẻ, hành động cứu giúp các anh chị em có hoàn cảnh đáng thương. Chúa cần chúng ta có tấm lòng, cần mỗi chúng ta luôn sống tình nghĩa, cũng là sống đạo làm người, sống đạo làm con Chúa cách trọn vẹn với một tình yêu cụ thể chân thành. Amen.
LÀM VIỆC NHỎ VỚI MỘT TÌNH YÊU LỚN
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su quan sát những người bỏ tiền dâng cúng cho đền thờ. Ngài thấy có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào hòm tiền hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân.
Lễ vật của bà tuy bé mọn nhưng gói ghém rất nhiều tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giê-su cho rằng bà goá nầy đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn tất cả những người khác, vì tuy họ bỏ nhiều tiền nhưng không nhiều tình yêu.
Giá trị của một món quà
Đối với Chúa Giê-su, giá trị của món quà không tuỳ vào giá mua của món quà đó nhưng tuỳ vào mức độ yêu thương mà người cho đặt vào trong món quà. Giá trị của một món quà có thể tăng lên nhiều lần nếu món quà đó được trao ban với tấm lòng yêu thương và trân trọng.
Nếu có ai đó nài xin ta một số tiền mà ta chẳng muốn cho, nhưng vì người ấy cứ nài nỉ mãi khiến ta bực mình nên cuối cùng, để tống cổ người đó đi, ta đem cả cọc tiền lớn, bực bội ném cho người ấy và nói: “Tiền đây! Lải nhải hoài!” Chắc chắn người kia, dù nghèo thiếu đến mức nào đi nữa, sẽ quay mặt bỏ đi, mang theo một mối căm hờn.
Trái lại, khi đứa con nhỏ trong nhà muốn mừng kỷ niệm hôn phối ba mẹ mà chẳng có gì để dâng, em lặn lội vào rừng ngắt một bông hoa dại nhỏ bé, đem về dâng lên ba mẹ với tất cả tình yêu thương. Chắc chắn ba mẹ em rất cảm động vì cảm nhận được nhiều yêu thương chứa đựng trong món quà bé nhỏ nầy.
Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa không phải là dâng cho Ngài nhiều món quà lớn nhưng là dâng tình yêu lớn. Dâng cho Thiên Chúa những món quà lớn hay những thành quả lớn lao vĩ đại mà thiếu vắng tình yêu, thì lễ vật đó sẽ trở thành trống rỗng và chẳng có giá trị gì.
Thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, từng khẳng định cách mạnh mẽ điều nầy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (I Cr 13, 1-3).
Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn
Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cảm nhận sâu sắc bài học trên đây của Thánh Phao-lô nên mẹ không chủ trương làm những công việc to lớn, nhưng thường xuyên làm những việc nhỏ với tình yêu lớn. Mẹ còn nói: “Chúng ta không thể làm những việc lớn lao, nhưng chúng ta có thể làm những việc nhỏ với tình yêu lớn lao.”
Trong bức thư gửi cho đấng đáng kính là cố Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận, mẹ Tê-rê-xa viết: “Điều đáng kể không phải là số lượng công việc ta làm, nhưng là mức độ yêu thương mà ta đặt vào trong mỗi công việc.”
Thế nên, khi tiếp xúc với bất cứ ai, mẹ Tê-rê-xa đem hết lòng yêu thương người ấy như thể đó là người mà mẹ yêu thương nhất đời.
Cảm hứng từ bức thư trên đây của mẹ Tê-rê-xa Calcutta, đấng đáng kính Fx Nguyễn Văn Thuận quyết tâm “thực hiện từng công việc nhỏ bé hằng ngày, từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với tình yêu lớn” và biến những phút sống hiện tại thành những giây phút đẹp nhất cuộc đời, như ngài viết: “Tôi quyết sống từng giây phút hiện tại và đong đầy tình thương vào đó” và ngài quyết định: “Tôi sẽ nắm lấy những cơ hội đến với tôi mỗi ngày, để làm những việc bình thường một cách phi thường” (Trích: “Năm chiếc bánh và hai con cá”).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con tài hèn sức yếu nên không thể làm được những việc lớn lao phi thường, tuy nhiên chúng con có thể làm cho Chúa vui lòng nếu chúng con biết làm những việc nhỏ với tình yêu lớn.
Xin giúp chúng con chú tâm thực hành những việc nhỏ như chăm sóc, thăm hỏi nhau và làm những việc bổn phận hằng ngày… với một tình yêu lớn; nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ trở thành của lễ thánh thiện tỏa ngát hương thơm dâng lên ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Đức
            Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Cuộc sống có nhiều thứ không như chúng ta tưởng. Có những thứ nghịch nhưng lại thuận, thuận nhưng lại nghịch, nhỏ mà lại lớn, ít mà dồi dào… Có một ví dụ thú vị mà các triết gia đã tốn nhiều thời gian công sức để phân định xem, đó là ví dụ Một ly nước là “bị cạn một nửa” hay là “được đầy một nửa”. Cũng một ly nước, đối với người bi quan thì cho rằng: ly nước bị cạn một nửa và họ lo sợ ly nước đó sẽ tiếp tục cạn thêm; trong khi đó, người lạc quan thì cho rằng: Ly nước được đầy một nửa và họ còn hy vọng ly nước đó sẽ được đổ thêm cho đầy tràn hơn. Cái chuyện ly nước trong mắt người bi quan sẽ không bao giờ đầy hay trong con mắt của người lạc quan thì ly nước ấy sẽ không bao giờ bị cạn đi dù vẫn là một ly nước, điều này để cho thấy rằng: Quan điểm hay cái thế giới quan là điều khó thay đổi vì nó chính là lăng kính mà chúng ta, qua đó, nhìn mọi sự vật, sự kiện xảy ra chung quanh. Thông thường thì người ta nhìn nhận theo những gì mà người khác cho nó là…, hoặc nhìn nhận chỉ theo cái óc cá nhân của mình mà thôi. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại chỉ cho chúng ta một cách nhìn mới, một cách nhận định mới, một cách đánh giá mới, mặc dù nói là mới nhưng nó cũng đã cũ, cũ đến nỗi không còn ai quan tâm đến và đã quên lãng nó.
Trước hết, Chúa Giêsu đã nhìn những người biệt phái và kinh sư. Các biệt phái và kinh sư là những giới thượng lưu trong dân và họ rất có uy tín trước mặt dân chúng. Thế nhưng Chúa Giêsu đã nhìn và đã thấy. Ngài thấy cái sự giả tạo, cái phù phiếm lừa bịp của họ. Ngài thấy cái Giàu của giới thượng lưu này nhưng họ đã Sống Hèn. Sống Hèn vì cái thói đạo đức giả kia. Sống Hèn vì họ luôn khoe khoang và đầy tham vọng. Những lời cầu nguyện lê thê kia cũng là cách để che đậy tội lỗi của họ và để phỉnh lừa dân chúng mà thôi. Họ sống hèn vì nơi họ đầy sự bất công, bóp chẹt, và ngốn tất cả những gì mà những bà goá nghèo nàn có được.
Và Chúa Giêsu lại nhìn. Ngài nhìn gì? Ngài nhìn thiên hạ bỏ tiền dâng cúng vào hòm. Ngài thấy gì? Ngài thấy một bà goá nghèo đã bỏ vào hòm tiền ấy chỉ có hai đồng xu, đó là tất cả số tiền có được để chi tiêu cho một ngày sống của kẻ nghèo khó, già nua, goá buạ. Có thể ai cũng thấy bà goá này đã bỏ hai đồng xu, một số tiền dâng cúng “quá bèo”, quá ít, và có thể họ đã khinh bỉ bà. Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn và đã thấy. Thấy kẻ giàu có cho đi “cái sự dư thừa” của họ. Ngài thấy người goá phụ bần cùng, lại cho chính cái mình đang cần đến nhất. Bà đã cho đi, cho những đồng tiền ít oi để nuôi sống bà, thì cũng có nghĩa là bà đã cho đi cả sự sống của mình, cho đi chính bản thân mình. Bà đã cho đi tất cả để rồi bà sẽ nhận lại được tất cả.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Chắc hẳn rằng Lời Chúa hôm nay đã đụng đến sự thật nơi con người chúng ta. Chúng ta đừng tưởng rằng Chúa chỉ lên án những luật sĩ, biệt phái giả hình kia mà thôi còn tôi thì không. Không! Ngài đã chẳng nói thẳng với mỗi người chúng ta đó sao? Có thể chúng ta không có vẻ vênh vang ra mặt, nhưng tự thẳm sâu con người chúng ta lại đầy sự kiêu căng, ta đây. Nó tồn tại một cách tinh vi mà bên ngoài khó có thể nhận ra được. Còn về chuyện bà goá nghèo được Chúa khen, chắc có lẽ chúng ta cũng vui vì nghĩ rằng Chúa cũng khen mình vì những công việc như  từ thiện hoặc những công việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng hãy coi chừng có thể đó cũng chỉ là một chiếc áo tàng hình để che lấp cái ý không tốt của ta mà thôi. Nếu thực sự chúng ta không biết cho đi, cho đi cả tấm lòng, cho đi cả sự yêu thương, cho đi cả con người mình, thì những việc làm kia cũng chỉ là một sự giả tạo mà thôi.
Và ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng hãy biết nhìn xuyên qua lăng kính cá nhân ích kỷ của mình để mình sẽ thấy: thấy cái giả – cái thật, thấy cái Giàu – cái Nghèo, thấy cái Sang và cái Hèn nơi bản thân mình và nơi tha nhân. Để qua đó chúng ta hoán cải và sửa đổi chính mình, để mình trở nên là mình trong sự thật và trong sự giàu sang đích thực trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. Amen.
HŨ ÂN SỦNG KHÔNG VƠI, VÒ ĐỨC TIN KHÔNG CẠN
 Lm. Bosco Dương Trung Tín
  “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét”  (Dt 9,27)
  Phận con người là phải chết một lần. Điều đó cũng có nghĩa là ta cũng chỉ sống có một lần trên trần gian này. Con người ta, nhất là bên Đạo Phật, người ta tin có luân hồi, tin có kiếp trước, kiếp sau, nhưng người công giáo chúng ta, theo lời Chúa dạy, chúng ta chỉ sống có một lần, chết một lần; sau đó là chịu phán xét.
  Sau khi phán xét, một là ta được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời, nếu ta sống tốt lành và thánh thiện; hai la ta phải xuống hỏa ngục đời đời kiếp kiếp, nếu ta sống gian ác và xấu xa. Điều đó xảy ra vào ngày sau hết. Lúc này không có luyện tội nữa. Đó gọi là phán xét chung.
  “Phán xét chung sẽ diễn ra khi Đức Ki-tô quang lâm. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ; chỉ một mình Người quyết định khi nào sự kiện này sẽ xảy ra. Người quyết chung thẩm về toàn bộ lịch sử. Bấy giờ chúng ta sẽ thông hiểu ý nghĩa tối hậu của toàn bộ công trình sáng tạo, mầu nhiệm cứu độ và những con đường kỳ diệu Thiên Chúa quan phòng đã dẫn dắt mọi sự đến cùng đích tối hậu của chúng. Phán xét chung cho ta thấy Chúa công chính sẽ chiến thắng mọi bất chính của thụ tạo và tình yêu của Người mạnh hơn sự chết” (GLCG, số 1040).
  Cuộc phán xét chung này là một Sứ Điệp, gởi đến con người chúng ta. “Sứ điệp về phán xét chung mời gọi con người sám hối, trong khi Thiên Chúa còn cho “thời gian thi ân, thời gian cứu độ” (x. 2Cor 6,2). Sứ điệp này nhắc nhở chúng ta kính sợ Thiên Chúa, khuyến khích ta dấn thân cho sự công chính của Nước Trời; loan báo “niềm hy vọng hồng phúc” (x. Tt 2,13); ngày Đức Giê-su ngự đến “để được tôn vinh giữa dân thánh của Người và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin” (GLCG, số 1041).
  Bây giờ, khi chưa đến ngày sau hết, nếu ta chết, xác thì đem chôn hay hỏa táng, sẽ trở về cát bụi; còn linh hồn ta sẽ trở về với Chúa, để chịu phán xét. Đây gọi là phán xét riêng.
  Ta hãy xem giáo lý của Giáo Hội dạy thế nào về sự chết: “Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế; kết thúc thời gian Thiên Chúa thi ân và thương xót, để con người sống cuộc đời trần thế này theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Khi chấm dứt “cuộc đời trần thế duy nhất này”, chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc sống trần thế khác. “Con người chỉ chết một lần” (Dt 9,27); không “đầu thai” sau khi chết”. (GLCG, số 1013)
  Theo đó, ta chỉ sống có một lần và chết một lần; không có “đầu thai” sống kiếp thứ hai, cho nên còn được sống ngày nào trên trần gian này ta phải cố gắng hết sức mình; đừng chần chừ, đừng lẫn nữa, đừng phí thời gian ân sủng Chúa ban khi còn sống. Hãy ra sức làm việc lành và nên thánh để chuẩn bị cho ta cuộc sống mai hậu, cuộc sống đời đời của mình. Có thể nói, đời ta chỉ có một lần, một lần sống và một lần chết. Cái “một lần” nó quan trọng làm sao !!!!!!! Một lần là đi đooong hay một lần là hạnh phúc mãi mãi, ta phải chuẩn bị và quyết định cho chính mình.
   Ta sống trên đời này, giỏi lắm cũng 100 năm gì đó, rồi ai cũng phải chết. Phận con người là phải chết, không có “lý sự” gì cả; không có sao, không có giăng, không có “on đơ” chỉ cả. Khi chết, chưa phải là hết, ta còn chịu phán xét nữa cơ. “Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời, tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Ki-tô; linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện; hoặc được phúc trên trời, hoặc sa địa ngục vĩnh viễn” (GLCG số 1022).
  Linh hồn phải trải qua một cuộc thanh luyện trong luyện ngục. Luyện ngục, nơi được gọi là cuộc thanh luyện cuối cùng; vì khi sống trên trần gian này, ta cũng đã được thanh luyện rồi. Ta được thanh luyện qua những khó khăn, qua những vất vả, qua những gian nan; qua những vu khống, qua những khinh khi, qua những bệnh tật, qua những thất bại; qua những thua thiệt,…Nếu ta biết dùng những cơ hội đó để thanh luyện con người của mình. Ta mà biết lợi dụng những cơ hội đó càng nhiều bao nhiêu, thì ta sẽ càng ít ở trong luyện ngục bấy nhiêu.
  “Những người chết trong ân nghĩa Chúa nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc thiên đàng” (GLCG, số 1030).
  Ở nơi luyện ngục, hình phạt cũng chẳng kém nơi hỏa ngục. Có khác chăng là nơi luyện ngục có ngày ta được ra; còn trong hỏa ngục thì đời đời kiếp kiếp. Ta cứ tưởng tượng luyện ngục như một nhà tù. Mà ở tù thì có sung sướng bao giờ.Nơi đây, ta không tự mình làm gì để cứu độ cho chính mình nữa: ta không cầu nguyện được; ta không dâng lễ được, vì còn thân xác, còn miệng lưỡi, còn tay chân đâu nữa mà đến nhà thờ, mà đọc kinh hay lần hạt gì nữa. Hoàn toàn trông chờ nơi người thân, nơi gia đình, nơi Giáo Hội. Bởi đó, trong tháng 11 hay mỗi ngày, ta hãy để ý mà cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, anh chị em hay những ân nhân của ta đã qua đời, để các ngài được hưởng lòng thương xót của Chúa, mà sớm được về quê Trời.
  Những người đang ở trong luyện ngục là những người không có gì để đáp lễ. Ta mà cầu nguyện giúp cho họ thì ta mới là người có phúc. Có phúc đây, không phải là họ sẽ đáp lễ cho ta, mà chính Chúa sẽ đáp lễ, sẽ ban phần thưởng cho ta khi kẻ chết sống lại (x. Lc 14,13-14)
  Nghĩ đến điều này, ta cũng phải tự lo cho chính mình khi còn đang có cơ hội sống trên trần gian này. Ta còn có cơ hội đi dâng lễ; ta còn có cơ hội đọc kinh, lần hạt,….Ta hãy tận dụng tất cả. Nếu ta tận dụng được 90 hay 99%, thì ta sẽ chỉ ở trong luyện ngục mà đền có 10 hay 1% thôi. Ta mà ỷ y, đã có gia đình; đã có Giáo Hội cầu cho rồi, nên chỉ cố gắng 1 hay 10% thôi, thì ta sẽ ở trong luyện ngục mà đền đến 90 hay 99% thì cũng hơi mệt đấy.
 Đành rằng có người khác cầu, nhưng đâu phải cầu bao nhiêu là ta lãnh được hết bấy nhiêu đâu. Chúa ban cho ta được chút này hay chút đó, ta không có quyền đòi hỏi gì cả. Cũng như đâu phải người nhà đem cho tù nhân bao nhiêu là họ được hưởng hết bấy nhiêu đâu; cai tù cho bao nhiêu là tốt bấy nhiêu mà. Bởi đó mà ta phải ra sức chuẩn bị cho mình càng nhiều bao nhiêu càng chắc ăn, càng tốt bấy nhiêu, phải không bạn !
Nếu chúng ta là những người tín hữu Ki-tô, mà không được vào Nước Trời thì tiếc lắm thay !!!!!!!
Là Tu Sĩ mà không được vào thiên đàng thì tiếc biết mấy !!!!!!!!!!!
Là Linh Mục mà không được vào Nước Chúa thì tiếc lắm lắm !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
Do đó, ngay từ bây giờ, dù là ai ta cũng phải cố gắng, làm sao cho “hũ bột ân sủng của ta không vơi; vò dầu đức tin của ta không cạn”. Ta phải cầu nguyện.
Không phải cứ đọc kinh, lần hạt, dâng lễ là đương nhiên ta sẽ lên thiên đàng thẳng cẳng. Ta đọc kinh, ta dâng lễ, ta lần hạt là để ta nhận được nhiều ân sủng của Chúa và làm cho đức tin của ta thêm mạnh mẽ, để với ơn Chúa, cùng với đức tin, chúng ta sống tốt lành và làm những việc thiện. Làm sao cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời mà hũ bột ơn Chúa của ta không vơi; vò dầu đức tin của ta không cạn thì phúc cho ta biết mấy !
“Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người”(Dt 9,28).
Chúng ta là những người trông đợi Chúa để được cứu dộ, nên ta phải siêng năng cầu nguyện, đọc kinh, dâng lễ, để hũ bột ân sủng của ta không vơi; vò dầu đức tin của ta không cạn. Với đức tin và ân sủng Chúa ban, ta sẽ dần dần nên thánh nên thiện, để sau khi chết, ta chỉ chịu thanh luyện thời gian ngắn trong luyện ngục, sau đó được lên thiên đàng và ngày sau hết, ta được phục sinh thì cả xác lẫn hồn của ta được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa trên thiên đàng.
Đó không là ước mơ; đó không là mục tiêu tối hậu của ta sao ! Bởi đó ngay từ bây giờ, ta hãy quyết định và chuẩn bị để làm cho ước mơ đó thành sự thật nơi cuộc sống và nơi con người của ta.
BÁC ÁI
Lm Vũdình Tường
Khi nói về việc bác ái, làm phúc bố thí chúng ta thường nghĩ về người nghèo cần bữa cơm ấm bụng, cần áo che thân. Điều này rất đúng. Về phương diện vật chất, không có gì sai. Miếng cơm, manh áo thoả mãn nhu cầu vật chất, không thoả mãn nhu cầu tinh thần và tâm linh. Xã hội hiện nay có người cần ai đó lắng nghe tâm sự của họ. Như thế họ cần thời gian của bạn. Người khác cần có người ngồi bên để họ cảm thấy bớt cô đơn. Như thế họ cần sự hiện diện của bạn. Người khác nữa thất bại trong thương trường, học vấn, tìm công ăn việc làm, họ chán nản, cần hỗ trợ tinh thần của bạn để họ tiến lên. Kẻ khác nữa mất tinh thần, chán sống. Như thế họ cần đến sức sống của bạn. Người khác nữa cần được đối xử công minh. Như thế họ cần tiếng nói công lí của bạn. Người khác nữa cần được đối xử tử tế như thế họ cần đến lòng khoan dung của bạn. Người khác nữa cần giúp bỏ được tật xấu nghiện ngập như thế họ cần đến sự cảm thông của bạn. Đừng ép họ uống thêm li rượu, dù là rượu mời, tránh cơ hội dẫn đến xì ke, ma tuý. Như thế bác ái bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống. Có người lâu ngày không đến nhà thờ, gặp lại họ, dù bạn thành tâm cũng nên tránh hỏi hay nói những câu làm cho họ cảm thấy áy náy. Họ đứng chỗ đông người nhưng cảm thấy lạc lõng, họ cần bạn là người tạo cho họ gây lại mối liên hệ với cộng đoàn.
Hôm nay Kinh thánh nhắc đến hai goá phụ, một đói, một nghèo. Cả hai đều nghèo về vật chất và cả hai đều rộng lượng, giầu tinh thần, giầu bác ái. Lối sống và hành động của hai bà hoàn toàn trái ngược với lối sống đài các, xa hoa của nhà lãnh đạo tôn giáo, người có chức, có quyền, có thế trong dân thời đó. Họ chú trọng đến việc quan trọng hoá chính mình qua cách ăn mặc; đối với xã hội họ đòi hỏi được coi trọng và nơi công cộng mong được trọng vọng. Hành động của họ chứng tỏ họ nghèo về tinh thần. Họ dùng vật chất, hào nhoáng bề ngoài mong khoả lấp cái nghèo khó tinh thần bên trong. Hai bà goá hành động khác hẳn. Phúc âm không nhắc đến tên của các bà và do đó chúng ta có thể hiểu dụ ngôn này áp dụng cho tất cả những ai sống tinh thần nghèo khó vì nước trời.
Bà thứ nhất tạm gọi là bà đói, bà đi kiếm củi về nấu bữa cháo cuối cùng cho con ăn trước khi chết, bởi hạn hán dài hạn và nhà không còn gì để ăn. Trên đường về bà gặp người ăn xin. Người này đòi bà nấu cho ông ăn trước rồi sau đó mới đến lượt gia đình bà. Điều ông đòi hỏi có vẻ hơi quá đáng nhưng ngạc nhiên thay bà chấp thuận điều ông yêu cầu. Có lẽ bà thông cảm cái đói khát của người khách lạ như chính gia đình bà đang trải qua. Dầu gì đây cũng là bữa ăn cuối cùng, no hơn một chút, hay đói hơn một chút cũng vậy thôi. Bà vẫn biết xã hội bà không đòi hỏi goá phụ nghèo phải giúp đỡ người khác nhưng bà giúp vì sâu thẳm trong tim bà có lòng nhân ái, muốn giúp đỡ người khác trong khả năng của mình. Quan trọng hơn hết bà coi việc bác ái chính là chia sẻ quà tặng Chúa ban. Tất cả những gì bà có đều là của Chúa ban và bà trao tặng cho người khác để làm Sáng Danh Chúa. Người khách lạ ăn một mình, không ăn chung với gia đình bà cho biết người đó là khách, không phải là thành viên của gia đình. Bà đâu ngờ hành động bác ái cuối cùng trong đời lại trở thành hành động cứu sống cả gia đình trong cơn nguy khốn. Thiên Chúa ban ân sủng của Ngài cho mỗi người một kiểu, một cách. Bà chỉ nhận ra điều đó sau khi đã thi ân và nhận biết thùng bột trong nhà không bao giờ cạn, chai dầu ăn trong tủ không bao giờ vơi cho đến khi mưa thuận, gió hoà. c.16.
Bà đói trong sách Các Vua chương 17 và bà goá nghèo trong Phúc Âm, người dâng cúng hai đồng xu vào nhà thờ, cùng chung quan niệm về cuộc sống, chung cung cách hành động. Bác ái và yêu thương phát xuất tự tấm lòng. Đức Kitô đã khen bà goá bỏ hai đồng xu vào tiền công quỹ bởi bà cho đi đồng xu bà cần. Có người cho nhiều của hơn nhưng cho đi đồng tiền tiết kiệm, tiền để dành chi tiêu vào việc không tên; còn bà goá cho đi đồng xu dùng để mua cơm bánh nuôi thân. Điều này cho biết cung cách và động lực dẫn đến việc thực thi bác ái rất quan trọng. Bác ái xuất phát tự tim là điều Đức Kitô trông đợi môn đệ Ngài thực hiện với tha nhân. Xin ơn khiêm nhường và thật thà trong lòng.
NIỀM TIN CỦA HAI BÀ GÓA PHỤ
Bác sĩ Ng Tiến Cảnh
Bà Góa Phụ ở Zarephath (1V 17: 10-16)
*Ông đã chỗi dậy và đi Zarephath. Ông đến cửa thành thì ở đó có một góa phụ đang mót củi. Ông gọi bà ấy và nói: “ Xin bà cho tôi ít nước trong bình để tôi uống”. Khi bà đi lấy nước thì ông lại kêu bà và nói: “Xin bà cho tôi một mẩu bánh!” Bà nói: “Lạy Thiên Chúa hằng sống, Chúa của ngài, tôi chẳng còn gì cả ngoài nắm bột trong vò và ít dầu trong chóe. Nay tôi đi mót vài que củi về để nấu thức ăn cho tôi và con tôi ăn rồi chết!” Elijah bèn nói với bà: “Đừng sợ, cứ đi và làm như lời bà nói. Nhưng trước hết hãy làm một cái bánh nhỏ và đem ra cho tôi, rồi sau đó hãy làm cho bà và con bà.  Vì Thiên Chúa, Chúa của Israel đã phán thế này:
Vò bột không vơi,
Chóe dầu không vợi,
Cho đến ngày Thiên Chúa ban mưa trên mặt đất”
*Thế là bà đã làm theo lời Elijah, và bà đã có đủ ăn cho bà, cho Elijah và cả nhà suốt cả năm. Quả thực vò bột không vơi, chóe dầu không vợi, đúng như lời Thiên Chúa đã phán qua Elijah.
Đồng xu của người góa phụ nghèo (Mc 12: 41-44)
*41 Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dân cúng đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền cúng ra sao. Có nhiều người giàu có bỏ thật nhiều tiền. 42Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá bằng một phần tư đồng bạc Roma.43Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa phụ nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44Thực vậy, mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà bỏ vào đó, còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó; bà đã bỏ tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”.
                                *********
    Câu chuyện trong sách Các Vua (1V 17:10-16) và bài Tin Mừng Mac cô (Mc 12: 38-44) cho chúng ta thấy sự can đảm, lòng đại lượng và niềm tin của hai bà góa phụ.
    Hành động của các bà buộc chúng ta phải tự xét mình và hiểu cảnh đói khổ của những người nghèo túng để có thái độ quảng đại thích ứng. Từ đó chúng ta áp dụng vào cuộc sống chúng ta qua  tông thư Bác Ái Trong Sự Thật của Biển Đức XVI.
NIỀM TIN CỦA ELIJAH
    Khi đọc Elijah và Elisha trong Sách Các Vua 1 và 2, chúng ta không thể bỏ qua chuyện bà góa ở Zarephath. Câu chuyện Elijah và người đệ tử là Elisha đã cố gắng làm cho dân Israel nhận biết và yêu mến Lời Chúa !
    Theo đoạn sách Các Vua (1V 17:8-16) Thiên Chúa tiếp tục thử thách Elijah. Bài đọc Sách Các Vua hôm nay bắt đầu với câu 10, nhưng cần phải đọc từ câu 8 để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của câu chuyện. Câu 8 nói: “Bấy giờ Giavê / Thiên Chúa đến với ông và nói:…”Nhưng Elijah vẫn không đứng dậy đi cho đến khi nhận được sứ điệp của Chúa. Đối với chúng ta, chúng ta cần biết Chúa và lắng nghe lời Chúa trước khi thi hành sứ vụ.
    Đoạn Chúa nói với Elijah hãy đi Zarephath (c.9) là một phần đất của Sidon. Câu 9 gồm 3 mệnh lệnh: “Hãy chỗi dậy”, “Hãy đi” và “Hãy ở đó”. Thiên Chúa đã thử Elijah qua 3 mệnh lệnh trên bằng những đức tính Tin, Cậy, Vâng Lời, Sẵn Sàng và Cam Kết. Khi Thiên Chúa truyền cho Elijah “chỗi dậy” không phải chỉ có hành động chỗi dậy thể xác mà cả tinh thần nữa. Đối với Elijah, vâng lời Chúa là kết qủa thức tỉnh của chính tâm hồn ông.
    Mệnh lệnh thứ hai: “Hãy đi Zarephath”, là một cuộc du hành cam go, nhọc nhằn và nguy hiểm. Zarephath là một địa danh khô cằn, lại nằm trong đất Sidon thuộc Nữ Hoàng Jezebel rất ác độc. Elijah đến đó không phải để nghỉ ngơi thư dãn!
    Mệnh lệnh thứ ba: “Hãy ở đó” là một thách đố lớn đối với sự cam kết, lòng tin cậy và tầm nhìn của ông, là người đang tìm cách phục vụ Thiên Chúa. Lương thực của Elijah sẽ do một góa phụ nghèo và tuyệt vọng cung cấp. Bà đang phải đối đầu với nạn đói trong một nước dân ngoại là dân Sodon lúc đó đang kình chống Chúa của Israel.
    Ân nhân của Elijah lúc đó không phải là người giàu sang, có nhà cao cửa rộng để có thể chia sẻ đầy đủ cho ông nơi ăn chốn ở ngon lành; trái lại bà quá nghèo phải đi kiếm củi ở cổng thành về nấu thức ăn vì nghèo không có dầu để đốt.
    Thiên Chúa đã ra lệnh cho những con quạ đem thức ăn đến cho Elijah trong sa mạc (1V17:1-7) thì nay lại ra lệnh cho bà góa phụ nuôi ông. Tại Zarephath, người góa phụ nghèp đó đã nghe theo lời chỉ dẫn của Elijah như lời Chúa truyền. Bà ta biết rõ quyền năng của Thiên Chúa nên cả hai mẹ con bà và Elijah đã có đủ thức ăn để sống.
 BÀ GÓA PHỤ VÀ TIÊN TRI ELIJAH
    Bà quả phụ nghèo lại quảng đại và tốt lành cùng với sự trung thành của Elijah nên Thiên Chúa đã làm cho niềm tin của ông thêm vững mạnh, khuyến khích khả năng mục vụ của ông, dùng ông để an ủi người goá phụ và con trai của bà. Với chúng ta, Thiên Chúa sẽ giúp vượt thắng mọi yếu đuối, thất bại và lo âu sợ hãi. Thiên Chúa đã cho chúng ta quá mức tưởng tượng.
CHỈ CÓ HAI XU THÔI !
    Một bà quả phụ nghèo nữa trong Tin Mừng Mac Cô (Mc 12:38-44) cũng cho chúng ta một bài học. Chúa Giêsu đã ca tụng của lễ của bà và xác định giá trị của lễ đó rất rõ ràng. Nó không ở số lượng mà ở tấm lòng mình muốn dâng cho Chúa. Bà bỏ một xu vào rổ tiền thì túi bà trống rỗng chẳng còn gì nữa. Bà đã lấy tất cả gia sản, tất cả lòng bà mà hiến cho Chúa. Người giàu có, dù họ cho Chúa nhiều gấp trăm nghìn lần bà này nhưng họ vẫn còn dư thừa ở nhà, trong túi. Tiền họ cho Chúa chỉ là bạc lẻ. So sánh hai trường hợp này thì một xu của bà góa bằng cả ngàn đồng của người giàu có, vì một xu đó là giá mạng sống của cả gia đình bà.
    Chúa Giêsu ca tụng người đàn bà này có quá đáng không? Chúa có tiểu thuyết hóa người nghèo không? Ít ai dám mơ ước vươn lên thành triệu phú từ sự khốn cùng, nghèo khổ, vô gia cư vô nghề nghiệp. Chẳng có ai vui sướng vì sống nhờ vào trợ cấp chính phủ, an sinh xã hội; cũng chẳng có ai cảm thấy hạnh phúc đi lục thùng rác và hãnh diện là mình không có tiền trả tiền điện nước hàng tháng, tiền thuê nhà đang bấp bênh sắp bị đuổi trong những tháng ngày mùa đông giá lạnh?
    Người đàn bà trong Tin Mừng nghèo vì là góa phụ. Bà hoàn toàn phụ thuộc vào chồng, nay chồng đã mất. Thảm kịch chính của bà là mất người nương tựa để sống. Bà phải sống nhờ vào lòng quảng đại của thân nhân và cộng đồng.
    Hai xu của người góa phụ là tất cả gia sản của bà. Bà chẳng hy vọng gì vươn lên  thành giàu sang phú quí, tiền dư bạc thừa. Cuộc sống của bà thật bấp bênh. Bà nghèo tiền nhưng lại giầu niềm tin vào lòng Chúa thương xót. Bà hoàn toàn tin tưởng vào ân sủng của Thiên Chúa.
    Chúa Giesu ca tụng bà góa phụ nghèo nhưng Chúa không kết án người giầu có. Ngài chỉ nói “họ khó có thể vào được nước thiên đàng” (Mc 10:23). Vấn đề quan trọng không ở chỗ họ có bao nhiêu tiền để trong ngân hàng hoặc của chìm của nổi ở đâu đó mà ở chỗ họ dành được gì cho đời sau.
    Họ có giúp đỡ những người nghèo khổ, có làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn không? Có nuôi ăn những người đói, giúp áo quần cho người trần chuồng, có cung cấp nơi ăn chốn ở cho người vô gia cư không? Có dùng tiền của mình có để xây đắp văn hóa sự sống không? Cuộc sống của chúng ta có quay cuồng chung quanh tiền bạc hay dựa vào Thiên Chúa là đấng có thể làm cho chúng ta trở nên giàu có? Chúng ta có sống như những chủ nhân ông hay sử sự như người quản gia? (Mt18:23-35).
    Người góa phụ quyết định bỏ một xu vào rổ tiền là sạch túi, nhưng bà vẫn tin tưởng vào Chúa, vào sự giúp đỡ của tha nhân. Gương sáng của bà là tuyệt đối tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa: Bà Yêu Chúa và Chúa thương mến bà. Bà là quản gia không phải là chủ nhân cái gia sản thanh bần của bà. Người góa phụ nghèo này đã dạy chúng ta biết phụ thuộc vào Thiên Chúa.
THAY LỜI KẾT: BÁC ÁI TRONG SỰ THẬT
 Chúng tôi dùng bốn đoạn ngắn gọn của tông thư Bác Aí Trong Sự Thật / Caritas in Veritate của Biển Đức XVI làm kết luận cho bài suy niệm Tin Mừng hôm nay.
1- “Việc tìm kiếm tình yêu và sự thật đã được Chúa Giêsu Kitô làm cho trở nên tinh khiết và hết vẻ nghèo nàn mà loài người chúng ta đã tạo ra, và Ngài tỏ cho chúng ta biết một cách trọn vẹn mối tình tiên khởi và kế hoạch để có một đời sống thực mà Thiên Chúa đã sửa soạn cho chúng ta. Trong Chúa Kitô, bác ái trong sự thật đã trở thành Khuôn Mặt Con Người của Ngài, kêu gọi chúng ta phải yêu thương những người anh chị em huynh đệ của chúng ta trong sự thật của kế hoạch của Người. Thực vậy, Người chính là Sự Thật (Ga 14:6).”
23-“Một sự kiện đơn thuần phát sinh ra từ vấn đề thụt lùi kinh tế, mặc dù tự nócó tính tích cực, cũng không thể giải quyết được những vấn đề phức tạp về tiến bộ của loài người, ngay cả ở những quốc gia phát triển tiền tiến, những quốc gia đã có nền kinh tế phát triển rồi hay những quốc gia còn nghèo đói đang khốn khổ không phải do sự bóc lột cổ điển, nhưng vì những hậu quả tiêu cực về phát triển do tính bất thường và thiếu cân bằng của nó.”
42-“ Từ lâu người ta thường nghĩ rằng dân nghèo thì phải dậm chân tại chỗ ở một thời kỳ cố định nào đó về phát triển, và vui vẻ chấp nhận sự trợ giúp từ thiện của các quốc gia phát triển. Đức Phaolo VI đã cực lực chống đối ý nghĩ đó trong tông thư Sự Phát Triển Muôn dân / Populorum Progressio. “ Ngày nay những tài nguyên vật chất có sẵn để cứu giúp những dân tộc nghèo khổ đó khỏi cảnh khó nghèo đang có tiềm năng to lớn hơn xưa, nhưng phần lớn lại nằm trong tay của những dân tộc ở những quốc gia phát triển, là những người được hưởng lợi nhiều hơn nhờ sự giải phóng biến đổi về vốn và lao công. Do đó những hình thức thịnh vượng đang lan tràn trên toàn thê giới không thể bị kìm hãm lại bởi những kế hoạch có tính cục bộ của những kẻ chỉ muốn bảo vệ phe nhóm hay để phục vụ cho lợi ích riêng tư.”
75-“Trong khi những người nghèo trên thế giới vẫn tiếp tục gõ cửa nhà những người giầu có, thì thế giới giàu sang lại không biết lắng nghe những tiếng gõ cửa ấy, bởi vì lương tâm họ không còn phân biệt được thế nào là con người. Thiên Chúa đã tỏ lộ cho con người tự biết mình. Lý trí và niềm tin cùng làm việc với nhau để chứng minh cho chúng ta biết cái gì là tốt nếu chúng ta muốn được biết nó. Theo luật tự nhiên thì lý trí sáng tạo sẽ chiếu rọi trước, để chúng ta nhận ra vẻ cao cả vĩ đại của chúng ta, đồng thời cũng cho biết cả cái cùng khổ của con người đến độ chúng ta không còn nhận ra được tiếng gọi của sự thật luân lý.”
SUY NIỆM CHÚ GIẢI TIN MỪNG – CHÚA NHẬT 32 TN_B
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
1V 17: 10-16
Bài Đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.
Dt 9: 24-28
Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất cả để vĩnh viễn tiêu hủy tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.
Mc 12: 38-44
Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu dâng cúng của bà thật là khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng này chất chứa biết bao lòng yêu mến và niềm tin của bà đối với Chúa.
BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)
Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn những giai thoại ngoạn mục; tập truyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa minh họa rõ nét nhất điều này. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích này được thêu dệt thành những chuyện sử thi.
Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.
Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a
Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc miền Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 tCn). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan. Vua A-kháp cưới công chúa I-da-ven ngoại giáo. Bà hoàng hậu này rất sùng đạo thờ thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en, trong khi vị ngôn sứ ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
Ngôn sứ Ê-li-a tuyên sấm trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán này sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối này cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.
Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta
Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, vì thế bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.
Được định vị vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết này mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến. Nhưng ngoài ra, tình tiết này nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ của Ngài, với cách hành xử của một người phụ nữ ngoại đạo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà này dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như báo trước cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).
Mặt khác, được định vị vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không phải thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian. Chính Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki-tô cao trọng hơn bội phần chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước. Tác giả định vị viễn cảnh trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki-tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha, và bình diện “dưới thế”: chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki-tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn.  Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên – nghi lễ Đền Tội ở đó vị thượng tế Cựu Ước dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en vì đã trót phạm trong năm qua.
Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước
Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”; trong khi Đức Ki-tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa ngự, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Bia Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki-tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.
Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước
Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình, trong khi Đức Ki-tô dâng máu của chính mình. Thế mà người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả dứt khoát. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi, trong khi hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.
Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi
Việc Đức Ki-tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12). Việc Đức Ki-tô xuất hiện vào Ngày Quang Lâm sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki-tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi. Ngài sẽ cứu độ những ai trông cậy vào Ngài.
TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)
Mới đây, những người Biệt Phái đã ca ngợi nhân cách của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca này để gày bẫy Đức Giê-su, nhưng lời ca ngợi này càng minh chứng đây là nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.
Khi đặt hai lời dạy của Chúa Giê-su bên cạnh nhau: tránh xa thói giả hình của người Biệt Phái (12: 38-40) và noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44), thánh Mác-cô muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu cho thành phần trí thức có quyền thế và địa vị, với thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện cho thành phần hèn mọn nhất.
Tránh xa thói giả hình của những kinh sư (12: 38-40):
Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và về truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ tự hình thành nên một giai cấp tách biệt quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.
Nhưng lời tố cáo nghiêm khắc nhất mà Ngài gởi đến các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cơn thịnh nộ của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ này rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).
Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương nếp sống đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách để ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).
Đức Giê-su kết thúc những lời lên án thói giả hình của kinh sư như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Người đầy tớ trung thành đợi chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều… Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).
Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đũa cả nắm, bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34). Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng này, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những giai cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng này khó thoát khỏi ảnh hưởng của những cuộc khẩu chiến giữa Giáo Hội tiên khởi và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.
Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư này, tự hào tự phụ vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được trực tiếp lời giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki-tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư này bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi… Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.
Noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44):
Xét về hình thức, thánh Mác-cô đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn; trái lại cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.
Khi cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Đức Giê-su quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa này, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào tình yêu quan phòng của Chúa.
Dung mạo của bà góa này là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và kết thúc với lời ca ngợi một người nghèo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cho cuộc đời mình.
KINH SƯ VÀ BÀ GÓA
Jorathe Nắng Tím     
Có thể nói : hai nhân vật, đúng hơn là hai tầng lớp trong xã hội được Đức Giêsu nêu lên và làm nổi bật trong đọan Tin Mừng Máccô 13,38- 44 mà Giáo Hội chọn cho Chúa Nhật 32 hôm nay là Kinh Sư và Bà Góa. Chúng ta cùng chia sẻ và suy niệm điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta qua hai nhân vật này.
Chúng ta thừa biết : Kinh Sư là những người lãnh đạo trong xã hội tôn giáo thời Đức Giêsu. Gọi là xã hội tôn giáo, vì xã hội Do Thái được hướng dẫn và điều hành bởi tôn giáo Do Thái và Luật Môsê ảnh hưởng sâu đậm trong mọi lãnh vực sinh hoạt của người Do Thái. Do Thái giáo không chỉ bao trùm xã hội Do Thái ở thời Đức Giêsu, mà ngay hôm nay, tôn giáo ở quốc gia Do Thái cũng vẫn giữ vai trò trọng yếu và có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng. Nói một cách dễ hiểu hơn : tâm thức của người Do Thái là tâm thức tôn giáo, và tâm thức này mang yếu tố quyết định mọi sinh hoạt xã hội, chính trị.
Chính trong xã hội tôn giáo này, những người lãnh đạo tôn giáo giữ vai trò rất quan trọng và có nhiều quyền quyết định trên đời sống người khác. Ở vào vị thế ngất ngưởng quyền lực, tất nhiên họ được mọi người, kể cả những người không ưa thích, kính phục phải nể sợ, trọng vọng, phục dịch.
Hình ảnh về Kinh Sư trong Tin Mừng thì không thiếu, nhưng hầu hết đều là những hình ảnh tiêu cực như trong Tin Mừng Mátthêu chương 23 : Họ nói mà không làm, dậy người khác mà không giữ (x. Mt 23,2-3); “họ bó gánh nặng mà chất lên vai người ta, mà chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào ; họ làm việc cốt để thiên hạ thấy” (Mt 23,4- 5) ; họ diêm dúa, khoe khoang : “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài ; họ ưa ngồi chỗ cao nhất trong đám tiệc, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là Thầy” (Mt 23, 5-7). “Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh Sư và Pharisêu giả hình ! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào !” (Mt 23,13) “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù qúang !” (Mt 23,16) “Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,24). “Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén diã, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ” (Mt 23, 25); “bên ngoài  thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác !”(Mt 23, 28), “các ngươi đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ” (Mt 23, 31).
Tin Mừng Máccô hôm nay sau khi chấm phá vài nét về Kinh Sư như : “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi…, chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 13,38-39), đã đặt trọng tâm vào việc các Kinh Sư chiếm đoạt tài sản của những ngườI được xem là nhỏ bé, yếu đuối, nghèo khổ nhất trong xã hội, đó là các bà goá.
Câu 40 của đọan Tin Mừng đã nặng lời vạch trần và lên án việc làm bất công, bất chính của Kinh Sư : “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người  ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12,40).
Câu 40  được tiếp nối như lời giải thích mức độ nặng nề của việc chiếm đoạt tài sản cỏn con, ít ỏi của người nghèo khổ, bằng vẽ lên chân dung của bà góa nghèo và tấm lòng quảng đại của bà: “Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ… Có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, giá trị một phần tư đồng xu Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ và nói : Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Qủa vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi mình”. (Mc 12, 41-44).
Đức Giêsu đã xác định rất rõ : bà góa nghèo, vì có những bà góa giầu, do thừa hưởng tài sản của chồng đã qua đời. Bà góa nghèo này đại diện cho giai cấp thấp hèn trong xã hội của bất cứ thời nào và ở đâu. Goá bụa là thân phận đáng buồn của phụ nữ, khi mất chồng, bởi mất chồng thì nương tựa vào ai, đơn thân đơn chiếc, tự mình xoay sở để tồn tại. Cảnh góa bụa còn kéo theo nhiều phức tạp, khó khăn, khốn khổ trong gia đình cũng như ngoài xã hội và số phận của người goá bụa thường vất vả, hẩm hiu, mà cảnh nghèo là điều làm họ tội nghiệp hơn cả.
Đức Giêsu đã can đảm nói cho mọi người biết có những Kinh Sư giả hình: “nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh lâu giờ” (Mc 12,40). Vạch trần sự thật không mấy tốt đẹp của giai cấp lãnh đạo ở thời nào và ở đâu cũng là một liều lĩnh dễ mất mạng. Ở đây Đức Giêsu đã chấp nhận tất cả rủi ro có thể đến với Ngài, để cảnh báo các môn đệ và đám đông đi theo Ngài cơn cám dỗ của tham lam của cải và thói giả hình trong việc thờ phượng :
1.    Thói tham lam của cải:
Lòng tham của con người thì không đáy, nên bất cứ ai, ở bất cứ địa vị, vai trò nào đều bị cám dỗ làm giầu. Và khi cơn cám dỗ làm giầu nổi sóng, thì người ta không còn biết ai là người có thể rút tiả tiền bạc, và ai là người phải chừa ra, không nên lợi dụng. Bằng chứng là Kinh Sư trong Tin Mừng Máccô hôm nay, tuy là người có của, có danh, được cơ chế lo ăn lo mặc, và mọi người trọng vọng, nể sợ, nhưng vẫn tìm nuốt tài sản của những bà goá nghèo kiết xác, túng bấn mạt rệp. Họ không thương hại cả những người nghèo không còn gì để sống, những bà goá nghèo đơn thân, cơ cực với hiện tại bấp bênh, và tương lai  mù mịt.
Hình ảnh người nắm giữ quyền lực tận thượng tầng của cơ chế  nhẫn tâm vơ vét, chiếm đoạt đến đồng tiền cuối cùng ki cóp để sống qua ngày của người nghèo “tận số” ít nhiều cũng làm sôi lên trong chúng ta cảm xúc giận dữ trước bất công. Cũng chính những bất công này phá hoại tất cả mọi tương quan giữa người với người và tạo nên cảnh hỗn loạn dẫn đến tình trạng bành trướng đến chóng mặt của bạo lực trong xã hội loài người.
Cùng với việc cảnh báo thói tham lam của cải, và tội chiếm đoạt tài sản của người nghèo nơi Kinh Sư, Đức Giêsu đã tuyên dương lòng quảng đại của người đàn bà goá bụa nghèo khó. Với Ngài, bà goá nghèo đã cho nhiều hơn tất cả mọi người, vì bà đã cho chính bản thân mình.
Cho đi là việc làm khó, vì đòi quên mình, hiến mình, như bà goá nghèo đã quên cái túng thiếu cùng cực của mình, mà dâng vào Đền Thờ hai đồng tiền kẽm bé nhỏ, “nhưng là tất cả tài sản và tất cả những gì bà có để nuôi  sống mình” (Mc 12,44). Đức Giêsu cũng muốn nói lên một sự thật trong đời sống, đó là người nghèo thường quảng đại hơn người giầu. Họ dễ cho đi, vì dễ quên mình, bởi không bị  của cải, tiền bạc trói buộc, bao vây.
2.    Thói giả hình trong phụng tự :
Đức Giêsu nhiều lần trong Tin Mừng đã tỏ ra ngao ngán thói giả hình. Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến nỗi ngao ngán ấy, nhưng đi xa hơn, khi Ngài cứng rắn lên án thói giả hình trong việc thờ phượng : “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 40).
Qủa thực, giai cấp Kinh Sư đã bị Đức Giêsu nhiều lần nặng lời lên án và hầu như lần nào Đức Giêsu cũng nhấn mạnh thói giả hình của họ. Theo Ngài, giả hình sẽ làm con người xa Thiên Chúa và xa anh em mình, bởi tương quan từ đó sẽ hoàn toàn xây trên gian dối, khi không còn gì là thật, là đúng, là chính xác. Và một khi tương quan không thật, người ta không thể tiếp tục giao lưu, liên đới với nhau, vì  bất cứ gian dối nào cũng sẽ dẫn đến đổ vỡ, tai họa.
Ở đây, điều làm Đức Giêsu bực bội và lên án, đó là Kinh Sư đã giả hình ngay  khi làm việc thờ phượng Thiên Chúa, trá hình ngay trước mặt Thiên Chúa là Đấng thông biết mọi sự và thấu suốt mọi cõi lòng. Người giả hình quên rằng Thiên Chúa không có mặt nơi gian dối, cũng như không hiện diện trong tâm hồn kẻ  giả hình, vì Thiên Chúa là Sự Thật và gian dối thuộc về ma qủy.
Chia sẻ Tin Mừng với tâm hồn cởi mở để đón nhận ý Chúa và ơn Chúa,  công việc đầu tiên chúng ta phải làm là nhìn mình trong nhân vật Chúa cảnh cáo, như Kinh Sư ở đây, để biết mình còn nhiều yếu đuối, ngạo mạn, gian tham, bất công, bất chính ; còn nặng trí trá giả hình, đóng kịch, hoá trang ngay trong khi phụng sự Chúa, để thay đổi tư duy, và cải thiện lối sống. Đừng quên rằng : Đức Giêsu lên án Kinh Sư giả hình cũng là trách móc chúng ta chưa đủ chân thành với Chúa và anh em, nên việc chúng ta phải làm là can đảm soi mình trong gương “người khác” để khiêm tốn sửa đổi, khẩn khoản lòng xót thương, và nài xin ơn thứ tha, hơn là dựa hơi Đức Giêsu ném đá người khác ; diễn dịch lời quở trách của Đức Giêsu để miệt thị, khinh bỉ anh em ; đồng hoá các Đấng Bậc trong Giáo Hội với Kinh Sư để soi mói, bôi bác, coi thường, bất hợp tác.
Với tâm tình của người có tội cần lòng thương xót và ơn tha thứ, chúng ta cầu nguyện cho nhau, cho mọi thành phần Dân Chúa ý thức và sống Yêu Thương – Hiệp Thông – Tương Trợ như các chi thể của một Thân Thể duy nhất.
TẤM LÒNG BÀ GÓA
JM. Lam Thy
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá: Một bà trong bài Sách Thánh (Bài đọc 1 – 1V 17, 10-16), một bà trong bài Tin Mừng (Mc 12, 38-44). Câu chuyện bà goá xứ Sa-rép-ta giúp đỡ ngôn sứ Ê-li-a có nhiều điểm rất đáng suy gẫm: Khi nghe ngôn sứ Ê-li-a xin nước, bà đã mau mắn lấy nước cho ngài, nhưng khi ngài xin bánh, thì bà nói: “Có ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.” (1V 17, 12). Bà đã sống trong cảnh lầm than cùng cực, chỉ còn một chút dầu, một chút bột để làm bánh cho 2 mẹ con ăn bữa cuối cùng rồi chờ chết. Cứ tưởng bà trả lời như vậy, thì bà sẽ không nhường chút bột và dầu ấy cho ngôn sứ, nhưng thật lạ lùng, bà lại sẵn sàng nhịn ăn mà nhường chút lương thực cuối cùng ấy cho “người của Đức Chúa” là ngôn sứ Ê-li-a.
Tới bài Tin Mừng (Mc 12, 38-44), Thánh sử Mac-cô trình thuật việc Đức Giê-su lên án các kinh sư giả hình chỉ thích phô trương bộ vó bên ngoài, huênh hoang nơi lỗ miệng, còn trong lòng thì rỗng tuếch (Mc 12, 38-40). Tiếp liền theo đó là câu chuyện một bà goá nghèo bỏ vào thùng tiền quyên góp cho nhà thờ 2 đồng tiền kẽm là tất cả tài sản của bà. Có một điều rất thú vị là khi nhìn vào đám người kinh sư Pha-ri-sêu “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” lại là những người “nuốt hết tài sản của các bà goá”. Thế đấy!
Để có được bộ vó bảnh choẹ, đám người chỉ thích ăn trên ngồi trước “nói mà không làm” lại đi bóc lột tận xương tuỷ các bà goá. Trong khi đó thì một bà goá nghèo đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.” Chỉ trong một đoạn văn ngắn, Thánh Mac-cô trình thuật Lời dạy của Đức Giê-su nêu bật hai hình ảnh trái ngược: Một bên là  hình ảnh đám kinh sư chỉ chú trọng phô trương hình thức sang trọng oai vệ bề ngoài, chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” nhưng “họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3), vì thực chất họ chỉ là thứ “thùng rỗng kêu to”. Còn một bên là thái độ đạo đức đích thực nơi người góa phụ. Bà đã bỏ nhiều hơn ai hết, vì mọi người lấy tiền của dư thừa bỏ vào, còn bà thì lấy tất cả của độ thân mà dâng cúng.
Chuyện bà goà chân thành giản dị dùng hết số tiền mình có dâng cúng vào đền thờ hoặc như bà goá Sa-rep-ta dùng ngay bữa ăn cuối cùng của 2 mẹ con để đãi “người của Đức Chúa”, còn mình thì sẵn sàng nhịn đói chờ chết, khác xa – nếu không muốn nói là đối nghịch hẳn – với hạng người xúng xính trong bộ vó sặc sỡ, lòe loẹt. Chẳng cần đi sâu vào nhận xét hành động bộc lộ nội tâm, cứ nhìn cái vẻ bề ngoài đơn sơ chất phác của các bà goá, so với cái vỏ hào nhoáng kênh kiệu của đám kinh sư, cũng đã thấy được bản chất của giai cấp mà họ là đại diện. Mấu chốt vấn đề chính là ở sự chân thành và lòng tin tưởng hay nói cách khác là tình yêu. Chỉ vì tình yêu mà hai bà goá sẵn sàng dâng hiến đến đồng tiền, nắm bột cuối cùng của đời mình. Cũng vì thiếu tình yêu nên đám kinh sư “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 4), sẵn sàng “nuốt hết tài sản của các bà goá”  (Mc 12, 40).
Nói đến Tình yêu là nói đến “cho” và “nhận”. “Cho” và “nhận” là 2 khái niệm tương phản về mặt ý nghĩa, hành động, nhưng lại đồng nhất về mục đích: Tình Yêu – Tình yêu nhận về (eros) và Tình yêu cho đi (agape). Tình yêu nhận về là tình yêu chiếm hữu (amor concupiscentiæ), vị kỷ (vì mình), thường giới hạn ở giới tính (tình yêu nam nữ); Tình yêu cho đi là tình yêu vị tha (vì người – amor benevolentiæ), là tình yêu mở rộng đến không còn giới hạn (bác ái), và như thế chính là đích điểm tột cùng của tình yêu: Thiên Chúa Tình Yêu (“Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. Eros vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với agape.” – Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 1).
Thiên Chúa luôn “cho đi” một cách nhưng không, Người không hề đòi sự đáp trả; nhưng với con nguời thì có khác: cho đi nhưng cũng muốn nhận về nhiều hơn. Cứ nhìn xem cảnh cứu trợ nạn nhân thiên tai (bão lụt, động đất…), nạn nhân chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật…, cũng thấy không ít cảnh “cho” mà vẫn muốn “nhận” về hoặc một lời tri ân, hoặc một tấm bằng khen, một sự nổi tiếng, thậm chí có nhiều khi còn “cho tay mặt, bắt tay trái”, hoặc của cho là của bá tính nhưng lại nhận là của mình (“mượn đầu heo nấu cháo”) rồi thì xà xẻo, đục khoét, rút ruột… đủ kiểu. Rất thích “cho” nhưng là cho những của dư thừa, hoặc “mượn đầu heo nấu cháo”, cốt để khoe sự giàu sang, tính tình hào phóng, thương người. Song song với kiểu cho như vậy thì lại muốn “nhận” về đủ thứ lợi lộc, như vậy thì chẳng phải là “cho tay mặt bắt tay trái” đó sao? Nếu chẳng vậy thì Đức Ki-tô đã không dạy: “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo”  (Mt 6, 3-4). Như vậy, cho hay nhận chỉ là những hành vi được thực hiện bởi một động lực nhắm đến một mục đích nào đó. Hành vi ấy có thể xuất phát từ động lực nội tâm với mục đích thực thi Lời Chúa (“Tốt hơn hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giớ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.” – Lc 11,41), nhưng cũng có thể xuất phát từ một động lực ngoại tại (ham chuộng hư danh, tham vọng quyền thế…), hoặc nhắm đến một mục đích khác (tranh bá đồ vương về chính trị, tranh quyền đoạt lợi về kinh tế…).
Suy cho cùng, thì con người chỉ là một thụ tạo đi từ “không” đến “không” (từ tro bụi lại trở về với bụi tro). Sự hiện diện của con người trên trái đất chính là nhờ vào Tình Yêu Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, con người cần phải ý thức đến ngay chính thân xác mình cũng chỉ là món quà Tình Yêu do Thiên Chúa ban tặng. Thân xác ấy có tồn tại trên thế gian này nhiều lắm cũng chỉ là “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát) mà thôi. Cái thân xác ấy chỉ là phù du, vậy thì những danh vọng tạo được hoặc những của cải vật chất do chính thân xác ấy làm ra, thì cũng chỉ là những hư danh, những ảo ảnh, những thứ phù phiếm chóng qua mà thôi. Nhận chân được vấn đề, con người sẽ thấy được là mình đã “nhận về” từ Thiên Chúa tất cả (từ con người đến cuộc sống trần thế của mình) và mình phải có bổn phận đáp trả. Thiên Chúa không đòi hỏi sự đáp trả, vậy thì con người đáp trả bằng cách nào đây? Đó chính là “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).
Chính 2 bà goá trong các bài đọc hôm nay đã làm như vậy. Và như thế, 2 bà tuy không đọc vanh vách Thánh Kinh, nói thao thao Lề luật như các kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu, nhưng đã sống Lời Chúa một cách sinh động hơn ai hết. Nói đến sống Lời Chúa thì không gì bằng đến với hiện thân Lời Chúa mặc xác phàm: Ngôi Lời nhập thể. Bài Đọc II (Dt 9, 24-28) trong Thánh  lễ hôm nay đã nói rất rõ: Ngôi Lời Giê-su Ki-tô đã “lấy máu mình lập Giao Ước mới” (“Bởi vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa.”  – Dt 9, 15). Vì lòng thương yêu, Người đã đến trần gian lần thứ nhất thực hiện Giao Ước Mới bằng cách lấy chính Máu Thịt mình làm của Lễ Hy Sinh để cứu chuộc nhân loại, và “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9, 28).
Thánh Phao-lô đã rất chí lý khi đem chính bản thân đặt vào những giả thiết về tất cả mọi hành vi của con người – đặc biệt là hành động “cho” (bố thí) – khi thực hiện mà thiếu tình yêu thì cũng chẳng ích lợi gì (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẵng ích gì cho tôi.” – 1Cr 13, 3). Cuối cùng, Thánh nhân khẳng định: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1Cr 13, 13). Để được nên như người bạn trung thành tuyệt đối của Đức Ki-tô (Ki-tô hữu), thì mọi Ki-tô hữu hãy nhìn lại mình xem khi bố thí mình có “cho tay phải biết việc tay trái làm”, có “cho tay mặt bắt tay trái”, có thích “nhận về” hơn là “cho đi” hay không? Đồng thời cầu xin Chúa ban cho một đức tin vững mạnh, một lòng mến chân thành, để sống và hành động trong mọi việc, ở mọi nơi, trong mọi lúc, với tất cả tấm lòng “mến Chúa yêu người”, chớ không phải để được đề cao, để được ghi tên, khắc tuổi trên bảng vàng, bia đá cho người đời ca tụng.
Lời khuyên cuối cùng và thiết thực nhất dành cho kẻ viết bài này, xin được chia sẻ với anh em xa gần, đó là: “Đừng xoè tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi” (Hc 4, 31), mà “hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch” (Lc 11, 41). Ấy cũng bởi vì chính Ngôi Lời đã dạy: “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35) và Người đã thực hiện bằng Hy tế Thập giá trên đồi Can-vê. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin đẩy xa những gì cản bước tiến chúng con, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_B.
Lm. Antôn
Có câu chuyện về một người đàn bà sinh năm 1774 tại thành phố New York. Người đàn bà này có tên là Elizabeth Bayley. Năm 19 tuổi bà kết hôn với một thương gia tên là William Seton, cho nên bà có tên là Elizabeth Seton.Hai vợ chồng đạo Tin lành và có tất cả 5 người con. Sau đó, người chồng bị chứng bệnh lao phổi. Bác sĩ khuyên vợ chồng qua sống ở nước Ý, hy vọng khí hậu ấm ở đây sẽ giúp bệnh lao của ông thuyên giảm. Nhưng bệnh tình của ông càng ngày càng trầm trọng hơn và qua đời 2 năm sau đó. Nhờ sự quảng đại giúp đỡ của một gia đình người Ý Công giáo, bà và người con gái trở về Hoa kỳ. Sự quảng đại của gia đình người Ý này là động lực thúc đẩy bà Elizabeth tìn hiểu đạo Công giáo. Hai năm sau đó bà và các con được rửa tội theo đạo Công giáo. Sự gia nhập đạo Công giáo của bà và các con làm cho thân nhân và bạn bè xửng sốt, tức giận và từ bỏ bà.
Không nản chí, bà đã đi dạy học để nuôi 5 đứa con.  Và để tóm tắt, sau khi các con trưởng thành và lập gia đình, bà đã trở thành một nữ tu và là vị sáng lập chi nhánh dòng Các Nữ Tì Bác Ái ở Hoa Kỳ. Và chính dòng này đã khởi đầu cho hệ thống trường học Công giáo mà chúng ta thấy hiện nay. Có lần bà đã tâm sự rằng, “Tôi chỉ muốn tránh sự bon chen của xã hội, trong một cuộc sống đơn giản để cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa đã muốn tôi làm việc khác, do đó tôi phải vâng theo thánh ý Chúa hơn là ý tôi.”  Trong suốt thời gian này, bà đã hy sinh và cố gắng phát triển và củng cố đời sống của dòng, cũng như đặt một nền tảng vững chắc cho hệ thống giáo dục Công giáo.  Bà Elizabeth Seton qua đời năm 46 tuổi và được Đức giáo hoàng Phao-lô Đệ lục phong thánh ngày 4 tháng 9 năm 1975. Vị thánh đầu tiên của Giáo hội Công giáo Hoa kỳ.
Bà Elizabeth Seton khi còn sống chỉ là một goá phụ đơn sơ, nhưng đã dâng hiến tất cả những gì có trong cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, trở thành một con người phi thường lạ lùng, trở thành một khí cụ của Chúa, và là một món quà quí giá của Giáo hội, góp phần vào việc xây dựng Giáo hội và làm sáng danh Chúa. Như bà Elizabeth Seton, 2 người đàn bà góa trong những bài Kinh thánh hôm nay, đã hy sinh dâng hiến tất cả những gì mình có cho Chúa, với tấm lòng chân thành, vui mừng và yêu mến, và đã được Chúa trả công bội hậu. Cả ba bà góa đã dâng cho Chúa những gì cần thiết cho cuộc sống chứ không phải sự dư thừa.
Bài đọc 1 cho chúng ta biết, tiên tri Êlia bị đói khát trong lúc trốn tránh sự thù nghịch đã gặp bà góa ở xứ Sa-rep-ta và được bà cứu giúp.  Bà góa này đã dùng tất cả số bột bà còn lại để nuôi sống bà và đứa con trong cơn khốn khó, làm một chiếc bánh nhỏ cho ông ăn. Và Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh hạn hán đói khổ.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết câu truyện Chúa Giêsu gặp một bà góa trong đền Thờ Giêrusalem.  Bà đã dâng cúng vào đền thờ hai đồng kẽm là tất cả tài sản và là số tiền vừa đủ để nuôi sống bà.  Bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa đã vinh danh và khen bà dâng cúng nhiều hơn những người giàu có khác.
Chúng ta thường nghe nói của cho không bằng tấm lòng người cho.  Cho những gì cần thiết với  tấm lòng quảng đại, chân thành yêu thương và vui mừng, thì còn quý trọng hơn.  Hai bà góa còn được vinh danh vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và nhà Chúa, như những sự hy sinh quảng đại đóng góp và dâng cúng của chúng ta ngày nay.  Hay nói một cách khác, các bà được đề cao nhờ lòng mến Chúa và yêu người, thành tâm để thánh ý và kế hoạch của Chúa được thể hiện một cách thực tế trong cuộc sống con người trần gian.  Chính lòng yêu mến chân thành đã làm cho lòng quảng đại của hai bà góa có giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.
Như chúng ta đã từng nghe có 3 mẫu người cho. Mẫu người thứ nhất là những người giúp, cho hay đóng góp với thái độ khó chịu và bực tức.  Mẫu người thứ hai cho, giúp hay đóng góp một cách miễn cưỡng vì bổn phận, và mẫu người thứ ba đóng góp với thái độ hy sinh, vui mừng và quảng đại vì ý thức những gì có là do Chúa ban, cho nên muốn có đời sống tạ ơn và làm sáng danh Chúa.
Nhìn vào cuộc sống hôm nay và trong xã hội này, chúng ta ai cũng hiểu biết rằng tiền bạc rất cần thiết cho cuộc sống. Nên tiền bạc tự nó không xấu, rất hữu ích và giúp cuộc sống có giá trị.  Tiền bạc trở nên tốt hay xấu là do mục đích con người xử dụng nó.  Nếu xử dụng vào những việc xấu thì sẽ đem lại sự xấu cho chính mình, gây tai hại cho gia đình và xã hội.  Nhưng nếu được dùng vào những công việc tốt và bác ái thì đem lại những lợi ích cho chính mình, cho người khác, và nếu dùng vào việc thiêng liêng làm sáng danh Chúa như đóng góp, dâng cúng cho việc bác ái, cho việc xây dựng nhà thờ, thì tôi tin chắc chắn sẽ làm đẹp lòng Chúa và sẽ được Chúa trả công.
Vì yêu thương và muốn cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Người là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.  Và vì yêu thương con người tội lỗi chúng ta, Chúa Giê-su đã hiến dâng tất cả cuộc đời của Người trên thập giá như là một hy lễ để cho chúng ta được sống. Và cũng chính Chúa Giê-su, còn dâng chính Thân Thể Người cho chúng ta trên bàn thờ, như là của ăn nuôi sống linh hồn và bảo đảm cuộc sống vĩnh cửu cho chúng ta. Và cũng vì lòng nhân từ và quảng đại, Chúa ban cho chúng ta rất nhiều ơn lành hồn xác hơn lòng chúng ta mong ước.  Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương 2 bà goá trong Kinh thánh lời Chúa hôm nay có tấm lòng bác ái và quảng đại giúp đỡ, cho đi, đóng góp và dâng cúng với tấm lòng hy sinh và vui mừng, vào những việc đẹp lòng Chúa và làm sáng danh Người. Chúng ta tin Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta.
TẤM LÒNG
Lm. Giuse Nguyễn
Nhớ lại năm đi thử tại Họ đạo vùng quê, lúc đó cha sở đang xây nhà thờ nên có lần tôi được cùng với cha đi xin tiền ở một Giáo xứ lớn vùng Sài Gòn. Sau Thánh lễ, chúng tôi chia nhau ra đứng tại các cửa ra vào nhà thờ và cổng nhà thờ để nhận tiền của những ai muốn dâng xây dựng nhà thờ. Khi đứng xin tiền, có hai hình ảnh làm cho tôi phải suy nghĩ. Hình ảnh thứ nhất là của những người cho quá nhiều. Lúc đó đối với tôi, 500 ngàn là lớn lắm! Vậy mà có người móc trong túi ra 2 tờ năm trăm, có người 4 tờ, thậm chí có người 10 tờ. Lúc đó tôi bị choáng ngợp vì người ta quá giàu. Hình ảnh thứ hai là của những người cho ít ỏi. Có người cho 10 ngàn, có người cho 20 ngàn, có người cho 100 ngàn rồi lấy lại 50. Chính những người cho những đồng tiền ít ỏi này khiến tôi suy nghĩ: “Có 10 ngàn, 20 ngàn mà cũng bỏ vào, gặp mình là mình không bỏ đâu, người ta cười chết!” Vậy mới thấy được tấm lòng của người ta, có bao nhiêu cho bấy nhiêu, không sợ người khác chê cười. Có một hình ảnh mà cho tới bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được. Đó là một ông già bán cà rem, quảy cái thùng tới trước cửa nhà thờ, dừng lại xin tôi một tờ bướm. Sau khi xem xong nội dung của tờ bướm, ông ta bỏ thùng cà rem xuống, móc cái bọc trong túi quần ra, đếm, vuốt những đồng tiền lẻ nhàu nát rồi đến nói với tôi: “Quê tui ở Vị Thanh, gần nhà thờ này nè! Thấy dưới quê mình lên xin tiền xây nhà thờ mà tui không có nhiều. Thôi từ sáng tới giờ bán được bao nhiêu tui gởi hết, coi như tui gởi tấm lòng về quê vậy!” Thực sự là tôi nói tiếng cám ơn không nỗi, vì “tấm lòng” của ông quá nặng. Tôi không biết chính xác ông bỏ bao nhiêu, nhưng có lẽ chỉ vài chục ngàn, một thùng cà rem của ông. Thế mới thấy, thời nào cũng vậy, tấm lòng mới là thứ quý giá, mới đánh động người khác, và cũng là thứ có giá trị nhất. Phụng vụ lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1.    Bài Đọc I: 1V 17, 10-16
Hình ảnh bà góa thành Sarepta cho chúng ta thấy bà là người ngoại giáo, nhưng có tấm lòng quảng đại còn hơn những người Do Thái giáo thời bấy giờ nữa. Nghĩ cũng lạ, một người không quen, gặp mình ngoài cổng thành, kêu mình đi lấy nước cho người ta uống, vậy mà cũng đi. Hơn thế nữa, cho uống nước rồi, còn xin ăn bánh. Trời đất ơi, được voi đòi tiên! Vậy mà bà góa này không hề khó chịu, vẫn đối xử với ông ta một cách hòa nhã. Đó là tấm lòng của bà góa. Kế đến, bà đã cho tiên tri Êlia không phải những thứ dư thừa, mà cho chiếc bánh cuối cùng để nuôi sống hai mẹ con bà: “Ông ơi, ông hiểu dùm mẹ con tôi, chúng tôi chỉ còn có một chút bột và một chút dầu, đủ để làm cái bánh ăn trước khi chết để khỏi thành con ma đói.” Vậy mà nghe lời của tiên tri, bà đã làm cho ông ăn chiếc bánh cuối cùng đó. Cuối cùng, sở dĩ bà làm như thế là vì bà tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa của ông Êlia.
2. Tin Mừng: Mc 12, 41-44
Qua việc dâng cúng để xây cất đền thờ, Maccô đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh đối lập nhau dưới sự chứng kiến của Đức Giêsu. Hình ảnh thứ nhất là của những người giàu có dâng cúng rất nhiều tiền. Hình ảnh thứ hai là của bà góa nghèo khổ, bỏ vào thùng chỉ có hai đồng tiền kẽm, loại tiền có mệnh giá thấp nhất thời bấy giờ. Nếu tính ra tiền của người Rôma thì chỉ có một phần tư xu thôi. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa thì: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn hết”. Tại sao vậy? Thưa vì dù những người kia bỏ nhiều, nhưng là “tiền dư bạc thừa của họ”. Còn bà góa này dù bỏ ít, nhưng “lại là tất cả những gì bà có”.
Như vậy phụng vụ lời Chúa hôm nay không phải nhằm đề cao bà góa, vì thời nào cũng vậy, đều có bà góa tốt và bà góa xấu. Nhưng Kinh Thánh muốn dùng hình ảnh bà góa vì bà góa là một trong những đối tượng bị đối xử phân biệt trong xã hội thời bấy giờ. Và nhìn chung bà góa thì thiệt thòi hơn những người khác. Điều sâu xa mà Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta ngày là: Muốn của lễ được đẹp lòng Chúa, thì phải là của lễ do lòng hy sinh. Kế đến, hình ảnh của hai bà góa này cũng cho chúng ta thấy được sự dâng hiến trọn vẹn, dâng hiến tất cả những gì mình có. Khi chúng ta dâng của lễ hy sinh với tất cả những gì mình có, thì đó chính là tấm lòng của chúng ta.
II. TẤM LÒNG
1.    Sự hy sinh:
Rõ ràng vấn đề không phải nằm ở số tiền dâng cúng, mà ở cái giá người dâng cúng phải trả. Không phải là tầm cỡ của lễ vật, mà là sự hy sinh của người dâng cúng. Lòng hào hiệp của chúng ta là ở chỗ dâng hiến mà chính mình phải chịu thiệt thòi, mất mát. Dĩ nhiên việc dâng lễ vật ở đây không chỉ là vật chất, mà còn cả cuộc đời chúng ta phải là lễ vật dâng lên Thiên Chúa. Vì vậy giá trị cuộc đời của chúng ta không hệ tại ở chỗ chúng ta làm gì cho Chúa, làm ít hay làm nhiều, làm những chuyện nhỏ nhặt hay những chuyện lớn lao, mà ở chỗ chúng ta hy sinh đến mức nào.
Hai bà góa trong Phụng vụ lời Chúa hôm nay đều thể hiện rõ sự hy sinh, mất mát khi dâng hiến cho Thiên Chúa. Gương của những vị thánh, mỗi người một việc, dù là những việc lớn lao cho cả Giáo hội như  chân thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, hay những việc bác ái phi thường của mẹ Têrêxa Calcutta, hoặc chỉ âm thầm như chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nhưng tất cả đều chung một giá trị ở sự hy sinh, quên mình cho Chúa. Chính Đức Giêsu khi đến trần gian này cũng đã “Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”… Tất cả đều trở thành của lễ đẹp lòng dâng lên Thiên Chúa Cha.
Hành trình đức tin của chúng ta cũng đòi hỏi sự hy sinh gian khổ. Người giàu có sự hy sinh của người giàu. Người nghèo có sự hy sinh của người nghèo. Linh mục, tu sĩ có sự hy sinh của linh mục, tu sĩ. Giáo dân có sự hy sinh của giáo dân. Hy sinh cho gia đình, cho vợ chồng, con cái. Hy sinh cho họ đạo, cho đoàn chiên… Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả đều là sự hy sinh. Sáng sớm, tôi thức dậy đi lễ, trong khi tôi có quyền ngủ tiếp, đó là sự hy sinh. Ra làm cỏ ngoài đất thánh, nắng nôi, cực khổ, kiến cắn, vắt đeo, trong khi tôi có quyền ngồi đánh bài sướng muốn chết, đó là sự hy sinh. Bạn bè rủ đi nhậu, nhưng thôi, tôi đi làm việc Giáo xứ, đó là sự hy sinh. Một linh mục, một tu sĩ không thể được lòng hết tất cả mọi người: nhưng mỗi người đều có sự âm thầm hy sinh phục vụ trong khả năng và điều kiện Chúa cho… Tất cả sự hy sinh đó làm cho lễ vật cuộc đời chúng ta có ý nghĩa trước mặt Chúa. Bởi vì lễ vật đòi hỏi phải có sự hy sinh, đổ máu.
2.    Dâng hiến trọn vẹn:
Kế đến khi dâng lễ vật, chúng ta phải dâng hiến trọn vẹn. Bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay có thể giữ lại một đồng tiền, dù nó chẳng là bao, nhưng dù sao nó cũng còn một chút gì cho mình. Thế nhưng bà đã dâng hết tất cả những gì bà có. Đức Giêsu đã đổ đến giọt máu và nước cuối cùng cho nhân loại chúng ta. Ngài đã dâng hiến trọn vẹn… Điều tệ hại là chúng ta vẫn còn giữ lại một chút gì đó khi dâng hiến cho Thiên Chúa. Chính “một chút” đó đã làm cho lễ vật của chúng ta chưa trọn vẹn.
Một chút này có khi là sự ươn lười. Chúng ta muốn đọc kinh, đi lễ lắm và có quyết tâm đàng hoàng, nhưng đến giờ bỗng nhiên lười biếng, nên thôi ở nhà. Rõ ràng chúng ta đã dâng cho Chúa nhưng chưa dâng tất cả. Một chút này có khi là sự tiếc nuối. Muốn bỏ bài bạc rượu chè lắm nên đã đi xưng tội và đã quyết tâm bỏ, nhưng khi có người rủ rê, lôi kéo, chúng ta lại cảm thấy tiếc nuối  và thế là trở lại con đường cũ…
Chúng ta có thể cảm nhận được rất rõ, dù cho mình không có gì, nhưng khi dâng tất cả cho Chúa, Ngài sẽ dùng để làm nhiều việc vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Ngược lại, nhiều khi chỉ vì những cái tiếc nuối nho nhỏ mà làm cho chúng ta không được trọn lành.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh của hai bà góa đã làm đẹp lòng Chúa do hai bà đã dâng lên Thiên Chúa tấm lòng của mình. Tấm lòng đó được thể hiện bởi sự hy sinh và dâng hiến trọn vẹn. Từ đó mời gọi chúng ta cũng hãy biết sống hết lòng trong hành trình đức tin của mình, khi chúng ta chấp nhận hy sinh, gian khổ, chấp nhận cho đi tất cả.
Xin ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse cho mỗi người chúng con biết sống thật lòng với Chúa, để nhờ đó dâng cho Chúa trọn vẹn cả tấm lòng của chúng con. Tấm lòng này nhiều khi chỉ là những mồ hôi, nước mắt; những cố gắng đến mỏi mòn trong đời sống đức tin, nhưng dù như thế nào chúng con vẫn không nản lòng mà vẫn tiếp tục dâng hiến trọn vẹn cho Chúa.
QUẢNG ĐẠI
Lm. Thái Sơn
Chuyện vui kể rằng, có hai sinh viên người Liên Xô và Trung Quốc chung phòng, do không hợp tính nên rất ghét nhau. Hàng ngày, anh Liên Xô lén ‘tè’ vào chăn của anh Trung Quốc.
Anh Trung Quốc vẫn tỏ vẻ như không có chuyện gì xảy ra và lặng lẽ mang chăn đi giặt. Sự việc cứ tiếp diễn, cho đến một hôm anh Liên Xô đang uống trà vui vẻ nói với anh Trung Quốc:
“Bạn thật là quảng đại. Tôi thật sự ân hận về việc đã ‘tè’ vào chăn của bạn. Tôi xin lỗi bạn và hứa từ nay không làm vậy nữa”.
Anh Trung Quốc thản nhiên trả lời: “Vậy thì hàng ngày, tôi sẽ không ‘tè’ vào ấm trà của bạn nữa”.
Thưa các bạn!
Người ta thường nói: Thâm như Trung Quốc. Thiết tưởng, biết nó đâm mình còn có thể đỡ được, nó mà đâm trộm ai mà đỡ nổi.
Phải chăng, ngày nay hiếm có người bao dung, rộng lượng, hay quảng đại với nhau? Sống không tranh chấp, chẳng đố kỵ được sử sách lưu danh, người người kính trọng.
Lời Chúa tuần 32 Thường Niên B nói đến người phụ nữ vừa góa lại nghèo, thế nhưng có lòng quảng đại, dám cho đi những gì mình có, dám chia sẻ với kẻ nghèo hơn mình…
Với lòng quảng đại của bà góa nghèo Xarepta, có thể nói “bột đức tin” và “dầu đức ái” mà bà đã chia sẻ cho tiên tri Elia và đã mang lại thứ “bánh thơm tho”, “bánh bồi bổ”, “bánh dinh dưỡng” nhất.
Với lòng quảng đại của bà góa nghèo trong Tin Mừng, có thể nói bằng cả tấm lòng chân thật, dù số lượng rất ít, nhưng chất lượng rất nhiều, dâng cúng rộng lượng, không so đo tính toán nhỏ to…
Có thể nói, lòng quảng đại là khởi đầu của những điều hết sức kỳ diệu và dẫn đến công việc lớn lao… với đồng xu nhỏ nhưng có tình yêu lớn đã đạt được kết quả mỹ mãn, đáng mọi người ca ngợi…
Bằng chứng, Đức Giêsu đã chỉ cho các môn đệ biết: “Thầy bảo thật anh em, bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).
Thưa các bạn!
Khi có “đức tin & đức mến”, người ta dễ dàng chia sẻ, trao ban và nâng đỡ nhau, với tinh thần “lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát”. Ai đó đã xác quyết:
“Khi tin, tôi sẽ dám gởi trao.
Khi tôi chân thành, tuyệt vọng sẽ dừng bước.
Khi tôi yêu mến, sẽ dám cho đi chính bản thân”.
Phận người thật mỏng manh và con người thật yếu đuối, nếu chỉ dựa vào riêng khả năng của mình. Đức tin & lòng mến sẽ là “đôi chân” đứng vững trước sóng gió của cuộc đời.
Thật vậy, nếu không có đức tin vững vàng và lòng mến tha thiết, thì “bạn & tôi” sẽ đi vào con đường lầm lạc, lựa chọn khó khăn, như mẩu chuyện vui dưới đây để kết luận.
Thầy giáo hỏi học sinh: “Nếu thấy một túi đạo đức và một túi tiền ở đường thì em nhặt túi nào?”
Trò không suy nghĩ, trả lời luôn: “Thưa thầy, em nhặt túi tiền”.
Thầy liền nói: “Nếu như là thầy thì thầy sẽ nhặt túi đạo đức. Vậy vì sao em lại nhặt túi tiền?”.
Trò vội đáp: “Thì em nghĩ ai thiếu gì thì nhặt thứ ấy!”…
Xin Chúa ban ơn “đức tin & đức ái” chân thật để “bạn & tôi” chọn lựa và chung sống bao dung và quảng đại hơn. Amen
CỦA CHO VÀ CÁCH CHO
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lời Chúa hôm nay nói đến hai người phụ nữ goá bụa. Một người ở thành Sarepta thời ngôn sứ Êlia, một người thời Chúa Giêsu. Mỗi người một cách, cả hai đều quảng đại và chân thành. Trong truyền thống Do Thái thời xưa, người phụ nữ goá bụa bị coi như đồ bị chúc dữ (x. Tb 3,7-9). Họ phải chấp nhận rất nhiều thiệt thòi trong đời sống hằng ngày và trong những sinh hoạt cộng đồng. Vậy mà Lời Chúa hôm nay lại muốn khẳng định với chúng ta: Họ là những người đáng tôn trọng, bởi họ đã có những nghĩa cử đẹp. Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều diễn tả Thiên Chúa là Đấng yêu thương bênh vực những người goá bụa, cô nhi và kẻ cô thân cô thế. Ngài là chỗ dựa cho họ. Các ngôn sứ và các tác giả Thánh vịnh còn khẳng định rõ: ai đối xử bất công với những người thiệt thòi này sẽ bị Thiên Chúa báo oán.
 
Người phụ nữ thời ngôn sứ Êlia, nghèo đến mức chỉ còn một chút bột và chút dầu trong bình, nhưng cũng sẵn sàng quảng đại làm cho vị ngôn sứ tấm bánh. Tấm bánh mà bà tặng cho vị ngôn sứ là tất cả những gì bà có, là niềm hy vọng cuối cùng của hai mẹ con bà. Vậy mà bà sẵn sàng hy sinh tất cả. Sự hy sinh của bà đã được ghi nhận và thưởng công ngay lập tức. Từ đó, hũ bột của bà không vơi và bình dầu của bà không cạn cho đến khi mưa xuống trên xứ sở.
Người phụ nữ thứ hai được nhắc đến trong Tin Mừng cũng là người đàn bà goá nghèo. Bà công đức vào Đền thờ chỉ vẻn vẹn hai đồng tiền kẽm, là số tiền rất nhỏ so với giá trị tài chính, nhưng Chúa Giêsu khẳng định: Bà đã dâng cúng tất cả mình có với lòng quảng đại và như thế có nghĩa bà bỏ nhiều hơn những người giàu có. Tác giả Tin Mừng cũng nhắc đến sự tương phản trong thái độ và y phục của những người cùng bước vào Đền thờ hôm ấy: trước hết là những kinh sư súng sính trong bộ áo thụng để phô trương và biểu diễn, rồi đến những người giàu có vênh vang khoe của. Bên cạnh họ, người đàn bà goá khiêm hạ, chỉ công đức được một chút tiền bạc. Tấm lòng của bà đã được ghi nhận, của cho không bằng cách cho.
 
Lời Chúa hôm nay muốn lưu ý chúng ta hãy thay đổi cách nhận định về một con người hay một sự việc. Thông thường, chúng ta hay quan sát và đánh giá theo những dáng vẻ bên ngoài. Tuy vậy, con người phải được tôn trọng trước hết là vì nhân phẩm của họ, rồi đến tư cách đạo đức và tấm lòng chân thành của họ đối với những người xung quanh. Sự thận trọng trong nhận định sẽ giúp ta tránh mọi sai lầm đáng tiếc, và tránh những thiệt hại cho những người có liên quan.
 
Lời Chúa cũng nhắc bảo chúng ta, nghĩa cử chia sẻ luôn có giá trị trước mặt Chúa và giúp bản thân chúng ta nên hoàn thiện. Chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh. Những gì chúng ta giúp đỡ người bất hạnh, sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an thanh thản trong tâm hồn. Nghĩa cử chia sẻ của chúng ta giống như lửa, càng cho đi, càng lan rộng mà không hề mất đi.
 
Tác giả thư Do Thái mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng Đức Giêsu Thượng tế. Người đã hy sinh vì tội lỗi nhân loại. Người đã mang trên thân mình tất cả những đau khổ đáng lẽ chúng ta phải chịu, để nhờ đau khổ của Người mà chúng ta được hạnh phúc và bình an. Noi gương Chúa, chúng ta hãy hy sinh, chia sẻ, cho đi chính sức lực, thời gian, tinh thần, vật chất, để đem lại cho cuộc sống này nhiều niềm vui.
ÁNH MẮT THIÊN CHÚA
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Tâm hồn thế nào sẽ bộc lộ ra trong ánh mắt thế ấy. Hôm nay, Chúa Giêsu ngồi trước cửa đền thờ Giêrusalem quan sát những người bỏ tiền vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Người đã thấy. Và đã phán đoán. Qua cách quan sát và phán đoán ta có thể thấy được tâm hồn của Người.
Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ. Hàng hàng lớp lớp người tiến đến dâng cúng. Tin Mừng thuật lại: “Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma”. Thật lạ lùng. Biết bao nhiêu người Chúa chẳng quan tâm, chỉ quan tâm tới một người bé nhỏ nhất. Chúa chỉ quan tâm tới một người nghèo nhất. Một bà góa. Bà góa này chắc chắn phải gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nhưng Chúa đã chú ý đến bà. Người ta bảo tìm gì gặp nấy. Chúa yêu thương những người bé nhỏ, nên quan tâm tới người bé nhỏ và chỉ nhìn thấy những người bé nhỏ. Ánh mắt quan tâm nên nhìn thấy rõ, dù người đó bé nhỏ, lạc giữa đám đông. Ánh mắt yêu thương nên thấy người đó thật đẹp dù ăn mặc rất đơn sơ, hình dáng rất tiều tụy. Quả thật trái tim Chúa nhân hiền như người mục tử tốt lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc còm cõi. Như người phụ nữ đốt đèn tìm một đồng tiền nhỏ bé rơi trong góc nhà.
Chúa nhìn bên trong tâm hồn. Biết bao người giàu sang béo tốt quần là áo lụa, nhưng Chúa không nhìn. Chúa chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy gò, rách rưới. Biết bao người dâng cúng tiền rừng bạc biển mà Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen người phụ nữ bỏ vào thùng tiền hai đồng xu nhỏ. Không những khen mà Chúa còn cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác. Thì ra Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Chúa cho biết tại sao Chúa khen bà: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Chúa đã nhìn thấu tâm hồn của bà. Một tâm hồn thiết tha yêu mến Chúa và với công việc nhà Chúa. Chúa đã thấy tấm lòng của bà. Một tấm lòng quảng đại dám cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay vừa cảnh tỉnh tôi vừa dạy dỗ tôi về cách sống đạo và về cách nhìn người.
Về cách nhìn người, Chúa dạy tôi đừng chạy theo những người giàu sang phú quý quyền cao chức trọng, nhưng hãy biết chú ý tới những người bé nhỏ nghèo hèn trong xã hội. Đừng xét đoán người theo hình dáng bề ngoài, theo y phục hay theo tiền của. Hãy biết nhìn bên trong tâm hồn con người. Có những người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp hèn. Có những người nghèo hèn nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khó nhưng rất quảng đại.
Vì thế trong đời sống đạo, Chúa dạy tôi đừng giả hình vì Chúa nhìn thấu rõ tâm hồn. Tôi có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Chúa. Đừng khoe khoang kiêu ngạo vì Chúa chỉ yêu thích tâm hồn bé nhỏ khiêm nhường. Đừng tìm chỗ đứng trong xã hội, trước mặt người đời, nhưng hãy tìm chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết noi gương bà góa nghèo, biết sống đơn sơ chân thật, nhưng luôn quảng đại với Chúa và với anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong Phúc Âm ta thấy Chúa quan tâm tới những người nào?
2- Chúa đánh giá người ta theo hình dáng bên ngoài hay tâm tình bên trong?
3- Vì sao Chúa khen bà goá dù bà bỏ rất ít tiền vào nhà thờ?
4- Bản thân tôi rút được bài học gì qua bài Tin Mừng hôm nay?
CHO BẰNG TẤM LÒNG
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Khi ở miền quê tôi rât thích hình ảnh một bà cụ khệ nệ ôm nải chuối đến biếu cha. Đó là hình ảnh bà ôm cả tấm lòng dành cho cha. Rất đáng quý, rất đáng trân trọng. Nói là ôm cả tấm lòng vì khi gia đình có cây chuối ra hoa, ra buồng, họ đã nghĩ đến để dành cho ai. Khi ra bẹ chuối họ cũng nghĩ phải chọn bẹ chuối nào dành cho cha. Và rồi nâng niu nải chuối ngon nhất để mang biếu cha, đó là ôm trọn một tấm lòng chân thành thật quý giá!
Hình ảnh ấy khiến tôi cũng nhớ tới một bà cụ rất đơn sơ. Ngày tết bà ra chúc tuổi tôi. Bà nói: Nhà con có cây xoài ra trái. Con để dành trái xoài to nhất để mang tết cha. Thế mà đến ngày 28 tết trộm nó hái mất rồi! Con chẳng còn gì để biếu cha. Nghe cũng vui nên tôi nói với bà cụ: Bà đã dành cho cha cả tấm lòng rồi. Xin cám ơn bà.
Quả thực, người ta nói “của cho không bằng cách cho”. Giá trị của món quà không nằm ở giá trị đồng tiền mà quan yếu là ở tấm lòng dành cho nhau. Những người cần công việc họ biếu quà cho cấp trên hàng triệu nhưng không có tấm lòng. Quà họ biếu có toan tính lợi nhuận. Quà của họ không có tình yêu.
Quà tặng chỉ có giá trị khi nó mang cả tấm lòng yêu mến tri ân. Đó mới là món quà vô giá. Món quà nồng thắm tình yêu. Món quà không dựa trên giá trị đồng tiền mà hệ tại ở tấm lòng. Thế nên, đừng bao giờ nghĩ mình có thật nhiều tiền mới giúp cha giúp mẹ, mới mua quà bánh cho ông bà.  . . Đừng cầu mong trúng số mới làm việc bác ái, mới đóng góp xây dựng giáo xứ . . .
Nếu như vậy, có lẽ chúng ta sẽ khó có cơ hội giúp đỡ tha nhân. Hãy thi ân trong khả năng của mình. Hãy làm việc thiện khi có cơ hội, đừng đợi chờ những chuyện ngoài tầm tay. Chúng ta không nên hứa hẹn hay chờ đợi ngày mai, mà ngay hôm nay hãy làm những việc tầm thường như: giúp một người già qua đường, lượm một cây đinh sét vương vãi trên đường, thăm viếng kẻ yếu đau . . .
Thiên Chúa sẽ nhìn tấm lòng chúng ta như Chúa đã nhìn thấy tấm lòng thành của Abel. Ngài đã vui nhận lễ vật của Abel, vì Ngài thấy ở đó có lòng thành tri ân. Thiên Chúa đã khinh dể lễ vật của Cain vì lễ dâng của ông không có lòng thành. Vì Ngài là Đấng thấu suốt tâm can. Ngài sẽ chúc phúc cho những lễ vật đơn hèn nhưng gói trọn tình yêu.
Hôm nay trong đền thờ khi mà nhiều người bỏ tiền dâng cúng, Chúa Giê-su chỉ nhìn thấy nơi bà góa tấm lòng thành. Bà bỏ tiền ít nhưng nồng ép vào đó cả tấm lòng thành. Bà không giầu của cải nhưng bà giầu tấm lòng. Bà biết tất cả là của Chúa ban, thế nên phải dâng lại cho Chúa là lẽ thường tình. Lễ vật của bà không giầu tiền bạc nhưng lại rộng lượng tấm lòng.
Xin cho chúng ta hiểu rằng tất cả là của Chúa. Cuộc sống của chúng ta là do Chúa ban. Hãy dâng tặng cho Chúa trong những công việc chung của Giáo hội, nhất là chia sẻ cho những người bất hạnh cơ hàn. Xin đừng đóng cửa lòng mình trong ích kỷ tham lam. Amen
HAI ĐỒNG ÂN PHÚC
Lm. Jos. DĐH

Từ xa xưa, ăn ngon mặc đẹp vẫn được coi là “cái thú” của giai cấp giầu có địa vị, họ cần hiểu biết ăn diện thế nào cho đúng phong cách để không ai xem thường. Rất có thể vì quan niệm xem mặt đặt tên, khiến cho việc ăn mặc bị lạm dụng, ăn thì thích ngồi chỗ nhất, mặc phải kiểu cách, khác người, ra đường thì muốn được người ta chào hỏi, kính trọng. Cũng từ việc ăn mặc, thói đạo đức giả, làm ảnh hưởng xấu đến nhiều sinh hoạt cộng đồng, nơi hội đường và đền thờ, tính tham lam ích kỷ làm mất đi sự linh thánh.
Vào hôm đó, Chúa Giêsu quan sát thấy rất nhiều người bỏ tiền vào hòm công đức ở hội đường, hẳn không phải vì họ dâng cúng ít tiền, nhưng là vì Chúa phát hiện ra việc làm của họ không có tình yêu. Như một sự vô tư có mặt ở hội đường năm ấy, Chúa Giêsu nhận ra tấm lòng của bà góa nghèo, chỉ với 2 đồng tiền nhỏ bé, Ngài đã cho các môn đệ biết là bà đã bỏ vào hòm công đức nhiều hơn cả. Nhận xét ấy, ân phúc đó, cho thấy : Thiên Chúa biết rõ tấm lòng của từng người, Ngài muốn tình yêu chớ không cần hy lễ,
Hai đồng ân phúc của bà góa nghèo, chắc chắn đang tác động đến việc sống đạo của con người, 2 đồng tiền nhỏ đó vẫn an ủi những ai đang nghèo khổ, vẫn thức tỉnh người giầu về cách sử dụng tiền của cách hữu ích nhất. Lý do Chúa Giêsu quan tâm đến 2 đồng “tiền còm” của bà góa, vì bà đã dâng trọn cả tình yêu gói ghém trong gia sản mà bà dâng cúng. Thật trong lòng mới quí, giả trong tim mới đáng sợ; câu thành ngữ ấy nhiều người chúng ta đã nghe và đã cảm nhận về cách cư xử ở đời này.
Đánh giá về phẩm về lượng, về tính thật giả, tình nhẹ hay tình nặng…., chúng ta không thể cân đo đong đếm được. Nhưng người xưa luôn có những lời khuyên xác đáng : đừng ăn quá miệng, đừng diện quá trán; hoặc lương thiện là đồng tiền duy nhất có thể hỗ trợ ta đi khắp thế giới. Cụ Nguyễn Du cũng khích lệ hậu thế chúng ta : thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Hãy trải lòng mình với tha nhân, như thế ta sẽ thấy cuộc sống giá trị hơn. Để lưu ý đám đông về “chữ tâm”, Chúa Giêsu cho thấy biết bao người giầu tiền lắm của, nhưng họ công đức, chia sẻ những thứ dư thừa, có của mà không có lòng, có làm phúc bố thí mà thiếu tình, thiếu nghĩa cũng như không.
Khi đưa ra lối sống giả dối, tính cách phô trương hình thức, Chúa Giêsu không có ý nhằm hạ nhục người giầu có chức quyền, đúng hơn Chúa cảnh tỉnh để chúng ta hãy sống thật với lòng mình : tự khiêm người ta càng phục, tự khoe người ta càng khinh. Ngày hôm nay, nhiều người cho rằng : khối óc là phương tiện để suy tư, muốn giầu, muốn thành đạt, phải có chí, có tâm, biết sử dụng chất xám cách hài hòa. Một số lại chủ trương : cứ tà tà, cái gì thái quá cũng hư bột hư đường, hay có đức mặc sức mà ăn, nghĩa là có đạo, có đức, ta sẽ có tất cả. Hãy tùy hoàn cảnh, ta hãy mạnh dạn đặt tình yêu vào hành động chân thực của mình.
Lên tiếng về cách sống đạo của đám đông Do-thái, Chúa Giêsu cũng không có ý lên án người giầu, hay khen người nghèo, mà Chúa để cao tấm lòng, dù có phần hơi trừu tượng, nhưng từ 2 đồng tiền nhỏ bé, Chúa đã cho thấy nét cao đẹp của tâm hồn bà góa. Mẫu thuẫn ở đời chúng ta thường gặp : có những người xét thấy họ nghèo hèn thật, nhưng cách cư xử và sự cho đi không tính toán, để rồi không ai nghĩ là họ nghèo. Có những người nhà to cửa rộng, trình độ học thức cao, nhưng chẳng ai muốn tiếp xúc, vào họ sống như một người nghèo và cô đơn chẳng có bạn bè thân thiết.
Dâng cúng tiền của nhiều ít vào hòm công đức, không phải là chuyện mới lạ đối với người Kitô hữu, có khác hơn là ta có ý thức đặt tấm lòng, đặt tình yêu vào các việc làm phúc đức không ? Tại hội đường năm xưa, Chúa Giêsu đề cao tấm lòng của bà góa nghèo với 2 đồng tiền “ân phúc”, tại cuộc sống hoặc nơi tâm hồn của chúng ta Chúa đang nhìn rất rõ về tương quan yêu thương của mỗi người. Hôm nay Chúa không hiện diện cách hữu hình để khen thưởng việc dâng cúng của ta, cũng không ai để “camera” ghi nhận lại việc bác ái tông đồ của cuộc đời ta, nhưng Chúa vẫn thấy và ghi nhận “ân phúc” cho từng người ta.
Hai đồng bạc “nhỏ bé” của bà góa nghèo sẽ còn được nhắc mãi cho đến khi thế giới hiện tượng này không còn nữa. Lòng quảng đại và đức ái của từng người Kitô hữu chúng ta chia sẻ hôm nay, hẳn còn được tồn tại muôn đời, dù ta có nhắm mắt xuôi tay, Chúa vẫn nhớ. Bà góa nghèo tiền của, nhưng lòng không nghèo, bà góa có thể thiếu tiền nhưng không thiếu tình. Chúng ta ở đây, hẳn ai cũng tài giỏi, giầu có địa vị hơn bà góa năm xưa, ai trong chúng ta cũng có thể cho đi một chút tiền, chia sẻ một chút tình, làm nhiều việc bác ái tông đồ ở mọi hoàn cảnh, điều đáng nói là ta có thực tâm để sống lời mời gọi của Chúa không ? Chúa chẳng đòi hỏi ta phải chiến thắng, nhưng Chúa cần ta trung thực, Chúa không bắt buộc ta thành công, nhưng Chúa muốn ta hãy nỗ lực hết mình. Hy vọng tấm lòng yêu mến và tinh thần xây dựng gia đình giáo hội của chúng ta, sẽ tiếp tục được Chúa chúc phúc, ghi nhận. Amen.
ĐỒNG KẼM ĐỒNG XU CỦA TÔI ĐÂU?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong những ngày cuối niên lịch phụng vụ, khi mà Hội Thánh muốn mọi Ki-tô hữu suy niệm nhiều về các chân lý thời sau hết (tứ chung), chúng ta được mời gọi hướng tư tưởng về ngày ‘phán xét’, khi mỗi người đều phải ‘đứng trước mặt vị thẩm phán chí công’. Để chuẩn bị cho ngày đó, vấn nạn sẽ là: vị Thẩm Phán sẽ dùng tiêu chuẩn nào để phán xét tôi, cái ‘chí công’ của Ngài sẽ ra sao? Trình thuật Mác-cô hôm nay về ‘đồng xu đồng kẽm của bà góa’ được đặt ngay trước bài giảng dài về cánh chung trong chương 13, chắc hẳn phải soi chiếu một điều gì đó vào các vấn nạn trên. Mong rằng nó sẽ mang lại một giải đáp đầy an ủi mang tính Tin Mừng thật sự cho cái viễn tượng phán xét, thường vẫn tạo nên bao hãi hùng kinh khiếp.
Thẩm Phán chí công sẽ xét xử theo tiêu chuẩn nào? Người ta vẫn thường dạy rằng Thiên Chúa phán xét mỗi người theo công tội họ đã làm trong cuộc sống: nếu là người lương thiện ngay lành, tôi sẽ được thưởng, còn nếu làm điều dữ điều trái, tôi sẽ bị luận phạt muôn đời muôn kiếp. Căn cứ theo tiêu chuẩn này, tôi sẽ là người hoàn toàn trách nhiệm và chủ động về thưởng phạt; ơn thánh Chúa nếu có, cũng chỉ đóng vai trò trợ giúp. Tuy nhiên Giáo lý Công giáo lại dạy rằng, ơn cứu độ của Đức Ki-tô là cần thiết (essential) cho hết thảy mọi người, vì mọi người đều phạm tội. Nếu quả thật như thế, thì quan niệm phán xét trên có cái gì đó không ổn! Không một ai, cho dầu có cố gắng tu luyện tới đâu đi nữa, có thể ra trước tòa phán xét ‘xúng xính trong bộ áo thụng… đáng chiếm ghế danh dự’ vì đinh ninh rằng khi còn sống mình đã thu tích đủ ‘công nghiệp’ để đáng được thưởng công. Trước mặt vị Thẩm phán chí thánh chí công đó, mọi người đều chỉ là: ‘đầy tớ vô dụng’ (Lc 17:10). Thế nhưng may mắn thay trong ngày phán xét, vị Thẩm Phán lại cũng chính là Giê-su đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Người sẽ không khen thưởng những kẻ bỏ thật nhiều tiền vào thùng, nhưng lại đề cao ‘một bà góa nghèo’, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ ‘hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu’ mà bà đã ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’. Như thế để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ra trước vị Thẩm Phán chí công, tôi rất cần biết cái ‘rút ra từ cái túng thiếu của mình’ đó có nghĩa là gì? Làm thế nào để Ngài cũng sẽ gọi các thần thánh lại, chỉ vào tôi và nói: “tên nghèo nàn đốn mạt này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”!
‘Đồng tiền kẽm… rút ra từ cái túng thiếu’ chắc chắn không phải là: các việc lành phúc đức tôi đã làm được trong đời, các thành công hoành tráng để có thể xứng đáng được ‘người ta chào hỏi’ tung hô trên thiên quốc; đó phải mãi mãi vẫn là những gì vô giá trị như đồng kẽm, đồng xu trước mặt người đời, nhưng lại vô cùng quí hóa trước mặt Thiên Chúa từ nhân. Phải chăng đó là: những cố gắng, những nỗ lực vươn lên khỏi sự thấp hèn yếu đuối tột cùng của mình… nhưng đã thất bại, vẫn hoàn toàn sụp đổ chẳng đi tới đâu. Sẽ chẳng bao giờ có ai trong đời, ngay cả chính tôi, đánh giá cao những điều đó, nếu không có cặp mắt ‘quan sát’ vô cùng chí công nhưng rất mực nhân hậu của Đức Ki-tô từ nhân. Có thể như phần đa mọi người, tôi phải thừa nhận: bất chấp những nỗ lực cố gắng, đời mình thành đạt không nhiều, nhưng thất bại thì lắm; “Điều tôi muốn thì tôi không làm, còn điều tôi ghét thì tôi cứ làm’ (Rm 7:15). Rất nhiều khi tôi thấy mặc cảm và thất vọng vô cùng về các yếu đuối, sa ngã mình vướng mắc. May mắn thay, trong niềm tin vào Thiên Chúa từ nhân, suy đi nghĩ lại, tôi còn thấy: đời mình – và rất có thể nhiều mảnh đời khác cũng thế – không thiếu những đồng kẽm đồng xu của các nỗ lực vô vọng này; vì tuy được tạo dựng ‘nhân chi sơ tính bản thiện’, và mang trong người ‘hình ảnh của Thiên Chúa’, kiếp sống ô trọc nào mà không tránh khỏi các bất toàn yếu đuối? Do đó điều quan trọng nhất trong đời chưa hẳn là tránh được tội lỗi, nhưng là làm sao tranh thủ được cặp mắt ‘quan sát’ đầy từ tâm ấy, cặp mắt từng nhận ra giá trị của ‘đồng kẽm’ nơi bà góa, đồng xu nơi Phê-rô, nhưng lại không tìm thấy nơi các Biệt phái, thượng tế. Chỉ có thế thôi, và ngày phán xét sẽ đâu còn gì đáng sợ nữa!
Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta hay lặp lại câu nói sau đây: “Chúa không muốn nhìn thấy bao nhiêu việc bác ái tôi đã làm, nhưng ngài muốn nhìn thấy bao nhiêu bác ái tôi đã nỗ lực đem vào các công việc của tôi”. Hình như Lời Chúa hôm nay cũng nhắc lại cùng một chân lý đó: Chúa không phán xét tôi căn cứ vào những gì tôi đạt được, nhưng cặp mắt nhân ái của Người muốn tìm thấy nơi tôi những đồng kẽm nhỏ nhoi của nỗ lực vươn lên thầm kín trong mọi tình huống cuộc đời. “Còn bà này thì rút ra từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản” hẳn mang nội dung rất an ủi đó chăng?
Nếu quả là như thế thì, cho những người yếu đuối và tội lỗi như tôi, Tin Mừng đích thực là đây: Tim Mừng có khả năng làm cho đứa con hoang đàng hay tên cướp bị tử hình trên thập giá thay vì hãi sợ, sẽ ra trước vị Thẩm Phán ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi’ (Lc 21:28).
“Hãy tạ ơn Chúa vì ngài nhân lành, vì tình thương của ngài bền vững muôn năm!” Lạy Chúa, con muốn cất lời ca ngợi lòng thương xót hải hà của Chúa, khi sống và nhất là trong giờ chết. Lòng thương xót đó cho phép con không mặc cảm trước những yếu đuối thiếu sót của mình, hơn nữa còn có khả năng biến chúng thành nguồn an ủi và hy vọng cho đến muôn đời. Xin cho con đừng bao giờ xa rời cặp mắt yêu thương đó, bây giờ và trong giờ lâm tử. A-men.
NHỎ MÀ TO
Trầm Thiên Thu
Cuộc sống có nhiều thứ không như chúng ta tưởng. Có những thứ nghịch mà thuận, nhỏ mà vĩ đại, ít mà dồi dào, thấp mà ai cũng phải ngước nhìn,…
Thật vậy, toán học trên Nước Trời hoàn toàn khác với toán học ở thế gian, cách tính của Chúa Giêsu trái ngược với cách tính của chúng ta. Có một ví dụ thú vị mà các triết gia đã tốn nhiều công sức để phân định xem một ly nước “BỊ cạn một nửa” hay “ĐƯỢC đầy một nửa”.
Đối với người bi quan, ly nước bị cạn một nửa và họ lo sợ ly đó sẽ tiếp tục cạn nữa. Đối với người lạc quan, ly nước được đầy một nửa và họ hy vọng ly đó sẽ được đổ thêm cho đầy hơn. Quan điểm hay thế giới quan là điều khó thay đổi vì nó chính là lăng kính mà chúng ta qua đó nhìn mọi sự vật, sự kiện xảy ra xung quanh.  Cái cốc trong mắt người bi quan sẽ không bao giờ đầy và cái cốc trong mắt người lạc quan sẽ không bao giờ cạn.
Góa là tình trạng của một người đã lập gia đình nhưng chết vợ hoặc chết chồng – góa bụa. Nhưng người ta thường nói về phụ nữ: Bà góa, góa phụ, quả phụ. Góa phụ và quả phụ đều là phụ nữ chết chồng – có thể có con hoặc không, và có khác một chút xíu: Quả phụ là người còn trẻ, Góa phụ là người đã luống tuổi. Kể cũng lạ, “gà trống nuôi con” thì người ta thấy thương cảm, còn “gà mái nuôi con” thì người ta lại thấy… bình thường! Loại phụ nữ góa bụa thường bị xã hội coi thường, xưa cũng như nay, vì vậy mà họ cũng thường cảm thấy cô độc và tự ti mặc cảm. Thế nhưng hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa lại đề cao con người khốn khổ này.
Trình thuật 1 V 17:10-16 kể về một bà góa tốt bụng đã nuôi ngôn sứ Ê-li-a.
Sau một thời gian hạn hán, Đức Chúa bảo ông Ê-li-a đi Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, và ở lại đấy, rồi sẽ có một bà goá ở đó nuôi ông. Thế là ông đi ngay. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và xin nước uống. Bà ấy liền đi lấy nước cho ông uống, xong rồi ông bảo bà cho ông xin miếng bánh. Bà lấy danh Thiên Chúa mà thề thật lòng là bà không có bánh, chỉ còn nắm bột và chút dầu trong vò, bà đi lượm vài thanh củi về nhà nấu nướng cho mẹ con bà ăn bữa cuối rồi chờ chết. Ông Ê-li-a bảo bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói, nhưng trước tiên bà phải làm một chiếc bánh nhỏ cho ông ăn trước, rồi sau đó bà sẽ làm cho mẹ con bà. Ông cho biết rằng Thiên Chúa đã hứa là hũ bột sẽ không vơi vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Ngài đổ mưa xuống trên mặt đất.
Bà góa đã và làm như ông Ê-li-a nói. Thế là mẹ con bà và ông Ê-li-a có đủ ăn lâu ngày vì hũ bột không vơi và vò dầu chẳng cạn đúng như lời Đức Chúa đã hứa.
Chỉ có Thiên Chúa làm được như vậy, vì Ngài là Tạo Hóa duy nhất, chẳng có thần thánh nào khác. Người Việt chúng ta, kể cả những người không tin vào Thiên Chúa, thường cầu xin khi trời nắng lâu ngày: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm”. Quả thật, El Niño hay La Niña thì chúng ta cũng đều phải chịu khổ (1), vì khô quá hoặc ướt quá cũng “mệt mỏi” lắm!
Có những hiện tượng bất thường, chúng ta gọi đó là thiên tai, nhưng thực ra chỉ là nhân tai. Vì chính chúng ta phá hại môi trường nên mới có những hiện tượng bất thường, chứ Thiên Chúa tạo dựng thiên nhiên tốt đẹp lắm. Ngài có thể ngăn chặn, nhưng Ngài cho phép điều xấu xảy ra vì Ngài tôn trọng tự do của chúng ta, và cũng là để chúng ta chịu khổ mà “sáng mắt” ra.
Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài rất nhân hậu nhưng cũng rất công bằng (x. 1 Pr 1:17; Rm 2:2; Kh 19:11). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính” (Tv 146:7-8). Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, yêu thương mọi người, không phân biệt ai, dù quen hay lạ, đặc biệt là xót thương những người bị xã hội ruồng bỏ: “Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời” (Tv 146:9-10).
Con Thiên Chúa đã hạ mình đến tột cùng và yêu thương chúng ta đến cùng, không chỉ ngày qua hoặc ngày nay, mà cả ngày mai và muôn thuở muôn đời. Thánh Phaolô minh chứng điều đó: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” (Dt 9:24-25). Trên cả tuyệt vời, hy lễ của Đức Giêsu Kitô chỉ một mà nên trọn vẹn tất cả, nhưng Ngài vẫn chấp nhận tiếp tục chịu đau khổ vì chúng ta.
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9:26-28).
Cuối Năm Phụng Vụ cũng là thời điểm cuối năm đời thường. Một sự trùng hợp thú vị. Cuối năm cũng là dịp nhắc nhở mọi người về đoạn cuối cuộc đời của mình. Cuối năm nghĩa là sắp hết năm và chắc chắn sẽ hết, cuối đời nghĩa là chúng ta sắp chết và cũng chắc chắn sẽ chết. Chuyện nhỏ mà to, chuyện bình thường mà đặc biệt. Chết rồi còn lại gì? Mọi thứ vật chất chúng ta sở hữu sẽ thuộc về người khác, chỉ có những gì chúng ta trao tặng sẽ còn lại mãi với chúng ta. Đó là các nhân đức, mà nhân đức quan trọng nhất là đức ái, đơn giản là những gì chúng ta CHO người khác. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Lúc hiến thân là lúc nhận lãnh, lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Đức ái vô cùng kỳ diệu, và còn mãi muôn đời!
Trình thuật Mc 12:41-44 (tương đương Lc 21:1-4) nói về việc dâng cúng của bà goá nghèo, tức là đề cập việc trao tặng, biếu hoặc cho. Điều này cho thấy rằng động từ “cho” là động từ quan trọng lắm: “CHO thì có Phúc hơn là NHẬN” (Cv 20:35). Thật vậy, “hãy làm mọi sự vì Đức Ái” (1 Cr 16:14).
Một hôm, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền, cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma (2). Thực tế rất đời thường, nhưng Đức Giêsu dùng sự thật này để dạy các môn đệ một bài học quý: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”.
Thánh Luca cũng cho biết tương tự: “Bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 21:3-4). Bà góa nghèo bị người ta khinh miệt nhưng lại là “thầy dạy” của chúng ta về cách làm việc từ thiện.
Qua câu chuyện thực tế này, Chúa Giêsu chỉ trích giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đạo đức giả trong cách dâng cúng công đức của mình nhằm tìm kiếm sự tôn trọng từ người dân. Ngài chỉ trích người khác chứ Ngài có chỉ trích chúng ta? Bóp trán hoặc vắt tay lên trán mà suy nghĩ, liệu chúng ta có thấy lòng mình thanh thản?
Ông A dâng cúng bạc tỷ thì có bằng ân nhân đặc biệt, bà B dâng cúng vài chục triệu thì có bằng ân nhân bậc I, II, III,… anh C dâng cúng vài triệu thì có bằng ân nhân bình thường, còn chị D không ai thèm cưới nhếch mép với chị vì chị không có nhiều tiền để dâng cúng, chị ngó trước ngó sau rồi vội vàng bỏ vài chục ngàn đồng vào thùng ở cuối nhà thờ, chị sợ người ta nhìn thấy! Cái nào NHỎ, cái nào TO?
Việc dâng cúng là cần thiết, rất tốt, nhưng những gì chúng ta gọi là “việc thiện” hoặc “việc đạo đức” thì phải thực sự có “chất” đạo đức và thánh thiện. Có thể chúng ta cũng rất cần cảnh giác mà đặt vấn đề: “Chưa rối đạo nhưng rối việc đạo!”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống thật với chính mình, biết mình và biết người, để đừng se sua hoặc “ra cái vẻ” với người khác. Xin diệt trừ trong con mọi ý nghĩ xấu xa, ích kỷ. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
—–

(1) Theo tiếng Tây Ban Nha, El Niño (eo ni-nhô) nghĩa là “bé trai”, có ý nói đến Chúa Giêsu Hài đồng. Cứ trung bình 3-10 năm, ngư dân vùng biển tại Peru phát hiện ra nước biển ấm dần lên vào mùa đông, khoảng vài tuần trước Lễ Giáng Sinh. Đây chính là một nghịch lý, nhưng nó vẫn tồn tại có chu kì và kéo theo hiện tượng hơi nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như thác đổ. Và ngư dân đã gọi hiện tượng này là El Niño để đánh dấu thời điểm xuất phát của nó là gần Giáng Sinh. El Niño là hiện tượng nước biển nóng lên.
Theo tiếng Tây Ban Nha, La Niña (la ni-nha) nghĩa là “bé gái”, là hiện tượng trái ngược lại với hiện tượng El Niño. Hiện tượng La Niña thường bắt đầu hình thành từ tháng Ba đến tháng Sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng Hai năm sau. La Niña xảy ra ngay sau khi hiện tượng El Niño kết thúc. La Niña là hiện tượng nước biển lạnh lên. La Niña còn được gọi là El Viejo hoặc Anti-El Niño.
(2) Giá trị 2 đồng kẽm (Hy ngữ, số ít: lepton, số nhiều: lepta) là 1 quadrans, chỉ bằng 1/4 đồng xu. Đồng kẽm là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất thời La Mã. Khi lưu hành ở Palestine, 1 lepton trị giá khoảng 6 phút làm công theo lương trung bình mỗi ngày.
MỘT SỐ TIỀN NHỎ NHƯNG TẤM LÒNG THẬT LỚN
Văn Hào
Nhà văn Anderson Đan mạch đã viết một câu truyện kể lại sự kiện xảy ra trong chính cuộc đời của ông. Câu truyện vắn tắt như sau: “ Vào một buổi tối mùa thu, ông đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một xu nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Đứa bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “ Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì ?” – Chú tên Anderson, và chú làm nghề này. Nhà văn lấy tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé vẫn không hiểu tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ ông phải đi xa.
Nhiều tháng trôi qua, Anderson quên mất lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ ông trở lại Copenhague và chợt nhớ tới đứa bé, mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm nó. Người chủ tiệm bên đường nói cho ông biết rằng con bé đã chết rồi. Ngày đầu năm, người ta thấy đứa bé nằm chết cóng bên đường không biết từ lúc nào. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều, là khi nó chết, khuôn mặt vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một cái gì đó.
Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp, “ Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật gì giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó, vì trên quản bút có viết hàng chữ ‘tặng chú Anderson’.
Câu chuyện cảm động trên không phải là một câu chuyện hư cấu, nhưng là một kỷ niệm buồn trong chính cuộc đời của nhà văn. Câu chuyện này cũng giống như giai thoại về người đàn bà góa nghèo khổ mà thánh Marcô thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa khá giống nhau. Giống nhau ở chỗ cả hai đều là những con người rất nghèo, bị xã hội bỏ rơi. Giống nhau cũng ở chỗ cả hai là những con người rất quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản, vì họ là những con người tuy nghèo về vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái.
Thân phận bà góa: người nghèo của Giavê
Trong bài đọc một, tác giả sách Các Vua quyển thứ nhất cũng thuật lại giai thoại về một bà góa nghèo thành Sarepta. Người phụ nữ này đã trao tặng ngôn sứ Elia tất cả phần lương thực ít ỏi còn sót lại trong nhà. Lòng quảng đại đó đã được Thiên Chúa đền đáp: Hũ bột của bà không bao giờ vơi và bình dầu không bao giờ cạn. Vị tiên tri còn thực hiện phép lạ cứu sống đứa con trai của bà. Trong xã hội Do Thái khi xưa, những phụ nữ góa chồng bị xã hội gạt ra bên ngoài. Họ không có một quyền lợi gì về mặt xã hội. Nhưng ngay từ thời Môise, vị thủ lãnh đã ban hành lề luật là không được làm hại cô nhi, quả phụ (Đệ nhị luật 27, 19 ). Các ngôn sứ thường gọi các bà góa là những người nghèo của Giavê (anawim), tức là những con người được Thiên Chúa chúc phúc. Đặc biệt đến thời Chúa Giêsu, Ngài luôn lên tiếng bênh vực các bà góa, là những người thấp cổ bé họng trong xã hội. Hình ảnh của người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay là một minh dẫn cụ thể. Ngay cả người phụ nữ Samari, một người đàn bà ngoại giáo đã góa chồng và sống lang chạ với 5 người đàn ông khác, Chúa cũng không kết án và coi khinh chị. Ngược lại, Chúa kết án gay gắt thái độ giả hình của các đầu mục Do thái, làm ra vẻ đạo đức để moi hết tiền bạc của các bà góa ( Lc 20, 47; 7, 11 ). Chúa cho đứa con trai bà góa thành Naim sống lại cũng để diễn bày lòng thương cảm với những người đàn bà bị bỏ rơi trong xã hội thời bấy giờ (Lc 7,11-17). Ngôn sứ Anna, một phụ nữ góa chồng ngày đêm cư ngụ và phục vụ đền thánh, cũng là một hình ảnh nổi bật về mẫu người luôn được Thiên Chúa yêu thương và chúc lành.
Người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay được Đức Giêsu đề cao như một mẫu gương. Bà rất nghèo nhưng lại giàu lòng quảng đại. Điểm son nơi người phụ nữ này không phải là những danh giá xã hội hoặc sự giàu sang phú quý bên ngoài, nhưng chính là tấm lòng nơi bà. Chúa nói với các môn đệ “ Thầy bảo thật anh em, bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” ( Mc 12, 43 ).
Chẳng ai cho không cái gì
Người ta vẫn thường nói thế. Trong đời sống xã hội hiện nay, hầu như chẳng có ai cho không hoặc biếu không cái gì. Khi trao tặng một phần quà, ngay cả những món quà từ thiện, chúng ta dễ ngầm đặt ra điều kiện, ít nhất là để khoe khoang sự quảng đại của mình cho người khác thấy. Tính ích kỷ và keo kiệt là một nết xấu ai cũng có. Mỗi khi làm công tác từ thiện, nhiều cá nhân cũng như những tổ chức xã hội thường hay bày biện những hình thức rầm rộ, nào cờ xí, nào nghi thức, nào chụp hình đăng báo….Điều này vẫn xảy ra ngay cả nơi các tổ chức tôn giáo. Dâng cúng nhà thờ một bức tượng, một cái ghế đá… cũng phải được rao tên tuổi, phải được phát bằng ân nhân, khi chết giáo xứ phải xin lễ cầu nguyện để trả nghĩa v..v. Điều này không có gì đáng nói, nếu người cho không ngỏ ý mà người nhận tự nguyện biểu tỏ sự biết ơn. Nhưng, nhiều khi thói quen đó trở thành một căn bệnh chỉ nhằm để khoe khoang. Một vị linh mục khi đến tham dự lễ khánh thành tháp chuông tại một nhà thờ nọ, lúc nghe rao tên tuổi vị ân nhân đã khôi hài pha chút mỉa mai nói rằng: Chuông nhà thờ kêu rất sang và rất hay. Nó kêu “ Kiêu căng, kiêu căng” thay vì kính koong kính koong như các chuông nhà thờ khác. Chúng ta hãy từ từ đọc kỹ lại bài Tin mừng hôm nay để suy nghiệm điều này. Đức Giêsu trước khi quan sát người ta bỏ tiền vào hòm dâng cúng, đã cảnh báo các môn đệ: “ Anh em phải coi chừng những kinh sư ưa đi dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ thích chiếm chỗ nhất trong hội đường, thích ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc” (Mc 12, 38 ). Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đưa ra huấn dụ căn bản để giúp chúng ta nên hoàn thiện. Một trong những huấn dụ đó, là “ Khi anh em bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6, 3 ), tức là đừng khoe khoang, khua chiêng gõ mõ để đề cao cái tôi kiêu ngạo của mình.
Sự khoe khoang đi đôi với tính keo kiệt, tức là cho đi với điều kiện. Điều kiện là phải được công bố tên tuổi cho bàn dân thiên hạ được biết. Điều kiện là phải được nể trọng như một vị ân nhân. Song chúng ta rất dễ quên rằng, mọi sự chúng ta đang sử dụng đều là ân huệ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ còn chúng ta chỉ là người quản lý. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của người đàn bà góa hôm nay. Chúa đề cao lòng quảng đại của bà, chứ Ngài không ca ngợi những người giầu có hoặc cánh Pharisiêu đã bỏ ra những số tiền kếch xù thừa thãi chỉ để phô trương. Người Pharisiêu khoe với Chúa: “ Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng 1 phần mười tài sản của con”. Khi kể dụ ngôn này, chúng ta đều biết Chúa đã kết luận như thế nào.
Đức Giêsu, mẫu gương tuyệt hảo về lòng quảng đại
Nhiều người trong chúng ta, đặc biệt các tu sỹ tự nguyện sống nghèo như lời khấn đã cam kết với Chúa. Người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay cũng nghèo xác nghèo xơ. Gia sản duy nhất bà sở đắc chỉ là 2 đồng xu cỏn con. Nhưng, nói một cách sâu xa hơn, mẫu gương tuyệt hảo về tinh thần nghèo khó mà chúng ta phải học hỏi và sao chép, không ở đâu khác mà chính từ nơi Đức Giêsu. Không ai nghèo như Ngài và cũng không ai quảng đại bằng Ngài. Trong thư thứ 2 gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh Phaolô đã viết: “ Đức Giêsu Kitô vốn giàu sang phú quý nhưng đã trở nên nghèo khó để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em nên giàu có” ( 2Cr 8, 9 ). Ngài tự nguyện sống kiếp con người, sinh ra trần trụi không nơi trú thân. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu”. Cao điểm của sự nghèo khó nơi Ngài, là Ngài đã bị phơi thây chết trần trụi trên thập giá. Đôi tay Ngài dang rộng, không tích lũy bất cứ một thứ của cải nào. Nhưng cũng chính đôi tay ấy đã trao ban tất cả, ngay cả đến mạng sống để hiển thị điều mà Ngài đã nói với các học trò trong bữa tiệc ly: “ Không có tình yêu nào cao cả cho bằng mối tình của người hiến dâng sự sống cho bạn hữu”(Ga 15,13).
Hôm nay Chúa nêu ra mẫu gương về lòng quảng đại của một người đàn bà góa nghèo khổ. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Thập giá để trải nghiệm lòng quảng đại vô bờ bến mà chính Ngài đã diễn bày.
Đây là sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn khải thị. Một vị thánh đã nói: “ Không ai trong chúng ta nghèo đến mức độ không có gì để mà cho”. Chúa chẳng thèm để ý tới những món tiền kếch xù mà những người giàu có đã dâng cúng vào đền thờ, nhưng Ngài nhắc các học trò mẫu gương của một phụ nữ nghèo. Bà ta nghèo mạt rệp, chỉ có 2 xu, nhưng đã trao dâng tất cả. Một số tiền quá nhỏ, nhưng tấm lòng thật lớn.
Chúng ta nhớ lại trình thuật Chúa làm phép lạ nuôi sống năm ngàn người ăn no. Một đứa bé trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, chẳng đáng giá bao nhiêu. Nhưng Đức Giêsu đã trọng thị đón nhận sự quảng đại của nó, và từ đó phép lạ đã xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ lượng giá con người qua những hình thức và số lượng bên ngoài. Ngài biết rõ tâm can từng người. Đồng thời Ngài cũng không bao giờ thua kém lòng quảng đại của chúng ta.
Kết luận
Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành tiểu thuyết. Sau khi Phanxicô đã cho đi tất cả của cải của mình, phân phát cho người nghèo, Ngài bắt đầu đi lang thang khất thực. Vị thánh vừa đi vừa hát. Một anh bạn cũ rất thân quen gặp lại Ngài đã rất ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu rồi?”. Phanxicô trả lời: “ Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó hết cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “ Anh từ đâu lang thang đến đây và anh đang định đi đâu thế? – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang đi về nơi xa xăm ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “ Thế tại sao anh vừa đi vừa hát nghêu ngao như một thằng điên?” – “Tôi hát để khỏi bị lạc đường.”
Là người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ lạc đường, nếu để cho của cải bủa vây. Điều quan trọng nhất là chúng ta dám bứt phá, dám phá đổ pháo đài ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi như người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay.
QUẢNG ĐẠI VÀ TỰ DO
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác. Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.
Hãy coi chừng
Chúa Yêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.
Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”. Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình. Hãy coi chừng.
Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của. Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền. Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết. Hãy coi chừng.
Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!
Người nghèo quảng đại
Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo. Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi. Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.
Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà. Cách hành xử của bà goá này rất đẹp. Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không? Thiên Chúa  qúa tuyệt.
Bà goá trong Tin Mừng được Đức Yêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có. Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”! Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu. Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có. Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.
Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!
Người nghèo dễ tự do để chọn theo Thiên Chúa hơn
Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo? Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào? Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình. Vì sợ nên không được tự do.
Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1.    Xin bạn kể nỗi sướng điều khổ của người giầu?
2.    Xin bạn liệt kê điều cực và cái hay của người nghèo?
3.    Bạn thường bị nô lệ bởi điều gì nhất khi quyết định? Làm sao để quyết định tự do?
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy ngày nay vì ảnh hưởng của xã hội và vật chất, nhiều người sợ hy sinh vì nó ảnh hưởng đến thể xác, ý muốn, và thời gian hưởng thụ của họ, và họ nghĩ rằng, hy sinh sẽ bị thiệt thòi vật chất và nhiều phương diện trong cuộc sống. Nhưng nếu mọi người đều sợ và sống ích kỷ làm sao cộng đoàn, xã hội và thế giới này có thể tồn tại, đứng vững, đừng nói tới việc thăng tiến cá nhân và gia đình. Nếu chúng ta thu hẹp cái nhìn vào khía cạnh tình yêu hạnh phúc vợ chồng gia đình mà thôi, chúng ta có thể nhận thấy, tình yêu hạnh phúc vợ chồng gia đình thực sự đòi vợ chồng phải hy sinh trọn vẹn cuộc sống, hy sinh tất cả những gì mình có, tâm hồn và thể xác của cuộc sống, chứ không phải chỉ hy sinh thể xác hay cuộc sống bên ngoài mà thôi. Và sự hy sinh cao cả nhất một người có thể làm được là hy sinh chính mạng sống của mình.
Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy trong xã hội, con người chúng ta có thể đánh giá người khác qua sự trưng diện bên ngoài. Hay chúng ta có thể đánh giá một hành động, hay một việc làm qua những số lượng hình thức bên ngoài. Nhưng đối với Thiên Chúa, chúng ta biết Chúa đánh giá theo tâm lòng, theo tâm tình bên trong. Chúa biết rõ, Chúa nhìn thấy rõ bên ngoài cũng như bên trong con người chúng ta. Chúa biết rõ đức tin và tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và tha nhân như thế nào. Chúa biết rõ tâm tình hay thái độ của mỗi một sự hy sinh, mỗi một hành động đạo đức như đọc kinh, cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, hay mỗi một công việc bác ái quảng đại chúng ta làm cho Chúa và cho người khác với động lực gì.
Các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy ý nghĩa, giá trị của những sự hy sinh cho tha nhân và cho Chúa của các tâm hồn cao quí, cho dù phải hy sinh mạng sống mình. Và qua đó, Chúa dạy chúng ta bài học rất thực tế về hình thức bề ngoài và tâm tình chân thật bên trong của một việc làm, cũng như kết quả của việc đó. Bài Đọc I, cho chúng ta thấy sự hy sinh cao quí của bà góa thành Sa-rep-tha cho tha nhân. Bà can đảm hy sinh nắm bột và chút dầu còn lại sau cùng để làm bánh cho tiên tri Ê-li-a và hai mẹ con. Bà biết ăn xong là hai mẹ con sẽ chết vì đói. Bài đọc 1 cũng cho chúng ta biết kết quả của niềm tin của bà vào lời ngôn sứ, và sự hy sinh của bà là: hai mẹ con có bánh ăn muôn đời. Có những lúc Thiên Chúa thử thách, nhưng Chúa luôn trả công cho những người có niềm tin vững chắc nơi Ngài, và biểu lộ tâm tình yêu mến tha nhân qua hành động chân thành, qua sự hy sinh cao quí.
Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô khẳng định và cho chúng ta biết nhờ sự hy sinh vô cùng cao quí của Chúa Giê-su Kitô đã hy sinh đổ máu trên Thánh Giá, con người nhân loại chúng ta được thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi và được sống muôn đời. Vì vâng lời thánh ý Chúa Cha, và vì trong trái tim của Chúa Giê-su chất đầy tình yêu thương cho con người nhân loại tội lỗi, Chúa đã hy sinh chịu những đau khổ và chứng tỏ tình yêu của Chúa qua cái chết trên Thánh giá, để vinh danh Chúa Cha và để cho chúng ta cũng được sống lại vinh quang với Ngài.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu quan sát những người bỏ tiền dâng cúng trong đền thờ. Ngài thấy có nhiều người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào hòm tiền hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân, để sống. Bà góa này tuy dâng cúng ít nhưng lại hy sinh rất nhiều, và hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng “tất cả những gì mình có để nuôi sống.”
Có một câu chuyện về một cặp vợ chồng về quê thăm họ hàng trong ngày nghỉ lễ. Họ lái xe được một quãng đường thì trời đổ mưa tầm tã và xe thình lình bị hư dọc đường. Đêm đã khuya và lạnh mà họ thì lại không quen thuộc đường lối. Sau khi đã hết mưa, họ bèn bỏ xe, đi bộ đến gõ cửa một căn nhà gần đó có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống. Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ để một số tiền lên bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà ngoài phòng khách. Thì ra hai ông bà già này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ. Còn mình thì phải nằm ngủ dưới đất. Câu truyện này giúp cho chúng ta hiểu và thấy ý nghĩa cao quí của việc hy sinh, cũng như tâm tình yêu thương của 2 bà góa trong bài đọc 1 và trong Tin mừng, đã cho đi tất cả những gì mình có.      
Bài Tin Mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy hai khía cạnh, hai mặt của 1 việc làm, của một hành động đạo đức và quảng đại. đó là: hình thức bề ngoài và tâm tình bên trong. Nhưng mặt nào trọng hơn? Theo Chúa Giê-su thì mặt tâm tình trọng hơn mặt hình thức, vì vậy, Chúa đã gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy việc làm và thái độ của bà goá, và nói “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống.”  
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy mặc dù Chúa Giê-su coi trọng tâm tình hơn hình thức nhưng Chúa không loại trừ hình thức. Chúng ta thấy tuy hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. / Chính hình thức biểu lộ tâm tình và nuôi dưỡng tâm tình. Thí dự như những lời nói, những nụ cười biểu lộ cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười đó làm cho tình yêu hạnh phúc giữa vợ chồng người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi. Hình thức phải đi đôi với tấm lòng bên trong, cũng như niềm tin được biểu lộ qua hành động. Niềm tin không có hành động là niềm tin chết. Chúng ta có thể nhận ra bà goá trong Tin Mừng không phải chỉ có lòng đạo đức và bác ái bên trong, mà bà còn biểu lộ qua việc đến đền thờ, để thờ phượng Chúa, và còn dâng cúng tiền, tuy nhỏ mọn, cho nhà Chúa.
Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin một cách chắc chắn Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người: chân thực hay giả dối, hình thức bên ngoài hay tâm tình bên trong, động lực và thái độ của chúng ta. Chúa khen ngợi bà góa nghèo hy sinh dâng hiến tất cả những gì mình có. Xin Chúa dạy chúng ta biết hy sinh, làm những việc đạo đức và bác ái với tất cả tấm lòng chân thành và tình yêu mến Chúa và tha nhân, để những việc chúng ta làm sinh ích lợi thiêng liêng cho chúng ta và tha nhân, và cũng làm sáng danh Chúa.
TẤT CẢ NHỮNG GÌ BÀ CÓ
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược. Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa. Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ, từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.
Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do thái giáo. Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê, thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng. Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân. Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã. Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực, dễ bị vấp vào thói háo danh. Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ. Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc, họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao. Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác. Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập lại trở nên phương tiện để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa. Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức khi giả vờ đọc kinh dài. Với uy tín và sự giả hình khéo léo, họ nuốt chửng nhà của các bà góa.
Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng. Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền. Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại và khẳng định rằng bà góa này đã bỏ nhiều hơn mọi người khác, mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ. Nhưng cái rất nhỏ này lại là tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân. Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy, cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa. Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật. Ngài không mãn nguyện với của dư thừa, nhưng Ngài đòi tất cả. Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất. Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.
Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo, ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình. Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa, với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh. Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm. Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền, nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
HAI BÀ GÓA
 Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.
Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nghèo nàn nhưng bà đem tất cả số tiền mình có, hai đồng tiền kẽm là những gì bà có để nuôi sống mình. Bà dâng vào đền thờ giữa đám đông nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác.
Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình. Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói. 
Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì. Cho cái mình đang cần mới là quý. Và cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất. 
Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Chúa khen bà góa đã cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà. 
Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào đền thờ, nhưng Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. 
Lối đánh giá của Chúa Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng. Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm. Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy. Điều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa. (Mana).
Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.
Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất. Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh.MẹTêrêsa Calcutta nói: ”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận. Câu chuyện “Một ly sữa” như một chứng từ minh họa cho chân lý ấy.
Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.
Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy thế thì…tôi hết lòng cám ơn cô.”
Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên. Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.
Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh đã thua cuộc.
Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly. 
Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả tim và bàn tay của con người.”
Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895 chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology (Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại Baltimore, Maryland.
Bạn, có bao giờ trong cơn đói bạn đã nhận được một hành vi tử tế, và bạn đã đền đáp thế nào với cuộc đời và con người đã tử tế với bạn? Hoặc bạn đã và sẽ làm gì cho một ai đó trong nỗi đói khát tinh thần hay vật chất của một người thân thương hoặc tha nhân Chúa đang gửi đến trong đời?
TIN VÀO SỰ QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Truyện kể rằng, có một em bé siêng năng học giáo lý và tham dự thánh lễ mỗi ngày. Cha sở gọi em vào nhà xứ để thưởng kẹo cho em. Khi ngài mở ngăn kéo ra với nhiều loại kẹo thơm ngon, em bé đã rất thích. Cha sở nói với em : Cha thưởng cho con một bốc bánh kẹo, con thích loại nào thì cứ lấy. Dù đang rất thèm, nhưng em vẫn chần chừ không lấy. Cha sở hỏi : Con có thích kẹo không ? Em bé trả lời : Thưa cha, con rất thích. Vậy sao con không lấy đi ? Em bé trả lời : Con muốn cha lấy cho con. Cha ngạc nhiên hỏi lại : Tại sao vậy ? Em bé trả lời : Vì tay cha to hơn.
Câu chuyện có vẻ vui, vì em bé đã thấy rằng, bàn tay của cha sở to hơn sẽ lấy cho em nhiều kẹo hơn là em tự lấy. Câu chuyện này cũng giúp chúng ta suy ra rằng : Bàn tay của Thiên Chúa thì to hơn bàn tay của con người và sự quảng đại của Thiên Chúa thì vô cùng lớn hơn sự quảng đại của con người, chỉ có điều chúng ta có tin vào sự quảng đại của Thiên Chúa hay không mà thôi.
Sách các vua kể lại câu chuyện về lòng quảng đại của bà goá thành Sarepta thời tiên tri Elia. Lúc ấy, cả đất nước rơi vào cảnh hạn hán. Tiên tri Elia chạy trốn sự truy sát của hoàng hậu Zezabel vì ông bị cho là người gây ra hạn hán. Ông đến Sarepta và thấy một bà goá đang nhặt củi. Ông mở lời xin bà : Bà làm ơn cho tôi xin một chút nước và làm ơn đem thêm cho tôi một miếng bánh. Lời yêu cầu của ông rất đơn giản, nhưng trong hoàn cảnh hạn hán đói kém, thì việc xin một bình nước và một miếng bánh là xin cả một bữa ăn. Đối với bà goá nghèo này, một bữa ăn đối với gia đình bà quả là rất quý. Bà góa đã thú thật với vị tiên tri về hoàn cảnh đói khổ của mình: Thưa thật với ông, tôi không có sẵn bánh ; tôi chỉ còn một nắm bột và một chút dầu, chỉ đủ làm một cái bánh cho hai mẹ con tôi ăn rồi chết.
Vị tiên tri đã đặt bà goá này vào thế phải chọn lựa : hoặc là vị khách, hoặc là mạng sống con mình. Tiên tri trấn an : Bà đừng sợ, bà cứ lấy những thứ đó làm cho tôi một cái bánh nhỏ và đem ra đây, rồi sau đó sẽ làm cho bà và con bà. Vị tiên tri còn hứa : Thiên Chúa của Israel phán thế này : Hũ bột sẽ không cạn, bình dầu sẽ không vơi, cho đến ngày Chúa cho mưa rơi trên mặt đất. Trước lời yêu cầu của vị khách lạ, bà đã tin vào lời của ông và cũng tin vào lời hứa của Thiên Chúa Israel. Bà đã về và làm như vị tiên tri dạy. Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ làm cho bình dầu của bà không cạn, hũ bột không vơi. Thiên Chúa đã đáp lại lòng tin và sự quảng đại của bà, đã cứu sống mẹ con bà qua cơn đói kém vì bà đã quảng đại với người của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Ngài yêu thích những con người rộng tay rộng lòng với Ngài, tin tưởng và dám phó thác cuộc đời cho sự quan phòng của Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu cảnh báo đám đông, đừng để mình rơi vào lối sống phô trương của người luật sĩ và biệt phái. Những người này chỉ chuộng hình thức bên ngoài, phô trương áo mão và phô trương công trạng của mình. Tất cả những việc họ làm đều muốn để cho người đời khen ngợi hơn là vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Họ làm phúc bố thí là để người đời ca tụng, ghi tên ghi tuổi vào bảng vàng bia đá.
Chúa Giêsu đã không muốn lối sống như vậy. Ngài muốn mỗi người đến với Chúa bằng cả tấm lòng tin tưởng, phó thác, cậy trông. Vì thế, khi nhìn thấy nhiều người giàu có bỏ nhiều tiền vào đền thờ, Chúa Giêsu không nói gì, nhưng khi thấy một bà goá bỏ vào hòm tiền chỉ hai đồng kẽm, Chúa cho rằng bà đã bỏ vào đó nhiều hơn hết. Chúa giải thích : Những người khác bỏ tiền vào đền thờ, họ mong tìm lại được sự ca ngợi. Họ bỏ vào đó những của dư thừa, hoặc những đồng tiền lời bất chính. Còn bà goá này bỏ vào hòm chỉ hai đồng kẽm, nhưng cùng với hai đồng kẽm, bà đã bỏ vào đó cả lòng tin tưởng, yêu mến và tương lai, cuộc sống của bà.
Trong xã hội Do Thái, phụ nữ góa bụa không có địa vị, không tài sản đất đai, họ hoàn toàn sống lệ thuộc vào con cháu của mình, nên hầu hết họ là những người nghèo, đáng thương. Tuy nhiên, trong cái nghèo đói thường xuyên như thế, bà goá trong câu chuyện hôm nay vẫn lặng lẽ bước đến bên hòm tiền, bà không quan tâm đến cuộc sống của bà sẽ ra sao, bà bỏ vào đó cả sự hy sinh, tiết kiệm của bà. Bà bỏ vào thùng cả sự tin tưởng rằng, tương lai của bà, cuộc sống của bà đã có Thiên Chúa lo liệu. Hai đồng xu kẽm đối với người giàu có lẽ không đáng là gì, nhưng đối với bà goá này, hai đồng xu kẽm là cả gia tài sự nghiệp, là cuộc sống ngày mai của bà, bà dành trọn cho Thiên Chúa.
Chúa Giêsu khen bà goá vì tấm lòng quảng đại và sự tin tưởng phó thác của bà. Bà không hề so đo tính toán thiệt hơn với Thiên Chúa, bà cũng không đặt bất cứ điều kiện nào với Thiên Chúa. Bà tin một cách đơn sơ chân thành rằng : bà quảng đại với Thiên Chúa thì Thiên Chúa cũng sẽ quảng đại với bà ; và tất cả những gì bà đang có cũng đều là của Thiên Chúa ban cho, giờ đây, bà dâng tặng lại cho Ngài.
Thiên Chúa là Đấng vô cùng yêu thương và quảng đại với con người. Ngài đã dựng nên vũ trụ này tốt đẹp và trao tặng nó cho con người. Ngài còn ban cho con người có khả năng trí tuệ và sức lực để làm ra lương thực và của cải nuôi sống bản thân và những người chung quanh. Ngài không hề tính toán thiệt hơn với con người. Ngài đã trao tặng người Con Một duy nhất là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Đến Con Một yêu dấu, mà Thiên Chúa còn ban tặng cho thế gian, thì Thiên Chúa không còn gì mà Ngài không ban cho chúng ta, chỉ có điều là chúng ta có tin vào sự quảng đại của Thiên Chúa hay không mà thôi.
Thưa OBACE, con người thường chỉ biết nghĩ đến bản thân và hẹp hòi với người khác, nên họ cũng hay nghĩ về Thiên Chúa như thế. Con người không dám sống quảng đại, không dám mở rộng đôi tay, vì họ nghĩ rằng những gì họ có được là do khả năng và sự tài giỏi của họ làm ra, mà quên rằng, nếu Thiên Chúa không ban, họ sẽ không thể có được. Con người thường tham lam thu vén cho bản thân, gia đình vì họ nghĩ rằng của cải tiền bạc sẽ là chỗ dựa an toàn cho họ.
Thế nhưng, bên cạnh đó, vẫn có những người giống như các bà góa Sarepta hoặc như bà goá trong Tin Mừng, hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Nhiều người trong họ hết sức quảng đại với Thiên Chúa, với Giáo hội và với anh em. Nhiều người cuộc sống hết sức bấp bênh, thiếu trước hụt sau, nhưng họ vẫn có một tấm lòng rộng rãi. Dù chỉ là những đồng tiền nhỏ họ dâng tặng cho Chúa hoặc chia sẻ với mọi người nhưng đó lại là cả tấm lòng chân thành của họ cùng với sự hy sinh, mồ hôi, lao công của mình để trao tặng cho anh em.
Với cuộc sống đa phần còn khó khăn của nhiều người, Chúa vẫn mời gọi chúng ta luôn tin tưởng vào sự quảng đại của Thiên Chúa, dám phó thác cuộc đời cho sự quan phòng của Ngài, để biết sống quảng đại với Chúa và với anh chị em. Đừng bao giờ nại vào những khó khăn để khép lòng lại với Thiên Chúa và anh chị em. Vì một khi chúng ta khép lòng lại trước Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ không thể đổ thêm gì vào lòng chúng ta được.
Xã hội ngày nay làm cho con người giàu có, sung túc hơn, nhưng dường như tấm lòng lại nhỏ hẹp hơn. Người đời lấy tiêu chuẩn vật chất, giàu sang để đánh giá nhau. Lối sống ích kỷ khiến nhiều người chỉ biết nghĩ đến bản thân và gia đình. Trước những cám dỗ thu vén tiền bạc của cải, người tín hữu được mời gọi sống quảng đại với Thiên Chúa và rộng lòng với anh em.
Không ai giàu đến nỗi không thiếu thứ gì, cũng không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Hãy trao cho nhau sự quảng đại tha thứ, hãy sống với nhau đừng tính toán chi ly nhỏ hẹp, nhưng rộng lòng, rộng lượng với nhau. Hãy trao cho nhau mỗi ngày một nụ cười yêu thương, hãy tặng cho nhau những cái nhìn thông cảm, vì có thể từ một nụ cười, từ một cái nhìn như thế, cũng đủ để tăng sức mạnh cho anh chị em mình chỗi dậy. Amen.
SẺ CHIA TẬN TÌNH
Huệ Minh
Từ những ngày còn bé, đi học giáo lý, tôi được nghe kể câu chuyện “hũ dầu không cạn, bình dầu không vơi” được trích trong sách các Vua quyển thứ I.
Hôm nay, tôi được nghe lại câu chuyện hấp dẫn này : Trong những ngày ấy, tiên tri Êlia chỗi dậy lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: “Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống”. Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: “Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh”.
Bà thưa: “Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi”.
Êlia trả lời bà rằng: “Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: ‘Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất'”.

Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó hũ bột không cạn và bình dầu không vơi như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Nghe câu chuyện này và rồi dường như câu chuyện này trở thành câu chuyện nằm lòng trong đời bởi đơn giản tính nhân văn của câu chuyện. Rất dễ hiểu và bình dân, chẳng cần chú giải Thánh Kinh, Thần Học hay Triết Học để ai ai cũng thấy đó là câu chuyện kể về sự quảng đại hay nói cách khác tấm lòng sẻ chia của bà quá thành Sarephta. Chính lòng của bà đã được bù đắp cho bà bằng bình dầu không cạn và hũ bột không vơi.
Câu chuyện sẻ chia của bà góa nghèo ngày hôm nay ta lại bắt gặp trong câu chuyện của Thánh Máccô . Thánh Máccô tính ra cũng nhiều chuyện khi soi Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu lại ngồi ngay cái hòm tiền và lại soi bà góa. Chúa Giêsu soi bà góa còn thánh Máccô thì soi Chúa Giêsu.
Qua cách soi của mình, Chúa Giêsu bắt gặp hình ảnh hết sức dễ thương của bà góa khi Ngài ngồi đối diện với hòm tiền. Vì sou nên thấy dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền.
Đang soi như thế thì chợt thấy có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu.
Soi xong rồi thôi, không chịu, soi xong rồi Chúa Giêsu liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”.
Một bài học của sự sẻ chia trong cuộc sống. Tưởng chừng đơn giản nhưng nó rất quan trọng bởi lẽ con người vẫn mang trong mình cái bản tính của khư khư, của ky cóp. của tích lũy.
Nhớ lại những ngày xưa tháng cũ thật dễ thương và nhớ đến những ngày xưa đó ta lại nhận ra tình Chúa, tình người với nhau.
Những năm tháng sống thời bao cấp, ta thấy dễ thương quá ! Có khi là nồi khoai mì luộc đó được chia luôn cho cả hàng xóm vì lẽ nhà cạnh bên cũng khổ, cũng đói. Rồi nhớ ngày xưa hay cúp nước, nhà nào được nguồn nước mạnh chảy vào hồ thì lại sẻ chia cho nhà cạnh bên bị thiếu nước. Những hình ảnh của sự sẻ chia đó vẫn còn mãi trong tâm trí tôi cho đến ngày hôm nay.
Còn ngày hôm nay, khi nhìn lại thực tại của cuộc sống, dường như có cái gì đó man mác buồn. Buồn bởi lẽ ngày hôm nay con người ta ích kỷ hơn, con người ta khép kín hơn, con người ta vun vén hơn.
Ngày nay, ta không phủ nhận cuộc sống tốt hơn, giàu hơn, sang hơn, đẹp hơn nhưng rồi con người ta lại ích kỷ hơn. Sự sẻ chia, dù ở thời nào đi chăng nữa vẫn là lời mời gọi, vẫn là lời thách thức của mỗi người chúng ta.
Nói như thế không phải là không còn những tấm lòng quảng đại, những tâm hồn sẻ chia. Thi thoảng đi ngang qua các bệnh viện vào giờ ăn sáng, trưa, chiều … thấp thoáng ta vẫn thấy những hàng dài được xếp để chờ lãnh phần ăn từ thiện có khi là cháo, có khi là cơm và cũng có khi là hộp sữa, cái bánh … Tất cả đó cũng là tấm lòng của những người thơm thảo chia sẻ cho người khác.
Lần nọ, trên chuyến xe về Sài Gòn, ngồi cạnh bên một chàng trai còn rất trẻ và được anh tâm sự tấm lòng của nhóm anh về sự sẻ chia. Anh nói rằng ngoài giờ đi làm, bạn bè của anh quy tụ lại với nhau để nấu cơm vào ngày 1 và 15 mỗi tháng để chia sẻ với người nghèo. Còn đến dịp Tết và Trung Thu thì nhóm của anh tìm đến những vùng sâu, vùng xa và nghèo để sẻ chia với các em nghèo.
Thế đó, vẫn còn và còn nhiều người, nhiều nhóm quảng đại chia sẻ cho người khác.
Ngày nay, Chúa Giêsu hẳn nhiên không còn ngồi trước hòm tiền để soi sự sẻ chia của ta như Chúa đã từng soi bà góa trong Tin Mừng. Thế nhưng, trong thầm kín, trong sâu thẳm của lòng tin, Chúa lại nhìn lòng của mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết bắt chước như bà góa nghèo để chia sẻ cho người khác như Chúa mời gọi. Hơn nữa, khi ta chia sẻ cho người khác nghĩa là ta được nhận niềm vui gấp đôi thậm chí gấp 3 từ sự sẻ chia của ta. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta vượt qua con người nhỏ nhen ích kỷ của ta mà biết chia sẻ với anh chị em đồng loại. 
ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ QUẢNG ĐẠI THẬT
Lm. Pet. Lê Thanh Phục
Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, thấu suốt lòng dạ con người, thấu suốt mọi đường đi nước bước của chúng ta. Con người có thể qua mặt nhau, nhưng không thể qua mặt Chúa. Lời Chúa của Chúa nhật hôm nay nói lên điều đó: đâu là lòng đạo đức giả và đâu là lòng quảng đại thật.
Hai đối tượng được Chúa Giê-su đối chiếu hôm nay là kinh sư và bà góa. Kinh sư là những người chuyên diễn tả mệnh lệnh và thánh chỉ của Chúa liên quan đến dân Israel, họ có tư cách giải thích luật Thiên Chúa và phê phán những ai không giữ luật. Là những người thuộc nhóm đứng đầu dân, họ đụng chạm đến việc thánh thiêng, ăn mặc những trang phục tôn giáo dành riêng cho họ. Thế nhưng họ dùng sứ mạng đó để phô trương phẩm giá của mình qua cách xúng xính trong những bộ áo thụng, thích được người chào ở những nơi công cộng, thích ngồi ghế danh dự trong các cử hành tôn giáo và tại những bữa tiệc. Hình ảnh trái ngược với họ là bà góa nghèo, xem ra chẳng có giá trị gì đối với mọi người, một người không còn sự bao bọc che chở của người chồng, không được luật quan tâm bảo vệ, bé nhỏ, bần cùng, không ai chú ý. Thế nhưng tấm lòng của bà thật tuyệt vời. Chúa cho chúng ta thấy rõ tận sâu thẳm của cõi lòng của họ.
Những người kinh sư chạy theo thói chuộng hư vinh: thích khoe quần áo, thích được chào kính ở những nơi công cộng, thích ngồi chỗ danh dự. Điều đáng lên án hơn là việc bóc lột tài sản của các bà góa và thói đạo đức giả. Họ lợi dụng lòng quảng đại của các bà góa. Lẽ ra các bà góa là những đối tượng được lưu tâm đặc biệt (Đnl 10,18tt; Tv 68,6; Hc 35, 14tt), giúp đỡ các bà góa là một việc thiện hàng đầu (Đnl 14,28tt; 24,17-22; G 29,13; Gc 1,27), bởi họ là những người dễ bị tổn thương nhất, không được hưởng gia sản từ chồng (Ds 27,9-11; 1V 17,8-15; 2V 4,1-7). Bóc lột các bà góa là một tội đặc biệt ghê tởm trước mắt nhà làm luật và các ngôn sứ (Xh 22,21tt; Đnl 27,19; Is 1,23-10,2; Gr 7,6). Ngoài ra, họ làm bộ cầu nguyện lâu giờ để tỏ ra là người đạo đức. Họ che giấu bộ mặt xấu xa của mình dưới mặt nạ đạo đức. Quả thế, từ thói chuộng hư vinh dẫn họ đến thói đạo đức giả, thói đạo đức giả giúp họ dễ dàng ngốn hết tài sản của các bà góa. Họ đã lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để đạt được vinh hoa phú quý, chủ yếu dựa trên xương máu của các bà góa là những kẻ không người bảo vệ. Họ đã đi đến tột đỉnh của việc xấu xa nhất. Và đó là điều Chúa Giê-su lên án. 
    
Trái lại, hình ảnh bà góa nghèo giữa những người giàu có đến dâng cúng trong Đền thờ càng làm nổi bật sự nhỏ bé, bần cùng của bà. Bà đến với Chúa bằng cả tấm lòng của mình. Bà dâng cúng tất cả những gì bà có, dù hai đồng kẽm của bà chẳng có giá trị gì đối với mọi người. Bà là người môn đệ đích thực mà Chúa muốn: từ bỏ tất cả mọi sự, bán tất cả của cải mình có.
Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa, hãy để Lời Chúa hôm nay soi dọi cõi lòng mình, để lên án lối sống của mình.
Chắc chắn ai trong chúng ta đều có bóng dáng của người kinh sư. Chúng ta không ít lần sử dụng dáng vẻ bên ngoài lộng lẫy, đặc biệt dáng vẻ đạo đức thánh thiện, nhằm che lấp những xấu xa bên trong con người mình, hầu tìm hư danh và trục lợi từ người khác, cách riêng những người nghèo và những người thấp cổ bé họng.
Thói chạy theo hư danh, ham muốn của cải luôn bám sát con người. Con người luôn bị cám dỗ chạy theo và tìm kiếm những thứ đó. Tệ hại hơn là khi chúng ta dựa vào tôn giáo để trục lợi của cải và hư danh. Là những ki-tô hữu, những người con cái của Chúa, Chúa cấm chúng ta làm tôi hai chủ, Chúa muốn chúng ta ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, hoặc như thánh Phao-lô mời gọi: hướng lòng lên những gì thuộc thượng giới (Cl 3,2), bởi vì “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” (Mt 16,26). 
Chúa Giê-su đến thế gian để cứu độ nhân loại. Ngài kêu gọi con người tội lỗi ăn năn sám hối để đón nhận Tin mừng, để mở lòng ra với Chúa, để đặt mình trong thái độ sẵn sàng đón nhận những phúc lành và ơn cứu độ của Chúa.
Chúng ta được mời gọi ra sức cộng tác với ơn Chúa để thanh luyện con người của mình, đặt mình trong chiều hướng quay về với Chúa, tẩy trừ thói chuộng hư danh và trục lợi của cải vật chất, đến với Chúa bằng tấm lòng thành, đóng góp cho nhà Chúa tùy theo khả năng, hầu mỗi ngày chúng ta thanh thản bước theo làm môn đệ Chúa, xứng danh là ki-tô hữu hơn, xứng danh là con cái Chúa hơn, xứng với tình yêu và lòng mong đợi của Chúa hơn.
ĐỂ “CỦA CHO” NÊN LỄ DÂNG ĐẸP LÒNG CHÚA
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 12,38-44
(38) Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. (39) Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. (40) Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”. (41) Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào hòm đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. (42) Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma. (43) Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. (44) Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống.
2.Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giê-su khiển trách thói đạo đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh, tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giê-su đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.
3.CHÚ THÍCH:
– C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư”: Đức Giê-su cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ áo thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà các tư tế thường xử dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái thường tỏ lòng tôn kính đối với các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này để tỏ ra mình có lòng đạo đức và cũng mong được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo, tự cao tự đại (x. Mt 23,5). + thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh sư, là những người giải thích Kinh Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi” có nghĩa là “đại nhân của tôi”, được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều người để được thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh vọng.
– C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội đường: Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ dành cho những bậc vị vọng. Ai ngồi ở đây thì không bị che khuất và mọi người trong hội đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. + thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc: Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ ngồi được xếp đặt rõ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên trái, và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra thứ bậc của người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết tài sản của các bà góa: Các bà góa thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào hạng người cần được quan tâm giúp đỡ (x. Đnl 24,17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà góa thường cậy nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho. + làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng: Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ nhằm phô trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ cố tình cầu nguyện tại ngã ba đường, nơi mà người ta dễ thấy mà ca tụng lòng đạo đức của họ. + họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật Môsê coi việc xử tệ với các người cô thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh 22,21-23). Đức Giê-su cho biết: Những hành vi này của các kinh sư chỉ là hình thức đạo đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày tận thế.
– C 41-42: + Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp. Đức Giê-su đã đến ngồi tại đó sau khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự nguyện đóng góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị cô thế cô thân không nơi nương tựa, nhất là còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn. Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.
– C 43-44: + Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức Giê-su khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả những cái cần cho cuợc sống hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 15,7). + mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì “của nhiều lòng ít”. + còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình: Bà “của ít lòng nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã tăng giá trị lên nhiều lần.
4.    CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đã quở trách bọn kinh sư và biệt phái về các thói xấu nào?
2) Người đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm mà bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.    LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết”(Mc 12,43).
2.    CÂU CHUYỆN:
1) LÀM VIỆC BÁC ÁI ĐỂ TÌM HƯ DANH:
Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tình nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều ngay sau buổi họp mặt hôm đó. Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó bà vẫn luôn cảm thấy tiếc về số tiền đã lỡ ủng hộ thêm ngoài dự tính kia.
2) GÃ BÁN THỊT VÀ LÃO ĂN MÀY:
Kho tàng cổ tích Ảrập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt. Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Coinf gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi phải trả tiền. Bấy giờ  lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền”. Hai người cự cãi không ai nhường ai. Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu được quan tòa cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ  đồng tiền của lão ăn mày”.
3.    THẢO LUẬN:
Trong những ngày này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ rơi để làm vui lòng Chúa?
4.    SUY NIỆM:
1) Ý chính của bài Tin Mừng hôm nay:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã lên ái thái độ giả dối của Pharisêu và Người đã dạy các môn đệ phải quảng đại cho đi, noi gương một bà góa nghèo đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong ngày một ngày. Bà đã được Đức Giêsu đánh giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).
Câu chuyện cổ tích Ả rập về anh hàng thịt nướng keo kiệt đói xử không tốt đối với kẻ nghèo nói trên cũng vẫn hay xảy ra trong xã hội hôm nay: Nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác cách keo kiệt tương tự. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện vui về một ông bố keo kiệt và tham ăn như sau: Một hôm sau một đêm thức trắng đánh dậm bắt được một giỏ mươi con cá, anh ta về ngồi bên bếp than nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một mình. Đứa con trai nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi thơm của cá liền khóc lóc đòi được ăn cá. Bà mẹ liền dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào nhỏ cả, con nào cũng to bằng nhau hết !”. Cũng vậy, nhiều lần chúng ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”. Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn mỏi không biết phải chờ đến bao giờ. Người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.
2) Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ tại chỗ nào ?
Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng yêu thương. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền đã tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra mình quảng đại hơn người khác. Sau đó việc lỡ rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng bỏ vào thùng là việc ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối muốn đòi lại số tiền dư ra kia, nhưng rồi cũng do thói sĩ diện hão, cuối cùng bà đành phải chấp nhận số tiền bỏ thùng lớn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị bao nhiêu về thiêng liêng khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này vì không phát xuất từ tình yêu tha nhân.
3) Về ba loại người cho và bậc thang giá trị của ba cách cho:
+ Một là người cho cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên dù có cho mà trong lòng người cho vẫn thấy bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền còm cho xong, để hắn mau biến đi khuất mắt!”.
+ Hai là người cho để xong việc bổn phận: Loại người cho này dù đã cho đi mà vẫn không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan” : “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ ! ”.
+ Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ  cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ thấy buồn trong lòng. Loại người cho này thường hay nói với những người đau khổ  bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp lòng Chúa và chúng ta cần thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước tôn nhan Thiên Chúa và mang lại hạnh phúc cho chúng ta.
4) Thực tập lối sống quảng đại sẵn sàng cho đi noi gương Chúa Cha:
Thiên Chúa là Cha chúng ta đã biểu lộ tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta:
+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Người lại ban cho cả cánh rừng.
+ Chúng ta chỉ xin vài ngụm nước, mà Người lại ban cả dòng suối.
+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Người lại cho cả bãi biển rộng dài.
+ Chúng ta chỉ xin ban lương thực hàng ngày, mà Người còn cho cả Thân Mình Bửu Huyết của Người.
Chúa Giêsu phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như PHĂNGSÍT BANPHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một số việc cụ thể người tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:
+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ,
+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ luôn trung tín và chân thành,
+ Quà cho các em nhỏ là gương sáng bác ái và khiêm nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho người cha trong gia đình là thái độ tôn kính vâng lời người dạy,
+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và sẵn sàng chia sẻ các việc nội trợ,
+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ quan tâm lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ noi gương Đức Giê-su”.
5.    NGUYỆN CẦU
– Lạy Chúa Giê-su. Cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người thì nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” do lòng mến Chúa thôi thúc, nên hành động ấy đã được Chúa đánh giá cao hơn người khác: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43). Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ nản lòng không muốn làm việc tốt, khi việc chúng con làm không được mấy người biết đến và khen ngợi… Xin Chúa thanh luyện ý hướng các việc lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng sẽ được người đời nhận biết và ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5,14-16).
– Hát bài Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô: “Lạy Chúa từ nhân…” để xin Chúa giúp ta kiến tạo hòa bình bằng việc hăng say phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
BÀ GÓA NGHÈO
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1.    Bệnh sống theo vẻ bề ngoài
Đức Giê-su mời gọi mọi người và nhất là mời gọi các môn đệ của Người, trong đó có chúng ta hôm nay, đừng sống theo cách sống của các ông kinh sư:
Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.
(c. 38-40)
Lời của Đức Giê-su chứa đựng hai lời cảnh báo đụng chạm sâu xa đến cách sống của chúng ta trong tương quan với người khác và với chính Chúa. Trước hết, đó là sự không tương hợp giữa việc đọc kinh cầu nguyện và tương quan của chúng ta với các “bà góa”. “Bà góa” là bà góa thực sự, và ở mọi nơi và mọi thời, đều có các bà gòa; nhưng “bà góa” còn là biểu tượng nói về tất cả những người nhỏ bé, giới hạn, kém may mắn, ít khả năng, nghèo khó, bị bỏ rơi, cô đơn, không có địa vị. Đức Giê-su đặc biệt quan tâm đến các bà góa, chẳng hạn bà góa nghèo trong bài Tin Mừng của chúng ta, “bà góa” hiểu theo cả hai nghĩa. Chắc chắn là vì, Mẹ của Người cũng là một bà góa!
Lời cảnh báo thứ hai, là thái độ tìm kiếm và cảm thấy thích thú với những lời tôn vinh của người khác ngang qua lễ phục, sự chào hỏi, ghế danh dự và cỗ nhất. Đó không phải là vì lễ phục, sự chào hỏi, ghế danh dự và cỗ nhất là xấu, nhưng là thái độ tìm kiếm bằng mọi giá và cảm thấy vui thích trong những điều này; và mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm, cách sống này là mảnh đất mầu mở của những điều thuộc về ma quỉ: ham muốn, ghen tị, ganh đua, loại trừ, thậm chí bạo lực…
Tóm lại, các kinh sư là những người, không chỉ sống theo vẻ bề ngoài, nhưng còn đi tìm và thích thú với vẻ bề ngoài. Và ngang qua việc vạch rõ lối cụ thể của một nhóm người, Đức Giê-su mời gọi chúng ta nhìn lại chính bản thân mình, để nhận ra rằng, sống theo vẻ bề ngoài ở trong mọi lãnh vực, ở mọi nơi và ở mọi cấp độ, là một căn bệnh phổ biến và nan y của mọi người, trong đó có chính bản thân chúng ta.
 2. Chữa lành bệnh sống theo vẻ bề ngoài
Trong “Bài Giảng Trên Núi,” Đức Giêsu mời gọi chúng ta đừng sống theo vẻ bề ngoài, nhưng sống theo sự thật trong tương quan với chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, nhất là khi bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đó là ba việc đạo đức căn bản trong đời sống đức tin; và chúng ta có thể mở rộng ra tất cả những việc đạo đức khác, và nhất là mở rộng ra cung cách sống căn tính Kitô hữu hay căn tính tu sĩ của chúng ta. Thực vậy, Đức Giê-su nói:
Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm,để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh
Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
(Mt 6, 1-18)
Thay vì phô trương, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo đức một cách kín đáo. Không phải để thi thố hay nâng cấp đức khiêm nhường, nhưng để trở nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một cách kín đáo. Trong những lời chúng ta vừa trích dẫn, Đức Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín đáo”, trong đó 5 lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: Cha của anh hiện diện nơi kín đáo; Cha của anh thấy trong kín đáo. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu, là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con kín đáo” như Cha của mình. Kín đáo là một đặc nét của nữ tính; vì thế, phụ nữ dễ trở nên giống Thiên Chúa, Cha của chúng ta hơn!
Chúng ta cứ nghiệm lại mà xem: Thiên Chúa hiện diện và hành động kín đáo biết bao trong sáng tạo, trong lịch sử loài người, nơi cuộc đời chúng ta và nhất là nơi Thập Giá của Đức Giêsu. Chúng ta phải có ngũ quan biết chiêm ngắm, mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện, lên tiếng và hành động.
Đức Giêsu không chỉ chữa bệnh sống theo vẻ bề ngoài của loài người của chúng ta, bằng lời nói, nhưng bằng chính cách sống của Người nữa; như Ngài nói về mình: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng sự sống của mình”. Và phương thuốc tận cùng của Ngài là Thập Giá, nơi đó, vẻ bề ngoài của Ngài không còn là gì nữa: thân xác, danh dự, sự nghiệp, sự sống… Nhưng chính lúc đó Căn Tính đích thật của Ngài lại rạng ngời nhất. Như con rắn đồng xưa, ai nhìn lên Đấng bị đâm thâu, thì sẽ được chữa lành (x. Ds 21, 4-9 và Ga 3, 14-15).
 3. Hình ảnh « Bà Góa Nghèo »
Chúng ta hãy cùng với Đức Giê-su « ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ », và « quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao ». Như thế, thùng tiền hẳn phải đặt ở nơi mà mọi người có thể quan sát được, để cho việc trở nên công khai và minh bạch hơn. Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm, vị trí thùng tiền được đặt ở nơi công cộng cũng là dịp để người ta phô trương và ganh đua ; và điều này vừa có lợi cho bên nhận cũng như bên cho. Ngày nay, người ta vẫn còn làm những điều tương tự, như công bố danh sách ân nhân với số tiền cụ thể, phát giấy chứng ân nhân với sự phân biệt đẳng cấp khác nhau, tùy theo số tiền dâng cúng. Giống như bằng cấp đại học có phân biệt thứ hạng !
Đức Giê-su nhìn thấy những người giàu bỏ tiền của họ vào thùng tiền ; và ngài cũng thấy một bà góa túng thiếu bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, tương đương với 2 đồng tiền kim loại màu trắng 500 vào những năm 2000 của chúng ta. Các nhà chú giải cho rằng câu chuyện này minh họa cho lời trách của Đức Giê-su, là các luật sĩ tước đoạt hết tài sản của các bà góa, là cơ cấu tôn giáo thời đó đã bắt người ta đóng góp quá sức, đến độ một bà góa không còn gì để sống ! Tuy nhiên, những gì Đức Giê-su nói sau đó, sẽ đi theo một hướng khác hẳn.
Loài người chúng ta, trong vấn đề dâng cúng và cả trong những vấn đề khác nữa, chẳng hạn trong vấn đề lượng giá học tập (không chỉ văn hóa, và cả giáo lý, linh đạo và thần học) và công việc, chỉ chú trọng đến thành tích nhiều ít, cao thấp, to nhỏ, nghĩa là vẻ bề ngoài của sự việc. Nhưng Đức Giê-su nhìn sự việc theo một chiều kích khác, vừa đúng, vừa sâu và vừa đánh động lòng của chúng ta : « bà góa đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình ».
•    Lời của Đức Giê-su an ủi chúng ta biết bao, vì tất cả chúng ta đều nhỏ bé, nghèo nàn, giới hạn, như bà góa ; và Chúa chỉ cần tấm lòng của chúng ta thôi.
•    Lời của Ngài cũng chất vấn chúng ta nữa : phải chăng chúng ta sống và xét đoán theo chỉ theo vẻ bề ngoài.
•    Và Lời của ngài mời gọi chúng ta : « Chúa đã ban cho con tất cả, con xin dâng lại Chúa tất cả ». Xét về số lượng hay nội dung, « tất cả » của chúng ta thì quá nhỏ bé và ít ỏi so với « tất cả » của Chúa ; như xét về tình yêu của trái tim, thì TẤT CẢ = TẤT CẢ, hai bên đều trao ban trọn vẹn như nhau !
Xin cho chúng ta cũng biết bỏ « vào đó » tất cả những gì cần cho sự sống của chúng ta. « Vào đó », là vào ơn gọi và sứ vụ của cả cuộc đời chúng ta ; « vào đó », là vào những gì chúng ta được mời sống hằng ngày ; « vào đó », là vào những gì chúng ta cảm thấy phải sống, phải làm, phải thay đổi, phải hoán cải… trong Chúa và để ca tụng Chúa ; « vào đó » là… (chúng ta có thể nhận ra thêm tùy theo tương quan của chúng ta với Chúa).
Và chỉ khi chúng ta cảm nhận được « muôn ngàn đời tình thương của Chúa » (x. Tv 136), chúng ta mới có thể cho đi như thế được. Và quả thực như thế, Thiên Chúa đã sống đến tận cùng tâm tình của « Bà Góa Nghèo », nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh trên Thánh Giá.
LÒNG QUẢNG ĐẠI VÀ TÍN THÁC KHÔNG GIỚI HẠN
Dã Quỳ
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về hai hình ảnh đối lập: các ông kinh sư và bà góa nghèo. Từ hai hình hình ảnh này, Chúa Giê-su căn dặn ta hãy coi chừng sự giả hình, ưa chiếm hữu danh lợi của các kinh sư và dạy ta quảng đại trao dâng như bà góa nghèo. Lòng quảng đại của bà chứng tỏ một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng quan phòng đời bà. Thế nhưng giữa một thế giới mà trong đó con người đang tranh giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực và hơn thua nhau về địa vị, tài sản…Liệu bài học về Lòng quảng đại tín thác của Chúa đưa ra có lỗi thời không?
Người Việt Nam chúng ta vốn quan niệm:”Một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp“. Quan niệm ấy cho chúng ta hai suy nghĩ vừa tích cực lẫn tiêu cực. Chiều tích cực là cho thấy sự trọng vọng của mọi người dành cho những người có chức quyền và địa vị trong xã hội ở mọi thời. Sự vinh quang này cũng có thể là động lực giúp cho nhiều người cố gắng vươn lên trong khả năng của mình sao cho bằng người khác. Tuy nhiên mặt trái của sự vinh quang thế gian ấy cũng có thể làm cho chính đương sự nhiễm thói kiêu ngạo, dương dương tự đắc, ưa thích danh vọng  và coi mọi người không ra gì.
Nhưng sông có khúc, người có lúc. Khi có chức có quyền thì phải sống làm sao để khi hết quyền hết chức người ta vẫn kính trọng, quí mến. Cách riêng với những người đang nắm chức vụ trong Giáo Hội, trong các đoàn thể, cộng đoàn… Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Coi Chừng các ông kinh sư, nhưng có lẽ Chúa cũng thấy trước những cám dỗ mà có thể các đồ đệ của Ngài cũng dễ mắc phải đó là ” Ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự, chỗ nhất…” Và còn tệ hơn: “Chiếm tài sản của các bà góa, làm bộ đọc kinh lâu giờ“. Giáo Hội trong mọi thời đều dễ rơi vào cơn cám dỗ kinh khủng của uy thế, của những độc quyền, những ” bộ áo thụng” và của những chức vị phô trương…của những giả hình, bất công và làm méo mó khuôn mặt của Hội Thánh Chúa.
Thực ra chức vị và quyền hành không phải là một cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa. Vì những người được Chúa yêu thương tuyển chọn, có khả năng, khôn ngoan, nhiệt thành và được tập thể tín nhiệm trao phó trọng trách để phục vụ Chúa và cộng đoàn. Như thế càng phải ý thức cách triệt để như lời sách Huấn Ca nhắn nhủ: ” Càng làm lớn con phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa“.(Hc 3,18) Chúa Giê-su căn dặn và mong muốn tất cả chúng ta sống theo Lời và gương của Người đã sống là quảng đại hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Vì Con Người đến…là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người“.(Mc 10,43.45) Chúa muốn ta thay đổi cách sống và thói quen. Linh mục cũng như giáo dân…không đặc quyền, đặc lợi. Một Giáo Hội nghèo và trần trụi, sống trong sự giản dị theo Tin Mừng…không để bị lôi cuốn trong xa hoa, tráng lệ của thế gian.
Một sự tương phản giữa những kinh sư sùng đạo đã ” Nuốt hết tài sản của các bà góa“…và bà góa nghèo này, người đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống“.
Chúa Giêsu đã khâm phục bà bởi vì bà đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng “Tất cả những gì bà có để sống“. Sự nghèo khó: đó là tình trạng của người không có những gì cần để sống. Bà góa này đang ở trong tình trạng đó. Bà đã rút từ trong sự túng thiếu của mình, dâng cúng cho Đền Thờ. Hai đồng tiền nhỏ là tài sản duy nhất của bà. Hai đồng tiền nhỏ ấy là cơ nghiệp  gắn liền với bà, nó sẽ là cơm ăn thuốc uống của bà và là sự sống của bà. Hai đồng tiền nhỏ ấy là cả một tài sản của thân phận nghèo nàn của bà. Thế mà, không luyến tiếc, bà đã quảng đại dâng cho Thiên Chúa tất cả. Dâng tất cả tài sản nhỏ bé của mình, bà như dâng lên Thiên Chúa tất cả sự sống. Bà phó dâng hiện tại và tương lai trong tay Chúa Quan Phòng. Đời bà thuộc về Chúa, sự sống của bà là của Chúa. Lòng quảng đại ấy biểu lộ một Niềm Tin Tín Thác mãnh liệt vào Thiên Chúa là Chủ sự sống.
Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại để giới thiệu cho các ông một mẫu gương cho đi tận tình. Và Chúa cũng mời gọi tôi là con cái Chúa, học gương bà góa, cũng hãy dâng hiến cho Thiên Chúa những gì mình có, vì tất cả những gì tôi có đều do bởi Chúa, như lời Thánh Phao-lô nhắc: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh” ( 1Cr 4,7).
Hình ảnh bà góa dâng tất cả những gì bà có để sống gợi cho tôi bao suy nghĩ và tự vấn. Tôi đã sẵn sàng dâng tâm hồn tôi để trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị hay chưa? Tôi có dấn thân dâng lên Thiên Chúa cuộc đời tôi để phục vụ cho Tin Mừng và hăng say rao giảng Nước Chúa không? Và tôi đã quảng đại dâng những tài sản vật chất của mình để phục vụ Chúa, xây dựng Giáo Hội và chia sẻ với anh em túng thiếu chưa? Tôi nhận thấy mình kém xa bà góa nghèo, mặc dù tôi không nghèo như bà. Nhiều khi tôi đắn đo tính toán với cả Thiên Chúa và anh chị em mình mà chưa biết quảng đại hiến trao, chưa thật tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Chúa và không thật sự tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Nói tới bà góa nghèo, tôi nghĩ đến Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta. Mẹ thật nhỏ bé, nghèo nàn. Mẹ đến Ấn Độ chỉ với hai bàn tay trắng. Tài sản của Mẹ là một trái tim đầy ắp tình yêu phục vụ người nghèo, nhất là những người vô gia cư nằm hấp hối bên lề đường. Mẹ đã quảng đại trao dâng cho Thiên Chúa tất cả và một lòng tín thác vào Chúa để yêu thương phục vụ tha nhân. Đời sống và nghĩa cử yêu thương của Mẹ được cả thế giới biết đến và khâm phục. Và đã gợi hứng cho nhiều người tiếp tục quảng đại dâng hai đồng tiền nhỏ của mình cho Chúa và tha nhân. Vì trong thế giới của chúng ta, còn đó sự chênh lệch về mức sống giữa người với người, giữa nước này với nước kia. Và còn đó biết bao anh chị em nghèo khổ quanh ta cần lắm lòng quảng đại sẻ chia tinh thần và vật chất.
Một đức tin đầy  đức ái và lòng quảng đại sẽ là mẫu sống cho ta. Ta đừng ngại nói ngôn ngữ của lòng quảng đại và đừng sợ tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Chúa Kitô, Đấng đã hiến dâng chính mạng sống mình vì lòng tín thác vào Chúa Cha là khuôn mẫu cho chúng ta. Sự nhiệt tâm và quảng đại của chúng ta được xây nền trên nền quảng đại của Chúa Giêsu- Một Thiên Chúa giàu sang nhưng đã trở nên nghèo để cho ta được giàu có, như lời Thánh Phao-lô  nói với giáo đoàn Cô-rin-tô để khuyến khích họ chia sẻ: ” Quả thật, anh em đã biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.”(2Cr 8,9)
Nguyện xin Chúa Giê-su chia sẻ cho ta lòng quảng đại của Người và ban ơn giúp ta tín thác để rồi ta dám quảng đại với Thiên Chúa và với anh em. Amen.
TÌNH GÓA
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 
Phải thú nhận rằng có hậu ý khi đặt tựa đề cho bài viết là “tình góa”. Dĩ nhiên ít nhiều cũng có ngụ ý “tiếp thị”. Đã là góa bụa mà còn tình tứ gì nữa! Đã nói đến tình thì ít ai nói đến cảnh góa bụa. Sự đời, người ta thường tránh những điều xúi quẩy. Thế nhưng nhiều hình ảnh người góa bụa lại được Thánh Kinh không chỉ tô hồng mà còn xác nhận là một trong những đối tượng được Thiên Chúa ưu ái và bảo vệ cách đặc biệt bằng những luật lệ cụ thể trong Cựu Ước (x.Xh 22,21; Ed 22,7). Đến thời Tân Ước, chính Chúa Giêsu cũng đã ưu ái bà góa thành Naim có đứa con trai duy nhất bị chết, nên dù không được khẩn xin, Người vẫn ra tay uy quyền cho cậu ta sống lại (x.Lc 7,11-17).
Trong ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật XXXII TN B thì bài đọc thứ nhất trích sách các Vua và bài Tin mừng tường thuật và ca tụng nghĩa cử cao đẹp của bà góa thành Xarépta và bà góa tại Giêrusalem. Cả hai đều là những bà góa nghèo nhưng sẵn sàng hiến dâng “phần nuôi sống” mình, cũng là chính sự sống của mình cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Thầm hiểu ngụ ý của Hội Thánh khi cho trích đọc các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật này, chúng ta cùng xét suy đôi điều qua cái tâm, cái lòng và cuộc sống của người góa bụa.
1.    Một mối tình thủy chung: Trước hết cần phân biệt người góa bụa với các bà mẹ đơn thân. Hẳn nhiên có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan hình thành tình trạng hay kiểu sống của những bà mẹ đơn thân. Chúng ta không thể tiên thiên “đánh giá – xếp hạng” cho tình trạng sống này vì hình như mỗi hoàn cảnh đều mỗi vẻ khác nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế nhưng phải nhìn nhận rằng đây là tình trạng “không bình thường” theo lẽ tự nhiên mặc dù đã từng có khi, có nơi trở thành một phong trào, một kiểu cách chọn lựa của nhiều phụ nữ thời hiện đại. Trái lại tình cảnh của người góa bụa dù là đàn ông hay đàn bà là chuyện thường tình của kiếp nhân sinh. Đã thề non hẹn biển trong duyên vợ chồng thì luôn mong được song hành cho đến khi đầu bạc răng long. Mong thì vẫn mong, nhưng được chết cùng ngày là điều thật hy hữu. Chuyện tái giá hay đi bước nữa khi người phối ngẫu đã qua đời là chuyện chẳng có gì sai trái, dù phía nữ giới có thể bị dị nghị cách nào đó, đặc biệt trong nhiều xã hội trước đây vốn đề cao đạo “tam tòng – tứ đức”. Dù xưa hay nay thì người ta vẫn trân trọng những mẫu đời “thờ chồng, nuôi con” hoặc tín trung với người bạn quá cố mà nguyện làm cảnh gà trống nuôi con. Chúng ta đừng quên đây là một trong những tiêu chí để chọn người vào hàng Giám Quản hay bậc trợ tá của Giáo Hội thời sơ khai (x.1Tim 3,1-13).
Thủy chung với người bạn đời đang còn sống quả là một nỗ lực bền bỉ không chỉ trong tình yêu mà cả trong sự tiết chế. Chuyện “chả – nem” không riêng gì là chuyện của thời hôm nay mà đã có từ xưa, chỉ khác một điều là mức độ phổ biến, cho dù ai cũng thấy sự sai trái của nó và những hậu quả xấu xa mà nó di hại cho gia đình, cho con cái và cho cả xã hội. Chính vì thế, việc chung thủy với người bạn đời đã khuất càng được trân trọng gấp bội khi tự nguyện từ bỏ quyền lợi chính đáng của mình vì yêu thương và muốn tín trung trọn vẹn với chỉ một người.
2.    Một tình yêu trao hiến đến cùng: Các nhà tâm lý cũng như các nhà đạo đức vốn đồng thuận với nhau về khái niệm yêu thương là một quá trình trao ban và đón nhận nhau. Yêu thương cách đích thực là tự nguyện trao ban điều tốt, điều tốt nhất của mình cho người mình yêu cách vô điều kiện và không tính toán, đồng thời cũng sẵn sàng đón nhận người mình yêu với tất những gì người ấy “là và có” một cách quảng đại, không so đo. Người ta thấy rõ hai động thái này trong đời hôn nhân. Đức Bênêđíctô XVI đã gọi đó là Eros và Agapê, hai chiều kích của tình yêu này xem ra phản ánh Tình Yêu Thiên Chúa cách rõ nét nhất (TĐ Thiên Chúa là Tình Yêu số 2). Với thời gian, qua các hình thức “mại dâm thánh” cùng với sự ích kỷ hưởng thụ của con người theo sự cám dỗ thần dữ thì chiều kích Eros (đón nhận) đã bị biến dạng, tha hóa. Từ đó chiều kích trao hiến (Agapê) đóng vai trò chủ yếu trong việc biểu lộ tình yêu đích thực.
Với người góa bụa thì cái chiều kích đón nhận xem ra vẫn còn đó qua người con. Nhưng nó sẽ vơi dần theo thời gian khi đứa con đến lúc phải lìa cha mẹ mà luyến ái với người bạn đời (x.Mc 10,7). Cuộc đời của người góa bụa là một chuỗi trao ban, hiến dâng không ngơi nghỉ và ngày càng đến cùng. Chỉ còn chút bột và chút dầu để ăn bữa cuối cùng với đứa con, thế mà bà góa thành Xarépta đã không ngại ngần dâng trao cho ngôn sứ Êlia (x.1 V 17,7-16). Chúa Giêsu đã ngợi khen lòng quảng đại của một bà góa tại đền thờ Giêrusalem khi đã không ngại ngần dâng cúng vào Đền Thờ “ tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân bà” ( Mc 12,44; Lc 21,4 ).
3.    Một tâm hồn nghèo khó thực sự: Lời tung hô tin mừng trong Chúa Nhật này, Giáo Hội cho trích câu tin mừng của thánh Matthêu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Người góa bụa là một trong những người nghèo của Thiên Chúa, được Người ưu ái chăm sóc và bảo vệ. Xin đừng quên số người góa bụa trong các xã hội trước đây thì phụ nữ chiếm tuyệt đại đa số. Vì thế khi nói đến người góa bụa là người ta nghĩ ngay đến các bà góa. Một mình nuôi con mà bôn ba cuộc sống thì khó bì được với người ta vẹn đủa cả đôi, nhất là khi sinh kế thời bấy giờ dựa vào sức lao động của cơ bắp là chủ yếu. Do dó người ta không lạ gì khi hạn từ “góa” thường đi đôi với hạn từ “nghèo”. Những người góa bụa, cách riêng các phụ nữ góa chồng không chỉ nghèo về vật chất, của cải, bạc tiền mà họ còn nghèo khó cả về mặt tinh thần. Ngay cả trong thời kỳ gọi là hoàng kim của Giáo hội là thời Giáo hội sơ khai, khi mà những người trong tôn giáo mới này “không ai lấy sự gì làm của riêng, mọi sự đều là của chung” (x.Cvtđ 2,44; 4,32) thế mà các bà góa vẫn đã từng bị đối xử thiếu công bằng, bị bỏ quên (x.Cvtđ  6,1).
Hồng ân Nước Trời là một ân ban trọng đại và nhưng không của Thiên Chúa. Không một ai có thể tự mình chiếm hữu ân ban ấy dựa vào khả năng và công trạng của mình. Chúa Giêsu đã mặc nhiên nói đến chân lý này khi khẳng định rằng người giàu có khó vào Nước Trời, khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim. Những gì mà người giàu  cho rằng có thể mua được bằng tiền bạc thì chắc chắn không phải là Nước Trời (x.Lc 18,24-27). Một tâm hồn nghèo khó thực sự thì sẽ có được sự tự do với các thực tại đời này để rồi biết gắn bó mật thiết với Thiên Chúa trong niềm tin. Và họ đã biết mở lòng để đón nhận Nước Trời như là ân ban.
Qua một vài nghĩ suy về “tình góa”, không gì hơn, chỉ thầm mong số phận những người góa bụa được xã hội cũng như Giáo hội quan tâm chăm sóc bằng sự trân trọng như những người nghèo của Thiên Chúa, những con người rực sáng trong tình yêu thủy chung, tình yêu dâng hiến đến cùng.  Có thể nói không sợ sai lầm rằng cuộc đời của nhiều người góa bụa là một dẫn chứng cụ thể, giúp chúng ta biết thế nào là yêu, thế nào là tin.

Sưu tầm

bài liên quan mới nhất

Thứ Tư tuần XXXI TN: từ bỏ mình để theo Chúa

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng