Các bài suy niệm Chúa Nhật XXII Thường niên, Năm A

Lời Chúa: Gr. 20, 7-9; Rm. 12, 1-2; Mt. 16, 21-27

MỤC LỤC

1. Nếu được cả thế giới.

2. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

3. “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con”.

4. Thập giá và người môn đệ.

5. Thập giá – ViKiNi

6. Sống đức tin.

7. Mất và được.

8. Con đường thập giá.

9. Ý người và ý Chúa.

10. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

11. Đầu tư cho cuộc sống mai sau.

12. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

13. Mất đi để được lại

14. Trong họa có phúc.

15. Đau khổ và hạnh phúc.

16. Đi theo con đường của Chúa.

17. Học suy nghĩ và hành động theo Chúa.

18. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

19. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

20. Mất và được.

21. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

22. Sống mầu nhiệm Thập Giá.

23. Vác Thập Giá.

24. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

25. Dám lội ngược dòng.

26. Mất và được.

27. Con đường ba (chữ) “phải”.

28. Hiến mình vì người mình yêu.

29. Từ bỏ.

30. Con đường thoát tục tòng Thiên.

31. Theo Chúa.

32. Theo Thầy Giêsu.

33. Mục đích của đời sống.

34. Thập giá.

35. Mất trước được sau.

36. Đường lối Chúa.

37. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

38. Từ bỏ mình, vác thập giá mình.

39. Đọc bản hợp đồng cho cẩn thận.

40. Thập giá, biểu tượng của tình yêu.

41. Con đường khổ giá.

42. Tại sao có đau khổ?

43. Xin Chúa thương.

44. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

45. Đường xưa Chúa đi.

46. Hy sinh vì tình yêu.

47. Từ bỏ.

48. Lời khen chê của Chúa Giêsu.

49. Phải lên Giêrusalem.

50. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

51. Thập giá Đức Kitô.

52. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

53. Điều kiện theo Chúa Giêsu.

54. Chúa Giêsu Kitô là ai?

55. Từ bỏ.

56. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

57. Con đường theo Chúa.

58. Theo Thầy.

59. Theo Thầy.

60. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

61. Đau khổ của người Kitô hữu.

62. Từ bỏ.

63. Đánh đổi

64. Làm điều khó.

65. Phải từ bỏ mình.

66. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

67. Sống mầu nhiệm Thánh giá.

68. Tiền của.

69. Thập giá: Con đường chúng ta đi

70. Hai con đường.

71. Thọc gậy bánh xe.

72. Đức Giêsu tiên báo khổ nạn lần thứ nhất

73. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

74. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

75. Chúa Nhật 22 Thường Niên.

76. Theo Chúa, phải từ bỏ mình và vác thập giá.

77. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ.

78. Con đường vinh quang ngang qua Thập Giá.

79. Thà mất để được.

80. Vác thập giá đời mình – Huệ Minh.

81.     Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu.

1.Nếu được cả thế giới.

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Đức Giêsu đã gặp nhiều cám dỗ trong đời. Cám dỗ bởi ma quỷ trong sa mạc. Cám dỗ bởi đám đông đòi xem phép lạ từ trời. Cám dỗ bởi nhiều người thách xuống khỏi thập giá.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ bởi chính Phêrô, người mà Ngài đã đặt làm nền tảng cho Hội Thánh. Cơn cám dỗ này nguy hiểm biết bao, vì đến từ tình thương của một người môn đệ.

Phêrô không thể nào chấp nhận được chuyện Đấng Mêsia phải chịu khổ đau và chịu chết.

Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ này. Ngài nói với ông như nói với Xatan trước đây: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy!”

Phêrô đã đi trước Thầy. Ông quên mất vị trí đi sau của người môn đệ. Ông không ngờ mình trở nên viên đá làm Thầy suýt vấp.

Lối nghĩ của Phêrô rất tự nhiên, rất “người”, nhưng đó không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa.

Dần dần ông mới chấp nhận số phận bi đát của Thầy và dám mất tất cả vì Thầy.

Sống ở đời ai cũng tranh phần được, và sợ mất.

Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất.

Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời: mất công, mất của, mất thì giờ, mất uy tín, mất tương lai và mất cả mạng nữa.

Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự họ mất vì Thầy Giêsu, họ đều được lại.

Mất tạm thời để giữ được mãi mãi.

Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.

Lắm người tưởng mình được, hoá ra lại mất

Lắm người vui lòng mất, hoá ra lại được.

Chúng ta cần suy nghĩ sâu về cái được, cái mất, để không phải hối hận sau này.

Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả.

Đó là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ, hy sinh, dám vượt lên trên lối sống thực dụng, ích kỷ.

Không cần đợi sau cái chết, ta mới thấy mình được.

Bình an, niềm vui, triển nở trong tự do và yêu thương là những cái được ta có ngay từ đời này.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cuộc đời thường được ví như một cái chợ: chợ đời. Ai cũng phải tranh đua, vật lộn, thậm chí dùng cả những thủ đoạn, lọc lừa để thắng được người khác. Bạn nghĩ một Kitô hữu đạo đức có cơ may thành công giữa chợ đời không?

Chấp nhận sống đúng Lời Chúa là chấp nhận vác thập gía. Có khi nào bạn đã vác thập giá vì sống Lời Chúa không? Có thập giá nào hiện nay bạn còn sợ vác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Chúa đẵ chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

2. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy Niệm

“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa,

mà là lối nghĩ của loài người” (Mt 16,23).

Thầy Giêsu đã mắng anh Phêrô như thế

khi anh muốn can ngăn Thầy chấp nhận cuộc Khổ nạn.

Lời can ngăn của Phêrô là một cám dỗ rất mạnh đối với Thầy,

vì đó là lời can ngăn của người môn đệ đầy mến thương:

“Xin Thiên Chúa thường đừng để Thầy gặp chuyện ấy!”

Để thắng được cơn cám dỗ mạnh mẽ này, đến từ Phêrô,

Thầy Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ không kém.

Ẩn sau lời của Phêrô, Thầy thấy có lời đường mật của Xa-tan,

lời mà Thầy đã nghe từ buổi đầu trong hoang địa.

Xa-tan đã rủ rê Thầy bái lạy nó để được mọi vinh hoa trần gian.

Nó muốn Thầy chinh phục thế gian bằng con đường tắt (Mt 4,9).

Thầy Giêsu đã cương quyết bảo nó cút đi.

Và bây giờ Thầy cũng đòi Phêrô trở về đúng chỗ của mình.

“Hãy lui lại đằng sau Thầy!”

Môn đệ phải là người đi sau Thầy, chứ không dẫn đường đi trước.

Thật ra Phêrô can ngăn Thầy là điều hiểu được.

Ông mới được Thầy khen, vì nhờ Chúa Cha, ông biết Thầy là Đấng Kitô.

nhưng khuôn mặt đặc biệt của Đấng Kitô ấy, ông chưa rõ.

Từ thời vua Đa-vít, Thiên Chúa đã hứa ban cho Ítraen một Đấng Kitô.

Đấng này sẽ là một vị vua thuộc nhà Đa-vít,

mà vương quyền và ngai vàng thì vĩnh cửu (2 Sm,11-16).

Trải qua cả ngàn năm, dân Ítraen vẫn chờ Thiên Chúa giữ lời hứa.

Vào thời Đức Giêsu, người dân vẫn mong có Đấng Kitô đến

để cứu Ítraen khỏi tay Rôma, và cho dân hưởng thái bình no ấm.

Ai cũng nghĩ Đấng Kitô phải là Đấng toàn thắng, mạnh mẽ oai hùng,

nên khi nghe Thầy Giêsu nói về thân phận khổ đau thất bại của mình,

Phêrô đã cho thấy ông không thể nào chấp nhận được (Mt 16,22).

Ông không thể chấp nhận hình ảnh Đấng Kitô bị hành hạ và bị giết.

“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa” (Mt 16,23).

Kế hoạch của Thiên Chúa vượt trên lối nghĩ của loài người.

Đức Giêsu Kitô không chỉ cứu dân Ítraen, mà cứu cả nhân loại.

Ngài không cứu họ khỏi nô lệ Rôma, nhưng cứu khỏi nô lệ tội lỗi.

Ngài không cứu độ bằng chiến thắng, nhưng bằng thất bại và cái chết.

Qua đó, Ngài hiên ngang bước vào vinh quang vĩnh cửu (Mt 16,27).

Ngài không phải chỉ là một người được Thiên Chúa xức dầu và sai đi,

Ngài còn là chính Thiên Chúa Ngôi Lời làm người.     

Điều Thiên Chúa thực hiện vượt xa những gì Ngài đã hứa.

Ngài làm trọn lời hứa một cách khó hiểu và lạ lùng.

“Sự phong phú, khôn ngoan và tri thức của Chúa sâu thẳm biết bao!

Quyết định của Người khôn dò khôn thấu” (Rm 11,33).

Thầy Giêsu muốn các môn đệ thuộc mọi thời đại

tiếp tục đi sau Thầy, chia sẻ cùng một thân phận như Thầy,

từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất mạng sống mình vì Thầy,

coi cả thế gian nhẹ hơn cuộc sống đời sau.

Họ không lùi bước trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì họ tin Thầy đã được phục sinh và sẽ lại đến trong vinh quang

để thưởng phạt từng người tùy theo việc họ làm (Mt 16,27).

Lạ lùng thay con đường Thầy Giêsu và bao thế hệ môn đệ đã đi!

Chỉ mong chúng ta đừng nghĩ theo kiểu thường tình con người,

nhưng mỗi ngày chấp nhận sống những nghịch lý của Thiên Chúa.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó,

thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa, và thuộc về Chúa,

thì Chúa đã sống cho con,

và thuộc về con từ lâu.

3. “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con” - Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

1. Đức Giê-su mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua

Sau câu hỏi thâm sâu và riêng tư: “Anh em nói Thầy là ai?” (x. Mt 16, 13-20: bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước), Đức Giê-su bắt đầu dẫn các môn đệ đi sâu hơn vào trong tương quan “thuộc về nhau” với Ngài. Thật vậy, Đức Giêsu bắt đầu bày tỏ, nghĩa là mặc khải (thánh Mác-cô nói, Ngài dạy các môn đệ):

Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Đức Giêsu mặc khải, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Thật vậy, cuộc Thương Khó và Thập Giá Đức Ki-tô:

* Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ.

* Mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi và ban ơn chữa lành.

* Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.

* Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.

***

Như thế, tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, không phải chỉ là phát biểu chính xác, và đôi khi là “thuộc lòng”, căn tính thần linh của Người trong tương quan với Thiên Chúa, nhưng còn là môt lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Thánh Phêrô đã không hiểu “bài học” của Đức Giêsu, vì thế không thể chấp nhận điều Đức Giê-su giảng dạy về con đường Ngài phải đi:

Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”

Như ông Phêrô, chúng ta cũng từng đi theo Chúa, nhưng với dự án hay ước muốn riêng của mình, và lại còn muốn Chúa chấp nhận điều mình muốn. Nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, nhưng của loài người, do Satan xúi dục. Xin cho chúng ta gắn bó thân thiết với Lời Chúa, với Ngôi vị của Chúa, để nhạy bén và cương quyết loại bỏ những tư tưởng và hướng đi không thuộc về Thiên Chúa.

Sau này, thánh Phêrô và các môn đệ đã hiểu ra con đường Thương Khó của Thầy Giê-su và đã đi đến cùng con đường thương khó của mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi hiểu ra con đường Thương Khó của Đức Giêsu và đảm nhận con đường thương khó của mình, con đường thương khó của thế hệ mình. Con đường thương khó của chúng ta là ơn gọi trong một hoàn cảnh, một gia đình, một cộng đoàn, một Hội Dòng cụ thể mà tôi đang thuộc về.

2. Sequela Christi (đi theo Đức Ki-tô)

Sau khi mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ, các môn đệ đang hiện diện với Người và các môn đệ của Người thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay:

Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (c. 24)

Như thế, như thánh Phê-rô và các tông đồ, khi chúng ta được ơn hiểu biết, yêu mến Đức Kitô và muốn đi theo Ngài, hay nói như ngôn sứ Giê-rê-mia trong bài đọc I: “Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng” (Gr 20,7), chúng ta được mời gọi đi cùng một con đường Đức Kitô đã đi.

Và đó là con đường vượt qua. Nhưng con đường vượt qua là gì? Là con đường của vất vả và khổ tâm, như chính ngôn sứ Giê-rê-mia đã kinh nghiệm: “Vì lời Đức Chúa mà con đây chịu sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (Gr 20,8); là con đường của dâng hiến và cho đi, như thánh Phaolo khuyên bảo:

Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. (Rm 12,1)

Chúng ta hãy chiêm ngắm cách Đức Maria đón nhận, gắn bó và yêu mến Đức Kitô, để nhận thấy rằng, từ lúc thưa “xin vâng”, Đức Maria đã phải cho đi, dâng hiến, vất vả và “cực lòng” như thế nào. Thánh Giuse cũng vậy, vì để cho Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa cần tới hai lời “xin vâng”. Giống như trong đời tu, để cưu mang và làm chứng cho Đức Kitô, Chúa không chỉ cần lời xin vâng của bản thân chúng ta, nhưng của chị em, của anh em trong cùng cộng đoàn và Hội Dòng nữa.

Nhưng như chính Đức Giê-su mặc khải và ban cho chúng ta lời hứa, chính khi vượt qua vất vả và khổ tâm, vượt qua khó khăn lúc cho đi và dâng hiến, chúng ta được dẫn tới an nghỉ và niềm vui, tới hoa trái nhiều gấp trăm lần điều mà chúng ta đã cho đi, tới việc nhận lại sự sống hoàn toàn mới từ nơi Đức Chúa, là Thiên Chúa của sự sống và sự sống lại. Và có lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm này: niềm vui của sự sống mới là ở bên kia sự chết, nhưng đã xâm nhập vào sự sống hôm nay của chúng ta rồi, vào chính lúc chúng ta cho đi và dâng hiến rồi. Như thánh Augustin nói, trong tình yêu thì không có vất vả, nếu có vất vả, thì vất vả này đã được yêu mến rồi. Và như thánh Phao-lô nói: “tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta”, đến những khó khăn vất vả, đến việc cho đi và dâng hiến, nhưng nếu vì lòng mến, lòng mến của Đức Kitô dành cho chúng ta, và lòng mến chúng ta dành cho Đức Kitô, chúng ta sẽ kinh nghiệm được niềm vui lớn lao và sâu xa, niềm vui đích thật và bền vững mà không ai hay hoàn cảnh nào có thể lấy mất được.

3. Qui luật muôn đời của sự sống

Lời mời gọi “Ai muốn đi theo Thầy” mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối, vì tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta:

Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất; nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được.

Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “Hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác; đó con đường của tấm bánh, phải được bẻ ra và nghiền nát để nuôi sống, thậm chí trở thành sự sống cho con người.

* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.

* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.

***

Như thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống. Đó hiển nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay, ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Kitô, vì niềm say mê Tin Mừng của Ngài.

4. Thập giá và người môn đệ - ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa. Trong sách Đệ nhị luật, ông Môisen đã nói rằng những ai bị lên án tử và bị treo trên cây gỗ là đồ bị chúc dữ (x. Dnl 21,22-23). Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta về án tử của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên thập giá. Khi Chúa bị đóng đinh trên cây gỗ, một số kỳ mục Do Thái và dân thành Giêrusalem không ngớt lời nhục mạ và thách thức Người. Chúa hiền lành và im lặng như con chiên bị đem đi giết. Kể từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cây thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Từ một dụng cụ hành hình, nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Từ một hình ảnh gợi lên sự chết chóc ghê rợn, nó đã trở thành một hình ảnh mang lại nghị lực và niềm tin.

Trong ngôn ngữ đời thường, mỗi khi gặp gian nan đau khổ, chúng ta thường nói: “Chúa gửi thập giá đến cho tôi”. Quan niệm này xem ra không phù hợp, vì bản tính của Chúa là Đấng tốt lành và là Cha giàu lòng thương xót. Bởi lẽ chẳng có người cha nào lại tạo ra đau khổ để bắt con cái mình phải chịu. Hơn nữa, trong Phúc Âm, các tác giả nói với chúng ta, chính con người đóng cây thập giá bằng gỗ rồi đặt trên vai Chúa và bắt Chúa vác đi. Cây thập giá gỗ ấy quá nặng, nên Chúa Giêsu bị ngã ba lần. Người cũng không thể vác cây gỗ này tới nơi chịu khổ hình, và quân lính đã bắt ông Simon người thành Cyrênê vác đỡ Chúa. Như vậy, hình khổ thập giá là do con người gây nên cho Chúa, và Chúa Giêsu sẵn lòng chấp nhận vì yêu mến con người. Và thế là, trong suốt cuộc sống con người, ở đâu cũng vậy, người ta đang tiếp tục tạo ra những cây thập giá đủ loại và bắt người khác phải vác đi. Cũng có những trường hợp người ta tự tạo thánh giá cho mình, rồi lại hằn học kêu trách Chúa, lại “đổ thừa” cho Chúa và trút hết trách nhiệm cho Ngài. Một người đi xe ngoài đường thiếu cẩn trọng hoặc uống bia rượu rồi gây tai nạn làm chết người, không thể đổ cho Chúa định hoặc bảo rằng đó là Chúa “gửi thập giá”; một người cha suốt ngày cờ bạc rượu chè không quan tâm đến gia đình, làm cho vợ con lâm cảnh đói khổ, không thể chép miệng nói rằng “do Chúa định”.

Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê và chịu đóng đinh trên cây thập giá đó. Con đường thập giá Chúa đã đi qua là con đường của sự nhẫn nhục, hy sinh vì tình yêu nhân loại. Con Thiên Chúa không dùng một phương tiện khác nhẹ nhàng hơn để cứu độ con người, mà lại dùng thập giá với những nhục hình đau khổ, và như thế, những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường ấy, nhờ đó mà bản thân họ được tinh luyện, đồng thời họ góp phần nâng đỡ anh chị em. Chúa có thập giá của Chúa và mỗi người chúng ta có thập giá của mình. Con người không chào đời bằng nụ cười, nhưng bằng tiếng khóc, và rồi suốt cuộc đời họ là những trăn trở triền miên, những lo toan cuộc sống. Họ luôn phải đối diện với bao khó khăn trong đời. Hành trình của người môn đệ là hành trình thập giá: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chúa nhấn mạnh đến “thập giá mình”, có nghĩa là gánh nặng và trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta, là điều không ai tránh khỏi trong kiếp người.

Thập giá là “định mệnh” chung cho những ai muốn dấn thân phục vụ cho vinh quang của Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Ngôn sứ Giêrêmia vì trung thành truyền đạt giáo huấn của Chúa mà bị những người đương thời ghen ghét và hành hạ vu khống. Ông đã trở nên trò cười cho thiên hạ. Có những lúc ông chán nản định bỏ công việc Chúa trao, nhưng mỗi khi ông định từ bỏ sứ vụ, thì ông lại thấy đau khổ vô cùng. Nhiệm vụ ngôn sứ như một duyên nợ với ông, rất khó khăn nhưng không dễ chối từ. Gặp nhiều đau khổ và chống đối, ông vẫn say mê Chúa. Dầu có những lúc chán nản, ông vẫn trung thành với Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia là hình ảnh Đức Giêsu chịu đau khổ (Bài đọc I).

Tuy nhiên, trong quan niệm chung của con người, thật không dễ dàng chấp nhận thập giá. Thánh Phêrô không thể hiểu và chấp nhận thập giá. Ông đã phản ứng trước lời tiên báo của Chúa về cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu. Trước đó, ông vừa tuyên xưng Đức tin vào sứ mạng thiên sai của Chúa và lời tuyên xưng này được Chúa khen ngợi. Ấy vậy mà khi nghe Chúa nói về khổ hình, ông vội can: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy!”. Suy nghĩ của thánh Phêrô cũng là lối suy nghĩ của khá nhiều người tín hữu chúng ta. Họ chỉ thích tin và theo Chúa để được những điều may mắn. Họ chọn lựa những điều luật mà họ cho là phù hợp và không liên lụy đến quyền lợi cá nhân mình. Khi gặp phải những gian nan, họ “rửa tay” để không dính dáng đến mình. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Bài đọc II). Quả vậy, không có sự thờ phượng nào tốt đẹp cho bằng một cuộc sống thánh thiện, thể hiện qua đức mến Chúa yêu người.

Có nhiều người thời nay đề nghị không trưng bày Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá trong gia đình cũng như trong nhà thờ. Họ cho rằng hình ảnh này gợi lại sự hận thù và bạo lực. Tuy vậy, Giáo Hội trưng bày hình ảnh Đức Giêsu chịu khổ hình để giúp các tín hữu hiểu về tình thương bao là của Thiên Chúa thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu. Qua thập giá, chúng ta học được bài học của lịch sử. Hơn nữa, hình ảnh Đức Giêsu trên thập giá là lời mời gọi hãy loại trừ bạo lực và hãy tôn trọng phẩm giá của con người. Bởi lẽ thập giá và Chúa Giêsu đau khổ vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo đói, nơi những trẻ em bất hạnh, những nạn nhân của kỳ thị và áp bức chiến tranh. Cùng chung tay xóa bớt sự nghèo đói, thất học, cùng bênh đỡ những người bị xúc phạm nhân phẩm, là vác thập giá cuộc đời để đi theo Đức Giêsu. Khi nhìn lên thập giá, mỗi chúng ta được mời gọi hãy cố gắng để đừng tạo ra thập giá cho những người đang sống xung quanh mình. Ý thức và thực hiện được những điều này, cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao!

Sau cùng, đừng quên rằng thập giá chỉ mang tính nhất thời, vì sau thập giá là sự phục sinh. Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại vinh quang. Thập giá không tồn tại mãi mãi. Nếu biết đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và hy sinh của Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ được tôi luyện và nên thánh.

 5. Thập giá – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Rôma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối người Hy Lạp, Thập giá trở thành hoa văn xinh đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai Cập thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây Ban Nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ơn phúc. Các nước tiểu Á và Đông Á vẽ Thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.

Nhìn chung nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ Thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ Thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau, nhưng khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là khổ giá, một đàng thương đau để được sự sống trường sinh nên được gọi là Thánh giá

Thánh giá này tiên tri Giêrênia như muốn từ chối vì nó nặng quá, sức ông đã kiệt quệ, không thể vác nổi, sức loài người quá yếu. Nhưng Thiên Chúa đã chiêu mộ ông, thiêu đốt ông bằng ngọn lửa cháy bừng trong lòng ông, âm ỉ trong xương cốt ông, làm ông vùng dậy la to, kêu lớn: “Bạo lực và tàn phá” cho những kẻ suốt ngày nhạo cười, phỉ báng ông. Họ muốn sống vinh quang, họ phải dẹp cái thói hung tàn, đàn áp đi, chớ liên minh với ngoại bang gây chiến, giết hại lẫn nhau: đó là thứ thập ác. Giêrênia đã vác Thánh giá để cứu dân thoát khỏi thập ác, nhưng dân vẫn lao đầu vào thập ác: chúng đã đốt con chúng làm lễ tế thần Baal (Cr. 19,5) và hùa nhau: “Tố cáo ông, báo thù ông” (Ger. 20,10).

Thánh giá này, Giêrênia vác không nổi thì Đức Giêsu đã đến vác trọn vẹn. Người long trọng tiên báo cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Phêrô nghe kinh khủng quá, kéo Thầy ra nói nhỏ, sao Thầy dại thế? “Xin Thiên Chúa thương cứu Thầy khỏi sự khốn đó”.

Thành thực muốn cứu Thầy, lại bị Thầy sửa lưng thẳng mặt: “Satan, xéo đi cho khuất, ngươi cản lối Ta, tư tưởng của ngươi không phải của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16,23).

Đúng thế, Phêrô đã bị tính ích kỷ loài người, tính vụ lợi muốn được cả thế gian của satan làm hoen ố tinh thần hy sinh vác thánh giá theo Thầy. Muốn thoát khỏi vác thánh giá thì lại lao đầu vòng tròng thập ác của satan, của sự xấu, của tiêu diệt: “Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống”. Vì chỉ có Thầy “bị người ta giết chết, nhưng ba ngày Thầy sẽ sống lại”, chỉ có “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” “là sự sống lại và là sự sống muôn đời”. Chỉ có “Thầy sẽ ngự đến trong ánh sáng vinh quang”.

Phêrô đã quên niềm tin chân chính mà ông vừa mạnh mẽ tuyên xưng. Con người chóng quên quá! Con người yếu đuối quá! Con người phũ phàng quá! Chúa ơi!

Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Người vác khổ giá hay sao? Giêrênia đã từ chối, nhưng đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, Phêrô đã từ chối và đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, nhiều lần con đã từ chối vác khổ giá, xin cho con biết trở lại vác khổ giá theo Chúa, để khổ giá của con trở thành thánh giá cứu con và nhiều người.

6. Sống đức tin

Như chúng ta đã biết: Với lời tuyên xưng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tấn phong lên ngôi vị giáo hoàng đầu tiên, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm nền tảng của Giáo Hội: Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời. Sự gì con cầm buộc ở dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, còn sự gì con cởi mở ở dưới đất thì trên trời cũng cởi mở.

Thế nhưng cũng chính vị giáo hoàng đầu tiên này sau đó ít phút, đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Thực vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó mà Người sẽ phải chịu tại Giêrusalem, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy. Nhưng Chúa Giêsu đã nghiêm khắc nói với Phêrô: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta, bởi vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.

Thái độ nghiêm khắc của Chúa Giêsu làm cho chúng ta ngạc nhiên, thế nhưng biết đâu lúc này Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta như vậy. Bởi vì chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, trên môi trên miệng nhưng chưa thực sự sống đức tin của mình. Đức tin của chúng ta chưa được tôi luyện và trưởng thành trong đau khổ, trong gian nan thử thách. Chúng ta vui vẻ mở rộng vòng tay đón nhận hạnh phúc và may mắn, nhưng lại vội vã chạy trốn trước những khổ đau và bất hạnh. Đối với chúng ta thập giá không còn là một dấu chỉ của ơn cứu độ, nhưng là dấu chỉ của một sự điên khùng và dại dột, một cái gì cần phải xa tránh. Càng tránh xa được bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Bởi vì tư tưởng của chúng ta chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.

Thực vậy, tư tưởng và lập trường của Chúa Giêsu thật rõ ràng và dứt khoát: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta. Chúa Giêsu cũng đã đưa ra hai điều kiện và hai kết quả sóng đôi với nhau: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm thấy. Dĩ nhiên, đây không phải chỉ là sự sống phần xác, chúng ta có bổn phận phải duy trì, phải phát triển nhưng không được lạm dụng bằng những vui thú quá trớn. Mà hơn thế nữa, còn là sự sống phần hồn của bản thân chúng ta và của những người chung quanh chúng ta. Để sự sống ấy được phát triển, chúng ta phải tin cậy và phó thác vào Chúa, nhất là chúng ta phải thực thi những điều Ngài truyền dạy: Từ bỏ mình và vác thập giá là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.

Tuyên xưng đức tin là một chuyện, còn sống đức tin là một chuyện khác. Giữa hai việc làm ấy là cả một con đường dài, nhiều cam go và thử thách. Thế nhưng chúng ta đã thực sự sống đức tin của mình hay chúng ta chỉ mới tuyên xưng trên môi trên miệng để rồi cuối cùng chúng ta sẽ bị Chúa Giêsu quở trách như Phêrô ngày xưa: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta.

7. Mất và được

Ông Vincio, người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán. Hôm đó ngày 23.12.1993 đang trên đường đi thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp. Ông xuống xe loay hoay thay bánh “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi gần ráp xong bánh xe, thì người đàn ông này kiếu từ phải đi. Ráp xong bánh xe, ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của mình bị mất cắp một số đồ mắc tiền do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy. Ông buồn thở dài, nhưng ông thấy một vé số rơi xuống đường có lẽ của tên ăn trộm. Ông lượm bỏ vào túi. Dịp xổ số đầu năm 1994, ông mang vé số đó ra dò thì may quá vé số trúng 50 triệu lire tiền Ý tức khoảng 60.000 đôla, ai mà chẳng thích. Nhưng lương tâm ông Vincio áy náy vì vé số này không phải của ông. Lòng ông dường như đeo một tấn đá nặng nề. Ông bỏ tiền đăng quảng cáo để tìm ra chủ nhân của tấm vé số đó. Nhiều người tham tới nhận là của mình. Nhưng chỉ vài câu hỏi, ông biết là kẻ tham lam. Ba tuần sau, tên trộm đồ sửa xe điện thoại tới nhận và tả lại mọi chi tiết. Ông Vincio mang 50 triệu lire tới trả cho chủ nhân. Tên trộm quá cảm động, xin lỗi ông Vincio và nói vì anh ta đang thất nghiệp lại nuôi 2 đứa con thơ nên buộc lòng phải lấy đồ sửa xe bán lấy tiền. Tên trộm hỏi tại sao ông Vincio không giữ lấy 50 triệu lire mà xài vì có ai biết gì đâu. Ông Vincio trả lời, lương tâm ông không cho phép. Ra về, ông Vincio cảm thấy nhẹ nhõm tâm hồn hơn bao giờ hết. Mất đồ sửa xe, nhưng được tiền nhiều, được tiền đó nhưng lại mất bình an tâm hồn. Cái vòng mất – được đó cứ luẩn quẩn xoay tròn. Cuối cùng ông Vincio chấp nhận mất số tiền để được bình an tâm hồn.

Phúc Âm hôm nay cũng nói tới cái Mất và cái Được. “Nếu ai dám mất mạng sống mình ở đời này vì Thầy thì sẽ được nó ở đời sau”. Mất mạng sống tức từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa – được đời sau tức được nước thiên đàng, được Thiên Chúa, được hạnh phúc muôn đời. Như vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy mình mất những cái gì tạm thời để được những cái gì vĩnh cửu – mất những thú vui chóng qua để được hạnh phúc trường tồn, mất thân xác mục nát để được linh hồn bất tử, mất tội lỗi và hình phạt để được ân điển và phần thưởng, mất sự cắn rứt lương tâm để được bình an tâm hồn. Cái mất này so với cái được thì mất quá nhỏ nhoi, còn cái được thì bao la vô tận. Cái mất này là “tấm vé” vào Nước Trời. Nước Trời là thực tại không thể mua bằng quyền lực, tiền bạc, sống lâu, danh vọng, tài giỏi… Nước Trời chỉ có thể mua bằng việc dám mất mạng sống, dám từ bỏ mình.

Từ bỏ mình là khi chúng ta giữ 10 điều răn Chúa, là khi chúng ta yêu thương và tha thứ kẻ thù, là khi chúng ta chấp nhận cái nóng lạnh của thời tiết, là khi chúng ta chấp nhận những bệnh tật Chúa gởi đến, là khi chúng ta chu toàn bổn phận của cha mẹ hay con cái trong nhà, là khi chúng ta phục vụ những công tác của giáo xứ, là khi chúng ta dám bỏ giờ để thăm viếng bệnh nhân… Nói chung là khi chúng ta chấp nhận phải hy sinh hơn, phải vất vả hơn, phải thiệt thòi hơn.

Thiên Chúa không hứa hạnh phúc mau qua, Thiên Chúa không chiều chuộng để chúng ta hư đi. Nhưng Thiên Chúa nói thẳng và nói thật “Ai dám mất mạng sống thì người đó được lại”. Mỗi người chỉ sống một đời, đời đó lại rất cá biệt không ai thay thế được, cho nên chúng ta đừng dại mang đời mình ra chơi trò may rủi. Vì được lời cả thế gian mà sau này mất thiên đàng thì chúng ta còn gì mà chuộc lại. Cái chắc ăn nhất là dám chọn cái “mất” tạm thời để nhận cái “được” thiên thu.

8. Con đường thập giá.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta tiếp xúc với một khuôn mặt Phêrô, hoàn toàn khác hẳn với khuôn mặt Phêrô trong Chúa nhật tuần trước.

Như chúng ta đã biết: Phêrô vừa được Thiên Chúa mạc khải để ông nhận biết Đức Kitô là vị cứu tinh. Ông vừa được Chúa Giêsu ca ngợi, đặt làm nền tảng của Giáo Hội. Thế nhưng chỉ sau đó ít phút, Phêrô lại là người đầu tiên vấp ngã khi Chúa Giêsu loan báo cách thức Hoặc hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó.

Đây là lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ về cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Ngài. Tại đây, Ngài sẽ phải đau khổ, bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Một viễn tượng không có gì sáng sủa. Thấy vậy, Phêrô bèn lên tiếng can ngăn. Lời can ngăn ấy có thể đã xuất phát từ niềm tin của ông vào tình thương của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ông đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy về sự quan phòng của Chúa Cha đối với từng cánh chim, từng bông hoa. Thiên Chúa là một người cha chỉ muốn những điều tốt cho con cái. Một người cha thế gian còn không nỡ cho con mình cục đá, khi nó xin cái bánh, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể để cho người con yêu dấu của Ngài gặp phải sự khốn khó. Và như thế, điều Chúa Giêsu vừa mới loan báo, làm sao có thể xảy ra được.

Mặt khác, Phêrô cũng đã từng được chứng kiến quyền năng của Thầy mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm phép lạ cho kẻ đau yếu được khỏi bệnh, cho kẻ chết được sống lại, dẹp yên được cả phong ba bão táp, thì làm sao Ngài lại để cho mình gặp phải sự khốn khó?

Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời, vì ông đã đơn giản hoá vấn đề, và do đó đã vô tình làm công việc của Satan. Thực vậy, khi Satan đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ, nó đã rỉ tai: Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống vì các thiên thần Chúa sẽ nâng đỡ để chân Người khỏi vấp phải đá. Thiên Chúa và quyền năng của Đức Kitô ở đây bỗng trở nên một thứ phương tiện cho người ta sử dụng để thực hiện những ý đồ phù phiến của mình.

Sự thực thì đây không phải là một cơn cám dỗ đặt ra cho một mình Chúa Giêsu mà hơn thế nữa, rất nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã gặp phải. Rất nhiều lần chúng ta đã nêu lên câu hỏi: Tại sao Chúa không cho tôi trúng số để tôi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, để tôi có thời giờ làm những công việc đạo đức, hay để tôi có tiền dâng cúng, làm phúc bố thí. Tại sao Chúa không cho Giáo Hội gặp được những điều kiện thuận lợi, để làm cho Nước Chúa được mở rộng và danh Chúa được cả sáng.

Thế nhưng, chúng ta quên rằng sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng của người tôi tớ đau khổ. Con đường Ngài đã chọn để cứu độ trần gian là con đường thập giá. Lẩn tránh những xác tín này là phản bội lại sứ mệnh của mình, và đó chính là cơn cám dỗ lớn nhất đối với Giáo Hội và đối với bản thân chúng ta. Bởi vì, thay vì thực thi thánh ý Chúa trong việc phục vụ người khác, thì chúng ta lại muốn xin Chúa phục vụ cho những quyền lợi riêng tư của chúng ta.

9. Ý người và ý Chúa - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ

Dường như không ai không gặp sự dữ trên đời; và cũng chẳng ai muốn mình bị sự khó. Một số người tưởng lầm Thiên Chúa muốn con người phải sự khó và đau khổ. Thật sự, Thiên Chúa luôn muốn con người hạnh phúc; những đau khổ con người gặp phải hoặc bị, là do con người mà ra.

1. Điều dữ con người làm cho nhau

Đức Giêsu tỏ cho các tông đồ biết về tương lai của Ngài: Ngài sẽ lên Giêrusalem, sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Nghe vậy Phêrô lên tiếng với Đức Giêsu: Thiên Chúa không muốn Thầy như vậy đâu, không bao giờ điều dữ đó xảy ra cho Thầy đâu. Một điều chắc chắn: Thiên Chúa yêu Đức Giêsu vô cùng, nhưng Đức Giêsu vẫn gặp bao điều ác và Ngài đã bị chết nhục nhã trên thập giá.

Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài không muốn ai phải chịu sự dữ, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con người tự do; và nhiều người bị lòng ham muốn danh lợi chức quyền chi phối, nên thường làm khổ và gây hại cho nhau. Đức Giêsu chết vì người ta muốn giết Ngài, cho rằng Ngài lộng ngôn xúc phạm Thiên Chúa. Để giết Đức Giêsu, người ta đã tố cáo Ngài muốn nổi loạn chống đế quốc Roma đang cai trị, bằng việc xưng mình là vua. Nhiều khi người ta làm khổ nhau và thậm chí giết nhau, nhân danh điều tốt và công ích. Điều dữ con người làm cho nhau, vẫn thường xảy ra dù rằng Thiên Chúa không muốn.

Thiên Chúa không muốn điều dữ cho con người, nhưng vì con người tự do và cơ cấu thể xác, nên con người và Đức Giêsu vẫn bị khổ và bị giết. Chính con người làm khổ nhau, chứ Thiên Chúa không làm khổ con người. Ngay cả hoả ngục, nơi bất hạnh vĩnh cửu, cũng do con người tạo nên cho mình. Chính khi con người sống trong thù ghét oán hận, con người bất hạnh và đau khổ.

2. Ý của Thiên Chúa

Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc. Ngài tạo dựng con người để chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài cho con người. Ngài tìm mọi cách giúp con người sống bình an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau mà ngay cả ở đời này. Cả khi con người phạm tội, Ngài vẫn giúp con người hối hận trở lại để Ngài tha thứ.

Khi ai đó bị kẻ khác hành hạ và đàn áp bất công, thì Thiên Chúa vẫn giúp người đó bình an trong hoàn cảnh của mình, bằng việc nhận ra ý nghĩa và chấp nhận cảnh túng cực đó. Ngài cho họ biết rằng, cuộc đời này sẽ qua đi, và đời sau họ sẽ được đền bù những gì đời này họ bị mất. Một số người hiểu lầm giáo lý này, cho rằng đây là giáo lý làm con người yên tâm sống trong nô lệ và cam chịu người khác bóc lột. Thật ra Thiên Chúa không muốn con người bị bóc lột bởi bất cứ ai, Ngài không muốn con người làm khổ nhau. Nếu ai đó thấy cần phải nổi dậy chống cường quyền để thoát bất công, thì người đó cứ làm như họ thấy phải làm. Thiên Chúa vẫn nói với con người qua lý trí và lương tri mỗi người. Mỗi người phải sống theo lương tâm mình. Đức Giêsu là gương mẫu cho con người: Ngài nói điều phải nói cho dù nguy hiểm đến tính mạng, cho dù vì đó người ta ghét và giết Ngài.

Thiên Chúa ở với con người, muốn con người hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa muốn cả những người bị áp bức mà không thể thoát khỏi hoàn cảnh đó, cũng được hạnh phúc. Thiên Chúa muốn những người bị áp bức mà nổi lên chống lại cường quyền cũng được hạnh phúc trong việc phản kháng của họ. Với những người đang áp bức người khác, thì Ngài cho họ thấy: họ được gì nếu họ được tất cả ở đời này mà mất đời sau, phải khổ đời sau. Yêu thương và tôn trọng con người, mới làm con người hạnh phúc ở đời này, và cả ở đời sau.

3. Tôn thờ Thiên Chúa qua cuộc sống

Đức Giêsu vẫn làm điều Ngài phải làm, cho dù Ngài sẽ bị giết chết. Yoan Tiền Hô cũng đã làm điều phải làm, phản đối việc Hêrôđê lấy vợ người anh, cho dù vì đó Ngài bị ghét và bị giết. Yoan Tiền Hô vẫn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Cả tiên tri Yêrêmia cũng như vậy. Ngài được gọi làm tiên tri, để nói với dân những điều Thiên Chúa muốn, để họ bỏ đường tội lỗi và trở về với Thiên Chúa. Khi nói những gì Thiên Chúa truyền, là tiên tri phải loan báo những tai hoạ mà những người thời đó không muốn nó xảy tới. Và như vậy, tiên tri bị người ta ghét và hãm hại. Có nhiều lần Yêrêmia không muốn nói điều Thiên Chúa truyền, nhưng trong lòng tiên tri như lửa thiêu, và không thể nào cầm lòng được. “Lạy Chúa, Ngài đã dụ dỗ tôi, và tôi đã để mình bị dụ. Suốt ngày, khi nói, là tôi phải nói những lời về chém giết và điêu tàn.” Có lần tiên tri đã không làm theo Lời Thiên Chúa, nhưng rồi tiên tri lại được ơn trở lại, và lại làm theo điều Thiên Chúa muốn. Đức Giêsu cũng được ơn để sẵn sàng làm theo những gì Thiên Chúa muốn, cho dù bị người ta ghét và tìm cách giết Ngài.

Với những người chọn Thiên Chúa trên hết, sống lâu hay chết yểu không quan trọng. Điều chính yếu là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Khi làm như vậy, cả cuộc đời họ trở thành của lễ tôn thờ Thiên Chúa. Họ tôn thờ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của họ. Tôn trọng người khác, và làm theo điều mình được soi sáng, là thái độ sống của người đặt Thiên Chúa trên hết.

Hạnh phúc mỗi người nhận được trên đời này, phần nào qua chính hành vi sống của họ. Trong một xã hội dễ dàng về vật chất, con cái vừa là một vinh dự, vừa là mối bận tâm và lo lắng của nhiều người. Nếu cha mẹ chỉ lo kiếm tiền và không dành thời gian để sống với và giáo dục con cái, thì người cha người mẹ đó sẽ bất hạnh khi con cái họ hư hỏng. Nếu bậc cha mẹ vì sợ trách nhiệm không dám sinh con, thì họ cũng không có được niềm vui của một gia đình có con cái, không cảm được sự đầm ấm tươi trẻ và hạnh phúc khi có con có cháu. Con người phần nào cũng được lãnh những gì tốt đẹp mình dâng hiến và xây dựng ngay trong cuộc sống này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Sự dữ nhất mà bạn đã phải chịu, là gì? Xin bạn chia sẻ nếu được.

2. Sự dữ là do con người làm cho nhau, hoặc do con người mà ra. Câu này đúng hay sai? Tại sao? Nó có đúng với những tai ương thiên nhiên không?

3. Cuộc đời của bạn và cuộc đời của Đức Giêsu, cuộc đời nào bạn thích hơn? Bạn có dám chọn cuộc đời của Đức Giêsu không? Tại sao?

10. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Ignatiô Trần Ngà 

TỪ BỎ DANH LỢI NGẮN NGỦI ĐỜI NÀY ĐỂ ĐỔI LẤY HẠNH PHÚC VÔ TẬN ĐỜI SAU

Hôm ấy, dân chúng tụ tập đông đảo tại quảng trường để lắng nghe hai diễn giả lừng danh diễn thuyết.

Mở đầu chương trình, Chúa Giê-su bước lên diễn đàn và được đám đông chào đón bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Phần đông trong họ đã từng nghe danh Chúa Giê-su nhưng chưa từng được diện kiến.

Sau khi giới thiệu cho mọi người về Nước Thiên Chúa, về điều răn trọng nhất… Chúa Giê-su cất tiếng mời gọi: “Có ai trong các con muốn theo Thầy không?”

Vì biết rằng Chúa Giê-su là Đấng cứu độ đầy quyền năng, ai theo Ngài sẽ được nhiều hồng phúc, nên mọi người đều hớn hở vui mừng, giơ tay cao và đứng lên hô lớn: “Con, con, con xin theo…”

Thế rồi, Chúa Giê-su lại nói tiếp: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi…”

Nghe nói đến việc “từ bỏ mình”, nhiều người cụt hứng, hạ tay xuống.

Để giải thích lý do tại sao phải từ bỏ mình, Chúa Giê-su nói: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.”

Nghe nói đến “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, mọi người hụt hẫng…

Rồi Ngài thuyết phục: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”

Lời này khiến nhiều người suy nghĩ và phân vân, nhưng vẫn còn do dự, chưa quyết.

Chương trình được tiếp nối với bài nói chuyện của Thần Tài. Vừa thấy Thần Tài xuất hiện, đám đông hò reo tưng bừng và vỗ tay cuồng nhiệt.

Sau khi đề cao sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vinh quang của quyền lực, sự cuốn hút của lạc thú đời này… Thần Tài lên tiếng mời gọi: “Ai theo tôi sẽ được giàu có, quyền lực, hạnh phúc, lạc thú… ở đời này, chỉ ở đời này mà thôi!”

Thế là có đông người vỗ tay tán thưởng Thần Tài và hăm hở đi theo ông ta.

Còn chúng ta thì sao?

Nếu chúng ta may mắn có mặt trong cuộc diễn thuyết hôm ấy, chúng ta sẽ theo ai?

Và hôm nay, khi nghe lời mời gọi của Chúa Giê-su vọng lại qua trang Tin mừng này, chúng ta sẽ quyết định thế nào?

– Một là say mê theo đuổi danh vọng, giàu sang, lạc thú đời này bất chấp sự sống đời sau;

– Hai là liều mất mạng sống vì Chúa Giê-su để được tận hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Danh vọng, giàu sang, phú quý đời này có sức cuốn hút mạnh mẽ. Nếu không phải là người có bản lãnh cao, nếu không phải là người khôn ngoan sáng suốt, thì khó thoát khỏi sự lôi cuốn của chúng.

Nghĩ cho cùng, nếu đời sống con người chỉ vỏn vẹn 100 năm trên dương thế này mà thôi, chẳng có đời sau, thì chọn theo Thần Tài, đua tranh tìm kiếm giàu sang, lạc thú đời này là điều chính đáng.

Tuy nhiên, so với đời sau thì cuộc đời này chỉ kéo dài trong gang tấc, còn cuộc sống đời sau là thiên thu vạn đại. Vì thế, mải mê tìm kiếm hạnh phúc thoáng qua đời này mà đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu mai sau thì thật là vô cùng đáng tiếc.

Nếu cuộc sống đời này có giá bằng một đồng tiền vàng thì giá trị cuộc sống đời sau phải tỷ lần cao hơn. Vì thế, ham muốn chiếm lấy một đồng trước mắt mà đánh mất tỷ đồng trong tương lai là sai lầm hết sức tai hại.

Như thế, lời dạy của Chúa Giê-su: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?” là một bài học khôn ngoan cần ghi tâm khắc cốt và phải là châm ngôn, là ánh sáng soi đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa Giê-su,

“Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”

Hôm xưa, Phan-xi-cô Xa-vi-e vốn là người ham mê tìm kiếm danh vọng đời này, nhờ được nghe lời dạy này của Chúa qua miệng thánh I-nha-xi-ô, nên đã từ bỏ vinh hoa phú quý, rời xa kinh thành Paris hoa lệ, vượt đại dương loan báo Tin mừng cho dân tộc Ấn-độ, Sri-lanca, Malaysia, Nhật Bản… nhờ đó, ngài đã đem ơn cứu độ cho muôn vạn người Châu Á và được toàn thể Hội thánh Chúa ca ngợi, tôn vinh.

Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời vàng Chúa dạy, sẵn sàng hiến thân phục vụ Chúa và mọi người, chấp nhận từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau. Amen

11. Đầu tư cho cuộc sống mai sau - Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi nầy.

Cái tôi như một quả bong bóng mà cá nhân mỗi người cố thổi cho phồng lên tối đa.

Cái tôi như một trung tâm điểm mà tất cả mọi năng lực của bản thân đều quy về đó.

24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác…

168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.

8,766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.

Châm ngôn của người ta là: Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.

Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.

Người ta chăm lo vun quén cho thân xác thật sung mãn như những đứa bé thi nhau thổi ra những chiếc bong bóng xà phòng trông thật long lanh và hấp dẫn… nhưng rồi… bụp, bụp, bụp…, bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, đua nhau nổ tan tành chẳng còn chi.

Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực… đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:

“Trăm năm còn có gì đâu?

“Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!”

Tiếc thay, ngay nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!

Thế là đúng như lời Chúa Giêsu dạy: “quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”; và cho dù người ta có thu tóm “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”

* * *

Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là “một nấm cỏ khâu” hay đơn giản hơn, là “một lọ tro tàn” thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai dại dột đến nỗi đầu tư kiểu đó không??

Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị một giải pháp tốt. Người dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư theo hướng tâm linh, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”

Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân quyết dồn mọi nỗ lực để phụng sự thân xác, muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.

May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”

Anh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phanxicô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.

“Từ bỏ chính mình” tức là đừng lấy thân xác làm mục tiêu cho mọi phấn đấu, mọi nỗ lực của ta; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.

“Vác thập giá mình” là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác- sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau thương – để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.

Chúa Giêsu đã đầu tư đời Người theo hướng đó và Người đã đạt tới vinh hiển khải hoàn. Hôm nay, Người muốn chúng ta đầu tư theo hướng Người đã đầu tư, bước đi theo con đường Người đã bước, để chúng ta được chung hưởng vinh hiển như Người.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa. Amen.

12. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm A nêu bật một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người, vì thế người Kitô hữu phải có một lập trường dứt khoát là không chạy theo xu hướng thời đại, không tìm cách rập khuôn theo thói đời.

Gr 20:7-9

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a vẫn nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, cho dù sứ điệp ấy ngược lại với bản tính của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông.

Rm 12:1-2

Thánh Phao-lô cảnh giác các tín hữu Rô-ma sống giữa môi trường dân ngoại: “Anh em đừng có rập theo đời nầy, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn Thiên Chúa”.

Mt 16:21-27

Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô không thể nào chấp nhận ý định của Thiên Chúa theo đó Đấng Mê-si-a phải trải qua đau khổ và sự chết. Nhưng Đức Giê-su khẳng định với thánh nhân: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

I. BÀI ĐỌC I (Gr 20:7-9)

Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất.

1. Bối cảnh lịch sử:

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa năm 626 và 587 TCN; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị thiêu hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai quan tâm đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe. Ông trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam. Đó thật sự là một bi kịch diễn ra trong lòng của vị ngôn sứ.

2. Bi kịch nội tâm:

Đoạn văn hôm nay trích từ “lời trần tình” hay lời tự sự của vị ngôn sứ ngỏ với Thiên Chúa. Đây là một trong những đoạn văn thống thiết nhất. Đoạn trích nầy nói lên tất cả tấm bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: lãnh nhận sứ vụ mà không thể thoái thác, phân biệt ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với ý muốn của phàm nhân, nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a phân trần với Thiên Chúa về ơn gọi bất khả kháng của mình:

“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,

và con đã để cho Ngài quyến rũ.

Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.

Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ để họ nhạo báng con” (20:7).

Vốn bản tính hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với con người của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông. Vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị các giới lãnh đạo cả đời lẫn đạo cũng như dân chúng sỉ nhục và chế giễu suốt ngày:

“Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,

phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’

Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (20:8)

Đó thật sự là một sự thử thách nặng nề mà ông phải gánh chịu vì sứ mạng của mình. Đôi lần ông muốn thoái thác sứ mạng ấy:

“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,

cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (20:9a)

Ông đã phải ra sức cố kiềm nén lại, nhưng vô ích, không sao cưỡng kháng được:

“Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim,

ầm ỉ trong xương cốt.

Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được” (20:9b)

Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc thần linh của nó, và đồng thời quyền năng của nó ngự trị tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về với Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.

II. BÀI ĐỌC II (Rm 12:1-2)

Với chương 12, khởi sự phần luân l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu, Do thái hay dân ngoại). Trong phần nầy, thánh Phao-lô vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế thánh nhân khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích dẫn hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên cô động của thánh nhân: “phụng thờ đích thật” và “đổi mới tâm thần”.

1. Phụng thờ đích thật:

Trong lời khuyên thứ nhất: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, thánh Phao-lô đối lập “của lễ sống động”, tức là cả một đời sống được dâng hiến cho Thiên Chúa, với “của lễ chết”, tức là những tế vật được hiến dâng thành hy lễ trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một đời phụng vụ, đó mới thật sự là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính bản thân mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết của thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15:16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lo ám chỉ đến cái chết gần kề của mình khi viết: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Thiên Chúa, thì tôi vui mừng và chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2:17).

Dâng hiến chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Tỉnh từ Hy lạp “logikon”, được dịch “xứng hợp”, thuộc về từ ngữ tôn giáo Do thái hay Hy lạp, được dùng để đánh dấu một sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người. Tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người là cách thức phụng thờ Thiên Chúa xứng hợp nhất.

2. Đổi mới tâm thần:

Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới tâm thần: “Anh em đừng có rập theo đời này, những hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”. Việc đổi mới tâm thần đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: đừng rập khuôn theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người mình.

Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến: vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Kitô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma. Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ‎ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.

III. TIN MỪNG (Mt 16:21-27)

Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Sau khi đã nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Chúa Giê-su loan báo cho chỉ một mình các môn đệ thân tín của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài luôn liên kết viễn cảnh Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.

Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây: “Người phải…”, không phải là cái tất yếu của một định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa).

1. Phản ứng của Thánh Phê-rô:

Chúng ta hiểu phản ứng của thánh Phê-rô. Thánh nhân quan niệm về Đấng Ki-tô (Mê-si-a) vinh quang và toàn thắng. Trong tư tưởng của thánh nhân, những viễn cảnh về một vị vua Ki-tô trần thế bách chiến bách thắng chắc chắn vẫn còn hiện diện.

Rất tế nhị, thánh Phê-rô kéo Thầy mình ra khỏi các bạn đồng môn và nói riêng với Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Chắc chắn thánh nhân lầm khi muốn lôi kéo cả Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của thánh nhân không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng gói trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chắc chắn chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ và phải chết.

2. Phản ứng của Đức Giê-su:

Tuy nhiên, thánh Phê-rô gặp phải một phản ứng quyết liệt của Chúa Giê-su. Trước đây, Chúa Giê-su đã phản kháng triệt để cơn cám dỗ của Xa-tan trong hoang địa khi nó ra sức thuyết phục Ngài thực hiện sứ mạng của một Đấng Ki-tô đầy quyền năng chứ không một Người Tôi Trung chịu đau khổ: “Xa-tan, hãy xéo đi”, giờ đây Ngài cũng đáp lại thánh Phê-rô cũng tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”. Từ “Xa-tan” theo tiếng Híp-ri có nghĩa “kẻ cản lối”, tự nguồn gốc là một danh từ chung.

Với diễn ngữ: “lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi vị tông đồ, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống trong tư thế của người môn đệ chứ không tìm cách cản lối Thầy. Ngài muốn thánh Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, cuộc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân trọn vẹn vào trong cùng một vận mệnh với Ngài. Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Ngài cũng nói với họ một cách như thế: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo

3. Theo Đức Giê-su:

Sau nầy, mỗi lần gợi lên cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết số phận của các môn đệ vào với vận mệnh Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.

Khi sử dụng hình ảnh “thập giá”, không phải Đức Giê-su không gợi lên ở nơi các môn đệ của Ngài tất cả ý nghĩa của từ nầy sao? Trước đây, thánh Mát-thêu đã gợi lên hình ảnh thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10:38). Hình phạt đóng đinh vào thập giá được chính quyền Rô-ma hành hình tập thể đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem rồi. Thánh Lu-ca, trong một bản văn đối chiếu, đã thêm diễn ngữ chỉ thời gian: “hằng ngày” vào diễn ngữ “vác thập giá” đem lại cho lời công bố của Đức Giê-su nghĩa bóng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23), nghĩa là chấp nhận mọi gian nan khốn khó xảy ra hằng ngày trong cuộc đời.

3. Bài học của mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh:

Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10:38; 16:25; Mc 8:35; Lc 9:24; 17:33; Ga 12:25). Một âm vang sâu đậm như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ‎ý nghĩa của lời công bố này và ghi khắc lời công bố này vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Theo bối cảnh của những lần báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không bao giờ là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống, bởi vì cuộc Tử Nạn và Phục Sinh là kế hoạch Chúa Cha hoạch định cho Con của Ngài để cứu độ muôn người, như chính Đức Giê-su công bố: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ‎ ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:18).

Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là đảm bảo cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Nước Trời.

4. Đối lập giữa sự sống trần thế với sự sống Nước Trời:

Lời công bố của Đức Giê-su: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” để lại sự phân vân cho người đọc, bởi vì nó diễn tả điều quá thường tình. Tin Mừng không quen với những kiểu nói tầm thường như vậy. Có vấn đề về ngôn ngữ ở đây. Chữ “mạng sống” được dịch từ tiếng Hy lạp: “psyché” có nghĩa “linh hồn”, như cách dịch truyền thống: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất linh hồn, thì có lợi gì?”. Bản dịch hiện nay chọn từ “mạng sống” thay cho “linh hồn” bởi vì chữ “linh hồn” gợi lên nhị nguyên thuyết Hy-lạp, xa lạ với tư tưởng Kinh Thánh. Thực ra, Đức Giê-su đã sử dụng tiếng “sinh khí” như trong sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh linh” (St 2:7). Rõ ràng ở đây Đức Giê-su đối nghịch việc sở hữu của cải vật chất – mà diễn ngữ “người ta được cả thế gian” gói trọn tất cả ý nghĩa nầy – với việc thiệt mất của cải tinh thần, thiệt mất “mạng sống”, được hiểu theo nghĩa mạnh: “sự sống đời đời”. Vì thế, bản dịch sát ‎ý nghĩa nhất phải là: “Vì nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất ơn cứu độ của mình, thì có lợi gì?”. Câu hỏi mà Đức Giê-su nêu lên: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”, cũng diễn tả theo cùng một tư tưởng: “ơn cứu độ” đời đời, vô giá. Vả lại, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày Quang Lâm của Ngài: “Bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

Vì thế, để sở hữu Sự Sống Đích Thật, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ – và sau họ, cho tất cả các Kitô hữu không gì khác ngoài việc noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời khẳng định nghiêm túc, không hoa mỹ, nhưng chan chứa niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.

13. Mất đi để được lại - Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Trên Internet có kể câu chuyện như sau:

Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất tiêng líu lo chào đón cô.

Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô hay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tar a cô mới bang hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.

Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong long. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.

Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.

***

Cô gái chỉ “được lại” niềm vui khi cô bằng lòng chịu “mất đi” chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.

Bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Cần phải “Mất đi” để “được lại”.

Người Kitô hữu chỉ thực sự thật hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.

Người kito hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn long “mất đi” của cải phù vân đê “được lại” gia tài vĩnh cửu, “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời.

Hiểu được cái gì phải “mất đi” và cái gì sẽ “được lại” đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.

Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; nhưng cai mình dày công kiếm tìn, theo đuổi.

Đâu pahi dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.

Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.

Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về “cái được”, “cái mất” cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghĩ chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). “Theo thầy” là “phải từ bỏ chính mình” hẳn là không dễ dàng. “Theo Thầy là “vác thập giá mình mà theo” lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngày sau đó, Đếc Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27).

Các tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.

Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.

Thánh Teresa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.

Augustino đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.

Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.

Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.

Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.

***

Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con biết cái gì cần phải “mất đi”, cái gì cần phải “từ bỏ”, để chúng con được nhẹ nhàng bước theo Chúa trọn con đường mà Chúa muốn chúng con đi.

Xin cho chúng con trung thành theo Chúa đến cùng, cho dù là chông gai, đau khổ, vì chỉ có Chúa mới là cùng đích cuộc đời chúng con. Amen.

14. Trong họa có phúc - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Được và mất là hai điều luôn song hành với nhau. Đây là chân lý của cuộc sống con người. Trong cái được luôn tiềm tàng cái mất; và trong cái mất luôn mở ra cơ hội để được. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ học cách chấp nhận để bình an hơn khi mất và học cách trân trọng những cái mình đang được.

Trong đời sống đức tin giữa đón nhận và từ bỏ luôn song hành. Đón nhận theo ý Chúa thì phải từ bỏ danh lợi thú trần gian. Giữa đón nhận và từ bỏ không phải lúc nào cũng dễ dàng chọn lựa. Vì nhận cái này phải bỏ cái kia luôn làm cho con người tiếc nuối. Thế nên, cần phải biết học cách khi nào đón nhận, khi nào từ bỏ để được bình an. Đón nhận hay từ bỏ chỉ bình an khi làm theo thánh ý Chúa mà thôi.

Có lẽ chúng ta đều từng đọc câu chuyện “tái ông thất mã”. Câu chuyện như sau:

Xưa có một ông già sống ở vùng biên giới phía bắc. Ông rất giỏi việc nuôi ngựa. Một hôm ông phát hiện ra rằng con ngựa của ông đã chạy mất sang nước Hồ láng giềng. Hàng xóm cảm thấy tiếc cho ông nhưng ông già nói, “biết đâu nó lại là mang đến một điều phúc?”

Vài tháng sau, con ngựa đã mất tích của ông đột nhiên quay trở về cùng với một con ngựa quý nữa. Hàng xóm đến chúc mừng ông vì điều may đó. Nhưng ông nói “biết đâu nó lại mang đến tai họa?”

Con trai ông thích cưỡi con ngựa quý, và rồi một hôm anh ta bị ngã ngựa gãy chân và bị què. Hàng xóm đến an ủi ông nhưng ông lại trả lời “biết đâu nó lại mang đến điều phúc?”

Một năm sau, nước Hồ láng giềng đưa quân sang xâm lược, và tất cả thanh niên trai tráng đều phải tòng quân ra trận – kết quả là cứ 10 người đi thì 9 người tử trận. Con trai ông bị què nên được ở nhà và thoát chết.

Nhận có thể trở thành họa, và rồi mất đó lại có thể chuyển thành phúc. Sự chuyển hóa này là vô tận và sự bí ẩn của nó mãi mãi là điều huyền bí đối với nhân loại. Tuy nhiên trong đức tin thì mọi sự cần phải phó thác nơi Chúa. Thiên Chúa có thể rút ra một điều tốt từ cái xấu. Anh em nhà Gia-cóp đã bán em sang Ai-cập là điều xấu. Thế mà, Thiên Chúa lại dùng điều ấy để cứu dòng tộc Israel khi cho Giuse làm quan lớn trong triều đình Ai cập.

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thanh. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”

Chúa giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị. Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Đôi khi chúng ta vẫn tự hỏi: tôi từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa thì tôi được gì? Tôi bước đi theo con đường của Chúa tôi sẽ được gì?

Thực ra, từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa không đương nhiên là nghèo khó mà chắc chắn là được Chúa chúc phúc đời này và cả đời sau. Vì ý Chúa luôn mời gọi con người hoàn thiện mình và sống có ích cho tha nhân. Vì ý của Chúa luôn mang lại niềm vui của tâm hồn an bình, thanh thản. Ý Chúa sẽ giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn trong cuộc đời của mình. Chính sự bình an, hạnh phúc mới là giá trị đích thực mà con người phải tìm kiếm. Nó có giá trị cao hơn hẳn những danh lợi thú mà lại không có bình an.

Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm từ bỏ con đường dễ dãi của bản thân để đi theo tiếng nói của Chúa dạy bảo qua lời Chúa và qua tiếng lương tâm. Xin đừng vì những danh lợi thú mà đánh mất hạnh phúc đời này và đời sau. Amen.

15. Đau khổ và hạnh phúc - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời luôn có đau khổ và hạnh phúc. Hai trạng thái này luôn đan quyện vào một đời người. Con người vốn dĩ sợ đau khổ và mong tìm hạnh phúc. Thế nhưng đau khổ lại cứ bám riết lấy đời người, còn hạnh phúc lại thật mong manh.

Phật Thích Ca khi nhìn vào cuộc đời chỉ thấy toàn là bể khổ. Sinh – bệnh – lão – tử dường như là định mệnh bể khổ dành cho con người. Phật Thích Ca đã đưa ra một con đường giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ. Đó là con đường diệt dục. Diệt mọi lòng ham muốn mới mong tìm được hạnh phúc.

Biết bao nhà lãnh tụ các quốc gia luôn nỗ lực hạn chế nỗi khổ và gia tăng niềm vui hạnh phúc cho người dân.

Phải chăng là một nghịch lý khi Đức Giêsu đề nghị ta hãy đi vào đau khổ? Phải chăng Ngài chỉ muốn các tín đồ của Ngài sống trong đau khổ?

Nhìn vào cuộc đời của Chúa, đó là một cuộc đời đi vào đau khổ. Từ trời cao Ngài đã đi vào dòng đời trong thân phận con người. Sinh ra trong thân phận thấp hèn, nghèo khó, thuộc giai cấp cùng đinh và hòa lẫn trong giới lao động cùng khổ. Ngài đến trần gian không nhằm mục đích xóa bỏ đau khổ mà là hiện diện cùng với những con người đau khổ. Suốt 30 năm sống đời ẩn dật trong một xóm nghèo lao động. Phải chăng Ngài đã phí thời gian khi ở với gia đình, khi cùng với cha mẹ lao động để kiếm sống như bao con người khác? Tại sao Ngài đã làm phép lạ hóa bánh nuôi trên năm ngàn người ăn mà lại phải chắt chiu từng hạt cơm, chén mắm từ công thợ khi có khi không?

Bài Phúc âm hôm nay còn cho thấy, khi danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Uy tín Ngài đã bao trùm mọi nơi. Khi mọi người chỉ còn chờ Ngài đi vào thành Giêrusalem là họ sẽ tung hô Ngài làm vua để giải thoát dân khỏi cảnh đói khổ lầm than. Thế mà Ngài lại nói đến đau khổ và sự chết. Ngài còn đòi hỏi các môn sinh của mình phải từ bỏ danh lợi thú để đi vào con đường thập giá, con đường mà nhiều người đang muốn vượt ra, nay Ngài lại mời gọi đi vào.

Tuy nhiên, con đường Chúa Giêsu đi không dừng lại ở đau khổ và sự chết. Nếu kết thúc cuộc đời của Ngài chỉ dừng lại ở bi kịch thập giá thì cửa mồ của sự chết sẽ khép lại toàn bộ sự nghiệp của Ngài đã vun trồng. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã đi qua sự chết để mở ra cánh cửa phục sinh vinh hiển. Giá trị đau khổ Ngài chịu đã đem lại niềm vui cứu độ cho toàn thể nhận loại. Sự chết của Ngài đã khai mở cánh cửa thiên đàng cho tất cả những ai tín trung theo Ngài.

Con đường Chúa Giêsu đã đi không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang. Đó là con đường hẹp và đầy chông gai. Con đường từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ thiên tính của mình để hòa nhập với khối đông của nhân loại. Từ bỏ quyền lợi của mình để phục vụ lợi ích nhân loại. Từ bỏ những tiện nghi vật chất để sống rầy đây mai đó, để thi ân giáng phúc cho tha nhân. Đó là con đường Ngài mời gọi chúng ta. Hãy từ bỏ lòng tự cao tự đại để sống hòa đồng với anh em. Hãy từ bỏ lòng tham của danh lợi thú để sống thanh khiết và công bình bác ái với tha nhân. Từ bỏ đòi hỏi hy sinh. Hy sinh bản thân để đem lại niềm vui cho tha nhân. Hy sinh thời giờ để phục vụ anh chị em chung quanh. Từ bỏ và hy sinh không làm cho ta bé nhỏ đi nhưng được lớn lên và trưởng thành hơn. Một người trưởng thành là một người biết hy sinh và nhường nhịn cho người nhỏ hơn. Một người được gọi là trưởng thành là người dám lãnh lấy trách nhiệm với gia đình và với xã hội.

Thế nên, sợ hãi đau khổ là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm đó là người vô dụng, và người trốn tránh trách nhiệm chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Là người kytô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của mình.

Nếu mỗi người đều biết chu toàn bổn phận của mình một cách ý thức và trách nhiệm là chúng ta đang trồng cây hạnh phúc ở giữa gia đình và xã hội mà chúng ta đang sống. Thập giá của bổn phận sẽ không còn là nỗi khổ mà là niềm vui, vì chúng ta đang cống hiến tài sức và trí tuệ của mình để đem lại hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta bỏ bê và thiếu trách nhiệm trong bổn phận là chúng ta đang hủy diệt cây hạnh phúc và trồng cây Thập giá đau khổ cho gia đình cũng như xã hội.

Xin Chúa giúp chúng con biết noi gương bắt chước Chúa luôn can đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha nhân, vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen.

16. Đi theo con đường của Chúa - Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

I. DẪN NHẬP

Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã trở thành Kitô hữu. Từ ngữ “Kitô hữu” có nghĩa là người thuộc về Chúa Kitô hay người được mang danh Chúa Kitô. Đã là Kitô hữu thì phải theo Chúa Kitô. Theo ở đây không phải chỉ tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” như thánh Phêrô đã tuyên xưng. Theo Chúa không phải là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, cũng không phải chỉ thực hành một số tục lệ và nghi lễ do tôn giáo ấn định như đi xem lễ và lãnh nhận các bí tích.

Theo Chúa là phải chấp nhận một số điều kiện khắt khe như Ngài đã đề ra và mời gọi: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy, Ai muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình trong cuộc sống hằng ngày. Đây là điều kiện khắt khe và quyết liệt đòi chúng ta phải nỗ lực không ngừng, nhưng nó sẽ dẫn ta tới sự sống đời đời.

Như chúng ta thường nghe và cũng đã nói cái quí giá nhất của con người là sự tự do, nhưng kèm theo nó như hình với bóng còn có một điều hết sức quan trọng và mang đầy tính chất mạo hiểm: đó là sự lựa chọn theo nhận thức của mỗi người. Chính vì sự lựa chọn này khiến con người phải chịu trách nhiệm về hậu quả của hành động mình. Do đó, khi dùng tự do có ý thức để lựa chọn, con người phải cân nhắc lựa chọn, theo đúng nguyên tắc luật lệ chính đáng, luân thường đạo lý và lương tâm ngay thẳng mới có thể tránh khỏi những sai lầm tai hại về tinh thần lẫn thể xác. May mắn thay cho chúng ta là những Kitô hữu vì chúng ta đã có Chúa hướng dẫn, ơn Chúa soi sáng giúp chúng ta dễ dàng trong việc chọn lựa.

II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Gr 20,7-9.

Tuy Giêrêmia là con người nhút nhát, nhưng Thiên Chúa cũng gọi ông làm tiên tri để tuyên bố những lời chói tai mà người ta gọi ông là “nhà tiên tri loan tin dữ”. Sứ mạng của ông gặp nhiều khó khăn: nguời ta chống đối, chế nhạo ông, thậm chí còn lên án ông nữa vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ, lại còn loan báo án phạt của Thiên Chúa. Bị đau khổ tư bề, nhiều lần ông đã định bỏ cuộc, nhưng dù sao, ông cũng phải thú nhận là ông không thể nào từ bỏ sứ mạng đau khổ đó, vì “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.

+ Bài đọc 2: Rm 26,21-27.

Lời khuyên nhủ của thánh Phaolô đối với tín hữu Roma cũng giống như lời Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Người theo Chúa là người từ bỏ cách sống theo thời của mình, và hơn nữa là từ bỏ chính mình, tự hiến toàn thân cho Chúa như một của lễ sống động dâng cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong thánh lễ.

Thánh Phaolô cho biết: làm như thế là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý và đáng trân trọng nhất.

+ Bài Tin mừng: Mt 26.21-27.

Đây là lần đầu tiên, Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết là Ngài phải chịu bắt bớ, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Lời tiên báo này làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, không hiểu nổi vì các ông vẫn còn cái nhìn và sự hiểu biết của con người, đến nỗi thánh Phêrô phải phản đối. Nhưng Chúa gạt ý kiến này đi và cho các ông biết chính các ông cũng sẽ phải đi theo con đường của Ngài.

Những ai muốn làm môn đệ của Ngài thì phải chấp nhận đi theo con đường của Ngài, con đường đó đòi hai điều kiện căn bản:

– Điều kiện thứ nhất là từ bỏ chính mình.

– Điều kiện thứ hai là vác thập giá của mình.

Ai thi hành hai điều kiện đó sẽ được phần thưởng: “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Nếu muốn theo Chúa.

1. LỜI CHÚA MỜI GỌI.

Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết: “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và luật sĩ gây ra, bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở ra một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này Chúa muốn mạc khải về mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài. Quả vậy, đây là lần thứ nhất trong ba lần (Mt 16,21; 17,22; 20,17) Ngài báo về mầu nhiệm đó. Mỗi lần loan báo như đánh dấu một chặng đường tiến về Giêrusalem. Việc loan báo như vậy cũng là để chuẩn bị đức tin cho các môn đệ có thể đương đầu với cuộc khủng hoảng sắp tới, khi Ngài bước vào cuộc tử nạn và phục sinh.

Vì thế, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Trông thấy trước con đường khó khăn đang trải ra trước mặt các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải dứt khóat lập trường là có muốn theo Ngài nữa hay không? Câu hỏi và lời mời gọi này nêu lên tinh thần tự do đáp trả của con người hơn là sự đòi hỏi của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người như một món quà độc đáo và quí báu nhất.

THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, không phải chỉ là mang tên môn đệ của Ngài, mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài là làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào có thể làm cho họ lìa bỏ nhau

Đi đâu cho thiếp đi cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

(Ca dao)

Trong lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai từ “NẾU” và “THÌ”. Khi dùng chữ “nếu” thì luôn luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, không có không được.

2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA.

Phân tích lời kêu gọi của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đưa ra hai điều kiện cho bất cứ ai, các môn đệ hay chúng ta, muốn làm môn đệ của Ngài phải thi hành:

– Từ bỏ chính mình.

– Vác thập giá mình.

2.1 Từ bỏ chính mình.

Đây là phương diện tiêu cực của việc theo Chúa. Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật… và do bên trong như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi…

Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói: “Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.

Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan rã ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.

Một hình ảnh nữa để chúng ta suy nghĩ: Quan sát các nhà điêu khắc tạc tượng, họ chọn một phiến đá cẩm thạch, rồi họ kiên nhẫn đục đẽo, khoét dần mài đi, cho tới khi thành một cỗ tượng mỹ thuật. Không bao giờ thấy nhà điêu khắc lại đắp thêm vào. Cũng thế, trong việc từ bỏ mình, chúng ta phải dẹp lòng ham muốn, để mình sống xả thân thuộc trọn về Chúa.

Chúng ta phải cố thi hành việc đục khoét bỏ bớt những gì bận rộn không cần thiết, gạt chúng ra một bên, nếu có bận tâm thì chỉ bận tâm vào việc nhà Chúa: “Sự sốt sắng việc nhà Chúa làm tôi hao tổn tinh thần” (Tv 68,10).

(Nguyễn duy Phượng, Thực yêu thanh bần, 1967, tr 124-125)

Truyện: Thánh Têrêsa chịu đựng.

Trong cuốn “Một tâm hồn”, thánh nữ Têrêsa Hài đồng có kể: “Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: Chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại một vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “Dĩ đào vi thượng sách” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41).

Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh tạo hưởng cái thú không chiến mà thắng.

2.2 Vác thập giá mình.

Đây là khía cạnh tích cực của việc theo Chúa. Quả vậy, theo Chúa thì phải nỗ lực, cố gắng trong việc sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin mừng trong sự chịu đựng và kiên trì.

Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Roma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối với người Hy lạp, Thập giá trở thành hoa văn xin đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai cập, thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây ban nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ân phúc. Các nước Tiểu Á và Đông Á vẽ thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.

Nhìn chung, nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là KHỔ GIÁ, một đàng thương đau để được sống trường sinh nên được gọi là THÁNH GIÁ.

Trong đời sống Kitô hữu. ai cũng phải vác thập giá vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc chúng ta là phải vác như thế nào: tự nguyện hay miễn cưỡng? Theo kinh nghiệm của chúng ta và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu, nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề... Tuy nhiên, Thiên Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.

2.3 Truyện: Thánh giá vừa sức mình.

Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo:

– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.

Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:

– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.

– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.

III. THEO CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta cần phải nhìn rõ vào gương tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, để can đảm và sẵn sàng từ bỏ mình và vác thập gía mình mà sống theo Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

Tại sao Chúa bảo chúng ta: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Bởi vì thánh Matthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC, nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng: “Đã đến lúc người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”. Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân thì có thể sống nhưng sống để mà chết. Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng… có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.

Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Và Chúa Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì”.

Đứng trước thập giá, đứng trước đau khổ, chúng ta không thể hiểu, không thể cắt nghĩa được vì đó là mầu nhiệm. Cuối cùng, tất cả những gì chúng ta có thể làm khi gặp đau khổ là tín thác vào Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Bất cứ ai chấp nhận mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được sự sống ấy”. Trong cuộc sống, người ta luôn gặp thập giá, đau thương, gian nan thử thách… Tất cả những cái đó có thể làm nên những điều có lợi cho chúng ta.

Truyện: Biến bại thành thắng.

Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.

Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.

Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này: Thập giá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn: Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.

Có một bài thơ cổ của một tác giả vô danh. Bài thơ mang tựa đề “The Folded Page” (Trang sách bị gấp nếp). Sau đây là một đoạn trong đó:

“Trên căn gác một nhà xưa cổ,

Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,

Tôi ngồi đó lật từng trang tập cũ.

Bỗng nhận ra một trang bị gấp nếp,

Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:

“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này,

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.

Tôi liền mở nó ra và đọc,

Đoạn mỉm cười và gục gặc đầu nói:

“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.

Trong cuộc đời có nhiều trang khó hiểu

Ta chỉ việc gấp lại và viết lên:

“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.

Rồi một ngày nào đó trên nước Trời,

Mở trang cũ ra đọc lại ta sẽ nói:

“Thầy giáo có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Amen.

 17. Học suy nghĩ và hành động theo Chúa - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm, một chứng nhân vĩ đại và là thầy dạy Đức tin có tên là Phêrô. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu. Thực sự, Phêrô không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, ông là con người bằng xương bằng thịt với những đức tính, khuyết điểm và yếu đuối như chúng ta. Có thế, ông mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng, tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Nếu như trong đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, ông được khen là người “có phúc” (Mt 16,16), kèm theo lời hứa: “Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời”. Thì hôm nay, ông bị khiển trách nặng nề: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người” (Mt 16,22-23), lý do vì ông can gián Chúa và bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế.

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết: “Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55,8).

Học suy nghĩ và hành động theo ý Chúa?

Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải “đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba” (Mt 16,21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao “Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy” (Mt 16,22). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận Thánh giá. Vì Thánh giá là biểu tượng cao nhất của tình yêu.

Đúng là: “Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi” (Is 55,9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô.

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Chúa.

Học từ bỏ

“Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1,31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng … là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Vác thập giá để theo Chúa

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình” là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới con mắt người đời, chịu mất mạng sống là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận … chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9.5.1975).

Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14.3.2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.

18. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Anthony Trung Thành

Liền sau khi Phêrô tuyên tín rằng: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).

Nghe vậy, Phêrô kéo Người ra và can ngăn Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (x. Mt 16,22). Phêrô cho rằng làm như vậy là đúng, là cần thiết, và chắc chắn sẽ được Thầy khen ngợi như lần trước. Nhưng không ngờ rằng, lần này chẳng những Thầy không khen mà còn quở mắng ông một cách thậm tệ: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Lần trước được Thầy khen “vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 16,17). Còn lần này bị Thầy quở mắng vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,23). Qua lời răn dạy của Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn lại con người của mình, lắm lúc ý nghĩ của chúng ta chưa chắc là ý nghĩ của Chúa, thậm chí còn trái với ý nghĩ của Chúa (x. Is 55,8). Cho nên, trong các sự việc hằng ngày chúng ta đừng vội làm theo ý riêng của mình mà cần phải tìm kiếm và tuân theo ý của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng đã luôn sống theo thánh ý Chúa Cha, Ngài khẳng định rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 4,34). Trong vườn Cây Dầu, trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Ý của Chúa được thể hiện qua Lời của Ngài, qua các Giới răn, qua các Bề trên hợp pháp, qua cha mẹ… Ý của Chúa còn được thể hiện một cách cụ thể qua lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

Lời mời gọi này diễn tả hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực, đó là “từ bỏ mình”; khía cạnh tích cực, đó là “vác thập giá”.

“Từ bỏ mình” nghĩa là từ bỏ ý riêng của bản thân để tuân theo ý Chúa. Từ bỏ mình là từ bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới. Từ bỏ mình là từ bỏ những thói hư, tật xấu, những tham, sân, si. Từ bỏ mình là từ bỏ cả những cái thân thiết khi Chúa đòi hỏi như nhà cửa, ruộng nương, người thân. Từ bỏ mình là từ bỏ những thứ cồng kềnh khi chúng ta chấp nhận đi con đường hẹp. Đi con đường hẹp đòi hỏi phải hy sinh, phải “liều mất” để “được”. Đi con đường hẹp sẽ nên hoàn thiện, sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,25-26).

Còn “vác Thập giá mình” là đón nhận những đau khổ trong cuộc sống một cách vui vẻ với niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc đời sau, giống như Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh:

Những đau khổ đó có thể do tội lỗi gây ra. Sau khi Adong phạm tội, Thiên Chúa đã cho ông biết: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19);

Những đau khổ đó có thể tự mình gây nên cho mình: Một sự thiếu tiết độ, một thói quen xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, không giữ luật giao thông nên gây ra tai nạn. Nghiện thuốc lá, nghiện rượu gây ra các chứng bệnh phổi, tim v.v.;

Những đau khổ đó có thể do chính con người gây nên cho nhau: Hằng ngày có biết bao nhiêu vụ bắt cóc trẻ em, cướp bóc, hận thù, kỳ thị, ghen ghét, giết chóc, đàn áp, cáo gian, đánh đập, làm thực phẩm độc vv…Những đau khổ đó là do người thân, bạn bè, những người trong xã hội, những người ghét chúng ta gây ra;

Những đau khổ đó có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán, ôn dịch…gây ra biết bao đau khổ cho con người;

Những đau khổ đó có thể do chúng ta mang danh là kitô hữu: Các cuộc bắt bớ các kitô hữu qua các thời kỳ lịch sử cho chúng ta thấy điều đó. Chính Đức Giêsu cũng đã từng nói: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét…” (x. Mt 10,22). Vì thế, để trung thành với luật Chúa và Giáo hội, người kitô hữu phải chấp nhận đau khổ.

Nhìn lại đời sống đức tin, để từ bỏ mình và vác thập giá mình đi theo Chúa một cách trọn vẹn không phải là chuyện dễ dàng. Có khi chúng ta cũng giống như Phêrô không sẵn sàng đón nhận những đau khổ xảy đến với mình, không đón nhận đau khổ trong niềm vui và hy vọng nhưng còn có thái độ gượng ép, thậm chí nhiều khi còn phàn nàn kêu trách Chúa. Người đàn ông trong câu chuyện ngụ ngôn sau đây có lẽ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta: Có một người đàn ông luôn than van về những nỗi khổ cực của mình gặp phải. Một hôm, thiên thần hiện đến nói với ông: “Con hãy theo ta ra nghĩa địa, vì nơi đó người ta để lại thánh giá của cuộc đời mình. Con hãy mang thánh giá của con ra đó, và hãy lựa thánh giá vừa sức với con.”

Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn một cái khác nhẹ hơn, nhưng ông tìm kiếm mãi mà không được: vì có cây quá dài, nhưng có cây lại quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng lại quá nặng, và sau cùng ông nói với thiên thần: “Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với sức của con thôi.”

Thiên thần trả lời: “Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa với sức của con, con hãy vui lòng đón nhận mà vác đi trọn cuộc đời của mình, đừng than van gì nữa.”

Ước gì mỗi người chúng ta biết “từ bỏ mình và vác thập giá mình” trong niềm vui và hy vọng. Nhờ đó, khi Con Người ngự đến trong vinh quang, chúng ta được lãnh nhận phần thưởng xứng với sự cố gắng của chúng ta. Amen.

 19. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH, VÁC THẬP GIÁ MÌNH

Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16) Simon con ông Giona được khen là người “có phúc” (Mt 16,16), vì được Chúa Cha, “Đấng ngự trên trời mạc khải cho” (Mt 16,16-17). Lời khen kèm theo lời hứa: “Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời”. Nhưng liên sau đó ông bị khiển trách nặng nề vì đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người “(Mt 16,22-23), lý do vì ông can gián Chúa.

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được ý tưởng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết: “Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55,8).

Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, họ thực sự không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, họ nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Vì đã đọc Tin Mừng, nên chúng ta thừa nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia đến hiến mạng trên thập giá vì chúng ta như lời tiên tri Isaia đã báo trước. Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải “đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba” (Mt 16,21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy” (Mt 16,22).

Đúng là: “Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi” (Is 55,9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm” (Mt 16,23).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không cho để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, khi ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống” (Mt 16,24).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Chúng ta đang sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đã đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là những hình ảnh Thiên Chúa, chính Thiên Chúa thầy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (St 1,31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người mà mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra làm sao giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đanh. Con đường “đánh mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “đánh mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Đức Giêsu thành Nagiarét 2007,333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính minh, vác thập giá mình và theo Thầy” (Mt 16,24). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “đánh mất đi sự sống” là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33,772 B).

Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

 20. Mất và được - Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Tối qua 18.8, công an TP. Hà Nội cho biết, khoảng 17h50 chiều cùng ngày, người dân quanh khu vực ngõ 174 Trâu Quỳ, thị trấn Trâu Quỳ (huyện Gia Lâm, Hà Nội) đã phát hiện một cháu bé bị mắc kẹt tại khe tường giữa 2 ngôi nhà. Đội Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ Công an huyện Gia Lâm đã phối hợp với Công an nhanh chóng có mặt tại hiện trường tìm cách giải cứu bé sơ sinh. Đến 18h cùng ngày, Công an huyện Gia Lâm đã giải cứu thành công cháu bé. Nam thanh niên khoan tường giải cứu cháu bé mắc kẹt trong khe nhà. Người ta kể: “Từ khoảng 3h sáng, có mấy bạn nữ ở trên phòng đã thấy em bé khóc, chắc lúc đó bé mới được sinh ra. Buổi chiều, mọi người vẫn nghe thấy tiếng khóc thì mới tìm xung quanh và thấy em bé ở trong khe nhà. Ban đầu, mọi người lại tưởng là con búp bê kẹt trong khe. Sau nhìn lại thấy em bé giãy giãy nên mọi người mới biết là bé sơ sinh”. Ngày 21.8, theo thông tin từ Công an huyện Gia Lâm, sau 2 ngày tiến hành xác minh, sàng lọc, đã xác định được mẹ của bé sơ sinh bị bỏ rơi tên N.K.H. (20 tuổi, trú tại Kim Sơn, Ninh Bình) hiện đang là sinh viên học năm thứ 2 Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Theo thông tin, lý do H. vứt con sau khi sinh vì có thai ngoài ý muốn, do tâm lý lo sợ ảnh hưởng đến việc học nên đã giấu bạn bè và gia đình.

 Theo tính toán cúa mình, mẹ của bé sơ sinh kia khi bỏ rơi bé thì mình được khỏi bị tai tiếng, khỏi phải khổ, không bị thất học và khỏe cái thân nhưng cô đánh mất rất nhiều: mất nhân cách, lương tâm, đạo đức, tình mau tứ và tính người, sự sống đời đời.… Cho nên, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời. Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn. Vì, đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi. Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác. Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.

Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”. Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau. Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời. Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm. Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội. Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.

Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc. Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh chị em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh chị em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.

Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của chúng con. Amen.

 21. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

 

TỪ BỎ VÌ YÊU CHÚA

Ngày 04.09.2016, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức giáo Hoàng Phanxicô long trọng tuyên phong Chân Phước Teresa Calcutta lên bậc hiển Thánh, vì chưng, trong tâm hồn Thánh Teresa Calcutta luôn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bừng cháy tình yêu thương xót thôi thúc Thánh Nữ một điều duy nhất là bỏ tất cả theo Chúa và “Đem tình yêu thương xót của Thầy đến cho người khốn khổ nhất trong xã hội”. Vâng, đúng thế, Mẹ Teresa sinh ngày 26.8.1910 tại Nước Albanie (An-ba-ni). Ðủ 18 tuổi, Mẹ Teresa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto (Lo-rê-tô) ở Ái Nhỉ Lan. Năm 1928, Sơ Teresa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ. Không lâu sau đó, Sơ Teresa đến Calcutta, thủ đô Bengal (Ben-ga), Ấn Ðộ, để dạy học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Teresa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối, các trẻ em bơ vơ và người khuyết tật trên đường phố, Sơ Teresa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người bệnh tật, nghèo đói khốn khổ. Và năm 1948, Mẹ Teresa, với chiếc áo dòng cũ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Năm 1952 Mẹ Teresa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Teresa đã biến nó trở thành Hội Quán cho những người nghèo đói đau khổ, bệnh tật. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ.

Mẹ Thánh Teresa Calculta đã nên thánh được là nhờ thi hành Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay một cách triệt để nhất, hùng hồn nhất: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi”. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn, chọn lựa giữa tốt xấu, trắng đen của thiện ác. Nhà đạo thường nhắc đến 3 thù là Ma quỷ, thế gian và xác thịt. Ma quỷ có thể thắng lướt, thế gian có thể rời xa, nhưng thân xác thì luôn gắn bó đến hơi thở cuối đời, cùng với nhu cầu và những đòi hỏi không ngừng của nó. Nhà Phật đã chỉ ra tam độc của Tham, Sân Si. Còn các đạo vẫn thường nói về Danh, Lợi. Danh vọng, quyền lực, sắc dục luôn là những vấn nạn của muôn thuở nhân sinh. Nhưng chúng ta phải vượt qua được những cám dỗ bằng sự từ bỏ mình vì hạnh phúc cho chính mình và tha nhân theo mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu.

Cụ thể, chúng ta nhớ những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa: cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn (xác thịt): “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!” (Lc 4,3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa. Rồi, cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi” (Đnl 6,13). Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Nên hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi là vậy.

Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.

Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta vì như lời Ngài đã nói được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì. Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết từ bỏ tội lỗi từ bên trong ra bên ngoài hầu “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để chúng ta thờ phượng Người. Chúng ta đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người chúng ta bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo để chỉ vì yêu Chúa và mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. Amen.

22. Sống mầu nhiệm Thập Giá - Cố Lm. Hồng Phúc

Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phía cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các tiên tri”. Bỗng nhưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thỉ sống lại”. Mấy lúc gần đây, lời tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bầy tỏ rõ ràng những gì sắp xẩy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.

Nhưng khi Ngài vừa tiết lộ tất cả sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Phêrô. Phêrô không hiểu nổi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn của Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay Con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải để cứu vãn nhân loại. Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc Tử nạn của Ngài.

Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16,24).

Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là cả Thầy, cả môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác tôi những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1,24).

Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận thánh giá.

Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.

23. Vác Thập Giá - Lm. Trầm Phúc

Sau khi củng cố đức tin của các môn đệ ở Xêdarê-Philipphê, Chúa Giêsu dẫn các ông từ từ đi vào thực tế của sứ mệnh Ngài. Ngài phải làm công việc mà Cha Ngài đã định và các môn đệ cũng phải góp phần.

Ngài cho biết những gì đang chờ đợi Ngài: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết…”. Những lời tiên báo này đã được các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng không phải hoàn toàn là những lời tiên báo của chính Chúa Giêsu mà do thánh Matthêu và các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào sau khi Chúa đã sống lại. Nhưng việc tiên báo vẫn là của Chúa Giêsu, vì Ngài muốn chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ để họ khỏi ngạc nhiên khi mọi chuyện xảy ra. Chúng ta không cần phải đi vào chi tiết mà chỉ tìm hiểu xem Chúa muốn dạy chúng ta điều gì.

Đức Cha Fulton Sheen đã viết về cuộc đời Chúa Giêsu đã nói ngay từ trang đầu tiên: Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết. Chính cái chết của Ngài là nguồn sống của chúng ta. Chúa Giêsu có biết về cái chết của Ngài như thế nào không? Nhiều người bảo rằng Ngài chỉ biết mơ hồ thôi, nhưng nếu chúng ta đi vào những tường thuật của các sách Tin Mừng về cuộc tử nạn sẽ thấy rằng Chúa biết rõ và đã nài xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống chén và Ngài đã mướt mồ hôi máu khi nghĩ đến đó. Như thế chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ Ngài phải chịu khổ hình như thế nào và đã chấp nhận “không theo ý Con mà theo ý Cha”. Và Ngài cũng biết trước là Ngài sẽ sống lại. Vì thế Ngài luôn kèm theo lời tiên báo sẽ sống lại. Ba ngày là một thời gian không xác định mà chỉ hiểu là một thời gian ngắn.

Phêrô nghe Thầy báo trước như thế đã can thiệp. Ông không thể chấp nhận được Thầy phải gặp số phận đau đớn như thế. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì ông là người Do Thái. Đa số người Do Thái vẫn trông chờ Đấng Cứu Thế, một vị Mêsia oai hùng chiến thắng sẽ khôi phục nhà Israel, đem lại cho dân Chúa một vị trí hàng đầu trong thế giới. Ông vừa tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, thì tất nhiên trong trí ông, Thầy phải được vinh quang. Phản ứng của Chúa Giêsu thật mạnh và bất ngờ: “Xatan, lui ra đàng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người!” Xatan ở đây không thể hiểu là quỷ dữ mà là chướng ngại.

Tư tưởng con người bao giờ cũng nghĩ đến giàu có, vinh quang, thành công, sung sướng. Chúa Giêsu cho Phêrô thấy rằng thành công của con người không phải là ở trần gian này. Không phải chỉ có giàu sang mới là hạnh phúc.

Chúng ta cũng như Phêrô thôi. Chúng ta chỉ ham trần gian mà không nghĩ đến cái gì cao quí hơn. Chúng ta bảo vệ quyền lợi cá nhân của chúng ta mà quên đi những gì quan trọng hơn. Và vì thế, sau khi quở trách Phêrô, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Đây là điều kiện của Chúa. Nhưng bỏ mình là gì? Rất nhiều chuyện phải nói về việc bỏ mình, nhưng chúng ta chỉ cần hiểu đơn sơ là không còn theo ý mình nữa mà theo ý Chúa, như Chúa Giêsu vâng phục ý Cha và làm theo ý Cha Ngài trong mọi sự, vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập giá. Đó là bỏ mình triệt để. Chúng ta có dám như thế không?

Một linh mục tâm sự: “Khi tôi mới chịu chức, tôi được nghỉ một tháng. Sau khi nghỉ, tôi đến dòng Thiên An, ở Huế tĩnh tâm ba ngày để chuẩn bị lãnh sứ vụ. Sau ba ngày yên lặng, tôi xin gặp cha tập sư là một cha người Pháp để xin ngài vài lời khuyên. Ngài ngồi trước mặt và hỏi: “Cha ở đâu và cha muốn gặp tôi để làm gì?” Tôi xin cha cho tôi một vài lời khuyên. Ngài nhìn thẳng vào mặt tôi một lúc rồi nói: “Cha sẽ được nhiều người thương mến… Bỏ mình! Bỏ mình! Bỏ mình!” Rồi ngài đứng dậy lẵng lặng ra đi. Ba tiếng đó đã khắc ghi trong tôi suốt bao nhiêu năm làm linh mục, và nó đã giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Chỉ cần bỏ mình vâng theo ý Chúa thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Chỉ một điều khó là chúng ta ngại bỏ mình. Chúng ta vẫn thương và cưng chiều cái tôi của chúng ta. Ai cũng phải theo định luật đó mới mong làm được một cái gì đó cho Chúa và cho anh em. Những người có gia đình càng phải bỏ mình nhiều hơn các tu sĩ vì phải làm cho gia đình hạnh phúc. Không biết bỏ mình sẽ không thể xây hạnh phúc.

Xem ra Chúa Giêsu mâu thuẫn. Bỏ mình là một mất mát lớn, nhưng lại là nền tảng cho cuộc sống. Sống là cho đi chứ không là chiếm hữu. Càng cho đi, chúng ta càng thấy sung mãn. Chúa Giêsu đã là một tấm gương không thể so sánh vì Ngài đã cho đi tất cả và trở thành căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta.

Chúng ta có muốn theo Chúa không? Theo Ngài phải vác thập giá như Ngài. Thập giá không phải chỉ là một cách nói, hay là một đồ trang trí mà là khúc gỗ mà tử tội phải vác đi đến nơi hành hình. Ngài biết rõ Ngài phải chịu treo trên thập giá. Trong câu chuyện với Nicôđêmô, Ngài đã nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời”. Nơi khác Ngài cũng nói: “Phần tôi, một khi đã được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi”. Vác thập giá để theo Chúa không là một trò chơi mà là một dấn thân triệt để đến chết. Vì thế Chúa nói với Phêrô: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chấp nhận mất đi để tìm được sự sống, không phải sự sống vật chất mà sự sống thật, sự sống không tàn phai theo ngày tháng mà sung mãn tràn trề hạnh phúc. Trần gian này có gì để chúng ta ham?

Thánh Phaolô nói: “Bộ mặt thế gian này qua đi”. Kho tàng trần gian có là gì, và “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì có lợi gì?” Có lẽ những người nhiều của cải trông cậy sẽ để lại cho con cháu hưởng nhờ, nhưng họ cũng phải qua đi, con cháu họ cũng sẽ qua đi. Thân phận tro bụi vẫn trở về tro bụi. Còn chúng ta, kho tàng chúng ta ở trên trời. Cuộc đời chúng ta không kết thúc trong hư vô mà trong vinh quang nếu chúng ta dám theo Chúa, tin vào Ngài thôi, dám bỏ tất cả vì Ngài. Các thánh đã làm như thế và các ngài đang vinh quang bên tòa Con Chiên.

Chúa Giêsu, sau khi tuyên bố Ngài sẽ chịu nhiều đau khổ và bị giết, nhưng Ngài sẽ sống lại, “vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Chúa Cha cùng với các thiên sứ của Người và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm”. Đây là những lời đầy hứa hẹn cho chúng ta, những người dám bỏ mình, vác thập giá theo Ngài. Nhưng chúng ta có dám theo Chúa không? Chúng ta dám bỏ mình không? Hãy nhìn Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta vào hạnh phúc mà chúng ta đang ước mong.

Đường còn dài, chúng ta ngại bước. Nhưng hãy nhớ rằng thánh Phaolô dạy rằng: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta!” Thánh vịnh cũng dạy chúng ta rằng: “Gieo trong nước mắt sẽ gặt giữa ca mừng”. Chúng ta không phải là những trẻ mồ côi bơ vơ giữa chợ đời, nhưng là những đứa con yêu quí của Cha trên trời. Chúa Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta một chỗ trên trời, vì Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó. Đó là lời hứa. Và mặc dù chúng ta đang sống cực nhọc hằng ngày nhưng luôn đầy tràn hy vọng, không chán nản. Hơn nữa, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi chúng ta bằng thịt máu Ngài, và đó là một bảo đảm chắc chắn. Chúng ta hãy bình thản vác thập giá theo Chúa hằng ngày, không sờn lòng rên siết, không sợ sệt vì chúng ta biết chúng ta đã tin vào ai.

24. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Trầm Phúc

Sau khi nghe Phê-rô tuyên xưng: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về số phận của Ngài: “Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ…, sẽ bị giết…”

Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong quyển sách “Cuộc đời Chúa Giêsu”, nói: “Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết”. Ngài đến trong trần gian không phải để tạo một vương quốc cho Ngài, để hưởng thụ như các vua chúa trần gian. Ngài đến để cứu vớt trần gian để “ban mạng sống cho thế gian.”

Phê-rô, có lẽ đã không hiểu một cách rõ ràng những lời Thầy nói, lên tiếng: “Thưa Thầy, không thể như thế được! Thầy không thể như vậy đâu!” Có lẽ Phê-rô chỉ nhớ hai từ thôi: đau khổ và bị giết.

Hành động của Phê-rô cũng dễ hiểu. Theo ông, Thầy là một vị tôn sư cao cả, Thầy làm những việc phi thường và… Thầy lại là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà ông vừa mới tuyên xưng. Vậy thì Thầy làm sao có thể bị giết được! Thầy sẽ đạt đến đỉnh cao của vinh quang. Đó là cái nhìn thực tế của ông. Đi theo Thầy, sau này ông cũng sẽ được hưởng quyền tước nào đó.

Một lần nào đó, Phê-rô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy, thì sao?” Nghĩa là chúng con sẽ nhận được những lợi lộc nào.

Những người theo Chúa nửa vời thường mang tâm trạng thực dụng đó.

Phản ứng của Chúa Giêsu thật bất ngờ và mạnh mẽ: “Santan, lui ra!”

Satan ở đây được hiểu theo nghĩa “chướng ngại.”

Tại sao Chúa lại tỏ ra cứng rắn như thế? Ngài giải thích: “Anh làm cho Thầy vấp phạm, vì anh không hiểu biết những điều thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết về những gì thuộc về loài người.”

Đối với Chúa Giêsu, Ý Chúa Cha là trên hết, dù biết rằng ý Cha sẽ đưa Ngài đến khổ nạn và cái chết, nhưng Ngài sẽ trung thành đến cùng. Vì thế, khi Phê-rô can gián Ngài, Ngài tỏ ra hết sức nhgiêm khắc. Thái độ cương quyết của Ngài là một bài học cho mỗi người chúng ta. Sống đạo chính là “hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa” chứ không theo ý chúng ta, nghĩa là đi vào quỹ đạo của Thiên Chúa, những gì đi ngược lại là Satan.

Sự cương quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, phải dứt khoát rõ ràng, không thể “làm tôi hai chủ”, không bắt cá hai tay.

Chúng ta luôn được đặt trước hai chọn lựa: Chúa hay thế gian. Phải dứt khoát không khoan nhượng.

Giữ đạo không chỉ chấp nhận một số luật lệ, một số bổn phận đạo đức, mà chọn một người chính là Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống: “Dưới gầm trời nầy không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Diễn từ của Phê-rô trước công nghị. Cvtđ 4,12).

Sự chọn lựa này quyết định tất cả cuộc đời chúng ta, tương lai của chúng ta.

Giữ đạo chính là chọn Chúa và theo Chúa. Theo Chúa, tức là cảm nghĩ như Chúa, nói năng như Chúa, hành động như Chúa.

Và Chúa Giêsu đã nêu lên những điều kiện đó: “Ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta.”

Bỏ mình, thường được hiểu là chết. Một chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến… Người Công giáo hiểu theo một nghĩa thiêng liêng. Bỏ mình là từ bỏ những gì là của mình để theo ý Chúa: bỏ những ý muốn riêng, những mơ mộng, chương trình, ý muốn thống trị của mình để sống theo ý Chúa. Hơn thế nữa, bỏ mình là trao quyền quyết định về vận mạng của mình cho Chúa: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu: Ngài đã bỏ mình như thế nào. Chúng ta có thể trả lời ngay: Ngài đã hoàn toàn bỏ mình. Nhập thể, xuống thế làm người, phải chăng đó là bỏ mình trọn vẹn?

Đó là giai đoạn khởi đầu. Các Kitô hữu đầu tiên đã hiểu điều đó một cách rõ ràng và thánh Phao-lô đã ghi lại một ca khúc xưa: “Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”

Chúng ta hiểu như thế nào?

Ngài đã bỏ mình triệt để. Thiên Chúa là Đấng vô hình, toàn năng hằng hữu, Ngài đã mang lấy thân phận con người. Có thể nói, Ngài đã rơi vào một vực thẳm không thể tưởng được. Chúng ta không thể hiểu được sự bỏ mình thẳm sâu của Ngài. Cuộc đời trần thế của Ngài cũng là một bỏ mình triền miên. “Ngài còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”. (Pl 2,6-8).

Vâng lời chính là từ bỏ ý riêng của mình để “thực thi ý Cha”. “Lương thực của Thầy là làm theo ý của Cha Thầy”.

Cuộc đời của Ngài chỉ có một nội dung: vâng phục.

Hãy nhìn Chúa Giêsu để thấy sự khác biệt giữa chúng ta với Ngài. Ngài đã vâng phục vì yêu mến Chúa Cha. Chúng ta vâng phục Ngài vì yêu mến hay vì một lý do nào khác? Hay chỉ vì không thể làm gì khác?

Theo Ngài là bỏ mình, là yêu Ngài hơn cả chính mình, là yêu đến quên mình. Sự vâng phục chỉ có nghĩa khi vâng phục vì tình yêu. Bỏ mình là yêu mến trọn vẹn. Chúng ta yêu mến Chúa được bao nhiêu phần trăm? Nếu tỷ lệ tình yêu của chúng ta thấp, làm sao bỏ mình? Vì yêu mới có thể bỏ mình. Hai người yêu nhau thực tình và tha thiết mới có can đảm lo cho người mình yêu. Tình yêu của chúng ta với Chúa được bao nhiêu? Sâu đậm đến độ nào? Chúng ta lo cho Chúa những gì? Chúng ta dám bỏ thì giờ, công khó (và nếu cần cả tiền bạc) để lo cho Chúa được yêu thương hơn không?

Điều kiện thứ hai Chúa Giêsu nêu lên là vác thập giá.

Lúc Chúa Giêsu nói đến điều nầy, Ngài chưa chịu tử nạn, Ngài chưa vác thập giá. Khi nói đến vác thập giá Ngài nghĩ gì?

Ngài liên tưởng đến cuộc tử nạn của Ngài mà Ngài vừa nói đến chăng? Hay đây chỉ là một điều các Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào và thánh Mat-thêu đã ghi lại?

Nếu Ngài nói đến vác thập giá có thể hiểu như thế nào?

Có thể hiểu là chấp nhận mọi đau khổ dù nó đến từ đâu; là chấp nhận thân phận yếu đuối của mình, là chấp nhận mọi nhục nhã và cả cái chết đau thương vì Chúa: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.”

Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trên con đường thập giá. Cuộc sống trần gian của Ngài, phải chăng là một cuộc “vác thập giá” liên tục, từ khi mới sinh ra cho đến đỉnh đồi Can-vê?

Con người chỉ muốn sống nhàn hạ, không đau khổ. Chúa Giêsu hướng chúng ta về tương lai, một tương lai duy nhất là hạnh phúc trong Nước Tình Yêu của Chúa Cha. Hạnh phúc vững bền đó chỉ có khi chúng ta dám bỏ đi tất cả thế gian, liều mạng vì yêu mến Ngài, “cho không tất cả.”

Chúng ta dám tin vào Ngài đến nỗi “khóc lóc, hãy như không khóc, vui mừng như không vui, mua sắm như không có gì cả…” (1Cr 7,30-31).

Các thánh đều hiểu điều đó. Các ngài đã tin Chúa vô điều kiện. Các thánh tử đạo là những bằng chứng mạnh mẽ nhất. Các ngài đã dám chịu mọi cực hình và đã trung thành đến cùng.

Còn chúng ta?

Chúng ta đang sống trong một thế giới giàu có, đầy tiện nghi, chúng ta dám “bỏ mình, vác thập giá” như Chúa không?

Chúng ta sống cho thế gian hay sống cho Chúa?

Con đường Chúa đi không có tiện nghi mà chỉ có thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”

Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta vào hạnh phúc của Ngài, chúng ta còn do dự sao?

Ngài không chỉ mời gọi. Ngài đến trên bàn thờ nầy. Ngài đến với chúng ta, tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta đến mức nào.

Ngài hoàn toàn bỏ mình vì chúng ta, đến nỗi trở nên của ăn cho chúng ta, bồi dưỡng nâng đỡ chúng ta, sống trong chúng ta…

Hãy nghe tiếng gọi tha thiết của Ngài và can đảm bước theo Ngài.

Hôm nay, Ngài đến dưới hình thức khiêm nhu, nhỏ bé, nhưng Ngài sẽ đến trong “vinh quang, cùng với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả công cho mỗi người”, những người dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài.

25. Dám lội ngược dòng - Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Nếu nói về khát khao, ước mong muốn theo thầy Giê-su, thiết nghĩ hầu như ai trong chúng ta cũng có, dù ít hay nhiều. Nhưng theo thầy Giê-su thật sự là thế nào thì không nhiều người biết. Và chính vì không nhiều, nên ít người thật sự bước theo thầy Giê-su!

Trong bài Tin mừng hôm nay, chẳng ngẫu nhiên mà Đức Giê-su đưa ra điều kiện như một khuôn mẫu hầu trở nên môn đệ của Ngài, đó là “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Dường như thứ tự này không thể đảo lộn: ước muốn làm môn đệ Giê-su, từ bỏ mình, vác thập mình, bước theo thầy Giê-su.

Mặc định, hầu hết chúng ta đều ước ao trở nên môn đệ Chúa. Như vậy, trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hành động từ bỏ mình. Như chúng ta biết, bỏ mình không phải đánh mất chính mình, đánh mất chính ‘bản ngã’ (ego) mà chạy theo làm hài lòng ‘trăm họ, vạn người’, cũng chẳng phải đánh mất căn tính, bản chất con người nơi mình, để cứ thay đổi theo thời thế, xu hướng, xã hội và người khác…Thật ra, chính nhờ ‘bản ngã’ đúng mực, ta mới có thể nói: tôi là ai, tên gì, làm gì,v,v…, và nhờ đó phân biệt được ‘người khác với tôi’, xác nhận ‘tôi khác biệt với muôn loài cây cỏ’ trong thế giới này. Tuy nhiên, nếu ‘cái tôi’ này thai nghén, và dần dần lớn lên to tướng thì có thể khiến chúng ta sẽ không nhận ra Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta, không nhân ra tha nhân, và hơn thế, không nhận ra chính bản thân thật sự của mình! Giống như đứa trẻ không được đến trường gặp gỡ bạn bè, học biết sẻ chia, yêu thương, nhường nhìn…, mà cứ được bảo bọc trong bốn bức tường, thậm chí có đủ mọi thứ đồ chơi thô sơ đến hiện đại, thì nó sẽ chỉ biết thế giới này dường như tồn tại một mình nó, và nhỡ ai bước vào thế giới ấy, đụng vào thứ gì đó thì nó cũng cảm thấy khó chịu!

Vậy từ bỏ mình như Chúa mời gọi là sao? Hình ảnh tiên tri Giê-rê-mi-a và Phê-rô cho chúng ta lời giải đáp rõ ràng. Như lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chịu chế giễu suốt ngày” (x. Gr 20,8), chúng ta nhận biết: bỏ mình chính là chịu thiệt thua vì Chúa, vì Lời Chúa, vì Giáo hội, vì lý tưởng sống với tư cách người môn đệ Chúa, với tư cách con cái Chúa. Người ta thường nói “ở đời này, hiền quá sẽ bị bắt nạt, bị thiệt thân thôi!”. Nếu chúng ta ‘hiền lành’ như thầy Giê-su, như Cha chúng ta trên trời thì nên tự hào, thay vì sợ thiệt thòi, hay bị bắt nạt chứ! Hơn nữa, từ bỏ chính mình cũng như lời quở trách Phê-rô của Đức Giê-su “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,23). Thay vì can ngăn như Phê-rô – người chỉ nhìn theo lối suy nghĩ con người, bao gồm cả suy tính, thành kiến, quan điểm sai lạc, những đinh ninh cảm tính bất động, suy đoán cá nhân…, thì bỏ mình là lúc chúng ta mở lòng đón nhận Thánh ý Chúa nơi bản thân, qua đời sống, qua biến cố hằng ngày, qua mọi người bất kể thích hay không thích, yêu thương hay ganh ghét, hợp gu hay không, cùng thuộc một nhóm hay không…Trong tiến trình bỏ mình hằng ngày không thiếu những lúc chúng ta buông xuôi, nhục chí, hay bỏ mặc dù trong suy nghĩ như ngôn sứ Giê-rê-mi-a “tôi tự nhủ rằng: sẽ không nhớ đến Ngài nữa, sẽ không nhân danh Ngài mà nói nữa…” (x. Gr 20,9); nhưng thật ra, chúng ta không ‘đơn thân độc mã’, tự thân vật lộn với ý hướng ‘bỏ mình’ đâu, trên hết Thiên Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ, khuyến khích ta qua ơn thánh của Ngài như lời tự nhủ của tiên tri Giê-rê-mi-a “…lúc ấy lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (x. Gr 20,9)

Một khi đã bỏ mình để trở thành người môn đệ của Chúa, chúng ta tiếp tục nỗ lực thực hiện hành động tiếp theo, đó là: vác thập giá mình. Ở đây, Chúa muốn chúng ta vác lấy chính thập giá của mình trước khi nghĩ đến thập giá của người khác, kể cả vợ chồng, người thân, hội đoàn, cộng đoàn. Thực tế, chúng ta thường xem người khác là thập giá nặng nề của bản thân, điển hình khi cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc “vợ chồng là thập giá mà tôi phải vác dài dài, có khi cả đời”, rồi trong gia đình “con cái là thập giá nặng nề của bố mẹ”, và trong cộng đoàn giáo xứ, hội dòng. Thập giá mà được đề cập ở đây có lẽ theo nghĩa rộng, chính là: những gì khó khăn, vất vả, gian nan, khốn khó, những điều trái ý ngược lòng chúng ta, những thử thách trong đời sống đạo, những giới hạn bản thân, những yếu đuối cá nhân đã biết hoặc chưa biết. Như vậy, vác thập giá mình là chấp nhận sự yếu hèn bản thân, đồng thời khiêm tốn đón lấy lời răn dạy, hướng dẫn của Chúa qua Kinh Thánh, qua giáo huấn Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức thánh. Hơn nữa, vác thập giá mình cũng chính là biết cảm thông với tha nhân như Chúa hằng cảm thông, biết quan tâm đến anh chị em như Ngài luôn chăm sóc, nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày qua Lời và Thánh Thể, biết đồng hành với mọi người như Chúa đồng hành với ta luôn mãi như cảm nghiệm sâu sắc của Thánh Phao-lô qua lời khuyên nhủ giáo đoàn Rô-ma: “vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).

Sau cùng, chúng ta bước theo Chúa Giê-su. Một khi cất bước ra đi làm môn đệ Giê-su, chúng ta đã phải từ bỏ mình hằng ngày, và vác thập giá mình mọi lúc. Ra khỏi con người ương hèn, ích kỷ, xu hướng đổ lỗi, than phiền, cũng như dám bỏ ‘căn phòng chăn ấm nệm êm’ cũng biết bao tiện nghi, thoải mái trong đời mình, là lúc chúng ta can đảm lội ngược dòng của một xã hội không dám bỏ cái tôi, bám víu vào lợi danh, chức tước, địa vị, tiền tài…; và cũng là lúc chúng ta dám trở nên khác biệt vì đức tin, đối lại một thế giới lẫn tránh ‘thập giá’, phê phán tha nhân chỉ vì ngôn ngữ, sắc tộc, màu da, hay không giống với triết lý sống của mình. Có thể chúng ta sẽ cảm nhận được như những gì ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã từng thốt lên “…suốt ngày tôi trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi” (x. Gr 20,7); nhưng sâu thẳm trong ta, nơi tiếng lòng ta, Chúa hằng khuyến dụ và dẫn dắt ta. Vì vậy, khi bước theo Chúa, chúng ta không thể quên những lời mà Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ giáo đoàn Rô-ma: “…đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo” (Rm 12,2). Thánh ý Chúa, những gì đẹp lòng Chúa và hoàn hảo không gì khác hơn đã được viết trong phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?” (Mt 16,25-26).

Chúng ta cùng dừng lại thinh lặng chốc lát, và cùng nhau thầm nguyện rằng:

Lạy Chúa, bao lần con muốn theo Chúa

Nhưng cũng bấy nhiều lần con chưa từ bỏ mình.

Những lúc con muốn từ bỏ bản thân theo Chúa

Con lại chần chừ, chưa sẵn sàng vác thập giá mình.

Thoáng chốc con nhủ lòng vác thử thánh giá

Thế mà đôi chân cứ bất động chẳng bước theo Ngài.

Xin giúp con một lòng khát khao

Nên môn đệ tín trung chứ không thất tín

Nên người bỏ mình chứ không bỏ Chúa

Nên người can đảm vác thập giá chứ không than trách

Nên người hân hoan bước theo Chúa, chứ không chần chừ. Amen!

26. Mất và được

(Trích từ ‘tinmung.net’)

Có câu chuyện kể như sau:

Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.

Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.

Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.

Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.

Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.

Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.

Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.

Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.

Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.

Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.

Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.

Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.

Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.

Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.

Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.

Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.

Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.

Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.

27. Con đường ba (chữ) “phải” - Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Có lẽ một số người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện mà Khái Hưng và Nhất Linh, trụ cột trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đầu bán thế kỷ 20 đã kể về đôi vợ chồng nghèo tên Thức và Lạc, Hai người phải đi vớt củi kiếm sống. Chẳng may gặp dòng nước lũ xoáy, cuốn luôn bè chìm. Người chồng cố dìu vợ vào bờ, nhưng rất khó khăn, có nguy cơ chết cả hai. Người vợ chợt nghĩ tới thằng Bò, cái Bé, cái Nhớn đang trông ngóng bố mẹ trở về, nên đã từ từ buông tay ra không bám lấy chồng nữa để chồng có thể đủ sức bơi vào bờ một mình, còn mình thì chìm dần, chìm dần rồi mất hút.

Đầu đề của truyện ngắn này là: “Anh Phải Sống.” Anh phải sống, đồng nghĩa với Em phải chết!

Trong cuộc sống hằng ngày, khi chỉ có một con đường để đi, chỉ có một lối để thoát, chỉ có một giải pháp duy nhất, thì ta vẫn thường dùng chữ phải, chứ không dùng “có thể, có lẽ”. Anh phải đi. Em phải chết. Con phải lấy anh ta. Anh phải yêu em. Không còn con đường nào khác.

Hôm nay trong lúc quan trọng, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu hé mở cho các tông đồ biết con đường mà Chúa Giêsu phải đi, con đường ba chữ PHẢI. Chúa phải chịu đau khổ, phải bị loại bỏ, cuối cùng Ngài sẽ phải bị giết chết.

Trước khi chúng ta tìm hiểu con đường ba chữ PHẢI, tại sao Chúa phải đi con đường đó, chúng ta thử hỏi xem có thể có con đường nào khác không?

1. Có thể có con đường nào khác không?

Tông đồ Phêrô khi nghe Thầy mình loan báo con đường ba chữ phải này, thì kéo Chúa Giêsu ra nói nhỏ: Thầy không thể như thế đâu. Còn lý lẽ của loài người lúc nào cũng muốn gào to lên rằng: Chẳng lẽ không có con đường nào khác nhẹ nhõm hơn, dễ dàng hơn để cứu độ trần gian sao? Nếu để tạo dựng nên vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật, Thiên Chúa chỉ phán một lời là có mọi sự, thì tại sao để cứu chuộc, để hồi phục, Ngài không dùng con đường quyền phép đó: chỉ phán một lời mọi sự đâu vào đó.

Hoặc nếu cần, thì sai phái các thiên sứ Kerubim, Seraphim, hay cao hơn nữa, ra lệnh cho các Tổng lãnh Thiên sứ Micae, Gabriel, Raphael xuống trần gian để cứu chuộc. Vượt lên trên đó, Thiên Chúa đã chọn một con đường cực kỳ diệu là đích thân hoá mình làm người để xuống trần. Vậy là chưa quá đủ sao, mà lại còn phải chận bớt khoảng rộng để đi vào con đường quá hẹp hòi, gai góc là phải chịu đau khổ nhiều, phải bị loại bỏ, phải bị giết. Thiên Chúa quyền phép vô cùng, toàn năng vô song muốn gì được nấy, lại nhân từ vô cùng, sao lại để Con của mình cũng là Thiên Chúa phải đi vào con đường khó hiểu như vậy, con đường chẳng có vẻ nhân từ chút nào, chứ chưa nói là con đường của Đấng nhân từ vô cùng.

Cũng vì vậy mà các Tông đồ vấp phạm vì con đường này, còn Phêrô, thì kéo Đức Giêsu về phía mình, một cử chỉ sỗ sàng song thành thực của một dân chài bộc trực như muốn ân cần săn đón, giữ gìn và giật người bạn, người thầy của mình khỏi hiểm nguy, kèm theo lời nói: Thầy đâu thể như thế được! Nhưng Đức Giêsu đã nổi xung thiên về lời nói đó của Phêrô bằng cách đuổi Phêrô đi cũng bằng một lời như khi đuổi ma quỉ cám dỗ trong sa mạc: Satan, hãy xéo đi!

Vậy con đường Đức Giêsu đi là con đường ba chữ PHẢI, chứ không phải con đường “có thể” để thay đổi, để can gián. Và vì nhất thiết phải đi con đường dẫn tới cái chết do người ta giết, nên ta thử tìm hiểu ý nghĩa con đường Chúa đi đó.

2. Tại sao Chúa phải đi con đường ba chữ “Phải” đó?

Trả lời dễ dàng nhất là chúng ta không trả lời được. Hay nói cách khác: ta không hiểu nổi tại sao Chúa phải đi con đường đó. Chữ PHẢI đây không phải là tất yếu của định mệnh: như nghèo thì phải khổ. Bệnh thì phải đau. Đói thì phải rách. Không học thì phải dốt. Nhưng PHẢI ở đây là điều cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa, ăn khớp với chương trình của Ngài trên nhân loại, mà chương trình và tư tưởng của Ngài thì vượt xa ý nghĩ của con người. Sách Isaia (55,6-9) ghi: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Cách xa nhau như vậy làm sao ta hiểu nổi kế đồ của Thiên Chúa? Khi la Phêrô là Satan, hỡi Satan hãy xéo đi, thì Chúa cũng nói như vậy: vì ngươi chẳng hiểu biết gì những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ biết những gì thuộc về loài người.

Nhưng mà, chúng ta có Chúa Thánh Thần, có Chúa Phục sinh. Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta, còn Chúa Phục sinh giải thích cho ta như xưa Chúa Phục Sinh đã giải thích cho hai môn đồ trên đường Emmau (Lc 24,25): “Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó chịu chết rồi mới vào nơi vinh hiển sao?” Vậy thì Chúa Phục Sinh đã giải thích và Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho ta hiểu phần nào, tại sao Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết.

Càng dày lịch sử, càng lắm giải thích. Cho đến nay người ta ghi nhận ít là bốn giải thích này để trả lời cho câu hỏi Tại sao. Tại sao Chúa phải đi con đường đau khổ và chết? Mỗi giải thích là một cours thần học, nhưng chúng ta chỉ lấy kết luận thôi.

1) Chân lý được khẳng đình rõ nhất là bằng cái chết. Dùng cái chết để chứng minh, thì lời chứng đó hùng hồn nhất (Các thánh Tử đạo sẵn sàng chết để chứng minh Đạo mình theo là Đạo thật; vợ chàng Trương trầm mình chết để chứng minh mình ở nhà không phản bội chồng; các võ sĩ đạo Nhật sẵn sàng chết vì danh dự để chứng minh sự thật).

2) Chúa đi con đường đó không phải để đau khổ, để chết nhưng để diễn tả tình yêu cho đến cùng, “Không có tình yêu nào lớn hơn là chết vì người mình yêu.” Mà Thiên Chúa là Tình yêu, yêu cho đến cùng! Cha mẹ đau khổ vì con, cha mẹ sẵn sàng chết vì con, không phải vì cha mẹ muốn đau khổ, muốn chết, mà là muốn biểu lộ tình yêu đối với con mình. Thiên Chúa là cha là mẹ.

3) Đức Kitô chết để làm giá chuộc cho chúng ta. Người mang thương tích để anh em được chữa lành. Người đã chết – để anh em được sống (x. 1Pr 2,23-24). Thánh Phaolô nói: Anh em được chuộc bằng giá rất cao: giá máu Con Chúa. Chứng tỏ loài người chúng ta rất có giá, chứ nếu không, chỉ cần giọt mồ hôi của Con Chúa cũng đủ, đâu cần đổ tới giọt máu cuối cùng!

4) Để lại một mẫu mực cho chúng ta. Nếu Đức Kitô không đau khổ, không chết thì khi con người chúng ta bản tính là hay chết, thân phận là lưu đày đau khổ, chúng ta biết nhìn vào ai, soi vào gương nào để tiến bước khi gặp chết chóc khổ đau.

Cũng chính vì vậy mà trong Bài Tin Mừng hôm nay, sau khi vạch con đường ba chữ phải, Chúa Giêsu thêm: “Ai muốn đi sau tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo.”

Trong kinh Tin Kính chúng ta sắp xướng đây, chúng ta hãy cùng tuyên xưng, Đức Giêsu phải đi con đường thập giá và phải chết thời Phongxiô Philatô. Lời chúng ta tuyên xưng cũng là lời nhắc nhở, khuyến khích, nâng đỡ, an ủi chúng ta khi chúng ta bước theo con đường ba chữ phải của Ngài.

28. Hiến mình vì người mình yêu - Lm. Anmai, CSsRz

Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại thấy nó làm sao ấy? Đang vui vẻ với nhau vậy mà Thầy lại nói đến cái chuyện chết chóc rồi đến thập giá rồi đến chuyện vác thập giá rồi thêm nữa là thiệt mạng.

Thật ra, chẳng ai muốn nghe chuyện chết chóc và nhất các môn đệ nghe thầy mình báo trước một cái điềm “gỡ” mà chẳng ai mong đó là thầy mình phải chết trong đau khổ do các kỳ mục và thượng tế. Bởi vậy, Phêrô do yêu Thầy quá nên kéo Thầy riêng ra một bên và thỏ thẻ với Thầy: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy phải chết như vậy! Chúng con, những môn đệ của Thầy không thích và không muốn Thầy phải chết như thế đâu?”. Nếu như chúng ta có mặt ở đó với Thầy Giêsu, chúng ta cũng sẽ làm như ông Phêrô vậy nhưng quê quá! Sau khi nói thế, tưởng Thầy sẽ khen nhưng ngược lại, Thầy đã mắng Phêrô. Sau khi mắng xong, Thầy lại nói thêm về chuyện vác thập giá. Thử hỏi ai trong chúng ta – những môn đệ của Chúa – mong vác thập giá không? Chưa dừng lại ở chỗ đó, Chúa Giêsu còn đòi hỏi mỗi người chúng ta, như các môn đệ phải đi thêm một bước nữa là phải hiến mạng sống mình. Phải nói thật với nhau rằng lời này nghe sao mà “chói” tai thế? Thế nhưng, chính khi sống những lời “chói” tai ấy mới đích thực là môn đệ của Chúa và được hưởng nước Trời như Chúa hứa.

Chúa Giêsu rất thẳng thắn: một là một, hai là hai chứ không lập lững trong lập trường về Nước Trời. Chúng ta còn nhớ: nào là không được làm tôi hai chủ, nào là thà cụt một tay một chân mà được vào Nước Trời và hôm nay Chúa mời gọi môn đệ của Chúa đi đến mức đỉnh điểm: Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?

Nhìn lại cuộc đời, nhiều lúc chúng ta lại bé cái lầm, chúng ta lại cứ muốn vun vén cho mình nhiều quá để rồi đánh mất đi cái điều căn cốt của cuộc đời. Chưa nói đến cái cùng đích của cuộc đời, chưa nói đến cái Nước Trời mai hậu, chỉ cần nhìn lại cái thực tại của cuộc sống ngày hôm nay chúng ta sẽ thấy được chúng ta là ai? Chúng ta sống như thế nào với anh chị em đồng loại?

Đời sống gia đình: là cha, là mẹ, là con cái trong gia đình, ngày hôm nay chúng ta có thật lòng sống để hiến mạng sống mình cho gia đình nho nhỏ của chúng ta hay không? Chúng ta có dám dẹp bỏ cái tự ái, cái tôi của chúng ta để chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình hay không? Hay là chúng ta cứ khư khư giữ lấy cái ích kỷ của chúng ta để chúng ta phá vỡ hạnh phúc gia đình, phá vỡ hạnh phúc của “nước trời” trong trần gian này?

Ngày hôm nay, đời sống gia đình đã đánh mất đi cái nền tảng của nó là đơn hôn và vĩnh hôn. Vì sao? Vì lẽ mạnh chồng chồng sống, mạnh vợ vợ sống, không còn ai dám hiến mình cho nhau nữa. Cái ngày mà họ đưa ra nhà thờ cam kết, tuyên bố và thề hứa sao mà hay quá: “…Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương anh (em) suốt đời em (anh)” nhưng thử hỏi còn bao nhiêu gia đình sống đúng cái lời mà mình tuyên hứa trước mặt Chúa qua sự chứng kiến của Hội Thánh? Chủ nghĩa mackeno (mặc kệ nó) ăn sâu vào mỗi người để rồi chẳng còn ai dám hiến mình cho ai nữa.

Một gia đình nọ về đời sống kinh tế khá vững vàng, đời sống danh vọng tạm gọi là có tiếng và nhìn bên ngoài có vẻ đạo đức lắm vì vẫn còn trong vòng lễ giáo của cha mẹ hai bên, vẫn còn tham gia ban hát, ca đoàn nhưng bên dưới của nó đang dần dần rạn nứt và có thể đi đến chuyện ly hôn bất cứ lúc nào. Nguyên nhân? Nguyên nhân là vì hai vợ chồng chẳng còn ai sống cho nhau nữa, không còn hiến mình cho nhau nữa. Chồng đổ cho vợ, vợ đổ cho chồng. Chồng đổ cho vợ là suốt ngày chỉ ham đi kiếm tiền, cắm cúi đi kiếm tiền còn chồng thì đổ cho vợ là không lo cho gia đình, không lo cho vợ cho con. Xét ra thì ai cũng có cái lý cả, ai cũng cho mình là đúng cả nhưng thực tế thì vấn đề của gia đình này quá căng thẳng vì họ không biết hiến mình cho nhau. Đi sâu hơn một chút: họ không hiến mình cho con cái theo đúng nghĩa của nó. Đành biết đồng tiền rất cần cho cuộc sống nhưng đâu phải có tiền là có tất cả để rồi người vợ cứ cắm cúi đi tìm tiền mà không lo cho hạnh phúc gia đình. Lẽ ra hai vợ chồng phải tạm gọi là “dừng lại cuộc chơi” tìm tiền để mà lo cho hạnh phúc gia đình, lo hiến mình cho gia đình của mình. Không phải chị không biết hậu quả của việc lao đầu vào kiếm tiền, không phải anh không biết hậu quả của việc sống thờ ơ với việc bổn phận gia đình nhưng hình như hai người đã không tìm được tiếng nói chung: tiếng nói của sự hiến dâng cho nhau thật sự.

Nhìn vào hai đứa trẻ của gia đình ấy, tôi thật sự e ngại. Nếu như cha mẹ chúng không thay đổi lối sống, không thay đổi lập trường thì tương lai của chúng không biết sẽ đi về đâu khi cha mẹ chúng chia ly?

Đời sống tu cũng thế, người ta không còn biết sống hiến mình cho nhau nữa. Không phải là nhiều, không phải đi tu ai cũng thế nhưng có vài trường hợp đáng tiếc đã xảy đến. Một vị nữ tu tuổi đời mới ngoài ba mươi, được lợi thế hơn các “sơ già” một chút là được ăn được học và được học cái ngành “thầy cãi” nữa nên cãi lý rất hay. Chuyện đáng tiếc đã xảy đến đó là khi nghe “tin hành lang” là vị nữ tu ấy sẽ thay thế vị trí của vị bề trên đương nhiệm để rồi từ đó cách hành xử của vị nữ tu trẻ chẳng ra làm sao cả. Chịu không thấu, vị phụ trách đã trình bày với vị hữu trách và cuối cùng hậu quả vị nữ tu trẻ ấy phải rời cộng đoàn để về nhà Mẹ của Tỉnh Dòng!

Chắc có lẽ vị nữ tu ấy đã quên đi lời khấn hứa trong ngày khấn dòng, lời khấn hứa vâng phục bề trên, lời hứa sẽ cộng tác với chị em để phục vụ, để hiến mình cho người nghèo. Chính vì đánh mất tâm tình dâng hiến nên mới có trục trặc, có đổ vỡ trong cộng đoàn.

Bên cạnh những người quên đi việc hiến mình cho anh chị em đồng loại, cho chồng, cho vợ cho con trong gia đình chúng ta vẫn gặp đâu đó những hình ảnh đẹp chứ không phải là ai ai cũng ích kỷ cả! Trận động đất xảy ra cách đây hơn chục năm ở Ácmênia thuộc Liên Xô cũ chắc chúng ta còn nhớ, sau trận động đất tan thương đấy người ta lại phát hiện ra tình mẫu tử thật tuyệt vời. Dưới đống gạch vụn đổ nát bi thương của một toà nhà bị sập, người ta nghe được tiếng của một đứa trẻ oe oe khóc. Gỡ đống gạch vụn đó lên người ta thấy được một đứa bé đang ngậm tay mẹ của nó, nó đang mút từng giọt máu từ ngón tay của mẹ nó. Hoá ra là trước khi chết, mẹ nó đã khứa tay của mình vào mảnh chai để cho con mình bú những giọt máu từ tay của mình. Chính những giọt máu ấy đã cứu đứa bé sống sót cho đến lúc đội cứu hộ tìm thấy cháu. Một kỳ tích của tình người, một thiên tình sử của tấm lòng mẹ con.

Với tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ai ai cũng biết về Cha Thánh Lập Dòng của mình. Cha Thánh Anphongsô đã phải nhục nhã, cay đắng bị trục xuất ra khỏi tu viện mà chính mình sáng lập vì bị hiểu lầm, bị chà đạp. Ngài đã sống tâm tình “Hiến mình cho ơn cứu độ” một cách viên mãn. Vì Chúa, vì Nhà Dòng, vì anh em, Ngài đã hiến mạng sống mình cho đến chết.

Hiến mình cho Chúa, hiến mình cho ơn cứu độ, hiến mình cho nhau là cử chỉ rất đẹp, cử chỉ tuyệt vời nhất mà con người dành cho Chúa, cho anh chị em đồng loại. Cử chỉ đó được Thánh Phaolô nhắc cộng đoàn Rôma cũng như nhắc mỗi người chúng ta: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1a). Ngài còn kết luận một cách xác tín: Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người (Rm 1,1b). Hoá ra là cách thờ phượng xứng hợp mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đó là hiến dâng thân mình chúng ta cho Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa gần nhất đó là Thiên Chúa đang hiện diện nơi anh chị em đồng loại của mình.

Ngài quả quyết với chúng ta rằng: vì Thiên Chúa thương xót chúng ta. Nếu chúng ta thấy Thiên Chúa thương xót chúng ta thì chúng ta mới có thể hiến dâng cho Chúa cũng như cho anh chị em đồng loại được. Ngài còn nhắc chúng ta rằng: Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình (2 Cr 5,15).

Vấn đề còn lại là của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta cảm nhận, chúng ta xác tín rằng Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, chết vì tội lỗi chúng ta và chết để đền bù tội lỗi chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ không sống cho chính mình nhưng chúng ta sẽ sống lại cho Đấng đã chết và sống lại vì mình. Đấng đó đang ở đâu? Xin thưa: Đấng đó ở ngay trong gia đình bạn, Đấng ấy hiện diện ngay trong chính con người của vợ, của chồng, của con của bạn và Đấng đó đang ở trong cộng đoàn tu trì của bạn, là anh chị em cùng lớp, là anh chị em cùng trong Tu Viện, trong cộng đoàn của bạn.

Thử nhìn lại đời sống của chúng ta, chúng ta có hiến mình vì anh chị em đồng loại hay chúng ta lại bắt anh chị em đồng loại hiến mình vì chúng ta?

29. Từ bỏ - Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy (Mt 16,24). Từ bỏ mình có nghĩa là từ bỏ ý muốn riêng của mình. Từ bỏ thì không luôn dễ. Sự từ bỏ nào cũng cần có ý thức quyết định mãnh liệt. Chúng ta biết rằng trăm người thì trăm ý. Đôi khi, ai cũng nghĩ rằng ý của mình là hay và là tốt nhất. Bỏ mình thì phải hy sinh ý riêng của mình để chấp nhận ý của người khác. Vả nữa, mỗi người có cá tính riêng biệt, nên rất khó để nhường nhau. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy ghét tội, không ưa những sự gian dối và thói tục xấu xa, nhưng vẫn cứ muốn bám víu cầm chân. Khi chúng ta chìm sâu trong đường lầm, thì tội lỗi lại là những món hấp dẫn và cảm khoái. Miệng của chúng ta thì chê bai ghét tội đó, nhưng lòng lại cứ muốn chiều theo những đòi hỏi bản năng thấp hèn. Nói thật, chúng ta không muốn đi xưng tội thường, tại vì tiếc nuối từ bỏ thói hư tật xấu và tội lỗi. Người ta thường nói rằng bỏ thì thương, vương thì tội. Cho nên cứ lẩn quẩn dùng dằng trong chốn mê lầm.

Truyện kể: Cha Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm, có một bác nông phu người Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó cha giảng về đề tài ‘cách dùng của cải’. Ông rất chăm chú nghe. Trong bài giảng có bốn phần: 1. Hãy tìm kiếm cho được nhiều của cải. Bác nông phu rất hài lòng và nói: Hay quá, tuyệt quá. 2. Hãy tiết kiệm. Ông sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha. Ông nghĩ thật đúng quá, chính ông cũng chủ trương như thế mà. 3. Đừng xài hoang phí. Ông gật gù vui trong lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn Chúa vì ông luôn hành động như thế. 4. Hãy rộng rãi làm phúc và làm việc bác ái. Ông nhăn mặt khó chịu. Ông thở dài đứng lên bỏ về. Ở đời, nhiều người hành động giống như bác nhà quê này: Lý thuyết nhiều và thực hành ít. Chỉ mong tìm lời và thu quén cho mình.

Sự từ bỏ gồm về cả lãnh vực tinh thần lẫn vật chất. Khi chúng ta không có sở hữu tiền bạc của cải nhiều, thì nói đến việc từ bỏ xem ra dễ dàng. Nhưng khi chúng ta giầu có, thì thái độ lại khác vì đồng tiền nối liền khúc ruột, không dễ mà từ bỏ và chia sẻ đâu. Lý tưởng của cuộc sống là vươn lên mãi. Có, rồi muốn có thêm. Vì sống là sự phát triển không ngừng. Ai ai cũng cố gắng gia tăng thủ đắc cho mình nhiều thứ mới lạ mỗi ngày. Đúng thế, sống ở đời, ai cũng phải cố gắng trau dồi thêm tri thức, tập tành nhân đức, học hỏi thêm chuyên môn, lao động thêm giờ, đầu tư sinh lợi nhiều hơn, thu góp tiền của và vui hưởng cuộc sống hơn. Có nghĩa là ai cũng phải luôn phát triển và sinh lợi càng nhiều càng tốt. Đời sống là cuộc phấn đấu không ngừng để tiến thân. Nhưng muốn tiến lên, chúng ta lại phải bỏ bớt, thon gọn và thảnh thơi. Muốn vươn cao, chúng ta cần cắt bỏ những rườm rà níu kéo, giống như cây măng tre càng vươn cao càng nhỏ gọn.

Tiên tri Giêrêmia được Thiên Chúa chọn gọi từ trong bụng mẹ để thi hành sứ mệnh của Chúa. Ngay khi còn trẻ tuổi, ông đã được Chúa trao sứ vụ mời gọi canh tân khi lòng dân đang bị xa lạc đường lối Chúa. Ông sợ hãi và từ chối thi hành sứ vụ. Ông không muốn chuốc lấy sự khốn khó khi phải đối diện với nhóm dân bất tuân phục. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu thiêu đốt trái tim nhiệt thành, ông không thể trốn lánh và chối từ. Ông đã tâm sự: Tôi nói rằng: Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa (Giêr 20,9). Ơn Chúa đã thúc bách ông vượt qua mọi gian khó. Tiên tri Giêrêmia đã phục vụ trong sứ vụ gần 40 năm tại Giêrusalem (627-587 AD).

Ai cũng có kinh nghiệm, muốn từ bỏ một thói xấu, thật là không dễ chút nào. Những cám dỗ hướng về điều xấu trong tư tưởng, lời nói và việc làm luôn khêu gợi, thí dụ: Ước muốn nhục dục, tham lam tiền bạc, ghen tị, nóng giận, mê bài bạc, nghiện ngập hút sách, trộm cướp, chời bời trác táng, ăn nói tục tĩu và ngồi lê mách lẻo… Những thói hư tật xấu này đã nhiễm sâu trong lòng rất khó từ bỏ. Nó cần sự giác ngộ cao và có ý chí kiên cường tự thắng mình. Đôi khi có người đã không ngại thổ lộ rằng những thù hằn và ghen ghét trong lòng sẽ không bao giờ bỏ qua, nhưng sẽ ghi nhớ suốt đời để đem xuống nấm mồ. Những cách hành xử như thế là thiếu sự khôn ngoan, vì tự mình đã đeo thêm hòn đá nặng vào cuộc lữ hành trần thế. Không may, họ đang bị vuột mất sự tự do để vươn tới trên con đường trọn lành. Cũng có những người hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự nghiện ngập và mất đi tự chủ. Họ không thể vượt qua được sự yếu đuối của chính mình. Thật thế, sự từ bỏ về vật chất đã khó, từ bỏ về đời sống tinh thần còn khó hơn nhiều. Từ bỏ mình cần có sự khiêm hạ trong lòng. Từ bỏ là trút bớt những bận vướng cuộc đời. Càng từ bỏ, chúng ta càng được tự do và thanh thản hơn.

Thánh Phaolô khuyên dạy: Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo (Rm 12,2). Phaolô mời gọi chúng ta hãy canh tân lòng trí để tìm biết thánh ý Chúa. Ý Chúa cao vượt trên ý muốn của phàm nhân. Con người muốn hướng thiện cần thiết phải từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Biết rằng vâng theo thánh ý Chúa, chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Từ bỏ những sự mê lầm của tội lỗi, những thói đời xấu xa và dục vọng thấp hèn. Chúa Giêsu mời gọi rằng ai muốn theo Chúa, không những chỉ từ bỏ mình, mà còn vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Vừa từ bỏ, vừa lãnh nhận. Đã có rất nhiều người lắng nghe lời Chúa và thực hành trong đời sống. Trải qua lịch sử của Giáo Hội, chúng ta biết có rất nhiều người đã dám từ bỏ của cải và danh vọng thú vui trần đời để bước theo Chúa.

Trong môi trường huấn luyện, đặc biệt trong các Dòng Tu, đòi hỏi sự vâng lời trong việc từ bỏ ý riêng. Vâng Lời là một nhân đức. Vâng nhận ý của bề trên như là ý Chúa trong sứ mệnh phục vụ tha nhân. Vâng lời bề trên cũng là một thách thức trưởng thành. Dĩ nhiên trong cuộc sống chung, vâng lời không luôn dễ dàng, vì đôi khi có những cách hành xử quá ích kỷ, thiên vị và nhỏ nhen. Ngày nay, có nhiều trường hợp đôi bên đối thoại và thông cảm với nhau, hơn là kiểu vâng lời tối mặt. Trong Dòng Tu, đức Vâng Lời là một trong ba lời khấn trọng của các tu sĩ. Điều này nói lên sự từ bỏ ý riêng một cách cao thượng. Người khiêm nhượng là người biết vâng lời. Vâng lời là chấp nhận ý của người khác trọng hơn ý riêng mình. Đòi hỏi sự hy sinh hãm mình cao độ. Các tu sĩ đã tự thánh hóa cuộc đời tu trì của mình bằng các nhân đức tốt lành. Họ đã bước cao hơn một bậc trên đường trọn lành.

Ông Phêrô rất nhiệt tình trong sứ mệnh truyền rao Tin mừng. Đôi khi ông đã phạm lỗi lầm và suy tưởng theo sự khôn ngoan của người đời. Phêrô cũng muốn có những vinh quang trần thế. Chúa Giêsu từng bước mạc khải cho các môn đệ con đường mà Chúa sẽ đi qua. Con đường tình yêu của chông gai và đau khổ. Phải qua đau khổ thập giá mới có thể bước vào vinh quang chân thật. Chúa Giêsu đã quở trách ông Phêrô: Chúa Giêsu quay lại bảo Phêrô rằng: Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người (Mt 16,23). Thánh ý và đường lối của Chúa khác hẳn ý muốn của con người. Chúa Giêsu chọn con đường khiêm hạ và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã từ bỏ mọi vinh quang để chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Chúa Giêsu đã hoàn tất hy tế thập giá bằng con đường hy sinh từ bỏ và vâng phục.

Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và con đường vâng phục tự hiến. Muốn vào qua cửa hẹp, chúng con phải buông bỏ những thứ lỉnh kỉnh bận vướng cuộc đời. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.

30. Con đường thoát tục tòng Thiên - AM. Trần Bình An

Linh mục Tây Ban Nha Miguel Pajares, người đầu tiên được điều trị Ebola bằng vắc-xin Zmapp chưa thử nghiệm trên người, đã qua đời ngày 12-8-2014 ở TP Madrid, sau 5 ngày được đưa ra khỏi Liberia về Madrid bằng máy bay để được các chuyên gia chăm sóc. Vị linh mục 75 tuổi nhiễm Ebola khi đang điều trị cho các bệnh nhân ở Liberia.

Tình trạng sức khỏe của Lm Pajares được các chuyên gia điều trị mô tả là ổn định khi về tới Tây Ban Nha. Nhiều người cho rằng ngài được điều trị bằng Zmapp, một loại thuốc thử nghiệm được tin sẽ mang lại khả năng phục hồi “kỳ diệu,” do hai nhân viên cứu trợ người Mỹ mang đến. Được biết, thi thể vị linh mục đã được hỏa táng trong ngày 12-8 để tránh việc virus lây lan.

Lm Miguel Pajares đã nhiệt thành truyền giáo tại châu Phi suốt 50 năm qua. Ngài bị nhiễm virus Ebola trong khi chăm sóc những người bệnh ở vùng dịch tại bệnh viện Saint Joseph Hospital ở Monrovia, thủ đô Liberia, nơi nhóm từ thiện Công giáo của Lm hoạt động.

Linh mục Pajares được đưa về quê hương bằng một chiếc máy bay quân đội và bị cách ly sau khi phát hiện dương tính với virus Ebola. Các bác sĩ đã sử dụng một chiếc lồng vô trùng đặc biệt để di chuyển Lm Pajares nhằm ngăn ngừa virus có thể phát tán. Được đưa về Tây Ban Nha cùng Lm Pajares là một nữ tu sỹ khác, mặc dù không nhiễm virus nhưng cũng phải chịu cách ly.

Zmapp là một loại kháng thể được bào chế từ cây thuốc lá, có tác dụng thúc đẩy cơ thể sản xuất ra chất kháng lại virus Ebola. Thuốc do công ty của Mỹ sản xuất, chưa được thử nghiệm trên người, linh mục Miguel Pajares là người đầu tiên sử dụng và hiệu quả điều trị trong thực tế chưa được xác định. Sau cái chết của vị linh mục, mối lo ngại hiệu quả của Zmapp ngày càng tăng lên.

Hiện khoa học vẫn chưa tìm ra cách điều trị thông thường hoặc vắc-xin tiêu diệt virus Ebola nên sự chú ý dồn vào Zmapp. Được biết, loại thuốc này được sản xuất rất chậm và chỉ 12 liều đã được làm ra, nhà sản xuất cho biết nguồn thuốc dự trữ hiện đã cạn kiệt. (Reuters, AP, Daily Mail)

Linh mục Miguel Pajares đã hy sinh gần trọn cuộc đời, trung thành theo Chúa Giêsu, bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu sau khi trách mắng ông Phêrô, ngăn cản cuộc chịu nạn, Người tuyên bố điều kiện theo chân Chúa.

Xả kỷ vị tha

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình…” Hy sinh, không kể chi đến mình, quên mình, dấn thân, chuyên tâm phục vụ vô vị lợi người khác, giúp đỡ, chia sẻ, che chở, từ thiện, bác ái, an ủi những người nghèo khó, cô quả, khuyết tật, cơ nhỡ, không phân biệt thân sơ, bạn thù.

Tuy nhiên điều kiện tiên quyết theo Chúa là từ bỏ bản thân, xả kỷ, không thể nào dễ dàng, bao lâu chưa vượt qua, chưa chế ngự được bản thân trước bản năng sinh tồn lấn lướt, trước bản ngã vị kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, trước bản tánh chất chứa tam độc tham, sân si.

Thánh Phaolô thẳng thắn vạch trần nếp sống thực dụng, sa đọa, cám dỗ, ràng buộc, cản trở, khó dễ những ai muốn đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu: Có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: Chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. (Pl 3,19-20)

Bĩ cực thái lai

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24) Đức Giêsu xuống trần không phải xua đuổi sự dữ ra khỏi thế gian, không tránh né, từ chối, mà chấp nhận, thánh hóa, coi sự dữ như là phương tiện hữu ích để rèn luyện con người trở nên tốt lành hơn, một sự chuyển hóa cam go, thầm lặng và hữu ích, sinh hoa kết trái gấp mười, gấp trăm. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga, 15,2)

Sau bước tiên khởi từ bỏ bản thân theo Chúa, bước tiếp theo là chấp nhận, gánh vác trách nhiệm, bổn phận, dù khó khăn, khổ sở, thách đố, hiểm nguy. Đồng thời mạnh dạn dấn thân, xả thân phục vụ, như con đường Chúa đã đi trước làm gương. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là đề phục vụ và hiến dâng mạng sống làm gia cứu chuộc muôn người.” (Mt 20,28)

Những đau khổ thách đố lại là niềm vinh dự, vì làm con cái Thiên Chúa, tất cả tín hữu Kitô hân hạnh được “Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô, vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17)

Thoát tục tòng Thiên

Trả lời cho ông Phêrô thắc mắc sẽ được gì khi từ bỏ tất cả để theo Chúa, Ðức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau. (Mc 10,28-30) Nghịch lý bỏ là được, mất là còn, chết là sống mãi luôn khó chấp nhận với thế gian, nhưng là chân lý độc đáo của người theo Chúa.

Chọn theo Chúa với thái độ dứt khoát đoạn tuyệt, từ bỏ, lánh xa nếp sống theo thế gian, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra, đâu là là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12,1-2)

Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:

Đừng điều tra “tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó Chúa dùng thánh hóa con.

Đừng than thở với bất cứ ai. Chúa Thánh Thể, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.

Khi đã qua đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói “Alleluia!” (Đường Hy Vọng, số 700)

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa luôn nhắc nhở chúng con biết từ bỏ bản thân, ý riêng, cùng những cám dỗ vị kỷ, tham lam, danh lợi, để có thế lắng nghe và can đảm thực hành Thánh Ý Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã biết xả kỷ, quên mình để nghe theo và thực hành Thánh Ý Chúa. Xin Mẹ dạy cho chúng con biết từ bỏ mọi sự để trung thành theo Chúa luôn mãi. Amen.

31. Theo Chúa - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Câu kết bài Tin Mừng tuần trước: “Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô”, thật ngạc nhiên! Sau khi Chúa chuẩn nhận lời tuyên xưng của thánh Phêrô, Chúa lại cấm công khai điều ấy. Tại sao? Thánh Matthêu không trực tiếp trả lời, nhưng kể tiếp “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Chúa bắt đầu một “chương mới” trong việc dạy dỗ các môn đệ. Bấy lâu nay, các ông chỉ thấy Chúa rao giảng và chữa lành, được đám đông tôn kính. Nay các ông đã nhận ra “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì “từ lúc đó Chúa bắt đầu tỏ” cho các ông biết con đường Chúa phải trải qua để lãnh nhận tất cả uy quyền và vinh quang của “Đức Kitô Con Thiên Chúa” trong thân phận Con Người “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Phản ứng của các môn đệ như thế nào? Vẫn ông Phêrô bộc lộ thật mãnh liệt. Có lẽ những lời về đau khổ và cái chết làm cho ông ù tai rồi nên không nghe được lời cuối cùng. “Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy” Nhưng cái cách “ông kéo riêng Người ra” để nói nhỏ khiến Chúa phải làm toáng lên để khỏi các môn đệ khác ngộ nhận: “Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: Xatan. Lui lại đang sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ông Phêrô vừa được Cha trên trời mạc khải cho biết “tư tưởng của Thiên Chúa” về mầu nhiệm “Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”, bỗng quay lại với tư tưởng của loài người và trở thành Xatan cản lối. [Cái tên Xatan trong tiếng Aram vốn có nghãi là kẻ chống đối, còn trong tiếng Hylạp “dia-bolos” là kẻ gây chia rẽ bằng cách quăng một vật gì đó vào giữa hai người đang đi với nhau để tách hai người ra. Đó là nghề của Xatan từ ban đầu và bao lâu còn có con người trên mặt đất thì nó vẫn chưa thất nghiệp: xúi giục sự chống đối để chia rẽ con người với Thiên Chúa, chia rẽ người nam với người nữ, chia rẽ anh em, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ cả trong Hội Thánh của Chúa, dù Chúa đã bảo đãm là nó không phá nổi, nó vẫn cứ vùng vẫy cho tới ngày bị “quăng vào hồ lửa và diêm sinh” (Kh 20,8; x. St 2-4)]. Khi Xatan cám dỗ Chúa cách thô lỗ nhất là xúi Chúa bái lạy nó để được vinh hoa thế gian thì Chúa đuổi nó thẳng tay: “Xatan kia! Xéo đi” (Mt 4,10). Bây giờ ông Phêrô, môn đệ được tuyển chọn, lại muốn cản đường Chúa, khác nào tiếng vọng của Xatan, nên Chúa quay lại qưở trách ông, nhưng không đuổi đi mà chỉ đuổi ông về vị trí môn đệ: làm môn đệ thì đi đàng sau Thầy; Chúa không cần một “Tôn Ngộ Không” đi trước dẫn đường! Ông đã nhận ra Chúa là “Đức Kitô Con Thiên Chúa” thì đừng theo tư tưởng của loài người nữa. Chúa như nhắc lời sách Isaia: “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối các người không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi chừng đó” (Is 55,8-9). (x. Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan, SJ.).

Theo “tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa”, Chúa Giêsu đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16,24).

Thời gian ngắn trước đây Chúa Giêsu khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội khi trao “Chìa khoá Nước Trời” cho Phêrô và đặt ông làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội. Ngay sau đó, Chúa lại khiển trách Phêrô đã gây cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xảy ra cho Thầy. Khi Chúa Giêsu tâm sự cùng các ông là Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đinh, chịu chết trên thập tự, Phêrô nêu ý kiến can ngăn Chúa tránh xa thập giá. Chúa cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm: Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Thầy là chết cho người mình yêu và Phêrô cũng không thể mường tượng ra được hy sinh là dấu chỉ của tình yêu chân chính, đích thực.

Phêrô theo Chúa là hình ảnh tuyệt đẹp. Từ khi được Chúa gọi, Phêrô đã liên tục theo Chúa. Chúa đã tỏ ra là yêu thương Phêrô cách riêng nên trong tất cả các biến cố của cuộc đời Chúa: vui, buồn, lo âu, thất vọng, Chúa đều cho Phêrô tham dự vào cách tích cực nhất. Phêrô đã tỏ ra mẫn cán trong sự thương yêu này. Có những cuộc theo Chúa rất đáng khen như trường hợp khi Chúa tuyên bố về bánh hằng sống thì có một số đông các môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, trong khi đó Chúa đã hỏi nhóm 12 là: “Còn các con, các con không bỏ thầy sao?”. Phêrô đã tỏ ra rất ngoan ngùy và can đảm thưa với Chúa: “Bỏ Thầy con biết theo ai vì chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống”. Nhưng cũng có những lần vấp ngã trong việc theo chân Chúa như trong cuộc thương khó của Chúa. Kinh Thánh trong trường hợp này đã diễn tả việc theo chân Chúa một cách rất tiêu cực của Phêrô. Chỉ với lời hỏi han về mối liên hệ với Chúa, Phêrô cũng đã chối phắt đi là không quen biết Ngài, không phải là một lần mà tới ba lần. Cả sau này nữa, khi Phêrô xác nhận được Thầy mình đã sống lại, nhưng trước những cơn bách đạo dồn dập khốc liệt, ông đã quyết định bỏ thành Rôma để ra đi, và chính Chúa phải hiện ra buộc ông trở lại để theo chân Chúa đến cùng. Như vậy, cuộc hành trình theo chân Chúa chẳng đơn giản chút nào. Rất nhiều chướng ngại và thử thách đang chờ đợi người tông đồ.

Chúa không chấp thuận theo Chúa xa xa hay theo Chúa có điều kiện. Ngài muốn chúng ta theo Ngài thì phải triệt để, trọn vẹn và dứt khoát: “đã cầm cầy không có ngoái cổ lại”; “ai không sẵn sàng từ bỏ cha mẹ, anh em, ruộng vườn… thì không xứng đáng là môn đệ ta”; “ai không đứng về phe ta là chống đối ta”; “hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tất cả những điều này cho thấy Chúa muốn những ai theo Chúa thì quyết liệt thuộc về Chúa vì chỉ có Ngài mới có lời ban sự. Đó cũng là thái độ của các môn đệ Chúa sau này, sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Phaolô đứng trước công nghị không hề sợ hãi mà còn tuyên bố thuộc hẳn về Ngài dầu có phải chết, “chúng tôi không thể nào mà không rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh và đã sống lại”.

Con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Con đường “đánh mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết: con đường “đánh mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (x. Đức Giêsu thành Nagiarét 2007,333).

Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14.3.2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.

Con đường Chúa đi không có tiện nghi trần thế mà chỉ có từ bỏ và thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”.

Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và vâng phục tự hiến. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Amen.

32. Theo Thầy Giêsu - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.

Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước, rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự, nếu họ mất vì Thầy Giêsu, thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải “đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải “từ bỏ chính mình”, tức là “tư tưởng của loài người”, mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy “anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường từ bỏ.

Từ bỏ là một quy luật.

– Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ, thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.

– Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó, cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.

– Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.

– Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.

Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).

Làm môn đệ Thầy Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải “từ bỏ mình”. Cái phần “mình” được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần “Chúa” được gia tăng bấy nhiêu. “Từ bỏ mình” hoàn toàn thì sẽ trở thành “Kitô khác” hoàn toàn.

Như thế, từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường sự sống

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết, mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục, mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ, mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.

Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản “mất mạng sống mình vì Thầy”. Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng “nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là “mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để “ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ “tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25), vì Thầy là “sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất, mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại, để được tương lai. Mất đời này, để được đời sau. Mất phàm tục, để được thần thiêng. Mất tạm bợ, để được vĩnh cửu.

Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.

Cầu nguyện

“Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.” (Mẹ Têrêxa Calcutta).

 33. Mục đích của đời sống - Lm. Mark Link, SJ.

Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17 tháng Tám, 1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người.

Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.

Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng. Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật. Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh.

Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ.

Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối.

Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó.

Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu.

Lúc đầu ông tưởng là tận thế. Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra.

Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì. Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào.

Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu. Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức.

Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất-vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi “game”.

Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc. Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi. Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên.

Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là, “Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa.” Ông Yuksel trả lời, “Bây giờ thì không còn quan trọng nữa, vì bây giờ mọi sự sẽ khác biệt.”

Sau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: “Đây là cuộc đời thứ hai của tôi. Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy.” Và rồi ông khóc. Giống như tiếng khóc của đứa bé mới lọt lòng mẹ.

Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta. Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.

Điều này đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Trong bài Chúa Giêsu nói rằng, “Nếu ai trong các con muốn đến với Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá của con và theo Thầy.”

Ở đó chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ về sự ngu dại khi giành được thế gian nhưng đánh mất điều quan trọng nhất trong tất cả: là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.

Sau cùng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ thưởng cho họ tùy theo hành động của họ.”

Hãy trở về với câu chuyện của Yuksel. Khởi đầu tưởng rằng là một thập giá nặng nề, nhưng sau cùng lại là một phước lành lớn lao.

Nó đã dạy cho ông và thúc giục ông sống thời gian còn lại theo một phương cách xứng hợp với Chúa, và với suy nghĩ của Thiên Chúa chứ không phải của Satan.

Cũng giống như trận động đất đã thay đổi cuộc đời ông Yuksel, bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắm đến một kết quả tương tự cho chúng ta–tối thiểu cho một số người trong chúng ta. Có lẽ, như Phêrô, lối suy nghĩ về đời sống của chúng ta trở nên nguy hiểm hơn và càng giống với kiểu cách suy nghĩ của Satan hơn là của Thiên Chúa.

Có lẽ, giống như Phêrô, chúng ta đang mất dần ý nghĩa của đời sống. Một đời sống không hoàn toàn vì vui thú và không muốn tránh càng nhiều thập giá càng tốt.

Đúng ra, đó là một đời sống để được phần thưởng là sự sống đời đời. Đó là lối sống trong những năm còn lại của chúng ta ở đời này để giúp chúng ta gặt được phần thưởng là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.

Rõ rệt hơn nữa là vác thập giá hằng ngày của chúng ta và chấp nhận các

37. Chúa Nhật 22 Thường Niên

NGHỊ LỰC CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO PHÁT XUẤT TỪ ĐÂU?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

 

Sau khi đã làm vài phép lạ lẫy lừng, trong đó có phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau lúc đã khiêu khích Phêrô tuyên bố: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho rằng các môn đệ đã có thể nghe được những lời tiên báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn của Người, Người biết là các môn đệ sẽ không hiểu một cách rõ rệt, nhưng họ cũng sẽ nhận ra ý nghĩa các lời Người vừa đủ để hứng chịu một sự xung đột não trạng của họ, khiến họ trông cậy vào một Đức Kitô làm vua với nhiều đắc thắng trần thế. Não trạng ấy sẽ bám chặt lấy trí óc của các ngài cho đến ngày Chúa sống lại. Cần phải có ngày Hiện xuống để mở lòng họ, giúp họ nhận biết Chúa Giêsu cách đích thật. Trong lúc chờ đời, Chúa đã chuẩn bị họ đón nhận một sự mạc khải làm họ hoang mang nhiều nhất: Ngài, Đức Giêsu, sẽ chịu đau khổ, sẽ chết và sẽ sống lại, phản ứng tức thời của họ không có hơi hướng đề phòng. Họ đã phát biểu qua tiếng nói của Phêrô: ‘Điều đó, lạy Chúa, không thể nào có được’. Chúa Giêsu trả lời như Người đã trả lời với ma quỷ trong sa mạc: ‘hãy đi xa khỏi mặt Ta’. Chúa Giêsu nghĩ tới cái định mệnh sẽ dẫn Người đến thập giá, Người áy náy sợ hãi. Bởi lẽ Người sợ hãi nên Người cực lực bác bỏ những gì cám dỗ Người thay đổi ý hướng. Người nhất định gìn giữ nguyên vẹn sự gắn bó của Người với tư tưởng của Thiên Chúa, tức là với ý muốn của Cha Người. Tất cả những gì đi ngược lại hiện ra như một sự cám dỗ và Người cự tuyệt một cách dứt khoát. Trước lúc hấp hối trong vườn cây dầu Chúa Giêsu đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu trong bản tính nhân loại của Người. Đọc qua chúng ta nên lưu ý đến tính hay thay đổi của lòng người như các môn đệ đã cho thấy. Sau khi tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô”, các môn đệ đã từ chối không chấp nhận điều mà Chúa Kitô nói với họ.

1) Tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra quyết liệt trước mắt các môn đệ là những người có ý ngay lành và lòng tốt nên tìm cách thay đổi ý hướng Người trên con đường đưa tới cuộc Khổ nạn? Bởi vì nơi Người là Con Thiên Chúa, thánh ý Thiên Chúa khiến ý muốn của loài người vượt qua những giới hạn riêng của mình. Mầu nhiệm về con người của Chúa Kitô là Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, không thể nào chúng ta hiểu thấu được. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng cái nghị lực của Chúa do bản tính Thiên Chúa của Người đã hiến cho Chúa Giêsu một cường độ đặc biệt trong ý muốn nhân loại của Người, cũng như sự nhã nhặn thiêng liêng đã hiến cho cảm giác của Người một khả năng vô biên để chịu đau khổ. Không biết chúng ta có suy nghĩ cho đủ rằng sự trung thành với đời sống công giáo chỉ có thể có nếu chúng ta thông công với nghị lực thiêng liêng của Chúa Giêsu? Riêng chúng ta, chúng ta bị đặt trước mọi cơn cám dỗ, có những cơn cám dỗ gây ra do sự yếu đuối của chúng ta và những cơn cám dỗ từ bên ngoài vào kể cả từ phía ma quỷ. Chúng ta chỉ có thể xua đuổi một cách mạnh mẽ, nếu chúng ta thông phần vào sức mạnh của chính Chúa Kitô qua lời cầu nguyện, qua các phép bí tích và qua đức bác ái.

2) Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa nhưng là của loài người. Câu trả lời nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với thánh Phêrô làm chúng ta phải suy nghĩ. Nó đặt ra vấn đề đức tin xác thực. Thực vậy theo lẽ thông thường và cũng là điều Thiên Chúa mong muốn chúng ta phải suy nghĩ về đức tin. Một đức tin ý thức và sống động phải là một đức tin được đón nhận cách sáng suốt. Nơi nhiều người trong thế giới của chúng ta hiện nay, đức tin tiến triển trong sự tìm kiếm. Lúc đó một câu hỏi được đặt ra là liệu khi suy nghĩ về đức tin, chúng ta có khuynh hướng thu hẹp đức tin trong cách thức suy nghĩ của loài người hay là chúng ta biết lo lắng để uốn nắn cách thức suy nghĩ của loài người cho phù hợp với lời giáo huấn, với luật lệ và lý tưởng của đức tin? Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà ngay cả trong Giáo Hội người ta thích những tư tưởng của loài người, hơn là tư tưởng của Thiên Chúa. Xin cứ nhìn nhận đó là một sự cám dỗ muôn đời. Điều ấy có nghĩa là các Kitô hữu của mọi thời đại, kể cả các Kitô hữu ngày nay, đã và đang phải chống lại sự cám dỗ.

38. Từ bỏ mình, vác thập giá mình

 

Đọc đoạn Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy tư tưởng chính yếu được đúc kết thành những chữ: từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu.

Thật vậy, cuộc sống hằng ngày cho chúng ta một kinh nghiệm quá quý giá. Đón là chọn lựa. Cuộc sống là một chuỗi những sự chọn lựa. Chọn lựa đi đôi với từ bỏ. Chọn lấy cái này thì đương nhiên chấp nhận từ bỏ cái kia. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Vì thế, chúng ta không cảm thấy ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu bảo chúng ta: chọn lựa theo Chúa thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình và đi theo Chúa. Xem ra ba điều kiện này hoàn toàn đi đôi với nhau. Cái này không thể thiếu cái kia và ngược lại. Chúng ta thử nghĩ xem: từ bỏ mình, vác thập giá mà không theo Chúa Giêsu cũng không được. Hay theo Chúa Giêsu mà không tử bỏ mình thì càng không được hơn nữa. Do đó cách tốt nhất cho người môn đệ là từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và đi theo Chúa Giêsu. Chúng ta xem xét những cụm từ này.

Trước hết, chữ từ bỏ mình nghĩa là từ bỏ những gì là của mình, từ bỏ những gì liên hệ thậm chí là gắn bó mật thiết với mình, nó là từ bỏ những gì trở nên chính mìn hay người ta gọi là cái tôi của mình. Để từ bỏ mình thì tôi phải biết mình, biết những gì làm cho tôi bám víu, trì hoãn, không phát triển được đời sống của mình. Lẽ thường, từ bỏ cho ta một cảm giác thật khó chịu, khó lòng và chắc chắn khó khăn. Khó chịu là bởi vì cuộc sống đã làm cho mình trở nên cái nếp, trở nên thói quen nên nếu có thay đổi thì làm cho ta khó chịu. Khó lòng là bởi vì những cái đi theo mình, những sản phẩm mình tạo ra mà lại từ bỏ à! Nếu không có ơn Chúa giúp, ta không muốn từ bỏ mình đâu! Hơn nữa, nếu từ bỏ những thứ đã có sẵn mà làm theo cái mới như Chúa Giêsu đòi hỏi thì quả thực là rất khó khăn.

Tư tưởng của con người là muốn mọi sự dễ dãi, tiện nghi, không vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay tôi sẽ thấy rõ điều ấy. Khi xem tivi, tôi muốn ngồi một chỗ và dùng bộ phận điều khiển từ xa, dùng cái Remote, khỏi mất công đi lại điều chỉnh. Hay nếu ngại nấu ăn thì đã có mì ăn liền, có cháo ăn liền, có cà phê uống liền khỏi mất công pha chế. Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không phải leo lên từng bậc vất vả…Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không phải là điều xấu. Trái lại, nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa học để phục vụ đời sống con người nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng tâm lý thích dễ dãi ấy vào chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được Nước Trời một cách dễ dàng thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy sinh bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm mình, giữ đạo một cách tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được…như thế là tôi còn quá ấu trĩ. Thỉnh thoảng, thậm chí là lâu lâu đi xưng tội một lần, cho ổn “tâm lý” mà thực ra chưa chuẩn bị kỹ càng, điều đó càng cho thấy đức tin yếu kém, không ý thức đó chính là bí tích, là sự sống đức tin, là niềm an bình hạnh phúc của người Kitô hữu.

Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi tôi từ bỏ mình hay đúng hơn Ngài muốn tôi trở lại con người mình, nhìn thấy rõ thân phận của mình, thân phận là một con người, một người con đã được cứu chuộc. Một nhân vị cao quý lắm thay! Nhìn nhận để thay đổi lối sống, thay đổi thái độ ứng xử, thái đổi hành vi và tập quán, thay đổi thói quen ấu trĩ, sẵn sàng nghe và làm theo tiếng nói của Chúa, của lương tâm, của lề luật, của Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. và càng hơn nữa, tôi càng biết từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha như chính Chúa Giêsu đã làm (Mt 26,39). Đó chính là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.

Kế đến, chúng ta nhìn xem thập giá mình. Mang thân phận con người, ai ai cũng có thập giá trong đời mình. Những trái ý, những thất bại…nó chi phối cuộc đời chúng ta. Có người nhìn những trái ý ấy chính là cái khổ, là nghiệp chướng… Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhìn những điều đó chính là điều kiện tỏ lòng quý mến và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường vâng theo ý Chúa Cha, con đường vác khổ giá. Vì thế, người Kitô hữu không thể đi khác con đường Chúa Giêsu đã đi, phải bắt chước Chúa Giêsu, chẳng những chấp nhận vác khổ giá đời mình mà còn vui lòng vác khổ giá vì Chúa Kitô. Chúa Kitô đã qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Sau chặng đường vất vả khổ giá vì Chúa Kitô, chúng ta sẽ được vui sướng hạnh phúc giống như Ngài, vui bằng niềm vui của ngài, sống bằng sự sống chính Ngài đã khổ công, khổ nhọc đi qua và làm nên chứng tích tình yêu của mình.

Cuối cùng là bước theo Chúa Giêsu. Rõ ràng người kitô hữu được xác định phương hướng là bước theo Thầy. Hành trình trong cuộc đời này, tôi đi với Thầy Giêsu và đi theo Chúa Giêsu. Có Chúa cùng đồng hành, tôi sẽ bình an và vui vẻ tiến bước. Dù cuộc đời cò nhiều gập ghềnh sỏi đá, có nhiều thử thách, có nhiều cam go…nhưng lòng an vui vì tôi đang bước theo và bước với Chúa Giêsu.

Từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu là những yếu tố cấu tạo nên đời sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện mà Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện Ngài đề ra cho tôi. Thoạt nghe lúc đầu thì đây quả thật là những điều kiện không mấy dễ dàng thực hiện, tuy nhiên Chúa Giêsu loan báo khổ nạn và Ngài cũng loan báo phục sinh vinh quang. Và đó cũng là điều đã được thực hiện. Chắc hẳn ai ai cũng thích sống dễ dãi, tự do, hưởng thụ và theo lối sống của mình. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống cao cấp hơn, sống theo lời mời gọi tình yêu từ thượng giới. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa Kitô mà không có thánh giá và cũng đừng tìm thánh giá mà không có Chúa Kitô”.

Mỗi lần cử hành Thánh Lễ là mỗi lần tái diễn hy tế trên thập giá của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con, khám phá ra từ mỗi thánh Lễ mà chúng con cử hành, đó là mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc, đồng thời chúng con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu, để nhờ thập giá mà chúng con kết hợp với Chúa Giêsu hằng ngày giúp chúng con đến đích điểm của cuộc đời là được phục sinh với Chúa Giêsu Kitô. Amen.

39. Đọc bản hợp đồng cho cẩn thận.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

 

Người nào đã mua một bản bảo đảm chính trị hoặc ký kết một bản hợp đồng thì bản phải biết đọc kỹ mọi điều kiện, ngay cả những phụ chú chữ nhỏ nữa. Thiên Chúa đã ký kết hiệp ước với chúng ta và chúng ta gọi đó là một giao ước.

Hôm nay phụng vụ khẩn nài chúng ta đọc lại toàn bộ các điều kiện bản hợp đồng, nhưng bản hợp đồng này không có những phụ chú chữ nhỏ. Thánh Kinh kể lại những giáo huấn của Đức Kitô được trình bày trước mắt chúng ta bằng chữ in hoa, những gì chúng ta cần phải biết về giao ước của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ chú ý đến sự khác nhau giữa một bản hợp đồng với một giao ước. Một hợp đồng bị trói buộc bằng luật, một giao ước trói buộc bằng tình yêu.

Một cuộc hôn nhân hợp pháp là một bản hợp đồng. Bí tích hôn nhân là một giao ước. Một bản hợp đồng bị trói buộc bởi luật pháp. Giao ước thì trói buộc bằng tình yêu. Trong Giao ước mà Giáo hội bị trói buộc là tình yêu Thiên Chúa, vì giao ước ấy mà chúng ta trông mong đáp bằng tình yêu của chúng ta. Một bản hợp đồng, chỉ định bổn phận cho cả hai bên được in lên giấy, có hai bên cùng ký tên và đóng dấu. Giao ước của chúng ta được diễn ta trong một con người. Con người đó là Chúa Giêsu Kitô. Bên trong người là tình yêu của Thiên Chúa qua thần tính của Người. Cũng bên trong con người nhân loại của Người là tình yêu của chúng ta. Điều này có nghĩa là để hiểu biết Giao ước, trước tiên chúng ta phải nhìn lên con người của Chúa Giêsu Kitô.

Hôm nay trong Phúc âm, Chúa Giêsu chỉ định phần của Người trong giao ước. Người sẽ đi lên Giêrusalem. Ở đó Người sẽ chết vì chúng ta. Người sẽ đóng dấu giao ước, không phải bằng mực nhưng bằng chính máu của Người. Hãy chấp nhận tình yêu được diễn tả trong cái chết của Con Người, Thiên Chúa Cha sẽ đưa Người tới đời sống mới.

Còn phần của chúng ta trong giao ước là gì? Chúa Giêsu trình bày nó theo cách thế này: “Những người muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta”. Đây có vẻ như một loại tình yêu lạ lùng, phải vác thánh giá để đến chỗ viên mãn của đời sống, nhưng đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, dự định của người. Chúng ta gọi dự định của Người là mầu Nhiệm Vượt Qua.

Ngay cả nhà đại tiên tri Giêrêmia cũng phải tranh đấu dễ hiểu được sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài không do dự phàn nàn: “Ôi lạy Chúa, Chúa đã bịp con và con đã để cho mình bị bịp”, chỉ khi Thiên Chúa nhấn mạnh thì tiên tri Giêrêmia mới chấp nhận vai trò tiên tri của ông nhưng ngay khi ông nói tất cả sự thật thì ông liền bị chế nhạo và bắt bớ.

Thánh Phaolô được chúc phúc bởi một mạc khải đầy đủ, đã nắm bắt tốt hơn mầu nhiệm Vượt Qua này. Ngài khẩn nài những người Roma hãy dâng hiến thân xác mình như “một lễ hy sinh sống động thánh thiện và đáng cho Thiên Chúa chấp nhận”. Chính chúng ta được mời gọi tiếp bước theo sự khẩn nài này bởi việc tham dự thánh lễ của chúng ta. Trong lời nguyện Thánh Thể, đặc biệt là lúc thánh hiến, chúng ta hợp với Chúa Giêsu, vị linh mục của chúng ta trong việc hiến dâng chính mình trên thánh giá. Đó sẽ là cách thế của chúng ta để nói rằng, chúng ta muốn theo ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta, trong tất cả những gì cần thiết. Đó cũng là cách thế chúng ta củng cố giao ước của Chúa Kitô, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu.

Chúng ta phải tiếp tục suy niệm về những hạn từ của giao ước. Với đức tin và ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận được những hạn từ cách sung sướng, bởi vì bằng việc làm chúng ta hợp nhất chính mình với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn chúng ta tới sự viên mãn của tình yêu và tình yêu ấy là ý nghĩa thật sự của giao ước chúng ta với Thiên Chúa.

40. Thập giá, biểu tượng của tình yêu.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

 

Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:

“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.

Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.

Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà”.

Nhà văn đã kết luận: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này”.

Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Đập đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận thù. Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá máu của Chúa Kitô.

Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy” là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của Ngài cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện này không dễ gì được chấp nhận, vì nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và lời loan báo đó đã được thực hiện.

Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ cũng phải trả giá đắt. Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô trong một môi trường thù địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói khi cuộc sống xung quanh chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài phung phí cho chính bản thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn khi người ta cứ gian tham, bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải trả. Hay nói như Tin Mừng hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để chứng tỏ mình yêu Chúa thật tình.

Thưa anh chị em, chúng ta thường bị cám dỗ thêm đường thêm mật vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất là giới trẻ, thoạt tiên tỏ ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về tình huynh đệ, về công bằng, về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu: “Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như chàng thanh niên giàu có đã từ bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập giá – Chính như thế đó mà đau khổ có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau khổ làm cho người Kitô hữu giống Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và cũng tránh tìm Thánh giá nào không có Chúa Kitô”.

Cái nghịch lý của thân phận người Kitô hữu là: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình (hiến dâng mạng sống mình vì tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài sống lại”, thì người Kitô hữu trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ bỏ mình, vác thập giá”, cũng sẽ có “ngày thứ ba” của mình, ngày phục sinh vinh quang. Con đường thập giá là con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là con đường nhờ đó mà tình yêu đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến thắng trên tội lỗi và sự chết của cả loài người.

Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành Thánh lễ là mỗi lần tái diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau nguyện xin Chúa cho chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu cũng một cách như Chúa, để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục sinh với Ngài.

 

41. Con đường khổ giá - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:

“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều bị xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.

Một ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình ảnh của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống. Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã làm ông điên loạn.

Rồi một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt, ông cầm gậy đập phá tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, ông ta đành phải dùng lửa để tiêu hủy.

Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu rụi toàn bộ căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác ông trôi lềnh bềnh trên sông”.

Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, và Ngài mời gọi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy” là những yếu tố làm nên cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Thập giá mình đó là thập giá của một kiếp người,

Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,

Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị sự bỏ rơi và phản bội,

Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị thất bại và oan ức,

Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.

Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được.

Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta.

Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận.

Cũng như nhân vật trong câu chuyện trên, nếu chúng ta không chấp nhận thập giá, thì chúng ta sẽ tiêu diệt chính cuộc đời chúng ta, vì chính những thập giá làm nên cuộc đời chúng ta. Chúng ta từ chối chúng, tức là chúng ta từ chối chính cuộc sống của chúng ta.

Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.

Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, nên cách tốt nhất là chúng ta chấp nhận nó như có câu chuyện kể rằng:

Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng.

Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác.

Rồi đến vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu: Đây là nữ thần Jupia giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.

Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên thập tự và đạo sĩ chậm rãi trả lời: “Đây là Đức Giêsu Kitô “. Với chút xúc động lộ trên gương mặt, Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: “Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một vị thì cất đi sự đau khổ, còn một vị thì giúp tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích vị nào cả. Thế thì tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên thập tự như vậy?”

Intyra giải thích: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa không tưởng, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống kiếp người hèn nhát. Dù tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né hết đau khổ, vì tránh được đau khổ này thì lại gặp một đau khổ khác. Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, cho nên tốt nhất là đón nhận nó. Amen.

 

42. Tại sao có đau khổ?

Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ phải chịu đau khổ và người ta sẽ giết Thầy”. Xa hơn một chút, Ngài sử dụng những từ ghê gớm này là vì chúng ta: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất sự sống mình”

Chúng ta đừng thử thoát ra khỏi đó, lựa lọc Tin Mừng chính là từ chối Tin Mừng. Dầu vậy điều đó không có nghĩa là chấp nhận Tin Mừng một cách mù quáng nhưng trên lý thuyết mà thôi. Kẻ nào thực sự muốn đi theo Tin Mừng thì không ngần ngại đặt vấn đề để biết rõ phải đi đâu và tại sao phải đi.

Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cực hình Thánh Giá? Đối với Phêrô đây là điều không thể tưởng tượng được. Chúa Giêsu phản ứng nghiệt ngã bởi vì hình dung điều sắp xảy ra là điều khó chịu đối với Ngài. Trong khi đấu tranh chống lại sự âu lo, Ngài muốn hoàn toàn đi vào trong đường lối của Thiên Chúa, thế mà Phêrô kéo Ngài về lại đường lối của con người. “Hỡi Satan, hãy cút đi!”. Đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người. Điều này có nghĩa là Ngài phải một lần nữa xua đuổi cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế được toàn dân bỏ phiếu ủng hộ, một Đấng Cứu Thế tành công mà không phải đi qua con đường khổ nạn. Không, phải tới lúc Ngài sẽ bị lăng nhục và bị giết vì lòng ghen ghét. Đó là đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người.

Đường lối của Chúa sao? Đường lối của Chúa ở đây đối với chúng ta thật khó hiểu! Thiên Chúa muốn có sự đau khổ sao? Thật là phạm thượng. Chúng ta chỉ đoán thấy Thiên Chúa trao ban Con của Ngài để cứu chuộc chúng ta và điều này dẫn đến giờ phút âu lo này. Trong một thế giới bất công, bạo lực và theo đạo hình thức, Chúa Giêsu đã xử sự theo cách Ngài dứt khoát phải chết. Đó là điều giờ đây Ngài cảm nhận được. Chúa Cha không giao phó Ngài cho cái chết, Chúa Cha giao phó Ngài cho sự cứu chuộc mà sự cứu chuộc này phải kinh qua cái chết.

Vẫn còn mầu nhiệm. Nếu tôi tự hỏi: “Tại sao có đau khổ và chết chóc”, tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi đó, tôi không thể hiểu được ý của Chúa. Nhưng tôi có thể nhìn xem Chúa Giêsu nắm bắt được ý của Chúa như thế nào: “Ngài bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ”.

Tôi có quyền xem đây là điều kỳ lạ, cách mạng, miễn là tôi chấp nhận để cho gương của Chúa Giêsu dạy cho tôi môt bài học. Ngài đã không chấp nhận đau khổ một cách mù quáng. Ngài đã thấy đường lối này rồi, Ngài đã thấy rằng Ngài “phải” chịu đau khổ. Đàng sau Ngài, và đây là nghịch lý lớn của Kitô giáo, chúng ta tiếp tục tiến vước trong bóng tối nhưng cũng trong ánh sáng nữa. Do đó, khi chúng ta muốn “cứu mạng sống của chúng ta” bằng cách tách chúng ta ra khỏi Ngài (vì sợ đau khổ) thì chúng ta sẽ mất nó. Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn khẳng định của Ngài: “Kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”

Nhưng các tiếng này đối với chúng ta có vẻ như không thể hiểu được và khó nghe bao lâu mà chúng ta không biến chúng thành kinh nghiệm. Nếu vậy, không ai theo Chúa Giêsu và ăn năn hối cải. Trái lại, những ai không đọc Tin Mừng thì chắc hẳn những kẻ đó bị đóng khung trong những câu hỏi tại sao.

 

43. Xin Chúa thương

Sau khi thay mặt các Tông đồ trả lời rất đúng về Đức Giêsu là ai: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Phêrô được Chúa khen và được Chúa hứa sẽ đặt ông làm nền tảng để xây dựng Giáo hội của Chúa. Có lẽ vì đó mà Phêrô tự thấy mình có vai trò bảo vệ Thầy mình và cố vấn cho Thầy trong mọi sự. Hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu nói cho các Tông đồ biết sứ mạng của Ngài và cách thức thi hành sứ mạng ấy: “Đi Giêrusalem, chịu đau khổ, bị giết nhưng sẽ sống lại.” Phêrô không thể chấp nhận đường hướng đó nên “cố vấn” Chúa đừng đi vào con đường đau khổ đó:’ xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp chuyện ấy” nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông cách thẳng thừng: Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy!” vì quá nhiệt thành nhưng nông nổi và hàm hồ, Phêrô đã “dám” đi trước Thầy mình. Khi hành động như thế, Phêrô vô tình là viên đá cản lối Thầy, làm Thầy suýt ngã.

Cũng như bao nhiêu con người khác, Đức Giêsu bước vào cuộc đời này và gặp biết bao những cám dỗ vây quanh. Cám dỗ nào nghe cũng ngọt ngào, hấp dẫn. Ma quỉ cám dỗ Ngài trong sa mạc, trong suốt 40 đêm ngày; đám đông đòi Ngài cho xem phép lạ từ trời rồi thách thức Ngài xuống khỏi thập giá… trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chính Phêrô, người mà Ngài đã chọn làm nền tảng cho Hội thánh cám dỗ Ngài chọn lựa con đường dễ dãi để thực thi sứ mạng của mình. Cơn cám dỗ này có thể nói là cực kỳ nguy hiểm, vì nó đến từ tình thương chân thành của người môn đệ thân tín. Nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ ngọt ngào này. Ngài đã nói với Phêrô cùng một gịong điệu gay gắt như nói với Satan trước đây: “Satan, lui lại đằng sau Thầy”.

Chuyện kể rằng, vua nước Thục bên Tàu có tính tham lam, ham mê của cải. Vua Huệ Vương bên Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu, rồi phao tin đồn rằng: “trâu đãi ra vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho 5 người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.

Huệ vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp nước Thục. Vua nước Thục vừa mất nước, vừa hại mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà mất cái lợi to lớn sao?

Sống ở đời này ai cũng tranh phần được và sợ mất đi quyền lợi của mình. Nhưng vấn đề là phải cân nhắc và xác định đâu là cái được thật sự, lâu bền và trọn vẹn, đâu là cái quan trọng tuyệt đối? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách thế để được trọn hảo ấy. nhưng trước hết người ta phải biết chấp nhận những cái mất tạm thời: mất công, mất của, mất thời giờ, mất uy tín, mất tương lai và kể cả mất đi mạng sống nữa. Nếu ai vì Đức Giêsu mà chịu mất tất cả những gì mình có ở đời này thì sẽ có lại tất cả. Mất những cái tạm để có được và giữ được những cái mãi mãi. Kitô hữu đích thực là những người say mê những điều vĩnh cửu, say mê một tương lai huy hòang do chính Thiên Chúa ban tặng. Các thánh tử đạo là những người say mê sự sống phục sinh đến nỗi dám chấp nhận cái chết, dám coi cái chết nhẹ như lông hồng.

Lắm người ở đời này tưởng mình được tất cả với những suy tính của mình nhưng lại mất đi tất cả. Câu chuyện của vua nước Thục trên đây là một ví dụ điển hình. Chúng ta hãy nghiêm túc suy nghĩ sâu sắc về cái được và cái mất để có những quyết định đúng đắn và kịp thời kẻo bỏ mất nhiều cơ hội và bỏ mất tất cả.

Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả. Đó là động lực, là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ và hy sinh, dám vượt lên trên lối sống thực dụng và ích kỷ. người dám hy sinh và cho đi sẽ tìm lại bình an, niềm vui, tự do và yêu thương không phải sau khi chết mới thấy được nhưng sẽ được chúng ngay ở đời này.

Xin Chúa thương đến thân phận con người yếu đuối của chúng ta để ban sức mạnh giúp ta hòan thành ơn gọi của chúng ta theo đúng ý muốn của Thiên Chúa. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta biết chọn lựa và gắn bó với những thực tại bền vững trên trời ngay khi còn sống ở trần gian này.

 

 44. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Jos Nguyễn Thái

(Trích báo Hiệp Nhất tháng 8-2014)

 

“Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”

Trong cuốn sách “the 911 Handbook,” Kent Crokett nói rằng ở bên trong mỗi chiếc máy bay có những dụng cụ để quyết định phương hướng cho máy bay. Những dụng cụ này sẽ chỉ dẫn chính xác, ngay cả khi phi công phán đoán một cách khác. Vào ngày nắng ráo, bầu trời trong sáng, phi công có lẽ không cần đến những dụng cụ này, nhưng vào ban đêm hay sương mù, những dụng cụ này quyết định mạng sống của phi công.

Ngày 16-7-1999, John F. Kennedy Jf., con trai của cố Tổng thống John Kenndy, đã bị rớt máy bay ngoài biển đông, gần Matha’s Vineyard, tiểu bang Massachusetts, gây tử vong cho vơlag Carolyn Bessette Kennedy và người chị vợ, Lauren Besette. Kennedy đã lái phi cơ bay vào vùng đêm tối ngập sơng mù – haze. Sương mù là sự kết hợp của hơi nóng, độ ẩm và khí ô nhiễm thườn xảy ra trong vùng biển đông của Hoa Kỳ vào những đêm mùa hè. Trời vừa tối, vừa bị sưong mù, Kennedy đã bị mất đường chân trời và vùng đất pía dới cần thiết để hướng dẫn máy bay. Khi đó phi công phải biết sử dụng những dụng cụ máy móc hướng dẫn, và phải có kinh nghiệm. Kennedy không được huấn luyện cẩn thận để sử dụng những dụng cụ này nên bị mất phương hướng, thay vì bay lên trời cao, lại cắm đầu đâm xuống biển.

Bài phúc âm hôm nay, Mt 16:21-28, trình bày một hoàn cảnh giằng co giữa hai phương hướng, Chúa Giêsu theo thánh ý của Thiên Chúa cha, sẽ đi lên Giêrusalem chịu đau khổ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Còn Phero muốntheo phương hướng trần gian: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu”. Chúa Giêsu quay lại mắng Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy… con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Rồi ngài dạy các môn đệ: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.

1. Từ bỏ chính mình:

Căn bản của sự từ bỏ chính mình là phải quyết định xem ai sẽ kiểm soát cuộc đời của mình. người ta thường nghĩ sẹ từ bỏ mình giống như việc hãm mình trong mùa chay, từ bỏ ăn kẹp, ăn kem, hút thuốc lá… những sự hy sinh hãm mình này vẫn tốt, nhưng không phải là sự từ bỏ mà chúa Giêsu đề cập đến. Điều chính yếu là Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác cuộc đời trong bàn tay của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta chấp nhận sự hướng dẫn và ý định của Ngài cho cuộc đời của chúng ta. Đây mới chínhlà sự từ bỏ thực sự.

Năm 1991, Trung tá Jeff Patton đã lái phản lực cơ chiến đấu F-15 trong trận đánh được mệnh danh là Desert Storm – Bão sa mạc. Ngay đêm dầu tiên của chiến trường, sứ mạng của ông là hộ tống những chiến đấu cơ thả bom xuống những nhà máy chế tạp vũ khí hóa học ở phía bắc Irap. Ngày giờ của cuộc hành quân đã được chọn lựa. Bởi trời tối, không có ánh trăng, lại nhiều mây mù đã giúp cho cuộc tấn công của những phản lực cơ đồng minh cũng không bị theo dõi bởi dàn phòng không của Irap, nhưng cũng rất nguy hiểm cho các phi công. Họ phải hoàn toàn tùy thuộc vàonhừn dụng cụ máy móc điều khiể.

Vừa bay vào không phận Iraq, phản lực cơ của patton đã bị “khóa chặt” bởi dàn ra đa chống hỏa tiễn của Iraq. Ông cố gắng vùng vậy mãnh liệt để thoát ra khoi sự kiểm soát của ra đa. Tuy thành công, nhưng ông lại gặp một vấn đề mới. Sự vùng vẫy đảo lộn trong đêm tối làm ông chóng mặt, và mất phương hướng. Tâm trí ông phán đoán rằng phi cơ quay về bên phải là phóng lên trời cao, nhưng khi kiểm soát lạinhững dụng cụ máy móc, ông thấy rằng chiếc máy bay đang ở vào 60 độ cắm đầu xuống đất! Trong khi lý trí ngĩ rằng phải điều chỉnh lại phi cơ về một hướng khác, thì nhừn dụng cụ hướng dẫn cho biết phải làm ngượclại. Vì đang bay hoàn toàn trong đêm tối, ông phải quyết địnhnhanh chóng tin vào phán đoán củạý trí hay dụng cụ hướng dẫn. Số mạng của ông tùy thuộc vào sự quyết định đúng lúc này. Ông trở cánh phi cơ lại cho thăng bằng và kéo chiếc F-15 phóng thẳng lên trời. Sức kéo mạnh gấp bảy lần lực hút của trái đấy, để lôi chiếc phi cơ khỏi lao xuống đất. Chỉ trong giây lát, ông nhận ra mình đã quyết định đúng. Nếu ông hạu mũi phi cơ giống như điều đã nghĩ, pi cơ đã đâm vào những dãy núi ở Iraq. Tin tưởng vào dụng cụ hướng dẫnđã cứu mạng sống của ông. Mặc dù quyết định theo dụng cụ hướng dẫn, ông cũng nhận ra rằng nếu trỉoãn thêm ba giây nữa thôi, pi cơ vẫn có thể đụng vào núi. Quyết định đúng, nhừn trễ cũng vẫn chết.

Trong cuộc hành trình tinh thần. Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta “những dụng cụ hướng dẫn”. Đó là tiếng nói của lương tâm, lề luật, Thánh kinh và những giảng huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải từ bỏ tính ích kỷ và dục vọng để vâng theo những hướng dẫn tinh thần này là điều kiện căn bản cho đời sống thiên gliên (Pl 2:21). Từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa như chính chúa Giêsu đã làm (Mt 26:39; Ga 3:14; Rm 6:13; 12:1; Gl 1:10) là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.

2. Hãy vác thập giá:

đây là hành động chứng tỏ việc từ bỏ chính mình để mang lại vinh danh cho Thiên chúa và giúp xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa. Thập giá Chúa Giêsu đề cập ở đây không phải là gì áp đặt lên chúng ta, nhưng là điều chính chúng ta đã chọn lựa với sự tự do để trung thành với Chúa Giêsu.

Thập giá là một sự hy sinh như chu toàn bổn phận của một người cha, mẹ, chồng, vợ, con cái… trong gia đình, việc dậy giáo lý ngày Chúa nhật, viếng thăm người ốm đau. Đó là một lời mời gọi tham gia vào việc tông đồ mục vụ, sứ mạng truyền giáo, hay thi hành một việc từ thiện bác ái trong xã hội.

“Theo luật Kanun, đối với nhiều sắc tộc miền núi phía BẮc Albanie thì nợ máu phải trả bằng máu. Cha Dionis Maka, thuộc dòng Phanxico, 92 tuổi, đã suốt đời tranh đấu, tận tụy khuyên nhu dân chúng từ bỏ tập tục ghe gớm đó vì nó gay nên nhiều thẳm trạng và hận thù không bao giờ chấm dứt. Đây là luật rừng trong những vùng Scutari, Dukajini, và Lezhe. Trong vùng xảy ra nhiều vụ ám sát thanh toán lẫn nhau để trả thù nợ máu.

Để tránh những cuộc trả thù đẫm máu, Cha Dionis đã phải tìm hiểu xem bạn bè của họ là ai để làm trung gian điều đình, đền bụ sự thiệt hại, và xin tha thứ. Cha phải hành động một cách bí mật và thận trọng để tránh làm cho đôi bên khó chịu bực mình. ngài đến gặp từng người một và yêu cầu họ giúp đỡ. Cám ơn Chúa, rất nhiều người đã không từ chối mà còn nhiệt tình giúp đỡ nữa.

Cuộc hòa giải có thể thu xếp được nếu kẻ sát nhân nhận lỗi và chịu bồi thường mười hai con bò cho gia đình người bị giết. Cha Dionis Maka đã làm việc tích cực để đưa tinh thần yêu thương của Tin Mừng đến với các sắc tộc này hòng thay đổi sự báo thù. (Viết theo tin của viet-cotholic news, ngày 22.7.2002).

Cha Dionis Maka đã vác thập giá. Trong nhiều cách khi ta phục vụ cho Thiên Chúa qua những người anh chị em mình vì tình yêu thương, ta vác thập giá với Chúa Giêsu như gương Mẹ Teresa Calcutta đã làm. Sách giáo lý công giáo sồ 618 đã nói: “Thập giá là hy sinh độc nhất của Chúa kitô ‘vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loàingười’ (1Tm 2:5). Nhưng, trong Ngôi vị Thiên Chúa nhập thể của Ngài, ‘Ngài đã một cách nào đó hiệp nhất với tất cả mọi người,’ ‘Ngài dành cho tất cả mọi người khả năng kết hiệp với mầu nhiệm Vượt qua của ngài, theo cách thức mà Thiên Chúa biết’. Ngài kêu gọi các môn đệ: ‘Vác thập giá và đi theo Ngài’, bởi vì ‘Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta, Ngài đã vạch cho chúng ta con đường để bước theo ngài’ (1Pr 2:21).

3. Bước theo Thầy

Khi ta biến đổi đau khổ thành ơn cứu độ, ta bước theo những vết chân của Chúa Giêsu đã đi. Là người Kitô hữu, đã đón nhận ơn sủng của Thiên Chúa trong đời sống mình, chúng ta phải thể hiện ơn sủng đó ra bằng hành động, qua những công việc bác ái yêu thương đối với những người cần gíúp đỡ. (Pl 3:18-19; Gc 2:24-26; Tt 1:16; Rm 4:12; Ga 8:39). Chúng ta phai sống thế nào để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta.

Chúa Giêsu đã luôn ao ước và hoàn toàn gắn bó với kế hoạc cứu chuộc của Thiên Chúa Cha trên trời: “Điều này đã mang lại sinh khí cho tất cả cuộc đời của Ngài, bơi cuộc khổ nạn cứu chuộc là lý do hiện hữu của sự Nhập Thể của Ngài” (GLCG #607). Và chúng ta, nếu muốn trở nên hoàn thiện, thì cũng phải bước theo con đường Ngài đã đi như lời Ngài phán hôm nay: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16:24).

45. Đường xưa Chúa đi

Nói đến con đường Chúa đã đi qua không ai dại khờ đến nỗi phải dành nhiều thời gian để hồi tưởng những nẻo đường Chúa đã đi mang tên gì, dài bao xa? Con đường Chúa đi ai cũng biết đó là con đường thập giá. Có nhiều con đường Chúa đi qua, nhưng quốc lộ của Ngài chính là con đường tiến lên đồi Golgotha để chịu án tử. Một con đường quyết định cho nhiều dự định. “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Lời Chúa mời gọi sao nghe ngán ngẫm vô cùng cho những ai đã từng đi qua con đường thập giá.

Ai đã một thời nghêu ngao bài hát “Con đường xưa em đi” chắc hẳn sẽ thấy một sự đối lập giữa đường Chúa đi và đường em đi. Nếu “đường xưa em đi” ngập tràn thư tình và nắng ấm, thì con đường Chúa đi chỉ toàn là lời ngạo nghễ và lạnh giá của lòng người. Nếu “đường xưa em đi” hướng về một tương lai rạng sáng, thì con đường Chúa đi mỗi ngày như khép lại những lối bước mịt mờ. Dẫu nhiều người cho đường Chúa là mịt mờ, là đường chẳng mấy ai đi, nhưng Chúa vẫn không ngần ngại mời gọi nhiều kẻ bước theo Ngài. Bởi lẽ đường Chúa đi là con đường thật, là quốc lộ đưa đến hạnh phúc và sự sống đời đời. Con đường thập giá có nhiều hình ảnh để diễn tả. Trong bối cảnh Tin Mừng ta có thể diễn tả đường thập giá là con đường mang 3 chữ “T”: Từ bỏ – Tự hiến – Tình yêu.

Đường thập giá là đường từ bỏ

Từ bỏ là chủ động đánh mất điều mình đáng được hưởng. Từ bỏ cũng có nghĩa là tự ý tách lìa những gì mình đang quyến luyến để được vươn cao tới sự sống mới. Không ai dại dột bỏ hết để rồi trở nên trống không. Từ bỏ cái cũ để được cái mới hơn, từ bỏ cái nhỏ nhen để được cái lớn lao. Vẫn có quy luật quân bình trong cuộc sống nhưng con người thật khó từ bỏ vì không ai chịu gạt bỏ cái mình đang sở hữu. Người ta vẫn nói cái sở hữu không lớn bằng cái đủ vì vậy mà ai ai cũng tranh nhau ra sức kiếm tìm. Ta vẫn thích chất chứa cho đầy, dự trữ cho nhiều để tìm cảm giác an thân. Nhưng rồi càng chất đầy thì càng thêm gánh nặng, càng tích góp thì càng bị oằn vai.

Từ bỏ mình đó là từ bỏ những toan tính của con người để sống theo tinh thần của Thiên Chúa. Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ. Phêrô muốn Thầy mình thực hiện như điều ông đã nghĩ. Oâng không muốn Thầy lên Giêrusalem, không muốn Thầy mình phải chết như thế. Ông muốn lèo lái Thầy mình đi theo con đường của ông. Nhưng đường lối của con người không phải là đường lối của Thiên Chúa. Tinh thần từ bỏ cao nhất chính là đi tìm và làm theo ý Chúa.

Đường thập giá là đường tự hiến

Đỉnh cao của sự từ bỏ là tự hiến chính mình. Từ bỏ những thứ của mình thật là đáng khen, nhưng từ bỏ ngay chính mạng sống của mình quả là điều đáng nễ phục. Chúa Giêsu thực hiện ý định Chúa Cha cách trọn vẹn chứ không theo kiểu nửa vời. Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tự hiến của Chúa đã khai mở sự sống cho nhiều người. Giá trị của sự tự hiến là tìm được sự bình an cho tâm hồn, niềm vui cho trái tim, niềm xúc cảm trong từng hơi thở.

Lịch sử phải biết ơn những con người đã mạo hiểm, những người dám giã từ cuộc sống yên ổn để dấn thân phục vụ lợi ích cho nhân loại. Nếu không có những người dám liều mình thì những phương thuốc chữa bệnh đã không thành tựu. Nếu không có những bà mẹ sẵn sàng liều mình thì chẳng có đứa trẻ nào được chào đời. Có nhiều của dâng tiến, nhưng của dâng duy nhất có giá trị hơn hết vẫn là sự sống của mỗi người.

Đường thập giá là đường tình yêu

Tự ban đầu thập giá là dấu chỉ của khổ hình ô nhục. Nhưng thập giá có Chúa Giêsu giờ đây đã trở thành thánh giá cho cuộc đời. Một con người luôn từ bỏ và tự hiến cho nhân loại đã biến khổ nhục thập giá thành biểu tượng cho tình yêu. Một tình yêu cao cả nhất trong mọi thứ tình yêu. Chúa Giêsu đã chọn sự ô nhục nhất của con người làm phương thế minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Thiên Chúa. Chính tình yêu đã làm cho sự từ bỏ và tự hiến một giá trị cứu độ. Nếu không có tình yêu thì tôi sẽ không đi hết con đường Chúa đã đi. Không có tình yêu, con đường thập giá sẽ trở nên vô nghĩa.

Văn hào Victor Hugo đã khẳng định: “Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt”. Khi nhìn lại thập giá đời mình, có khi ta lấy làm tự hào vì đã được đồng hành cùng khổ nạn với Chúa. Có khi ta cuộc đời như tắt lịm vì thánh giá cứ vây quanh. Sự chối từ, ngán ngẫm không phải vì thánh giá quá nặng nhưng chỉ vì ta thiếu tình yêu.

Trên thánh giá máu và nước chảy ra, là dấu chỉ ơn cứu độ tuôn tràn trên nhân loại. Từ trên thánh giá hận thù đã xoá bỏ. Từ trên thánh giá tội lỗi con người đã được tha. Từ trên thánh giá Chúa Giêsu gọi mời mỗi người cùng chia sẻ nỗi đau và sứ mệnh với Ngài, bằng cách vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài.

Đường xưa Chúa đi khó khăn không phải vì ngăn sông cách núi nhưng vì đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Trong đó tinh thần từ bỏ, tự hiến và con tim đong đầy tình yêu là điều kiện không thể thiếu. Dù ta có tự hào hay ngán ngẫm thì Chúa vẫn luôn gọi mời hãy vác thập giá mỗi ngày mà bước theo. Lạy Chúa, con biết con không thể làm anh hùng trong phút chốc. Xin cho con biết khiêm tốn với chính mình để tập bước đi trên con đường xưa Chúa đã đi.

 

 46. Hy sinh vì tình yêu - Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng

Tin Mừng Mt 16:21-27: Để là Kitô hữu, phải chăng chỉ cần tuyên xưng như Phêrô về Chúa Giêsu Kitô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Để là Kitô hữu, phải chăng chỉ cần tuyên xưng như Phêrô về Chúa Giêsu Kitô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Nếu thế là đủ thì quả thật quá dễ dàng để mang danh hiệu cao quí: ‘Kitô hữu’. Tuyên xưng bằng môi miệng không quan trọng bằng tuyên xưng bằng chính cuộc sống. Lời tuyên xưng ngoài miệng phải là kết quả của cả một tâm hồn, một định hướng, một lẽ sống theo Chúa Giêsu Kitô.

Tin bằng cả cuộc sống mới có thể đón nhận được sức mạnh và uy quyền của Người. Tin bằng cả cuộc đời dấn thân mới có thể vác thập giá theo Người trên đường khổ nạn.

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1. Bài đọc I: Gr 20,7-9

Ngọn lửa Lời Chúa dày vò tâm can

Phải đương đầu với sự truy hại, Tiên tri Giêrêmia tự hỏi làm thế nào để có lòng can đảm để tiếp tục sứ mạng của mình? Ông thừa nhận, chính Thiên Chúa đã quyến rũ ông. Lời của Chúa là một ngọn lửa dày vò, thôi thúc ông. Ông không thể nào không loan báo Lời Chúa.

Làm thế nào mà một người nhát đảm như Giêrêmia lại dám lên tiếng công bố những điều khủng khiếp, khích động và chế nhạo những kẻ truy hại mình?

Chính Thiên Chúa đã chọn ông, đã quyến rũ ông. Thiên Chúa đã phá bỏ tính nhút nhát nơi ông, làm cho ông có khả năng chu toàn sứ mạng của mình cho đến cùng, đến độ tử đạo.

Đó chính là thái độ của Thiên Chúa đối với những người Ngài tuyển chọn. Ngài dùng họ, quyến rũ họ. Ngay từ lúc đó, Ngài giúp họ chiến thắng sự sợ hãi, làm cho họ can đảm bước vào một cuộc phiêu lưu lớn của một cuộc sống hoàn toàn cho đi.

2. Bài đọc II: Rm 12,1-2

Hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa

Thánh Phaolô khuyên dạy tín hữu từ bỏ những nếp sống theo thói đời để dâng hiến toàn bộ cuộc sống cho Thiên Chúa như một của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa.

Từ chương 12, (và thường phần cuối các lá thư của Thánh Phaolô) được gọi là phần khuyến thiện. Trong phần này, thánh nhân thường dùng để cầu nguyện, an ủi và khuyên bảo mọi người thực hiện những việc tích cực tốt đẹp trong đời sống.

Thiên Chúa tỏ lòng xót thương con người, để đáp trả đòi hỏi con người phải biết hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Thánh Phaolô dùng từ ngữ ‘hiến thân’ để nói đến việc dâng hiến này. ‘Thân mình’ ở đây là toàn bộ cuộc sống, toàn thể con người sống động.

Của lễ dâng hiến Thiên Chúa không phải là lễ vật như của các tôn giáo khác là tiền của, vật chất… nhưng là chính bản thân, là cuộc sống. Của lễ đó sống động vì sống để dâng mình phục vụ Chúa trong anh chị em; của lễ đó thánh thiện vì được hiến dâng cho Chúa và của lễ đó đẹp lòng Chúa vì sẽ được Ngài đón nhận.

3. Tin mừng: Mt 16,21-27

Phải theo Đức Kitô lên đồi Canvê

Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết về cuộc thương khó và tử nạn của mình, Chúa Giêsu báo trước cho các ông rằng chính các ông cũng phải theo Người trên đường thập giá.

Trong Tin mừng Matthêu, chúng ta thấy có ba lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Người (16,21; 17,22-23; 20,17-19). Sau mỗi lần loan báo đều có ghi lại phản ứng u mê, sai lầm và tiêu cực của các môn đệ trước lời loan báo này. Sau mỗi lần như thế Chúa Giêsu lại giải thích cho các ông hiểu thêm về sứ mạng của Người.

Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người cho các môn đệ. Người sẽ phải chịu những sự sỉ nhục và sự hành hình của thập giá trước khi đón nhận vinh quang phục sinh.

Khổ nạn là một yếu tố rất cần thiết trong công trình cứu độ của Chúa Giêsu. Đây là phần mầu nhiệm nhất, thâm sâu nhất và mới mẻ nhất trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu. Đây cũng là cớ làm cho nhiều người vấp phạm, cớ vấp phạm cho dân Do thái, cho các Tông đồ và cho nhiều người qua nhiều thời đại. Qua cuộc khổ nạn của Chúa đã hình thành nên một qui luật chung cho những ai muốn làm môn đệ Người: Tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Ai muốn làm môn đệ Đức Kitô phải vác thập giá mình mà theo Người.

II. GỢI Ý BÀI GIẢNG

1. Thập giá – con đường Kitô hữu phải đi:

Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết về con đường khổ giá Người sẽ đi, đồng thời, mời gọi cũng như báo trước cho các ông biết các ông muốn làm môn đệ Người thì cũng phải đi vào con đường thương khó ấy. Chúa Giêsu loan báo và đã thực hiện trọn vẹn con đường thập giá với cái chết nhục nhã trên đồi Canvê. Đến lượt các môn đệ và mỗi Kitô hữu ngày nay cũng thế, phải đi vào con đường thập giá. Thập giá là cách thế Chúa Giêsu thực hiện công trình ban ơn cứu độ cho nhân loại thì thập giá cũng là cách thế để chúng ta đón nhận ơn cứu độ và thông chuyển ơn cứu độ cho con người và thế giới.

Cuộc sống con nguời vốn dĩ đã đầy đau khổ, thử thách. Đó chính là thập giá mà Chúa Giêsu đã vác và muốn Kitô hữu cùng vác với Người. Làm sao tránh khỏi khổ đau, gian nan, thử thách của kiếp người đầy tục lụy? Chả có cách nào từ chối chúng, vậy chi bằng hãy đón nhận trong niềm tin vào Chúa Giêsu, Người đã đi trước, vác thập giá trước và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Kitô hữu cũng hãy vác thập giá với Người, chúng ta sẽ được biến đổi và nên hữu ích cho anh chị em chung quanh.

2. Thập giá – con đường chẳng ai muốn đi vào:

Sau khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, chính Phêrô, người trước đó đã mạnh miệng tuyên xưng đức tin của mình, vậy mà đã lên tiếng trước mọi người ngăn cản Chúa Giêsu. Mỗi người Kitô hữu cũng thế, cũng phản ứng như Phêrô ngại chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, bệnh tật, bị khinh miệt… rất nhiều những thâp giá giữa đời thường hầu như không thể chấp nhận được với mỗi người chúng ta. Không ai muốn mình phải khổ cả, Chúa cũng chẳng muốn điều đó. Tuy nhiên, lời mời gọi vác thập giá mang ý nghĩa hiện sinh và tôn giáo sâu sắc: Nếu tin vào Chúa thì không có gì phải lo ngại cả. Chúa Giêsu cũng có lúc muốn từ chối thập giá, nhưng rồi hoàn toàn phó thác trong tay Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha, để rồi đã hoàn tất công trình cứu độ yêu thương mang lại sự sống, tình yêu và hạnh phúc cho nhân loại.

Thập giá là con đường theo tâm lý thường tình thì không ai muốn cả. Nhưng trong niềm tin Kitô hữu can đảm bước vào, vì biết rằng đó là điều Chúa muốn, làm đẹp lòng Chúa và sẽ được Chúa tôn vinh. Kitô hữu chúng ta hãy can đảm vác thập giá theo Chúa Giêsu Kitô, không ngần ngại.

3. Thập giá – con đường đến vinh quang:

Khi loan báo về cuộc khổ nạn cũng như khi mời gọi các môn đệ vác thập giá theo mình, Chúa Giêsu cũng cho biết trước vinh quang phục sinh: ngày thứ ba Người sẽ sống lại; ai liều mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ được sống; Con Người sẽ đến trong vinh quang, trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm. Như thế, thập giá, cuộc thương khó không mang sắc thái bi quan, thất vọng, chết chóc nhưng lại mở ra một niềm hy vọng, niềm vui và sự sống tích cực. Sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tất cả giá trị, hiệu quả cao quí của mầu nhiệm thập giá. Qua thập giá đến vinh quang, đó là chân lý.

Trong cuộc sống đời thường có gì vinh quang, có gì thành công, có gì thành đạt mà không phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu nữa? Phải qua gian khó, thử thách mới tôi luyện con người nên trưởng thành; phải qua vất vả mới có thể thành công; phải qua thập giá mới đến vinh quang đích thực.

III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, con đường khổ giá chắc chắn không nhẹ nhàng, không thanh thản khi bước vào. Phải có ơn Chúa mới có thể đi trọn vẹn. Vậy giờ đây, chúng ta cùng sốt sắng dâng lời nguyện xin:

1. Những sự chống đối từ bên ngoài, những trào lưu phi luân lý và những rạn nứt nội bộ luôn là những thập giá mà Giáo hội khắp nơi phải gánh chịu, phải đương đầu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội luôn mạnh mẽ tin tưởng vào Chúa, can đảm đấu tranh cho sự thật, gìn giữ và phát triển sự hiệp nhất.

2. Ngày nay biết bao người đã và đang phải đối diện với thập giá là nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh và biết bao sự khó khăn khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho đời sống của xã hội ngày càng gia tăng phát triển tình bác ái, sự hiệp thông chia sẻ giữa người giàu và nghèo; giữa các nước phát triển và chậm tiến để mọi người thực sự được bình đẳng, thụ hưởng tự do, hòa bình, ấm no và hạnh phúc.

3. “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi nhà trong cộng đoàn chúng ta được tràn đầy ơn Chúa để tất cả luôn tin tưởng, cậy trông và vui nhận vác thập giá theo Chúa.

Lời kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu mến chúng con, Chúa đã can đảm chấp nhận thập giá, chịu chết để ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm theo Chúa, biết đón nhận và sống vì mọi người như là cách thế chúng con vác thập giá theo Chúa lên đồi Canvê. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

47. Từ bỏ

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 

Như bài Tin Mừng vừa cho chúng ta biết: hôm ấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị giết rồi ngày thứ ba sẽ sống lại. Ðó là một mạc khải kinh khủng đối với các Tông đồ. Cứ nhìn vào phản ứng của Phêrô thì rõ. Tuy nhiên đó chỉ là những đau khổ động tới con người của Chúa Giêsu, chứ chưa phải là những đau đớn đổ xuống trên thân xác các môn đệ. Hôm nay, phụng vụ muốn nói chính bản thân chúng ta đây phải sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào? Và trước hết chúng ta có thâm tín như vậy không? Chúng ta có chắc rằng chúng ta, mọi kẻ theo Chúa đều phải khổ vì Chúa không? Nếu có, chúng ta phải đón nhận những đau khổ đó như thế nào? Thiết tưởng việc đọc lại các bài Kinh Thánh hôm nay sẽ có ích nhiều cho chúng ta.

1. Nhà Tiên Tri Ðau Khổ

Bài sách Giêrêmia vắn tắt nhưng lâm ly. Nhà tiên tri than thở với Chúa nhưng thực ra cũng muốn cho người khác nghe. Ông tóm tắt cuộc đời của mình trong những lời rất bi quan và đau xót. Lúc nào ông cũng phải la lối: “hành hung và bức hiếp”, bởi vì ông được Chúa chọn để sai đi nói với dân: khủng khiếp sắp đổ xuống dân bội bạc, bất tín và dâm đãng này. Ðầu tiên người ta cũng giật mình, nhưng rồi bị thói quen lôi đi, phù vân hấp dẫn và được các tiên tri giả luôn luôn phỉnh nịnh, người ta đâm chán, đâm ghét và muốn xóa bỏ con người cứ liên tiếp đe dọa những tai ương, hình phạt. Có lần người ta đã bắt ông, tống giam và suýt nữa đập chết ông.

Bị kỳ thị tránh né, hiểu lầm, ghét bỏ, Giêrêmia suy nghĩ về cuộc đời của mình. Vì sao lại đâm đầu vào cái nghề tiên tri này? Và sao không bắt chước loại tiên tri kia cứ nói hay, nói tốt cho người ta để được yêu, được thích, được nhiều tiền nhiều của? Cớ sao cứ nói mãi những điềm dữ và tuyên bố kinh khủng sắp đổ xuống trên mọi người, để người ta phải tránh, phải sợ mình như sợ dịch?

Càng suy nghĩ, Giêrêmia càng hiểu rõ bản chất và ơn gọi của mình. Con người xác thịt của ông chắc chắn không muốn sống như xưa nay ông vẫn sống. Nếu cứ phải là tiên tri, chắc chắn nó muốn làm như bọn tiên tri giả, cứ phỉnh nịnh người ta là được chiều chuộng và sung sướng. Làm tiên tri thật, biết nói lên cái hay nhưng cũng không câm miệng trước cái dở của người ta, kể cũng đã khó… huống nữa là chỉ rặt kêu la: “hành hung và bức hiếp!”. Lại nữa có chắc gì sẽ xảy ra như vậy? Yôna cũng có lần bị cám dỗ như thế. Ông được Chúa sai đi để cảnh cáo dân tội lỗi. Ông không muốn đi vì ông nghĩ Chúa nhân từ vô bờ, chỉ cần người ta quay đầu lại một tý là Người đã tha thứ và rút cánh tay đe phạt về. Nhưng tại sao Giêrêmia cứ cố chấp và còn nhiệt thành nữa trong việc rao truyền những hình phạt khủng khiếp sắp đổ xuống trên con cái Israel?

Cuối cùng Giêrêmia phải thốt ra những lời hôm nay chúng ta vừa nghe đọc. Không phải ông tự chọn cho mình ơn gọi này; không phải ông thích thú khi tuyên sấm bi quan khủng khiếp như vậy; không phải ông không biết những ê chề, đau khổ và nguy hiểm cho bản thân khi nói ngược với những sự chờ mong của người ta. Cực chẳng đã ông phải làm tiên tri. Không phải để dù sao cũng phải sống và phải có một nghề; nhưng nào ai hiểu được, chỉ để tuân lệnh Yavê!

Người ta bảo ông bị mê hoặc, lừa dối. Phải, nói cho cùng, ông thấy mình bị dụ dỗ thật sự. Nhưng không phải là bùa thiêng hay ma quỷ nào lừa đảo được ông; nhưng là chính sức mạnh của Thiên Chúa. Thần khí Người ập xuống. Ông bị uy hiếp và bị khắc phục, không phải một cách miễn cưỡng và khó chịu, nhưng êm ái và bình an. Thiên Chúa uy dũng đã chiếm đoạt lấy ông. Ông nằm trong tay Người như đứa con trên tay người mẹ: khoan khoái và tin tưởng làm sao! Gặp Thiên Chúa rồi, cảm tình yêu của Người rồi, Giêrêmia phó thác hoàn toàn tấm thân và đời sống nhỏ bé và mỏng manh của mình trong tay Người. Từ nay, Giêrêmia chỉ còn là khí cụ trong tay Ðấng điều khiển tất cả trời đất “vừa cương vừa nhu” (fortiter et suaviter). Ông không làm chủ đời mình nữa. Ông thấy thích thú sâu xa lạ lùng khi được sử dụng vào công việc của Thiên Chúa, cho dù xác thịt tự nhiên cảm thấy ngược lại.

Thế nên nói cho cùng những ê chề, đau đớn, khổ sở mà người ngoài nhìn thấy ở nơi ông và chính xác thịt ông cũng thấm thía thật sự, tất cả những sự ấy vẫn không động đến được ý chí và quan điểm của ông vì “nơi lòng ông như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt ông; ông hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được” bởi vì Thiên Chúa đã dụ dỗ và đang thắng ông.

Giêrêmia đúng là “Người của Thiên Chúa”. Ông mô tả trước con người của Ðức Kitô. Ông nhắc nhở tất cả chúng ta về ơn gọi tiên tri của mình. Chúng ta đã lãnh nhận ơn gọi này khi chịu phép Rửa. Mỗi người chúng ta đã được Chúa đặt làm tiên tri để công bố đường lối chân thật của Người. Chúng ta không thấy vất vả vì ơn gọi đó sao? Hay là chúng ta không thi hành ơn gọi đó? Hoặc là chúng ta đang phàn nàn ta thán về số phận khó khăn của ơn gọi là Kitô hữu? Chúng ta chỉ tìm được bình an chân chính và sâu xa nếu chúng ta biết suy nghĩ và tìm ra sự thật như Giêrêmia trong bài Kinh Thánh hôm nay. Và bây giờ chúng ta được trang bị đầy đủ để đi vào hai bài Kinh Thánh khác.

2. Ðấng Cứu Thế Chịu Ðóng Ðinh

Sách Tin Mừng Matthêô kể: từ bấy giờ Ðức Giêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ hay “Ngài phải đi Giêrusalem và chịu nhiều đau khổ…”. Ðó là câu văn rất quan trọng. Nó đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời Chúa Cứu thế. Cho đến hôm ấy, Người chưa bao giờ bảo môn đệ biết những đau khổ đang chờ Người. Nói đúng hơn, cho đến bấy giờ Người thường đi giữa quần chúng và dạy dỗ họ. Từ nay Người sắp đi Giêrusalem với Nhóm môn đệ của Người. Như vậy hoạt động của Người như muốn thu nhỏ lại hơn, để có giờ đào tạo, huấn luyện, sát các môn đệ hơn. Làm cho họ hiểu Người và giống như Người hơn. Và vì thế Người bắt đầu tỏ cho họ thấy sứ mạng và vinh quang đích thực của Người: Người sẽ đi Giêrusalem, bị bắt, bị xử, bị giết và sống lại ngày thứ ba.

Ðó là chương trình đào tạo của Người kể từ hôm nay. Không phải chỉ là một bài học chỉ cần cắt nghĩa là môn đệ hiểu được. Nhưng là cả một nếp sống mà Người sẽ lần lần “tỏ” ra cho họ thấy, mặc dù chưa chắc họ đã hiểu. Nhưng dù sao cũng phải dùng lời nói để mô tả nếp sống ấy. Hôm nay Chúa Giêsu đã làm công việc này. Chẳng may Người gặp phải một phản ứng tức thời, phản ứng của Phêrô, kẻ mà Người mới đặt làm Ðá để xây lên Hội Thánh.

Phêrô kéo Ngài lại với mình và lên tiếng trách Ngài: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!”. Kể ra ông cũng rất tế nhị. Ông không dám thẳng thắn phản đối Ngài. Ông kéo Ngài ra để nói riêng, không muốn cho đồng bạn nghe thấy. Ông còn nại đến Thiên Chúa: Người tốt lành không thể để xảy ra như lời Ðức Giêsu đã nói.

Thế thì vì sao Ðức Giêsu lại như phẫn nộ đối với Phêrô. Người nói to không nể mặt: “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta…”. Có lẽ câu tiếp theo làm cho người ta hiểu ý của Người hơn, Người bảo: “Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Phải, hôm ấy Ðức Giêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy tương lai của Người; mà tương lai ấy đâu phải Người xây dựng, mà là chính Thiên Chúa vì Người đã nói rõ: “Ta đến không phải để làm theo ý muốn của mình, mà là ý của Ðấng đã sai Ta”. Như vậy, cuộc Tử nạn Phục sinh của Người là kế hoạch của Thiên Chúa. Phêrô chưa nhận ra điều ấy. Ông tưởng đó là ý riêng của Ðức Giêsu. Thế nên ông tưởng có thể góp ý với Người. Và ý của ông cũng là ý của các môn đệ, là ý của quần chúng, của con cái Israel… và nói chung, của tất cả loài người. Ai ai cũng đang trông chờ một vị cứu tinh vinh quang, một Ðấng Cứu thế uy hùng, một Ðức Giêsu quyền phép sắp xây dựng Nước Trời trong huy hoàng, rực rỡ. Họ không biết, hoặc chưa biết “Con Người sẽ phải chịu đau khổ… Các lời tiên tri phải nên trọn… Người phải là Con Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ… Và người Tôi Tớ của Thiên Chúa kể trong sách Isaia chính là Người”. Phát biểu của Phêrô là tiếng nói của loài người. Hơn nữa phá kế hoạch của Thiên Chúa là ý muốn của Satan. Ðức Giêsu thẳng thắn vạch trần những bộ mặt ấy để từ nay người ta sống chân thật và tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý.

Tác giả sách Tin Mừng Matthêô có lẽ đã hiểu rõ ý Ðức Giêsu Kitô. Ông đính ngay vào đoạn văn trên những lời Chúa dạy dỗ môn đệ: “Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta”. Ðó là bài học cụ thể phải rút ra sau khi đã thấy mầu nhiệm Thánh giá của Chúa. Là điều chúng ta phải ngẫm nghĩ khi muốn đi theo Người và làm môn đệ của Người. Phêrô và các Tông đồ khi đi theo Chúa cũng muốn tham dự vào công cuộc cứu thế của Người. Chúng ta còn hơn nữa, vì khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được sát nhập vào Thân Thể của Người. Chúng ta trở nên Kitô hữu. Chúng ta mặc lấy thân phận của Ðức Kitô. Người tuy là Cứu thế và hơn nữa chính để cứu thế, đã chấp nhận chương trình của Thiên Chúa là đi lên Giêrusalem để bị bắt, bị xử, bị đóng đanh và bị giết. Ðó là con đường cứu thế, con đường của Vua Kitô, con đường của những ai được xức dầu Vương giả của Người.

Hôm nay chúng ta không thể không suy nghĩ những điều ấy, để thấy không những ơn gọi tiên tri mà cả ơn gợi vương đế trong Bí tích Rửa tội đều thúc đẩy chúng ta phải đi vào con đường của mầu nhiệm thánh giá. Nếu muốn sống làm chứng nhân cho đường lối của Chúa, chúng ta đã phải sẵn sàng can đảm, thì muốn tham dự và tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, chúng ta không thể không muốn chấp nhận lấy thân phận của người Tôi Tớ Thiên Chúa. Lúc ấy chúng ta mới thấm thía lời Chúa dạy: ai muốn làm lớn hãy trở nên rốt bét… Hết thảy hãy học với Ta vì Ta có lòng khiêm nhường hiền lành… Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sự sống. Chỉ khi thâm tín những chân lý này, việc làm dấu Thánh giá và đeo ảnh Thánh giá trên mình mới có ý nghĩa. Ðó không phải chỉ là dấu hiệu nói rằng chúng ta đã thuộc về Chúa Giêsu Kitô Cứu thế chịu đóng đinh, nhưng còn là cử chỉ muốn đóng đinh xác thịt và đời sống của mình để cứu thế với Ðức Giêsu Kitô. Sống ơn gọi vương đế cũng phải vác thập giá và chết trên thập giá như khi sống ơn gọi tiên tri. Còn muốn sống ơn gọi tư tế trong Bí tích Rửa tội có như vậy không?

3. Anh Em Hãy Hiến Dâng Thân Mình Là Lễ Tế Sống

Ðoạn thư Phaolô hôm nay mở đầu phần khuyên bảo trong thư Rôma. Thánh Tông đồ thôi giảng về giáo lý và bắt đầu dạy dỗ tín hữu về cách ăn ở. Chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng sự tôn thờ chân thật mà Người muốn, không phải là kinh kệ hay lễ dâng bề ngoài, nhưng là lễ tế thiêng liêng.

Chúng ta hay hiểu lầm ý nghĩa của hai chữ thiêng liêng này. Chúng ta tưởng thiêng liêng là không hữu hình, không nhìn thấy. Và chúng ta nghĩ tôn thờ thiêng liêng không cần đến nhà thờ, bàn thờ, kinh kệ, nghi lễ, mà chỉ cần tâm hồn. Thế là vô tình chúng ta có thể rơi vào “duy tâm”.

Nhưng không có tâm hồn ở ngoài thân xác. Và không phải tâm hồn hay thân xách chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa, mà là chính chúng ta là những con người có cả tâm thần và xác thịt. Thánh Phaolô nói chúng ta phải dâng thân mình làm lễ tế sống, tức là phải dâng chính chúng ta và tất cả chúng ta với những sự thuộc về chúng ta làm lễ tế sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Không phải chúng ta sẽ trói mình lại như Abraham bắt trói Isaac ném lên đống củi… Kiểu tế sống đó Thiên Chúa không muốn. Người không cho Abraham làm. Nhưng Người đã ban Con Một Người đi chịu chết. Và lễ tế sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, chính là lễ hy sinh của Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Thập giá. Lễ hy sinh này, Ðức Giêsu Kitô đã khởi sự hôm nay khi Người bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ đi lên Giêrusalem để chịu chết. Nói đúng hơn, Người đã bắt đầu tế lễ sống chính mình khi bước vào thế gian như thư Hipri nói: “Này Con xin đến để làm theo Thánh Ý Cha”.

Mà ý của Thiên Chúa không phải ý của thế gian vàloài người. Thế nên thánh Phaolô diễn tả tư tưởng ở trên rằng: “Ðừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương tri, mà biến hình đổi dạng, làm sao anh em thẩm định được Ý Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo”.

Mọi chữ đều ý nghĩa. Chính đời sống không rập theo đời này, nhưng canh tân lương tri, biến hình đổi dạng, ăn ở theo giáo huấn của Thiên Chúa, là lễ tế sống, thánh thiện đẹp lòng Người. Như vậy đời sống tư tế của người tín hữu chẳng thuần túy thiêng liêng theo nghĩa vô hình và hoàn toàn nội tâm; bởi vì canh tân biến đổi đời sống cho phù hợp với Ý Chúa phải tác động đến thân xác và nếp sống hữu hình. Nhưng tất cả những kinh kệ và lễ dâng chỉ trở thành lễ tế thiêng liêng khi đó là những lời kinh và lễ dâng của con người đang kết hiệp với Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá, là mầu nhiệm hiến dâng và trao ban cả thân mình cho Thiên Chúa và cho hạnh phúc của loài người.

Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm ấy nơi bàn thờ. Ước gì việc tham dự thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào sâu hơn ơn gọi của Bí tích Rửa tội, là bí tích biến chúng ta nên Kitô hữu, môn đệ của Ðức Kitô. Bí tích ấy xức dầu chúng ta nên ngôn sứ, vương đế và tư tế trong Ðức Giêsu. Người đã là Vị Ngôn sứ đau khổ hơn hết. Người đã làm Vua trên Thánh giá. Người đã tế lễ khi hiến dâng sự sống mình. Người đang kêu gọi và đòi hỏi chúng ta: nếu muốn đi theo Người hãy vác lấy thập giá của mình mà đi theo Người.

Quan điểm này phải canh tân lương tri và biến đổi đời sống chúng ta nên lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa và hữu ích cho mọi người hơn.

48. Lời khen chê của Chúa Giêsu - Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

 

Khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Người đã khen ngợi ông. Tại sao Chúa lại khen? Tại vì Phê-rô đã biết để cho Chúa Cha soi sáng và hướng dẫn mình: “Si-mon, con ông Giô-na, con thật có phúc, không phải thịt máu mạc khải cho con biết nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”

Chúa không những khen mà còn gọi Phê-rô là Tảng Đá, trao chìa khóa Nước Trời và quyền cầm buộc tháo cởi cho ông nữa: “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”

Nhưng khi nghe thấy Chúa Giê-su loan báo một Đức Ki-tô chịu nạn chịu chết rồi mới sống lại để cứu chuộc nhân loại, thì Phê-rô đã lên tiếng can ngăn: “xin Thiên Chúa gìn giữ, đừng để Thầy mắc phải sự ấy”.

Khác với lần trước, lần này Chúa Giê-su đã nặng lời khiển trách ông. Tại sao Chúa lại khiển trách? Tại vì Phê-rô đã để cho Sa-tan xui khiến, hòng làm cho Chúa Giê-su đi chệnh đường cứu độ nhân loại của Chúa Cha: “Sa-tan, hãy lui ra đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy, tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người.”

Từ những điểm trên, ta thấy Chúa Giê-su là Đấng rất ngay thẳng, biết khen chê đúng thời đúng lúc.

Là người ai cũng thích được khen thưởng, không muốn bị chê trách. Muốn được khen thưởng, thì phải chu toàn ơn gọi và sống đúng vị thế của mình:

Là phàm nhân, chứ không phải Thiên Chúa, thì không thể lấy tư tưởng của mình để áp đặt cho Thiên Chúa.

Là môn đệ Chúa phải đi theo Chúa, đứng đàng sau Chúa và để Chúa hướng dẫn mình, chứ không phải bắt Chúa đi theo sau mình.

Tiếc thay, nhiều người muốn được khen thưởng, nhưng lại không sống đúng vị thế của mình:

Là môn đệ mà lại đòi hướng dẫn Thầy, bắt Thầy phải đi theo mình.

Là phàm nhân nhưng lại muốn điều khiển Thiên Chúa.

Cổ nhân gọi loại người ấy là ‘trứng khôn hơn vịt’. Sống như vậy, người đời còn khiển trách phê bình, huống chi là Chúa, Đấng sẽ thưởng công luận tội ai nấy xứng với việc mình làm.

Lạy Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người là Chúa và là Thầy của chúng con mà còn phải chịu tử nạn rồi mới phục sinh vinh quang để cứu nhân độ thế. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Chúa dạy mà sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà đi theo Chúa ở đời này, để mai sau chúng con được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời vinh quang. Amen.

49. Phải lên Giêrusalem

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Ngay sau trình thuật Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, các tin mừng nhất lãm đều đặt ngay sau đó lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu (Mt 16,21-28: Mc 8,31-33; Lc 9,22). Thánh sử muốn gắn liền Đức Kitô, Con Thiên Chúa với sứ mạng cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá; cụm từ “Con Người”, hyios tou anthrōpou, đóng khung đoạn lớn nầy (16,13-28). Sau đoạn 16,21-28 nầy là trình thuật Chúa Giêsu biến hình. Ngài bày tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài trước khi Ngài vào “trong Nước của Ngài” (16,28).

Đoạn 16,21-28 gồm hai phân đoạn bắt đầu bằng “Chúa Giêsu nói với các môn đệ”: – Loan báo cuộc vượt qua của Ngài (cc. 21-23); – Điều kiện của người muốn làm môn đệ Ngài (cc. 24-28). Các hạn từ liên quan đến cuộc vượt qua của Chúa Giêsu và sự từ bỏ để đi theo Ngài: – trong cc. 22-24: “lên Giêrusaelm”, “đau khổ”, giết”, “sống lại”; – trong cc. 24-28: “từ bỏ” “vác thập giá”, “đi theo”, “tìm – mất”, “lời lãi – thiệt mất”, “đến trong vinh quang”, “vào trong Nước của Tôi”.

Loan báo cuộc Vượt qua (cc. 21-24)

Về cấu trúc, đoạn nầy gồm một tuyên bố của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài (c. 21), tiếp theo là phản ứng của Phêrô trước lời tuyên bố (c. 22), và nhận xét của Chúa Giêsu về cách phản ứng của Phêrô (c. 23). Matthêô mở đầu đoạn bằng apototē, “Từ bấy giờ” để liên kết với đoạn trước. Thánh sử thay “Con Người” (Mc 8:31) bằng “Ngài”, auton, và thêm “đi lên Giêrusalem”. Lời tiên báo của Chúa Giêsu (c. 21) gồm “Ngài phải” và tiếp theo đó là 4 động từ ở thể nguyên mẫu: “đi lên”, “đau khổ”, “giết” và “chỗi dậy”, một chỉ dẫn nơi chốn là “Giêrusalem”, và “niên trưởng”, “thượng tế” và “kinh sư” là những người lãnh đạo tôn giáo tại Giêrusalem.

Sau khi xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu nói đến cuộc vượt qua của Ngài. Sứ mạng cứu độ nầy gắn liền mật thiết với tước hiệu “Đức Kitô”. Giêrusalem là nơi cuộc thương khó sẽ xảy ra, và các tác nhân chính là các lãnh đạo tôn giáo. Ngay khởi đầu tin mừng, Matthêô đã cho thấy Giêrusalem và nhóm những người nầy đã hoảng sợ với tin “Vua dân Do thái mới ra đời” (2,3-4). Họ sẽ chủ động trong việc giết Chúa Giêsu (27,1tt; 28,12).

Động từ dei, “phải”, chỉ một sự cần thiết vô điều kiện. Điều được nói ra với dei thường được hiểu như là chương trình của Thiên Chúa (x. Cv 5,29; 1 Thess 4,1; Rom 8,26; 1 Co 8,2; 1 Tim 3,2.7.15; Lc 13,14.16). Ở đây dei diễn tả ý muốn của Thiên Chúa về cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ý thức chương trình nầy là của Chúa Cha. Ngài hoàn toàn tích cực tuân theo ý Cha trong cuộc thương khó sắp đến. Ý muốn của Chúa Cha được diễn tả cụ thể trong 4 động từ ở thể nguyên mẫu. Trước hết là “đi lên Giêrusalem”, việc nầy sẽ được thực hiện ở câu 20,18; rồi “đau khổ”, paschō, rất nhiều trong cuộc thương khó, “bị giết” bởi các lãnh đạo do thái, và sau cùng “được chỗi dậy”. Chính Chúa Cha sẽ làm cho Ngài sống lại, “sẽ được chỗi dậy” (x. Cv 2,22-4; 3,13-15; 4,10; 5,30-31; 10,36-40).

Trước lời tiên báo nầy, Phêrô phản đối Chúa Giêsu: “Xin Thiên Chúa thương Ngài”, nghĩa là “xin Thiên Chúa xót thương giữ cho Ngài khỏi điều ấy” (c. 22). Trong trình thuật trước, Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Dân chúng và các môn đệ đã chứng kiến tận mắt những việc Chúa Giêsu đã làm trong suốt thời gian sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Ngài đáp ứng trọn vẹn những nhu cầu thường ngày của mọi người: chữa bệnh, xua trừ ma quỉ, mở mắt người mù, làm cho người phung hủi được sạch… (x. 9,35; 11,5); và gần hơn với trình thuật nầy là việc Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều (14,13-21), và cứu các môn đệ khỏi sóng gió và Phêrô khỏi chìm 14,22.33). Phêrô cũng như dân chúng thời bấy giờ mong đợi một đấng thiên sai đầy vinh quang và quyền năng như thế. Vì thế ông không thể chấp nhận lời tiên báo chết chóc và làm thất vọng như thế được.

Khi ngăn cản Chúa Giêsu thực hiện điều Ngài tiên báo về cuộc thương khó, Phêrô phản đối Chúa Cha một cách gián tiếp. Chúa Giêsu ra một mệnh lệnh cho ông “Xéo đi sau Tôi”. Phêrô, thay vì đi theo đằng sau lưng Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bấy giờ ông vượt lên đứng trước mặt Ngài mà cản đường. Cách nói opisō mou, “theo sau Tôi” thường được dùng trong ngữ cảnh Chúa kêu gọi ai đó làm môn đệ (4,10; 10,38). Thầy đi trước, môn đệ theo sau. Làm môn đệ là đi theo sau lưng thầy và học cùng thầy. Phản ứng của Phêrô, ra phía trước Chúa Giêsu và ngăn cản Ngài, không phải là phản ứng của người môn đệ, mà là phản ứng của Satan. Chúa Giêsu gọi ông là “Satan”, thay vì “Phêrô” hay một tên nào khác, vì “Satan” đã đứng trước Chúa Giêsu và yêu cầu Ngài quỳ gối thờ lạy nó; nghĩa là thờ phượng và phụng sự nó (4,10). Phêrô đứng trước Chúa Giêsu và muốn Ngài làm theo ý của ông. Như Chúa Giêsu đã đuổi Satan biến đi, Ngài cũng đuổi Phêrô về lại đằng sau lưng Ngài.

Phêrô bị trách là không hiểu đường lối tư tưởng của Thiên Chúa (c. 23). Các bản dịch khác nhau trong cách dịch cụm từ “ta tou Theou” và “ta tou anthrōpōv” nầy. Cụm từ ta tou Theou nầy gặp thêm một lần nữa trong 22,21, lúc nầy có nghĩa là “những gì thuộc về Thiên Chúa” (xem các cách nói tương tự trong Rom 8,5; Phil. 3,19; and Col 3,2). Theo văn mạch ở đây, Phêrô phản đối việc Đức Kitô phải chịu cuộc thương khó, cũng có nghĩa là ông phản đối “đường lối cách làm của Thiên Chúa” trên Chúa Giêsu. Động từ phroneō, có nghĩa là “chăm chú vào”, “đặt tâm trí vào”. Như thế có thể hiểu là Phêrô đã không để tâm vào đường lối của Thiên Chúa mà chỉ vào đường lối con người, nên không hiểu điều ý muốn của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu Kitôđã để Thiên Chúa hành động nơi mình. Ngài vâng phục lên Giêrusalem và chịu thương khó, bị giết và sẽ được làm cho sống lại. Phêrô cản trở vì ông không hiểu cách làm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ giải thích rõ hơn cách làm của Thiên Chúa trong đoạn tiếp theo.

Điều kiện của người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (cc. 24-27)

Như phần trước, đoạn nầy cũng dẫn nhập bằng câu vắn “Chúa Giêsu nói với các môn đệ”, rồi một tuyên bố tổng quát về việc theo Chúa (c. 24), được giải thích trong ba trình bày “Vì…”, gar (cc. 25.26.27), và kết thúc bằng một loan báo dẫn vào bởi công thức long trọng “Quả thật, Tôi nói cho các anh biết….”, Amēn, legō hymin (c. 28). Phần nầy liên hệ với phần trên bằng từ nối “theo sau tôi” (cc. 23 và 24). Qua phản ứng của Phêrô, Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ về cách đi theo Ngài.

Làm môn đệ làđi “theo sau” Chúa Giêsu (c. 24). Đi “theo sau” Chúa còn có nghĩa là người môn đệ không đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đang đi. Chúa Giêsu đưa ra một câu điều kiện bắt đầu với động từ thelō, “muốn”. Trong câu nầy, điều kiện “đi theo Chúa” gắn liền với những hậu quả tất nhiên được trình bày trong vế thứ hai là “từ bỏ chính mình”, “vác thập giá” và “đi theo Chúa” (10,38; 27,32). Những hậu quả tất nhiên nầy được rút ra từ cuộc thương khó của Chúa Giêsu do Chúa Cha hoạch định (16,21). Trong cuộc thương khó của mình, Chúa Giêsu sẽ từ bỏ chính mình để làm theo ý của Chúa Cha (26,39), và chịu đau khổ và chịu chết trong nhục hình thập giá (27,32). Bởi đó, đòi hỏi của Ngài đối với người muốn làm môn đệ của Ngài không là gì khác ngoài việc muốn họ thực hiện ý Chúa Cha theo cách Ngài đã làm.

Câu giải thích thứ nhất theo cấu trúc đối đảo (c. 25): – a- cứu mạng sống mình; b- mất nó; b’- mất mạng sống mình; a’- tìm được nó. Cấu trúc nầy tập trung trên việc “mất mạng sống mình”. Hơn nữa trong về thứ hai (c. 25b), quan trọng hơn, có thêm yếu tố “vì Tôi”. Các động từ trong vế thứ hai đều ở thì tương lai, apollymi và heuriskō (c. 25) và ōpheleō (c. 26), chỉ hậu quả sẽ xảy đến sau nầy. Cụm từ “mạng sống mình”, psychē autou, được dùng 4 lần trong hai câu 25 và 26, có nghĩa là “chính mình”, heautou (Zerwick M., Biblical Greek, §212); “từ bỏ chính mình” ở câu trên (c. 24) được diễn tả ở đây dưới một dạng khác “mạng sống mình”. Psychē là tâm điểm của đời sống trần thế và siêu việt; nghĩa là tất cả gì làm nên một con người toàn diện. Khi kêu gọi các môn đệ từ bỏ “mạng sống mình”, Chúa Giêsu muốn họ đừng tìm sự bảo đảm nơi chính mình, nhưng nơi Thiên Chúa. Phêrô đã suy nghĩ theo cách của mình và cho là đúng nên đã ngăn cản Chúa Giêsu. Ngược lại, Chúa Giêsu mời gọi đặt “mạng sống mình” trong ý muốn của Thiên Chúa.

Rồi “Từ bỏ chính mình” được so sánh với “thế gian” (c. 26). Câu nầy gồm hai câu hỏi, và nội dung cũng liên quan đến cách đối xử với mạng sống mình. Các câu trả lời phải là “Không”. Như câu trước, ở đây cũng có các động từ đối nghĩa nhau: “kiếm được”, kerdainō và “thiệt mất”, zēmioō. “Thế gian”, kosmos, nầy là “nước trần gian và vinh quang của ma quỉ” (x. 4,8). Động từ kerdainō hiểu theo nghĩa đen (x. 25,14-30). So sánh nầy gợi đến câu chuyện người giàu có trong Luca 12,16-21. Linh hồn mạng sống quý trọng hơn sự giàu có thế gian, và không gì có giá trị bằng sự cứu rỗi của linh hồn. Linh hồn là quý nhất.

Sau cùng, Chúa Giêsu nói đến việc Con Người đến trong vinh quang sau khi nói về việc “từ bỏ chính mình” và “vác thập giá” của ai muốn đi theo Chúa (c. 27); giống như lời tiên báo về cuộc khổ nạn được kết thúc bằng loan báo sự phục sinh, “Ngài sẽ được chỗi dậy” (c. 21). Nội dung nầy sẽ được nói lại cho Phêrô khi ông đặt ra vấn đề phần thưởng bởi việc đi theo Chúa. Ngài hứa với ông việc sự phần của những người đi theo Ngài (19,28; 24,30; 25,31). “Vinh quang trong Nước của Ngài” sẽ được tỏ cho các môn đệ thấy trong việc Chúa Giêsu biến hình (17,1-9).

Con Người đến trong Nước của Ngài (c. 28)

Matthêô kết luận trình thuật nầy bằng một loan báo trọng thể bởi cách dẫn nhập “Quả thật”. Loan báo nầy liên quan đến các môn đệ đang nghe Chúa Giêsu giáo huấn, “những người đang đứng ở đây” (x. 16,24). Ngài hứa với họ là họ sẽ thấy Ngài “đi vào trong Nước của Ngài”. Điều nầy được thực hiện trong biến cố Ngài lên trời (28,17-18). Chúa Giêsu Kitô sẽ cho họ chứng kiến điều nầy như là một bảo đảm về chính Ngài là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). Ngài đi vào trong Nước của Ngài, cũng là vào trong “vinh quang của Cha” (c. 27); đồng thời cũng là một bằng chứng thật cho Phêrô và các môn đệ là những người “muốn đi theo Ngài” (c. 24). Nếu họ chấp nhận thực hiện ý của Thiên Chúa như Ngài là đi vào đường thương khó (c. 21; cc. 24-27, họ cũng sẽ được cùng Ngài dự phần sự sống vinh quang của Chúa Cha (c. 27).

Kết luận: Có một sự thống nhất giữa Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài là đi chung một con đường từ thương khó đến phục sinh. Những điều Chúa Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ và vác thập giá được rút ra từ cuộc thương khó của Ngài. Ai chấp nhận chương trình của Thiên Chúa trên mình, người ấy cũng sẽ được chung phần vình quang với Chúa Giêsu Kitô phục sinh.

50. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Gioan Phan Tiến Dũng

 

Điều gì, cái gì, hay ai đang quyến rũ bạn và tôi? Tại sao lại đặt câu hỏi như vậy? Vì chúng ta biết, trong xã hội chúng ta đang sống, có quá nhiều thứ đang được “quảng cáo” để quyến rũ và làm mê hoặc chúng ta như: địa vị, danh vọng, quyền lực, sắc đẹp, tiền bạc, của cải… không những thế, mưu mô của ma quỷ, thế gian và yếu đuối của xác thịt trong thân phận con người cũng luôn xúi giục và lôi kéo chúng ta. Nếu chúng ta chiều theo những thứ quyến rũ và cám dỗ đã nêu trên, thì hậu quả là gì nếu không phải là tội lỗi và sự chết. Thế nhưng, cũng có Đấng cũng đang muốn quyến rũ bạn và tôi đó là chính Thiên Chúa và một cách thức rất đặc biệt mà Chúa dùng để quyến rũ đó Lời Hằng Sống của Ngài. Vậy thì, khi chúng ta để cho “Thiên Chúa và Lời Hằng Sống quyến rũ”, đi theo và làm theo thánh ý Chúa, thì chúng ta sẽ được gì và sẽ trở nên như thế nào?

Trong bài đọc 1, Giêrêmia đã thốt lên “Lạy Chúa, Chúa đã quyến dụ tôi”. Thật vậy, Chúa đã quyến dụ Giêrêmia để ông trở nên ngôn sứ cho Thiên Chúa. Ngay từ ban đầu, khi được Chúa kêu gọi, ông đã không muốn và chẳng có gì hứng thú với lời mời đó cả; nhưng rồi Lời Chúa cứ rỉ tai và thúc giục, nên Giêrêmia đã miễn cưỡng nhận lời và nói “Chúa đã quyến dụ được tôi”. Khi đi làm ngôn sứ, dần dần trong sứ vụ, ông đã nhận thấy đây là một sứ mạng rất nặng nề, vì ông đã nếm và trải nghiệm không biết bao nhiêu là đau khổ, cho đến mức ông đã lên tiếng kêu trách Chúa. Tại sao Chúa dường như bỏ rơi Giêrêmia để cho người ta kinh bỉ và chống đối ông như vậy? “Suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi, Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo”. Có lúc tưởng chừng Giêrêmia cũng muốn bỏ cuộc và rút lui vì “lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa”. Thành quả sau hành trình phục vụ đạt được thì ngoài sức tưởng tượng, Giêrêmia đã trở nên một vị ngôn sứ thành công và vĩ đại, ông đã chu toàn sứ vụ và trọng trách mà Chúa trao ban, tất cả chính Thiên Chúa là Đấng đã ban cho ông sức mạnh.

Bài Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu cũng đang đưa ra lời kêu mời-quyến dụ chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”. Theo suy nghĩ thông thường của con người, khi Chúa Giêsu muốn kêu gọi và chiêu mộ người nào với cách thức như vậy, thì chắc chắn 100% là Ngài sẽ thất bại. Vì ai lại khờ dại đến mức để mà từ bỏ tất cả, rồi đi theo một người, và kết cuộc thì mình phải chịu đau khổ, chịu sỉ nhục, cực hình và ngay cả phải chịu chết? Vì con người, với bản năng sinh tồn, ai trong chúng ta cũng muốn tìm cho mình sự an toàn, tìm cho mình một chỗ đứng, địa vị, hay công ăn việc làm nào đó mà nó có thể đem lại cho chúng ta sự thoải mái, nhiều tiện lợi và có nhiều thứ ưu đãi tốt…Vậy thì chúng ta thử hỏi, tại sao Chúa lại đưa ra lời mời gọi và khuyến dụ này cho các môn đệ và cho chúng ta? Từ bỏ, hy sinh, chịu chết chính là Thánh ý Chúa, là con đường và là sứ mạng yêu thương, cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Kế đến, Chúa không khuyến dụ con người với những lời mời gọi hoa mỹ, những lời hứa ở trần gian để rồi con người phải thất vọng mà cho rằng mình bị Chúa phỉnh gạt hay lừa mình.

Để kêu mời-khuyến dụ chúng ta, Chúa Giêsu đã không chỉ mời gọi hay dạy dỗ, mà Ngài đã đi bước trước, nêu gương và thực thi cho chúng ta. Chính Chúa đã chọn con đường thập giá, hy sinh này để làm gương và trở nên mô phỏng cho chúng ta những ai muốn sống và trở nên giống như Ngài. Thật vậy, hơn hai ngàn năm qua lời kêu mời-quyến dụ của Chúa vẫn cứ đang rỉ tai và thúc giục nhiều người trong chúng ta. Thử hỏi, tại sao với “lời mời gọi-khuyến dụ điên rồ” cách khác thường của Chúa như vậy, mà vẫn có nhiều con người can đảm mau mắn đáp lại, dám hăng say dấn thân một cách không tính toán để đi theo và làm theo sứ vụ mà Chúa trao ban? Thật không thể hiểu được, tại sao Chúa lại chinh phục được chúng ta với những cách quyến dụ như vậy?

Đúng như lời Thánh Vịnh 62 đã xướng lên “Lạy Chúa, là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa”. Con người luôn khao khát Chúa và Lời của Ngài, vì chúng ta không bao giờ thỏa mãn với bất cứ hạnh phúc nào ở trần gian này cho đến khi chúng ta tìm gặp Chúa, sống và làm theo thánh ý cũng như sứ vụ Chúa trao; dẫu biết rằng theo Chúa là đối diện với bao nhiêu khó khăn, thử thách và ngay cả việc hy sinh chính mạng sống của mình. Các Thánh Tông đồ, các Thánh Tử đạo, và biết bao nhiêu vị Thánh, tất cả các Ngài đều đã bị Lời Chúa quyến rũ, chinh phục mà can đảm dấn thân theo Chúa để sống trọn vẹn với sứ vụ mà Chúa trao ban.

Thưa ACE, như vậy hôm nay khi nghe Lời Chúa mời gọi-quyến dụ mỗi người chúng ta, chúng ta có thể mau mắn đáp trả, hay còn chần chờ gì không? Nếu còn lưỡng lự hay chần chờ chưa dám dấn thân thì; Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã mời gọi chúng ta “Tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa”. Làm sao để chúng ta cũng có thể trở nên giống như Phaolô để có thể theo Chúa và sống trọn vẹn cho Ngài? Lời khuyên, kinh nghiệm và mẫu gương của Phaolô “Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo”.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con hôm nay khi nghe được tiếng Chúa kêu mời-quyến dụ, xin cho chúng con biết hăng say, can đảm dấn thân đáp trả và theo Chúa. Xin gia tăng sức mạnh ân sủng và tình yêu Chúa cho con, vì với ơn Chúa chúng con sẽ sống chu toàn sứ vụ Chúa trao với lòng tín thác và tin yêu. Amen.

51. Thập giá Đức Kitô.

 

1. ĐẠI DIỆN ĐỨC KITÔ HAY PHẢN NGHỊCH ĐỨC KITÔ (16,21-23)

Trên đây, Đức Kitô vừa được các môn đệ nhìn nhận như Đấng phải đến để thực hiện một khúc rẽ trong lịch sử. Vì thế, mặc dầu dân Do Thái không nhận biết Chúa, các môn đệ vẫn tin nhận Ngài như vị Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống. Thánh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin này. Nhờ thế, Ngài đã được Chúa trao quyền thủ lãnh cùng với chìa khoá nước trời. Nền móng đầu tiên của Giáo hội đã được thiết lập, căn cứ trên sứ mệnh của vị Tông đồ. Quyền lực ma quỷ cũng không nổi lên chống lại được. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu vừa mới quyết định hoàn tất việc kỳ diệu này, thì bóng đen hoả ngục đã bắt đầu quấy rối. Bối cảnh bỗng thay đổi đột ngột.

1.1) Cảnh tương phản:

Chính Đức Kitô không ngần ngại loan báo, Ngài sẽ bị thất bại, chịu đau khổ, chịu chết rồi sẽ sống lại. Đó thực là một tương phản ghê sợ: Ngài là vị Cứu tinh, Con Thiên Chúa, sử dụng vương quyền Thần Linh, thiết lập một cộng đồng mới cho Thiên Chúa, thế mà Ngài sẽ bị kết án, bị xử hình do chính dân Ngài chọn. Nếu ngay từ bây giờ, Ngài rời bỏ dân Israel và các thủ lãnh, họ cũng chẳng thay đổi ý kiến để cứu Ngài. Ngược lại, sự xa cách này càng làm họ ngoan cố từ chối Ngài rồi tăng thêm lòng căm thù. Có ba tầng lớp được dân tín nhiệm: Bậc Lão thành, đại diện giai cấp lãnh đạo, các Tư tế coi việc Phụng tự trong đền thánh, các Luật sĩ, chuyên viên luật pháp. Tất cả các tầng lớp đều kết án Ngài. Chúa Kitô bị chối bỏ nhân danh dân tộc, Đền thờ và luật pháp. Than ôi, tình cảnh đó đã là một thảm trạng không phải cho Chúa Giêsu nhưng cho dân Do thái.

Chúa Giêsu đã tiên báo định mệnh của Ngài quá đột ngột, khiến cho các môn đệ xúc động không còn nghĩ đến biến cố Phục sinh nữa. Sự Phục sinh đối với họ có lẽ quá khó hiểu. Các bản văn tiên tri ám chỉ những đau khổ của tôi tớ Giavê vẫn là những giòng chữ chết, vô nghĩa trước mắt họ. Họ không nghĩ tới mầu nhiệm Thập giá.

1.2) Đối với Phêrô, Phêrô cũng cảm thấy một tương phản như thế:

Chúa là người được chọn, được đặc ân, nắm trong tay vương quyền tối thượng siêu nhiên, thế mà bỗng nhiên bị lao xuống vực thẳm. “Cút đi Sa-tan”. Lời Chúa có vẻ thô bạo. Nhưng hình thức đó nói lên tầm nghiêm trọng của vấn đề. Đường lối do Chúa Cha chỉ định sẽ đưa đến Golgotha. Ai muốn Ngài xa khỏi đường lối này, là kẻ nuôi những tư tưởng hoàn toàn phàm tục để cám dỗ Chúa. Thánh giá là tột đỉnh của đời Chúa Giêsu, là bí mật đích thực và là mầu nhiệm chân chính của ơn cứu chuộc. Nhờ sự chết của Ngài, chúng ta sẽ được sống nhờ việc Ngài tự huỷ, chúng ta sẽ được Phục sinh.

Đối với Phêrô, lời Chúa dạy thực là khẩn thiết. Vì yêu mến Chúa, Phêrô can ngăn Chúa. “Thầy đừng chịu như thế”. Hình như đó là lời can ngăn phát sinh do tình yêu giả trá, vì tình yêu chân chính đưa đến Thiên Chúa. Tình yêu đó nhận biết rằng Thánh ý Thiên Chúa là tình yêu, nên tất cả những gì không tùng phục thiên ý, chỉ là vẻ nhiệt thành bên ngoài, chứ không phải lòng mến thực sự. Thánh Phêrô đã có đức tin đảm nhận tất cả để đáp lại lời Chúa. Ngài còn phải học để biết tin tưởng và yêu mến một cách trung thực. Người sẽ phải chu toàn phận sự theo tinh thần Thiên Chúa chứ không phải theo quan niệm nhân loại. Người phải đổi cách sống và suy nghĩ. Người phải biết đòi hỏi đó. Ngài và những người kế vị phải chấp nhận như thế.

Kết quả ra sao sau lời can ngăn của Phêrô? Chúa Giêsu đã khiển trách “cút đi Satan”. Chúa khiển trách vì Phêrô đã nuôi những tư tưởng phàm tục do ma quỷ xúi dục. Thế là đấng mà Chúa Giêsu tuyển chọn làm kẻ đại diện, đã vô tình biến thành kẻ phản nghịch. Lời Luther sau này ám chỉ Giáo Hoàng là địch thủ chí tử của Đức Kitô, hình như vô tình đã có một vài dấu vết nơi vị Giáo Hoàng tiên khởi.

Nhưng chớ vội lầm tưởng! Tin Mừng đã đổi giọng điệu! Chắc hẳn Người sẽ là địch thủ của Đức Kitô nếu Người đã ngoan cố theo cách suy nghĩ riêng: “Như thế, người ta sẽ thấy rõ vẻ mâu thuẫn giữa chức vụ và tinh thần của Người”. Song không phải như thế. Trong các đoạn Tin Mừng kế tiếp, ta thấy rằng chính Thánh Phêrô được Chúa dẫn lên núi biến hình cùng với Thánh Giacôbê và Gioan. Người đã được chiêm ngắm Chúa trong vinh quang. Lời Chúa tiên báo cách nghiêm trọng sự phục sinh của Ngài lúc đó rất dễ hiểu với Thánh Phêrô. Trong chương mười bảy Tin Mừng Matthêu, Chúa đã dùng một phép lạ đặc biệt, giúp Phêrô được hiểu biết chắc chắn về chức vụ là con Thiên Chúa của Ngài. Trong chương 19, chính Phêrô đã nói nhân danh anh em đồng viện, rồi cũng chính người cùng với hai con ông Giêbêđêô đã gần Chúa trong vườn Cây dầu. Sau đó, người đã chối Chúa, lao sâu xuống vực thẳm lần thứ hai. Nhưng khi Chúa đã sống lại, theo Tin Mừng Thánh Gioan, Ngài đã trao phó cho Thánh Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên. Công vụ sứ đồ mô tả Phêrô là người hướng dẫn và là thủ lãnh của Giáo Hội sơ khai. Quả thực, trong khoảnh khắc, Phêrô đã nghĩ lại. Ý tưởng nhân loại do ma quỷ xúi dục đã nhường chỗ cho ý nghĩ do Thiên Chúa linh ứng. Môn đệ đã qua ngưỡng cửa Thánh giá. Người đã chấp nhận tinh thần của Thầy Chí Thánh. Chức vụ trong Giáo Hội phải nhằm mục đích phục vụ Thánh giá. Các viên chức trong Giáo hội không được ích kỷ, không được để bị lôi cuốn bởi tính yếu đuối và lòng đạo đức sai lạc trong các quyết định. Vị đại diện Đức Kitô phải theo tinh thần Đức Kitô chu toàn nhiệm vụ đã nhận lãnh. Chỉ khi nào biết mặc lấy tinh thần Đức Kitô, nhận lãnh chức vụ nơi Ngài, hoàn toàn giống như Ngài, được niêm ấn bằng Thánh giá, bấy giờ họ mới không phải là địch thủ của Đức Kitô.

Vậy ngay từ khi bắt đầu huấn luyện tông đồ, Chúa đã nói về Thánh Giá. Người ta không xứng đáng với danh hiệu tông đồ, nếu không yêu thích Thánh Giá. Đó là chân lý không những có giá trị đối với Phêrô, nhưng còn đối với chúng ta.

2. BẮT CHƯỚC ĐỨC KITÔ (16,24-28)

Không phải chỉ có Chúa Giêsu và Thánh Phêrô mới được mời gọi chịu đau khổ, nhưng tất cả các môn đệ của Chúa cũng đều phải chịu đau khổ.

Ở đây không mập mờ “Nếu ai muốn làm môn đệ của ta hãy bỏ mình”. Phải từ bỏ những nguyện vọng, chương trình, tư tưởng riêng để hoà hợp với nhãn quan Thiên Chúa. Vì tư tưởng loài người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Về vấn đề này, lời Chúa nói với Phêrô rất rõ ràng. Kitô giáo không phải để mỗi người tôn vinh chính mình theo chiều hướng nhân loại, nhưng Kitô giáo đòi phải thực hiện một bước tiến mới mẻ tuyệt đối: Phải chết đi để được sống, từ bỏ để lãnh nhận, từ chối để quyết đáp.

Tự thâm tâm phải từ bỏ để vác thập giá mình theo Chúa. Đó là một tâm tình sẵn sàng chịu chung số phận với Chúa Giêsu, chịu bách hại và lùng bắt. Thánh giá là sự hành quyết nhục nhã dành cho những tên nô lệ. Phải biết chuẩn bị chịu khổ hình này. Phải liều chịu như vậy. “Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì ta, sẽ cứu được”. Ở đây không những chỉ nói về lợi lộc và thua thiệt đối với của cải tạm thời, nhưng đối với chính mạng sống để bị thua thiệt hoàn toàn hay được lợi lộc hoàn toàn. Phải từ bỏ cả vũ trụ hư nát hơn là đánh mất linh hồn hay làm hại linh hồn bất diệt. Cuộc sống vĩnh cửu thực là vô giá. Lấy gì đền bù lại linh hồn. Vậy ta phải có mục đích duy nhất là bắt chước Đức Kitô. Tôn giáo không phải chỉ là một lãnh vực hoạt động trong hoạt động khác của cuộc sống. Kitô giáo cũng không phải chỉ là một hỗ trợ phụ thuộc, ngược lại, Kitô giáo đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt để trở nên con người hoàn toàn mới mẻ.

Sở dĩ Chúa Giêsu đòi hỏi như thế là vì một nguyên do rất đặc biệt “Con Người phải đến trong vinh quang Chúa Cha với các Thiên thần, bấy giờ Ngài sẽ thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự nghiệp của họ”. Sự kiện ấy đem lại một viễn tượng mới về cùng đích tối hậu trường tồn và vĩnh cửu: Ta phải từ bỏ để chuẩn bị ngày Chúa đến. Tất cả những gì thuộc về dương thế và thời gian đều có tính cách chuẩn bị và tiên phong. Mục đích thực sự của chúng ta là Thiên đàng vĩnh cửu. Đức Kitô đã đến lần thứ nhất để hoàn tất thực tại này. Nhưng thực tại ấy vẫn còn bí ẩn nhiệm mầu để chỉ hiển hiện khi Chúa bày tỏ vinh quang rực rỡ trong lần tái giáng. Như thế người công giáo nhìn về một vũ trụ khác mà ngay từ bây giờ họ có thể hướng tới. Thế giới hiện tại tạm thời cũng có đôi chút hấp dẫn. Những ai đứng bên ngoài Kitô giáo không biết đến thực tại khác ngoài thế giới này, thì họ cho thái độ của Kitô giáo là một thái độ mơ mộng đầy ảo tưởng, không biết lợi dụng thế giới và thời gian. Ngược lại người công giáo lại gọi kẻ dấn thân hoàn toàn vào trần thế mà quên đi thực tại siêu việt, là kẻ mù quáng thiển cận và suy bại. Đó là những lập trường không thể đội trời chung. Một đàng quá ích kỷ vụ lợi, một đàng đòi xả kỷ hy sinh; một đàng thích hưởng thụ, một đàng thích dâng hiến cuộc sống. Để đáng được làm môn đệ của Chúa Giêsu, phải nắm vững lập trường: Sẵn sàng chịu thua thiệt để được lợi lộc. Thái độ chấp nhận này sẽ biến đổi tất cả đời sống. Không gì nguy hiểm hơn việc tối thiểu hoá tinh thần bắt chước Đức Kitô. Dù sao, không thể vừa thuộc về Thiên Chúa vừa thuộc về ma quỷ. Thiên quốc vinh quang của Thiên Chúa thực bao la! Được vĩnh viễn tham dự vinh quang này là một ơn huệ cao trọng, vì thế ta sẵn sàng bỏ những gì khác để đền đáp ơn huệ này. Đó là một thái độ đáp trả vô điều kiện, phát xuất từ một tâm hồn vui vẻ, bằng lòng bước theo đường Thánh giá, chịu vác Thánh giá hằng ngày. Chết là điều kiện tiên khởi và tuyệt đối để được sống lại. Chỉ có ai hiểu được điều ấy mới là người Công giáo.

52. Chúa Nhật 22 Thường Niên

(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

 

ĐIỀU GÌ LÀM NÊN MỘT NGƯỜI LÃNH ĐẠO TỐT?

Sự khôn ngoan của Giêrêmia, Phaolô và Đức Giêsu.

Chúa nhật XXII Thường niên hôm nay tiếp tục giúp chúng ta nhận biết người lãnh đạo tốt ở giữa chúng ta. Các bài đọc cho thấy những rủi ro khi lên tiếng về vấn để không liêm chính, tầm quan trọng của sự thận trọng, những nguy hiểm của sự hiểu lầm và sự cần thiết của tính vô vị lợi.

Nhiều lần, Giêrêmia đã than trách về tác vụ ngôn sứ của mình, nhất là vì phản ứng của cộng đoàn đối với lời rao giảng của ông. Ông kêu than rằng: “tôi đã trở nên trò cười cho thiên hạ, và mọi người đều chế nhạo tôi”, bởi vì dân chúng khước từ những lời ông tiên báo về sự tàn phá trong hiện tại và tương lai. Giêrêmia than trách ơn gọi của mình vì ông thấy rất khó để truyền đạt sứ điệp mà mọi người chẳng muốn nghe. Nguy cơ ấy vẫn tồn tại ngày nay. Nhiều người chỉ muốn nghe những sứ điệp tích cực, vừa ý, ngay cả khi cần phải nhắc đến và khắc phục những vấn đề khó khăn.

Trong khi Giêrêmia thỉnh thoảng phải miễn cưỡng đối với ơn gọi của mình ông cũng nói lên tầm quan trọng phải nói sự thật, và nhận ra rằng quả là đau khổ và mệt mỏi khi phải kềm hãm sứ điệp ngôn sứ của mình. Chúng ta có thể học hỏi từ cuộc xung đột nội tâm của Giêrêmia. Thật là cần thiết để lên tiếng chống lại sự thiếu liêm chính, ngay cả khi có nguy cơ làm mất lòng những người không muốn giải quyết các vấn đề cấp bách hiện nay.

Bài đọc hai trích từ thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma là một lời nhắc nhớ mang tính nhận định, phê bình. Thánh Phaolô nói với các tín hữu Rôma hãy thay đổi lối suy nghĩ của mình để nhận ra ý muốn của Thiên Chúa. Điều quan trọng là trở nên những người biết suy nghĩ có hiểu biết, nhất là khi chúng ta phải đưa ra những quyết định quan trọng trong tương lai gần.

Cuối cùng, Tin mừng hôm nay được xây dựng dựa trên chủ đề quyền bính. Tuần trước, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu trao quyền cho Phêrô vì ông đã nhận ra thiên tính của Ngài. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi nhận được “chìa khóa Nước trời”, Phêrô đã vấp phạm. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lần đầu tiên loan báo cuộc thương khó, cho biết Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị giết và rồi sẽ sống lại từ cõi chết. Phêrô tuyên bố rằng điều này không thể xảy ra. Mặc dù lời phản bác của Phêrô cho thấy sự nhiệt tâm của ông, nhưng Chúa Giêsu đã nghiêm khắc quở trách: “Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.

 Chúa Giêsu phê bình Phêrô vì ông đã không hiểu chương trình của Thiên Chúa. Giống như Giêrêmia, Chúa Giêsu đưa ra một sứ điệp khiến người ta cảm thấy bối rối và khó khăn khi xử lý. Phản ứng tức giận của Phêrô phản ánh thái độ của cộng đoàn Giêrêmia, vốn từ chối nhận ra sự tàn phá sắp xảy đến.

Sau đó, Chúa Giêsu giải thích những ứng dụng để trở thành một trong những môn đệ của Ngài. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhưng chính đáng, nó đòi hỏi sự quên mình và chịu đựng, nhưng đổi lại phần thưởng sẽ là sự sống đời đời. Từ bỏ chính mình thật quan trọng đối với các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu để họ có thể tự chuẩn bị trước những thử thách vì đức tin.

Các nhà lãnh đạo tốt cho thấy tính vô vị lợi khi họ đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của bản thân. Kinh thánh cho thấy tầm quan trọng của việc mở lòng lắng nghe sự thật và sự cần thiết của việc suy nghĩ với óc phê bình đối với người được trao quyền. Chúng ta cần những nhà lãnh đạo nhận thức đầy đủ ý nghĩa việc ứng dụng chức vụ đang nắm giữ và là người cho thấy họ dấn thân phục vụ tha nhân trước khi phục vụ bản thân.

Nguồn: https:..www.americamagazine.org.faith.2020.07.17.what-makes-good-leader-wisdom-jeremiah-paul-and-jesus

53. Điều kiện theo Chúa Giêsu

 

Con người bản năng dễ có khuynh hướng vỊ kỷ và tìm sự dễ dãi trong cuộc sống, không muốn cực khổ. Tuy nhiên lý trí và ý chí chúng ta lại có xu hướng vươn lên cao, muốn chinh phục cả những cái xem ra vượt quá sức mình, vượt qua mọi trở ngại và giới hạn của chính mình để đạt tới một tầm vóc cao hơn, siêu vượt thế giới vật chất đầy giới hạn này. Chúa Giêsu biết rõ bản tính con người với những ưu khuyết điểm, Ngài không đến để huỷ bỏ bản năng con người nhưng muốn chúng ta dùng lý trí hiểu biết và ý chí để làm chủ và thăng tiến bản thân, mỗi ngày một nên thánh thiện hơn, tương xứng với tầm vóc làm con Thiên Chúa. Để đạt được tầm vóc ấy, Chúa Giêsu đưa ra điều kiện: từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy Chí Thánh.

Trước nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu là người vác Thánh giá đi đầu trong đoàn người tiến về nhà Cha. Mục đích Ngài xuống trần gian là để phục vụ loài người! Thiên Chúa mà lại hạ mình làm người để giúp đỡ, để cứu chuộc loài người khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và sự chết. Đối với tình yêu Thiên Chúa thì con người chỉ chỉ biết ca tụng luôn mãi mà thôi. Tình yêu Chúa ban cho chúng ta không có gì sánh bằng, nhân loại không thể làm gì để đền đáp tương xứng được. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì Chúa chỉ cần chúng ta yêu mến Ngài, thể hiện qua việc vâng phục, sống theo lời Chúa dạy để được ơn cứu độ. Chúng ta không được phí phạm ơn Chúa, nhưng phải cố gắng hết sức để làm phát triển những ơn ban của Chúa nơi cuộc sống trần gian này. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta quá đỗi, Ngài không chỉ đến ở với loài người mà còn hy sinh lãnh lấy tội của loài người nữa, bao nhiêu tội lỗi nặng nề Chúa chịu hết, bao nhiêu sỉ nhục con người đáng phải chịu thì Chúa Giêsu Kitô đã mang lên cây thập giá, không than trách mà bằng lòng chịu vì chúng ta cho đến chết!

Các môn đệ lúc đầu vì chưa hiểu nên còn tranh nhau những sự phù vân ở đời này, họ còn mong danh vọng và hạnh phúc chóng qua. Chúa Giêsu phải nhắc nhở họ, hướng họ đến thực tại cao hơn. Để được vinh quang thật sự, các môn đệ phải chấp nhận vác thánh giá, đi trên con đường hẹp dẫn đến Nước Trời. Đức Giêsu đã tỏ cho các môn đệ biết: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra. Chúa Giêsu chịu thiệt ở đời này vì yêu chúng ta. Ngài đã chết để cho chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và chứng tỏ cho chúng con thấy giá trị thật của loài người, giá trị của hạnh phúc bất diệt đời sau.

Chúng ta không bám vào cuộc sống đời này: ngắn ngủi, mau qua, không bền vững. Chúng ta phải ý thức về sự thật này luôn luôn và chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Xưa kia Phêrô không chấp nhận sự hy sinh của Thầy ở đời này, ông đã ra sức ngăn cản nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông về tư tưởng phàm trần này. Ngài tiếp tục dạy cho các môn đệ biết đường về nhà Cha: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai dám liều mình vì Thầy sẽ được sống.

Người đời thường tham sinh huý tử nhưng người kitô hữu có niềm tin thì thắng vượt cái thường tình này, không cố bám víu cuộc sống này. Cuộc sống trần gian vốn bất toàn chóng qua chóng mất. Đó là qui luật của vật chất. Chúng ta không chỉ có thân xác vật chất, mà còn có linh hồn thiêng liêng bất tử, thân xác chúng ta chóng già cỗi nhưng linh hồn không như vậy. Vậy chúng ta phải làm sao? Chúng ta hãy làm theo lời dạy của Thầy Chí Thánh để tìm về căn nguyên của mình, cố gắng về quê thật của mình và sẽ được Cha chúng ta ban cho gia tài không thể tàn phai nhưng có giá trị vô cùng. Lúc đó, chúng ta được hạnh phúc tràn trề, không sợ phải đau khổ nữa. Từ hôm nay, tôi sẽ sống đúng lời Chúa dạy để tâm hồn luôn được an bình ở đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài sẽ thưởng phạt công minh xứng với việc chúng ta đã làm ở trần gian.

Lạy Chúa Giêsu, cách nhìn của chúng con còn đầy giới hạn, thiển cận, chưa biết bám vào Chúa, chưa đầu tư đúng mức cho cuộc sống mai sau. Xin Chúa thứ tha và mở trí cho mỗi người chúng con biết nhìn ra sự thật, dám bỏ mình, vác lấy Thánh giá Chúa trao mà bước trên con đường về nhà Cha, đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con trên Thiên Quốc và được cuộc sống viên mãn bên Ngài mai sau.

 

54. Chúa Giêsu Kitô là ai?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)

 

Có một bài thơ cổ do tác giả vô danh về “Trang Giấy Gấp Lại”. Bài thơ này bằng tiếng Anh, nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt, chúng ta chỉ đọc lấy ý mà thôi, đại ý bài thơ như thế này:

“Trên gác nhỏ ngôi nhà mái lá

Những giọt mưa trên mái lá.

Tôi vẫn mở những quyển tập cũ

Bất chợt cho tôi gặp thấy

Một trang tập đã bị gấp lại

Và bên ngoài tôi đọc thấy

Dòng chữ do chính tay tôi viết

Lúc còn thiếu thời như sau:

Thầy giáo chúng ta bảo ta rằng,

Hãy tạm gác lại vấn đề.

Vì ở đây ngay trong lúc này

Nó quả thật là khó hiểu.

Tôi mở trang tập bị gấp lại

Đọc vấn đề tôi đã viết,

Mỉm cười tôi gật đầu rồi nói

Đúng vậy, thầy giáo nói có lý

Bây giờ tôi mới hiểu ra.

Có nhiều trang sách của cuộc đời

Đã ghi lại thật khó hiểu.

Bây giờ ta hãy xếp lại đây

Và để lại nơi bên ngoài.

Thầy cao cả của chúng ta bảo

Hãy để những vấn đề này nằm yên,

Vì chúng thật khó hiểu,

Rồi ngày kia trên thiên đàng

Chúng ta hãy mở ra và đọc,

Rồi chúng ta có thể nói

Thầy cao cả thật là có lý,

Bấy giờ chúng ta mới hiểu.

Bài thơ này như là một kinh nghiệm sống, có những điều bây giờ trong cuộc đời chúng ta không thể hiểu, trên thiên đàng, đọc lại chúng ta sẽ hiểu. Điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay quả thật là khó hiểu, khó hiểu cho các ngài và cũng khó hiểu cho chúng ta hôm nay khi phải đối diện với điều mà Chúa Giêsu gọi là thập giá trong cuộc đời: “Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo Thầy”.

Bài Phúc Âm hôm nay trích liền với bài Phúc Âm tuần trước (x. Mt 16,12-23) trả lời cho câu hỏi: “Các con bảo Thầy là ai?”, thánh Phêrô đã nhanh nhẹn trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là một lời tuyên xưng Đức Tin trọn vẹn, nhưng không phải do tự sức người của Phêrô mà là do ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu lúc đó đã khen Phêrô là kẻ: “Có phúc”, vì được Thiên Chúa Cha chúc phúc mạc khải cho biết sự thật về Chúa Giêsu, và liền đó có thể nói chúa Giêsu đã lên chức cho Phêrô, đặt ngài làm đá tảng nâng đỡ trọn vẹn Giáo Hội của Chúa: “Phêrô con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

Nhưng sau đó, Phêrô đã không hiểu và sống trọn vẹn điều ngài đã tuyên xưng. Phêrô đã sa ngã và trở lại theo tâm thức tầm thường của con người, là không chấp nhận Thầy cao cả về quyền năng mà bị hạ nhục, bị giết chết trên thập giá ở Giêrusalem. Vì thế, khi nghe Chúa nói về cuộc khổ nạn của Ngài tại Giêrusalem, thánh Phêrô đã cản đường: “Lạy Thầy không thể thế được, Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu!”. Nhưng Chúa Giêsu trách Phêrô là Satan, là kẻ cản đường, là kẻ thù của Chúa, không hiểu trọn vẹn về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại.

Con đường cứu rỗi phải đi qua thập giá, Chúa Giêsu đã đi trọn vẹn con đường này và Ngài cũng muốn cho đồ đệ của Ngài đi theo con đường đó: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Ta”. Thầy Cao Cả của chúng ta có lý, bây giờ chúng ta không thể hiểu. Chúng ta chỉ hiểu khi chúng ta được gặp Ngài trên thiên đàng như bài thơ đã nói: “Thầy Chúng Ta Thật Có Lý”, khi chúng ta mở lại những trang cuộc đời của mình với những khó khăn, những thập giá, những điều khó hiểu trên thiên đàng.

Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con can đảm, trung thành cho đến cùng mà đi trọn con đường Chúa muốn cho mỗi người đi qua, con đường này không phải chỉ với những vinh quang mà thôi, nhưng với nhiều thập giá đau khổ.

Trong bài đọc II hôm nay (Rm 12,1-12), thánh Phaolô Tông Đồ đã mời gọi mỗi người hãy dâng hiến đời mình làm của lễ sống động và thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng hiến trọn cuộc đời làm của lễ dâng hiến sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp chúng con củng cố đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

55. Từ bỏ.

 

Caretto là chủ tịch Công giáo Tiến hành thuộc nước Ý. Ông là một nhân vật nổi tiếng được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới. Đi tới đâu, ông cũng mang theo một cuốn địa chỉ dày cộm, để liên hệ với nhiều người và nhiều tổ chức. Thế rồi, một hôm ông chợt tỉnh và thấy rằng mình chỉ là một kẻ sống bằng nghề buôn bán tư tưởng đạo đức. Thế là không đầy 24 tiếng đồng hồ, ông đã từ bỏ tất cả để vào Dòng Tiểu Đệ, sống một nếp sống nghèo hèn và khiêm hạ. Tại đây, người ta đòi hỏi ông phải từ bỏ mọi sự để bắt đầu thời kỳ tu tập. Ông trả lời: tôi đã từ bỏ tất cả rồi. Người phụ trách cho biết: anh chưa từ bỏ hết đâu. Ông suy nghĩ một lát và nhận ra mình còn giữ cuốn địa chỉ. Thế là ông ta bèn đốt cuốn đó đi và cảm thấy thực sự nhẹ nhõm. Ông đã viết như sau: Ôi, tôi thật hạnh phúc đến nỗi có thể lăn lộn trên cát và tôi thưa lên: Lạy Chúa, con thực sự yêu mến Chúa.

Trường hợp của Caretto tuy độc đáo nhưng cũng chỉ là một cách áp dụng lời Chúa Giêsu phán dạy: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn như những níu kéo của tiền bạc, của danh vọng và ngay cả của những người chúng ta thương mến. Con đường vào nước trời là một con đường nhỏ bé gập ghềnh, chúng ta không thể mang theo những dụng cụ lỉnh kỉnh, như nồi niêu xoong chảo, củ hành củ tỏi. Chúng ta giống như người leo núi, để chinh phục một đỉnh núi cao, chúng ta chỉ được phép mang theo những dụng cụ thật cần thiết mà thôi.

Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.

Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta như lời Ngài đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có cả chỗ tựa đầu.

Và thánh Phaolô đã diễn tả về sự từ bỏ ấy như sau: Là ngôi vị Thiên Chúa, Ngài không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã tự hủy mình đi, mặc lấy thân phận con người, trở nên giống chúng ta ngoại trừ tội lỗi, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Để trở nên môn đệ của Chúa, chúng ta có thực sự sống tinh thần từ bỏ chưa? Nếu có thì chúng ta đã từ bỏ được những gì?

 

56. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Antôn Hà Văn Minh

 

Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI ĐƯỢC ĐỌC THẤY NƠI ĐỨC KITÔ

Tôi sống trên trần thế này để làm gì và đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Đó là những băn khoăn của bao người về cuộc sống của mình. Và quả thật là không đơn giản khi đi tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó, bởi cuộc sống không do con người tạo ra, và sự hiện hữu của con người mang đậm sự huyền nhiệm mà trí khôn con ngừoi cảm thấy như bất lực khi đi tìm một giải đáp nhằm thoả mãn cho vấn nạn: đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống?

Trên con đường tìm kiếm có người đã vội cho rằng ý nghĩa của cuộc sống chính là tìm kiếm những thực tại trần thế. Vì thế hạnh phúc nằm ở những thành công đạt được, nhiều tiền nhiều bạc. Thế nhưng, như một bạn trẻ có nick name Vietyouth đã chia sẻ: cứ tưởng khi đạt được những thành công nếm được trái ngọt của bản thân là đạt được ý nghĩa của cuộc đời, thế nhưng sao những thành công qua đi nhanh chóng thế, huy chương không thể ở lại mãi với người chiến thắng, nó sẽ liên tiếp đi tìm những người giỏi, giỏi hơn, và giỏi hơn nữa. Không lẽ cuộc sống chỉ có ý nghĩa ngắn ngủi như thế?

Có người thất vọng về những sự phù du và tỏ ra ngán ngẫm như Cao Bá Quát: Ba vạn Sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”, để rồi đua ra chủ trương thực dụng như Nguyễn Công Trứ Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì tới nơi”. Cuộc sống như thế càng xô đẩy con người đến chỗ trống rỗng, và càng ngày càng cảm thấy sự vố lý của cuộc đời. Viktor Frankl, nhà tâm lý của người Áo đã nói: Cuộc sống sẽ làm ta đau đớn nếu con người cảm thấy trống rỗng trong sự tồn tại. Để ra khỏi sự trống rỗng, và để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, Nick Vujicic, một ngừoi đàn ông tật nguyền, đã mnói: Ý nghĩa cuộc sống không phải là khi đạt được sự hoàn thiện mà chính trên hành trình đi tìm sự hoàn thiện”.

Và đâu là sự hoàn thiện để con người đi tìm? Lời Chúa hôm nay đã chỉ cho chúng ta sự hoàn thiện và con đường đi tìm sự hoàn thiện đó. Vâng, chính Đức Kitô là sự hoàn thiện mà con người cần phải gặp được để thấy được ý nghiã của cuộc đời, bởi sự hoàn thiện chỉ có nơi Thiên Chúa, và Đức Kitô là hiện thân của sự hoàn thiện này. Ngài, vốn dĩ là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, vì yêu thương thế gian, nên đã từ bỏ ngai trời nhập thể làm người để đến trần gian mạc khải cho con người biết sự toàn thiện và chỉ cho con đường đạt tới sự toàn thiện.

Sự toàn thiện mà Đức Kitô mạc khải không gì hơn chính là nhận biết Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, và nhận biết mọi người là anh em để yêu thương. Đức Kitô là khuôn mẫu cho sự toàn thiện này khi vì vâng phục Thánh ý Cha Ngài đã chấp nhận hiến thân, và vì yêu thương nhân loại Ngài đã sẵn lòng hiến tế chính mình làm giá cứu chuộc cho muôn người. Sứ điệp của Người tỏ bày trong lời nói cũng như trong hành động là phục vụ mọi người trong yêu thương, là tỏ bày lòng nhân ái và quảng đại tha thứ, và như thế, ý nghĩa cuộc đời được tìm thấy khi hiến thân phục vụ cho tha nhân, khi mỗi người không sống kích kỷ, vun quén cho chính mình, nhưng biết mở rộng con tim và biến cuộc đời mình thành quà tặng cho tha nhân. Chính Đức Kitô đã tỏ cho chúng ta thấy sự toàn thiện nơi Ngươiì khi bị treo trên Thập Giá một cách bất công, Người cũng nguyền rủa kẻ hành hạ và kết án Người, trái lại Người còn mở rộng lòng bao dung khi van xin ơn tha thứ cho họ: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.

Để đạt tới sự toàn thiện, Đức Kitô đã chỉ cho chúng ta phương thế: Từ bỏ chính mình, vác thập giá và bước theo Chúa Kitô. Sự hoàn thiện được dệt lên bởi một tình yêu hướng tha, một tình yêu quên mình, không vị kỷ. Vì không có sự hiến thân cho tha nhân, tình yêu sẽ trở thành giả dối và không thể nào làm nảy sinh sự sống, thì làm sao gọi là toàn thiện được. Vì thế, để đạt tới toàn thiện đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi ích kỷ, từ bỏ tham sân si, để có thể tìm thấy ý nghiã đích thực cuộc đời qua những hy sinh vì thiện ích của tha nhân, Viktor Frankl đã khẳng định: “ý nghĩa cuộc sống không phải là thứ hàng có thể mua, đặt, hoặc trực tiếp hướng tới. Ý nghĩa là kết quả của việc thực hiện các giá trị tồn tại ngoài con người, vượt quá các mục đích và nhu cầu đơn lẻ của anh ta. Những hành động mà anh ta thực hiện, những tác phẩm mà anh ta sáng tạo, tình yêu mà anh ta trải qua và sự đau khổ mà anh ta chịu đựng với lòng can đảm và phẩm giá – tất cả tạo thành giá trị của con người, vượt ra ngoài lợi ích và sự hữu hạn của loài người”. Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Và chỉ có như thế, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa đích thực của sự hiện hữu chúng ta nơi thế trần.

Lay Chúa, Chúng con tạ ơn Chúa đã trao ban đức tin cho chúng con, để nhờ đó chúng con nhận ra rằng chỉ có Chúa mới là câu trả lời xác đáng cho những trăn trở thắc mắc của chúng con. Xin cho chúng con mau mắn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để chúng con có thể đạt tới sự toàn thiện. Amen.

57. Con đường theo Chúa

 

Anh chị em thân mến,

Một người bên lương nhìn lên thấy cây thập giá có tượng Chúa Giêsu treo trên đó; bức tượng này về mặt mỹ thuật khá đẹp, diễn tả được phần nào đau khổ Chúa phải chịu, anh ta liền nói với người bạn cũng là bên lương: “Nè anh, cái ông này làm gì, phạm tội gì mà phải bị đóng đinh ghê gớm vậy, trộm cắp hay cướp vợ con người ta?” Bạn ông nghe vậy liền la lên: “Đừng nói bậy! Đó là Chúa Giêsu của người công giáo. Tôi không hiểu lắm, nhưng tôi nghe người công giáo nói: ông là Chúa, là nguời tốt lắm. Ông không có tội gì cả, nhưng đã sẵn sàng chết để đền tội cho mọi người. Cái chết của ông chính là cái chết vì tình yêu; vì tình yêu mà ông đã chết cho nhân loại, để mọi người biết yêu thương nhau, tha thứ cho nhau…” Câu chuyện của Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn nói lên điều đó: con đường của Đức Kitô đi qua, chính là con đường thập giá. Và người kitô hữu khi muốn theo Chúa Kitô cũng phải đi qua con đường đó… Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a. Bài Tin mừng hôm nay nằm ở vị trí quan trọng trong Phúc âm, đồng thời cũng là chủ đề then chốt của Tin mừng. Tuần rồi Chúa tự mạc khải cho các môn đệ biết bản tính siêu việt của người: bản tính Thiên Chúa; rồi Người lại nói cho họ rõ hơn nữa; sứ mạng của Người (dù là Thiên Chúa) là phải trải qua đau khổ, phải chấp nhận con đường thập giá. Đó chính là con đường cứu rỗi nhân loại, vì yêu thương. Các môn đệ lúc đó đã không hiểu được lời nói của Chúa Kitô. Họ không hiểu con đường đó cũng chính là con đường họ phải đi...,

b. Đức Kitô đã đi qua con đường nào, người kitô hữu cũng phải đi y con đường đó: Đó chính là con đường thập giá, con đuờng đau khổ. Trước hết phải xác định: Chúa Kitô hay người công giáo không yêu thập giá, yêu đau khổ, vì đau khổ tự bản chất là điều xấu. Trên đời này có ai không muốn được sung sướng, hay không muốn tránh đau khổ? Nhưng rõ ràng đau khổ là một sự thật gắn liền với thân phận con người, không thể tách rời. Vậy chối bỏ đau khổ, hay diệt khổ là một chuyện không thể làm được. Ngược lại, Chúa Kitô sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì tình yêu, và biến đổi nó thành niềm vui, thành hạnh phúc. Vì vậy dù là vô tội, Người lại tự chấp nhận đau khổ để đến nỗi phải chết trần trụi trên thập giá. Thật là một mầu nhiệm! Nếu không phải vì yêu, Chúa Kitô sẽ không chấp nhận con đuờng thập giá đâu… Vì thế người kitô hữu khi muốn bước đi với Đức Kitô, sẽ không thể chọn con đường nào khác hơn…

Thánh Phanxicô Xavier tháng 09 năm 1549 đã đem Tin mừng đến cho người Nhật. Vậy mà 40 năm sau, đã có trên 200.000 người tin Chúa Kitô. Năm 1597, một cuộc bắt đạo dữ dội xảy đến. Số người bị bắt trước tiên là 26 vị: có 6 tu sĩ Phanxicô; 3 tu sĩ dòng Tên và 17 giáo dân. Trong số đó có 3 em giúp lễ và thầy Phaolô Miki, 33 tuổi. Nhà vua ra lệnh cắt tai, cắt mũi các ngài, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá tại Nagasaki. Thấy các ngài bị gông cùm, mà mặt mày đầy máu không ai là không thương cảm. Phaolô Miki truớc khi chết, thầy được một thị kiến. Thầy nói: “Tôi là người Nhật, thuộc dòng Chúa Giêsu. Tôi bị án tử hình vì đã rao giảng Tin mừng. Tôi vô cùng cám ơn Thiên Chúa vì đã ban cho tôi ơn cao trọng này.” Đó là câu chuyện thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, lễ kính ngày 06. 02 hàng năm. Các thánh thực sự cũng đã chọn và đi qua chính con đuờng Đức Kitô đã đi.

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

Con đường của Đức Kitô đi qua chính là con đường đau khổ, con đường thập giá. Dĩ nhiên đó không phải con đường trơn tru, dễ dàng; ngược lại nó đầy chông gai thử thách, đòi hỏi nhiều hi sinh. Chúa Kitô đã đi con đường đó. Vậy những ai muốn theo Chúa, sẽ không có thể chọn lựa con đường nào khác. Chúng ta là kitô hữu, chúng ta có tin nơi Chúa không? Chúng ta có sẵn sàng theo Chúa bằng con đường này không?

58. Theo Thầy.

 

Trong cuốn sách “The 911 Handbook”, Kent Crockett nói rằng ở bên trong mỗi chiếc máy bay có những dụng cụ để quyết định phương hướng cho máy bay. Những dụng cụ này sẽ chỉ dẫn chính xác, ngay cả khi phi công phán đoán một cách khác. Vào ngày nắng ráo, bầu trời trong sáng, phi công có lẽ không cần đến những dụng cụ này, nhưng vào ban đêm hay sương mù, những dụng cụ này quyết định mạng sống của phi công.

Ngày 16.7.1999, John F. Kennedy Jr., con trai của cố tổng thống John Kennedy, đã bị rớt máy bay ngoài biển đông, gần Martha’s Vineyard, tiểu bang Massachusetts, gây tử vong cho vợ là Carolyn Bessette Kennedy và người chị vợ, Lauren Besette. Kennedy đã lái phi cơ bay vào vùng đêm tối ngập sương mù – haze. Sương mù là sự kết hợp của hơi nóng, độ ẩm và khí ô nhiễm thường xảy ra trong vùng biển đông của Hoa Kỳ vào những đêm mùa hè. Trời vừa tối, vừa bị sương mù, Kennedy đã bị mất đường chân trời và vùng đất phía dưới cần thiết để hướng dẫn máy bay. Khi đó phi công phải biết sử dụng những dụng cụ máy móc hướng dẫn, và phải có kinh nghiệm. Kennedy không được huấn luyện cẩn thận để sử dụng những dụng cụ này nên bị mất phương hướng, thay vì bay lên trời cao, lại cắm đầu đâm xuống biển.

Bài Phúc âm hôm nay, trình bày một hoàn cảnh giằng co giữa hai phương hướng. Chúa Giêsu theo thánh ý của Thiên Chúa Cha, sẽ đi lên Giêrusalem chịu đau khổ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Còn Phêrô muốn theo phương hướng trần gian: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu”. Chúa Giêsu quay lại mắng Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy… con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Rồi Ngài dạy các môn đệ: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.

Căn bản của sự từ bỏ chính mình là phải quyết định xem ai sẽ kiểm soát cuộc đời của mình. Người ta thường nghĩ sự từ bỏ mình giống như việc hãm mình trong mùa chay, từ bỏ ăn kẹo, ăn kem, hút thuốc lá… Những sự hy sinh hãm mình này vẫn tốt, nhưng không phải là sự từ bỏ mà Chúa Giêsu đề cập đến. Điều chính yếu là Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác cuộc đời trong bàn tay của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta chấp nhận sự hướng dẫn và ý định của Ngài cho cuộc đời của chúng ta. Đây mới chính là sự từ bỏ thực sự.

 

59. Theo Thầy

 

Năm 1991, trung tá Jeff Patton đã lái phản lực cơ chiến đấu F-15 trong trận đánh được mệnh danh là Desert Storm – Bão sa mạc. Ngay đêm đầu tiên của chiến trường, sứ mạng của ông là hộ tống những chiến đấu cơ thả bom xuống những nhà máy chế tạo vũ khí hoá học ở phía bắc Iraq. Ngày giờ của cuộc hành quân đã được chọn lựa. Bởi trời tối, không có ánh trăng, lại nhiều mây mù đã giúp cho cuộc tấn công của những phản lực cơ đồng minh không bị theo dõi bởi dàn phòng không của Iraq, nhưng cũng rất nguy hiểm cho các phi công. Họ phải hoàn toàn tuỳ thuộc vào những dụng cụ máy móc điều khiển.

Vừa bay vào không phận Iraq, phản lực cơ của Patton đã bị “khoá chặt” bởi dàn ra-đa chống hoả tiễn của Iraq. Ông cố gắng vùng vẫy mãnh liệt để thoát ra khỏi sự kiểm soát của ra-đa. Tuy thành công, nhưng ông lại gặp một vấn đề mới. Sự vùng vẫy đảo lộn trong đêm tối làm ông chóng mặt, và mất phương hướng. Tâm trí ông phán đoán rằng phi cơ quay về bên phải là phóng lên trời cao, nhưng khi kiểm soát lại những dụng cụ máy móc, ông thấy rằng chiếc máy bay đang ở vào 60 độ cắm đầu xuống đất! Trong khi lý trí nghĩ rằng phải điều chỉnh lại phi cơ về một hướng khác, thì những dụng cụ hướng dẫn cho biết phải làm ngược lại. Vì đang bay hoàn toàn trong đêm tối, ông phải quyết định nhanh chóng tin vào phán đoán của lý trí hay dụng cụ hướng dẫn. Số mạng của ông tuỳ thuộc vào sự quyết định đúng lúc này. Ông trở cánh phi cơ lại cho thăng bằng và kéo chiếc F-15 phóng thẳng lên trời. Sức kéo mạnh gấp bảy lần lực hút của trái đất, để lôi chiếc phi cơ khỏi lao xuống đất. Chỉ trong giây lát, ông nhận ra mình đã quyết định đúng. Nếu ông hạ mũi phi cơ xuống giống như điều đã nghĩ, phi cơ đã đâm vào những dãy núi ở Iraq. Tin tưởng vào dụng cụ hướng dẫn đã cứu mạng sống của ông. Mặc dù quyết định theo dụng cụ hướng dẫn, ông cũng nhận ra rằng nếu trì hoãn thêm ba giây nữa thôi, phi cơ vẫn có thể đụng vào núi. Quyết định đúng, nhưng trễ cũng vẫn chết.

Trong cuộc hành trình tinh thần, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta “những dụng cụ hướng dẫn”. Đó là tiếng nói của lương tâm, lề luật, Thánh Kinh và những giảng huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải từ bỏ tính ích kỷ và dục vọng để vâng theo những hướng dẫn tinh thần này là điều kiện căn bản cho đời sống thiêng liêng. Từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha như chính Chúa Giêsu đã làm là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.

Đây là hành động chứng tỏ việc từ bỏ chính mình để mang lại vinh danh cho Thiên Chúa và giúp xây dựng vương quốc Thiên Chúa. Thập giá Chúa Giêsu đề cập ở đây không phải là cái gì áp đặt lên chúng ta, nhưng là điều chính chúng ta đã chọn lựa với sự tự do để trung thành với Chúa Giêsu.

Thập giá là một sự hy sinh như chu toàn bổn phận của một người cha, mẹ, chồng, vợ, con cái… trong gia đình, việc dạy giáo lý ngày Chúa nhật, viếng thăm người ốm đau. Đó là một lời mời gọi tham gia vào việc tông đồ mục vụ, sứ mạng truyền giáo, hay thi hành một việc từ thiện bác ái trong xã hội.

Sách Giáo lý Công giáo số 618 đã nói: “Thập giá là hy sinh độc nhất của Chúa Kitô vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Nhưng, trong ngôi vị Thiên Chúa nhập thể của Ngài, Ngài đã một cách nào đó hiệp nhất với tất cả mọi người, Ngài dành cho tất cả mọi người khả năng kết hiệp với mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài, theo cách thức mà Thiên Chúa biết”. Ngài kêu gọi các môn đệ: “Vác thập giá và đi theo Ngài”, bởi vì Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta, Ngài đã vạch cho chúng ta con đường để bước theo Ngài.

Khi ta biến đổi đau khổ thành ơn cứu độ, bước theo những vết chân của Chúa Giêsu đã đi. Là người Kitô hữu, đã đón nhận ơn sủng của Thiên Chúa trong đời sống mình, chúng ta phải thể hiện ơn sủng đó ra bằng hành động, qua những công việc bác ái yêu thương đối với những người cần giúp đỡ. Chúng ta phải sống thế nào để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta.

Carol Kent, trong cuốn “Detours, Tow Trucks, and Angels in Disguise” đã chia sẻ câu chuyện của một người đàn bà tên là Katherine. Chồng của Katherine đã ra đi, bỏ bà và đứa con trai 11 tuổi tên là John. Vài năm sau, John đòi dọn vào ở với cha nó. Nhưng rồi người chồng cũ của Katherine cũng bỏ rơi John luôn. John phải ra sống ở ngoài vỉa hè đường phố. Một ngày nọ, Katherine đã nhận được một cú điện thoại cho biết con trai của bà đang bị giữ trong trung tâm cải huấn của tiểu bang vì tội sử dụng thuốc phiện.

Sau cùng John đã được phục hồi, trở về nhà, làm lại cuộc đời, trở nên một thanh niên tử tế. Nhưng một số người hàng xóm vẫn từ chối cậu vì tiếng xấu của cha cậu. Quá đau khổ, một ngày kia, John phải la lên với mẹ mà rằng: “Tại sao người ta lại cứ luôn luôn so sánh con với cha con? Con sẽ kết thúc cuộc đời giống như cha con sao?” Katherine ôm lấy con vào lòng và trả lời: “Johnny, con có tới hai người cha cơ. Con phải chọn lựa xem theo người cha nào”.

Phải, chúng ta có hai cha, một người cha dưới đất và người cha trên trời. Chúa Giêsu đã luôn ao ước và hoàn toàn gắn bó với kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa Cha trên trời: “Điều này đã mang lại sinh khí cho tất cả cuộc đời của Ngài, bởi cuộc khổ nạn cứu chuộc là lý do hiện hữu của sự nhập thể của Ngài”. Và chúng ta, nếu muốn trở nên hoàn thiện, thì cũng phải bước theo con đường Ngài đã đi như lời Ngài phán hôm nay: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.

60. Chúa Nhật 22 Thường Niên

THẬP GIÁ: CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT VÀ VĨNH VIỄN

- Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê -

 

Kính thưa quý anh chị em,

Lịch sử nhân loại ghi nhận nhiều cuộc cách mạng áp dụng những phương pháp đấu tranh đa dạng, phong phú, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, cứu một nhóm người, một dân tộc khỏi ách nô lệ, áp bức, bạo tàn.

Cho dù tôn chỉ và mục đích hành động có nhiều điểm tích cực, những cuộc cách mạng, không bao giờ giải quyết triệt để các vấn đề, ngược lại, còn tạo nhiều mâu thuẫn, rắc rối, phức tạp hơn.

Nguyên nhân bởi đâu?

Có nhiều lý do, nhưng trên hết phải kể đích danh, đó là: dùng bạo lực chống lại bạo lực. Bạo lực chống bạo lực, tất yếu, hận thù gia tăng, khổ đau chồng chất, không bao giờ chấm dứt, nhân loại chẳng bao giờ được hưởng nền hòa bình viên mãn.

Giê-su, được Cha sai đến, tái lập hòa bình bền vững, bằng cuộc cách mạng “mềm”, cách mạng của tình thương. Bởi vậy, thập giá chính là con đường cứu độ phổ quát và vĩnh viễn.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mạc khải hành động cứu độ phổ quát và vĩnh viễn của Thiên Chúa, được thực hiện trong thập giá Đức Giê-su.

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mia, diễn tả tâm trạng của con người được Chúa lôi kéo và chiếm đoạt. Ngôn sứ dùng hình ảnh “như nhân” mô tả Thiên Chúa như một người phàm, dẫn dụ, thuyết phục, quyến rũ để người kia siêu lòng ưng thuận, đón nhận và thi hành ý muốn của Chúa.

Thật ra, cách trình bày của ngôn sứ muốn tuyên xưng một chân lý: “Con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa” (St 2,27). Người đặt vào lòng họ khát vọng tìm về cội nguồn, khám phá chân lý.

Người ta luôn đặt ra cho chính mình những vấn nạn về nguồn gốc cũng như ý nghĩa cuộc đời. Chắc chắn, không ai có thể lẩn tránh câu trả lời vốn dĩ dành riêng cho mình.

Giê-rê-mia gọi là: “Chúa đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng” (Jr 20,7). Vị ngôn sứ tin, đón nhận và sống Lời Chúa, nên bị liên lụy với “Lời”: giằng xé nội tâm, bị người đời khinh khi, báng bổ. Nhiều lúc muốn chối bỏ “Lời” để được yên thân, nhưng không thể, vì lời Ngài cứ như lửa đốt, bùng cháy trong tim, âm ỉ tận xương tủy (cf. Jr 20,9).

Sau này, Augustino cũng diễn tả tâm trạng tương tự: “Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa” (cf. Agustin, Confessions, I, 1,1).

Giê-rê-mia, trong bài đọc I, muốn nhấn mạnh niềm tin căn bản: tự thân mạc khải là thập giá và đồng hóa thập giá với sự sống.

Trong bài Phúc Âm, Chúa Giê-su mạc khải thập giá: con đường cứu độ phổ quát và vĩnh viễn.

Với Chúa Giê-su, tử nạn và phục sinh chỉ là tiến trình của biến cố cứu độ duy nhất. Hạt lúa mì gieo xuống đất, tất yếu phải thối rữa, mục nát, mới có thể nẩy mầm, thành cây, đơm hoa kết trái dồi dào, phong phú.

Qua thập giá, Giê-su bày tỏ tình yêu tự hiến và sự vâng phục tuyệt đối ý muốn của Cha. Chính nơi điều này, Người được tuyên bố là Con chí ái, Con đẹp lòng Cha mọi đàng và được Cha phục sinh từ trong cõi chết. Ngài trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho những ai tin và đón nhận Ngài.

Các môn đệ không hiểu và cũng không chấp nhận con đường cứu độ bằng thập giá, nên Phê-rô đã nhất mực can ngăn. Phản ứng của Phê-rô đặt chuẩn mực trên sự khôn ngoan thế gian, nên tự thân, đối nghịch với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su quở trách Phê-rô: “Xa-tan, lui ra đàng sau Thầy. Con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì tư tưởng của con là của loài người, không phải của Thiên Chúa” (Mt 16,23).

Bởi vậy, Giê-su nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem, chấp nhận chịu khổ hình, chịu chết và ngày thứ ba sống lại vinh quang. Chúa cũng mời gọi ai muốn theo làm môn đệ, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.

Đòi hỏi vác thập giá mình theo Chúa là rất quyết liệt, dứt khoát, rất hệ trọng, liên quan đến sự sống và đến phần rỗi đời đời: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ được nó cho sự sống muôn đời (Mt 16,25).

Thật và rất thật, thập giá cứu độ đã phủ bóng khắp mặt địa cầu. Muôn vàn thế hệ kitô giáo minh chứng sức mạnh thập giá là vô địch và sự khôn ngoan của thập giá là vực thẳm khôn dò.

Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, tìm cách nội tâm hóa việc vác thập giá mình theo Chúa. Sự hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa là cách thờ phượng trong Thánh Thần.

Đoạn tuyệt với thói đời, khắng khít với những điều tốt đẹp, những gì hoàn hảo là mặc lấy Chúa Kitô, là đang vác thập giá mình hằng ngày theo Chúa. Và đó là con đường cứu độ hoàn hảo và vĩnh viễn.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:

Một là: xác tín mạnh mẽ, xác tín vững vàng ngoài thập giá không có ơn cứu độ. Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta.

Thứ hai: sống mầu nhiệm thánh giá là nội tâm hóa thánh giá trong tâm hồn, là quyết tâm cởi bỏ con người cũ với những đam mê lầm lạc, mặc lấy Chúa Kitô, con người hoàn hảo, sống đạo đức thánh thiện, chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình.

Loan báo đạo thập giá là thực thi giới luật yêu thương trong môi trường đặc thù của mình. Sống hiệp thông, liên đới, bác ái sẻ chia là cách tích cực làm dậy men Tin Mừng.

Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen.

61. Đau khổ của người Kitô hữu - JB. Lê Ngọc Dũng

 

Người ta vẫn cho rằng Kitô giáo thật là phi lý, thật là mê tín khi đi tôn thờ một người chịu đóng đinh trên thập giá. Tuy nhiên, còn hơn nữa, Chúa Giêsu còn bảo: “Ai muốn theo Thầy hãy vác Thập giá mình mỗi ngày mà theo Thầy” (Mt 16,24).

Phải chăng Kitô giáo là tôn giáo đề cao sự đau khổ?

Không, tuyệt đối là không có chuyện Kitô giáo đề cao đau khổ, kiểu tương tự như phái khắc kỷ. Họ cho rằng đời này, thân xác này là xấu xa, cho nên cần phải hãm dẹp nó, phải hành hạ nó.

Để trả lời trước hết chúng ta cần phân biệt có hai thứ đau khổ. Một thứ rất cần thiết và một thứ không cần thiết.

Thứ đau khổ không cần thiết, như đau khổ mà ta mang lại cho người khác do sự ích kỷ của chúng ta; như việc ta hãm hại người khác, gây đau khổ cho người khác. Cũng có thứ đau khổ không cần thiết cần xa tránh như do ta thờ ơ, lười biếng, ngu dốt. Chẳng hạn như cậu học sinh lười biếng không muốn học hành gây ra việc thi rớt; như người cứ sống hưởng thụ rồi gánh lấy hậu quả của nghèo đói bệnh tật.

Còn thứ đau khổ cần thiết như sự đau khổ cần có để tăng trưởng, để thành công. Đó có thể kể như sự khổ luyện để đạt tới một thành công nào đó. Chẳng hạn như, học sinh muốn thành tài, thì phải hy sinh những giờ chơi mà chăm lo học hành. Khi muốn phát triển tư cách, nhân đức, chúng ta phải tu luyện, hãm dẹp các đam mê, chiến thắng tính lười biếng, ích kỷ… Cũng có sự đau khổ cần thiết như hy sinh tiền bạc thời giờ để giúp đở người khác, để chu toàn bổn phận của mình.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến những đau khổ cần thiết liên hệ đến cả vận mạng cuộc đời chúng ta. Ngài dạy: “Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất và ai chịu mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sống” (Mt 16,25). Người muốn giữ mạng sống mình ở đây là người sẵn lòng chịu những đau khổ cần thiết, sẵn lòng chịu đến mức mất cả mạng sống đời này.

Điều mới mẻ và quan trọng trong giáo huấn của Chúa Giêsu hệ tại chính chữ “vì Thầy”. Sự đau khổ mà ta sẵn lòng chịu đó là vì Chúa, vì Thiên Chúa. Đối với thế gian, người ta chịu đau khổ cần thiết để đạt được một thành công một hạnh phúc nào đó của thế gian, như quyền lực, tiến tài, danh vọng. Nhưng đối với Kitô hữu, sẵn sàng chịu đau khổ lại là vì Thiên Chúa, và vì cuộc sống hạnh phúc muôn đời.

Người Kitô hữu được mời gọi vác thập giá là để theo Chúa Giêsu, như lời Ngài dạy: “Ai muốn theo Thầy, thì hãy bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24).

Sau năm 1975, Việt Nam hết chiến tranh, một chú bộ đội, vốn từ hồi còn thanh niên sống trong núi rừng, bây giờ mới về thành thị. Chú vào nhà một gia đình Công giáo. Chú ngạc nhiên trợn mắt khi thấy ngay trên bàn thờ phòng khách một thánh giá to lớn. Chú hỏi: “Ông này có tội gì nặng mà bị hành hình dữ tợn như vậy. Ông bị treo lên, bị đóng đinh chân tay vào cây gỗ; đầu ông lại bị gai đâm sâu vào nữa chứ!” Vị chủ nhà trả lời: “Đó là Chúa Giêsu, chúng tôi tôn thờ”. Chú bộ đội hỏi lại hỏi: “Đạo gì mà lại tôn thờ một người bị xử tội như thế?”

Thế gian, sẽ thấy chúng ta mê tín, khi đi tôn thờ cây Thánh Giá. Chúng ta, thật ra, tôn thờ Thiên Chúa vì ơn cứu độ của Ngài thực hiện qua cuộc tử nạn trên thập giá. Chúng ta nhận ra vì yêu thương, Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá. Ngài đã chịu đau khổ đến tận cùng, trong sự chịu sỉ nhục tận cùng.

Tuy nhiên, người Kitô hữu không dừng lại ở việc chiêm ngắm, tôn thờ mà còn được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, tức là sống noi gương Ngài. Noi gương Ngài chịu đau khổ, chịu chết để dâng lên Thiên Chúa hiến lễ tình yêu.

Mẹ Têrêsa Calcuta và những vị thánh khác đã chịu nhiều khổ nhọc, hy sinh, để giúp đở những người yếu đau bệnh tật, bị xã hội bỏ rơi, là cũng vì Chúa, cũng vì muốn theo gương Chúa Giêsu. Và khi làm theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cảm thấy được hạnh phúc phát sinh. Những niềm vui hạnh phúc đã bắt đầu phát sinh ngay cả ở đời này khi ta chịu đau khổ vì tình yêu, khi ta muốn dâng hiến vì tình yêu.

Kitô giáo không phải là tôn giáo đề cao đau khổ, nhưng dạy đấu tranh chống đau khổ bằng sự chấp nhận những đau khổ cần thiết để xây dựng con người xây dựng cuộc sống, làm cho cuộc sống được tốt đẹp hạnh phúc hơn. Và hơn nữa, người Kitô hữu sẵn lòng chịu khổ hình là vì chính Thiên Chúa và sống theo gương Chúa Giêsu, và vì sự sống hạnh phúc muôn đời mà Thiên Chúa muốn dành cho con người chúng ta.

62. Từ bỏ

 

Có hai vị ẩn sĩ lên đường hành hương. Một vị chủ trương cần phải có tiền bạc và những phương tiện vật chất đầy đủ, thì mới bảo đảm được cho đời sống tu trì. Còn vị kia thì luôn tin tưởng vào tinh thần từ bỏ và sự quan phòng của Chúa.

Vừa đi hai vị vừa tranh luận với nhau mà chẳng ai thuyết phục được ai. Khi họ đến bên bờ một dòng sông thì trời bắt đầu tối. Vị có tinh thần từ bỏ liền đề nghị:

– Vì không có tiền, chúng ta không thể thuê được đò. Nhưng thôi, tại sao chúng ta lại lo lắng quá nhiều đến thế. Chúng ta hãy nghỉ đêm ở bên này và dâng lời chúc tụng Chúa. Sáng mai thế nào chúng ta cũng tìm ra người giúp chúng ta qua sông một cách an toàn.

Thế nhưng, vị tin tưởng vào sức mạnh của tiền bạc và những phương tiện vật chất liền quả quyết như sau:

– Ở bên này sông thì không có làng mạc và thú dữ sẽ tấn công chúng ta bất kỳ lúc nào. Hơn thế nữa, làm sao chúng ta chịu đựng nổi cái lạnh của đêm nay? Bên kia sông, chúng ta sẽ nghỉ đêm an toàn trong một quán trọ. Tôi có mang theo tiền và chúng ta hãy thuê người chèo đò qua sông.

Khi hai người đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và nói với người bạn của mình như sau:

– Anh đã thấy được ích lợi của việc giữ tiền trong túi chưa? Điều gì sẽ xảy ra nếu như tôi cũng sống tinh thần từ bỏ như anh?

Nghe thế, vị tu sĩ luôn sống tinh thần từ bỏ liền mỉm cười và nói:

– Chính tinh thần từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta. Anh đã không tiếc tiền để thuê người lái đò là gì? Hơn thế nữa, mặc dù không có một đồng xu dính túi, nhưng tôi cũng vẫn được qua sông, vì Chúa lo liệu cho tôi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay. Thực vậy, đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy rất nhiều lần Ngài đã đề cập tới tinh thần từ bỏ.

Lần kia Ngài đang đi đường thì có một người đến và thưa:

– Tôi xin theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi.

Và Ngài đã nói:

– Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có lấy một nơi tựa đầu.

Lần khác Ngài nói với một người:

– Hãy theo Ta.

Nhưng người đó thưa lại:

– Xin cho tôi được về chôn táng cha tôi trước đã.

Và Ngài bảo:

– Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần ngươi, hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.

Rồi Ngài kết luận:

– Ai cầm cày mà còn quay trở lại thì không xứng đáng làm môn đệ Ta.

Và qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài còn xác quyết:

– Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình.

Như thế, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ dứt khoát, không thỏa hiệp, không lửng lơ, không bắt cá hai tay. Bởi vì giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa, không thể nào đội trời chung với nhau.

Thế nhưng, trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta đã thỏa hiệp với tội lỗi, với những ước muốn riêng tư, mặc dầu những ước muốn riêng tư ấy đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Và tệ hại hơn nữa, nhiều khi chúng ta đã đầu hàng tội lỗi, chúng ta làm điều xấu, cho dù chúng ta không muốn.

Chúng ta giống như một người tân tòng khi được dìm xuống nước, cứ nhất định giơ một cánh tay lên, để cánh tay đó mai mốt có đi ăn trộm thì không có tội vì đã không thuộc về Chúa.

Thế nhưng, nếu chúng ta nói rằng: Chúng ta dâng cho Chúa tất cả, mà chỉ dừng lại một xó góc nhỏ bé của con tim cho tội lỗi, thì đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta dâng gì cho Chúa.

 

63. Đánh đổi

 

Trong bài Tin Mừng của thánh lễ Chúa nhật tuần trước ta thấy ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa hằng sống. Mà theo suy nghĩ của người Do thái nói chung và của các Tông đồ nói riêng thì Đấng cứu thế sẽ là Đấng giải phóng dân bằng uy quyền và sức mạnh, bằng quân đội và vũ khí. Do đó, khi Chúa Giêsu loan báo cho các Tông đồ về cuộc khổ nạn và cái chết Người sẽ phải chịu, các ông không thể chấp nhận được.

Ông Phêrô đã kéo Chúa Giêsu ra một nơi và can gián Người: “Thưa Thầy không thể thế được. Thầy chẳng phải chịu như thế đâu”. Nói câu đó, ông Phêrô đã bày tỏ lòng thương mến và lòng tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Vì thương mến Chúa Giêsu nên ông không muốn Người phải khổ. Vì tin tưởng Chúa Giêsu nên ông nghĩ rằng không lẽ gì Người đầy quyền năng như thế mà lại phải chịu để cho người ta bắt bớ, hành hạ và giết đi. Nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy. Con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người thôi”.

Thì ra giữa tư tưởng của Thiên Chúa và tư tưởng của con người có một khoảng cách và khác biệt rất lớn.

* Tư tưởng của con người là muốn mọi sự dễ dãi, tiện nghi, không vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay ta sẽ thấy rõ điều ấy.

– Khi coi truyền hình người ta muốn ngồi một chỗ và dùng bộ phận điều khiển từ xa, khỏi mất công đi lại điều chỉnh.

– Nếu ngại nấu ăn thì đã có mì, có cháo ăn liền, có cà phê uống liền khỏi mất công nấu nướng, pha chế.

– Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không phải leo lên từng bậc vất vả…

Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không phải là điều xấu. Trái lại, nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa học để phục vụ đời sống con người. Nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng tâm lý thích dễ dãi ấy vào chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được Nước Trời một cách dễ dàng thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy sinh bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm mình, giữ đạo một cách tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được.

Với một lề lối suy nghĩ và một cách sống như thế, con người không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn con đường thập giá, con đường đau khổ để cứu độ con người. Tại sao Người không chỉ phán một lời tha tội cho con người có phải dễ dàng hay không?

+ Cho dù con người suy nghĩ thế và muốn thế nhưng Thiên Chúa thì khác. Người vẫn chọn con đường thập giá, chọn những hy sinh, chọn những thống khổ, chọn cái chết để cứu độ con người. Và Người kêu gọi những ai muốn tìm hạnh phúc, tìm niềm vui, tìm sự sống, tìm Nước Trời cũng hãy biết và hãy dám chọn lựa như Người. “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”.

Chúa chọn con đường khổ giá không phải vì Người thích đau khổ. Chúa muốn con người từ bỏ bản thân và vác thập giá không phải vì muốn đày đọa con người. Nhưng đau khổ chính là thước đo của lòng yêu mến, bởi vì chỉ khi yêu nhau thật lòng người ta mới dám hy sinh cho nhau, mới dám chịu khó, chịu khổ vì nhau. Điều quan trọng là tình yêu được biểu lộ qua những đau khổ ấy.

Hạnh phúc không bao giờ là một món quà được cho không, biếu không, nhưng phải mua bằng chính những nỗ lực, những hy sinh của mình.

Hạnh phúc Nước Trời là một món quà quí giá nhất và to lớn nhất. Nếu phải mua nó bằng những vất vả hy sinh, bằng những từ bỏ đau đớn thì đó cũng là điều dễ hiểu thôi.

64. Làm điều khó

 

Năm 1962, học sinh lớp thi tốt nghiệp ở trường Trung học Glen Arbor, Michigan, đã dành tiền để đi tham quan Washington. Số tiền để dành càng nhiều và càng gần đến ngày lên đường đi về thủ đô. Bất thình lình họ biết rằng một người bạn cùng lớp, Duane Richardson, bị mắc chứng bệnh ung thư, việc điều trị bệnh này rất tốn kém. Những bạn trẻ này đã quyết định chuyển giao số tiền chi phí cho cuộc du lịch để giúp thanh toán phí tổn của người bạn học, dẫu rằng làm như thế là họ bỏ mất chuyến đi tham quan.

Lời đồn về hành động của họ lan ra. Thế là họ nhận được rất nhiều tiền giúp đỡ từ nghiều phía, đến nỗi cuối cùng có thể thực hiện được điều ước mơ. Tất cả 33 người, gồm luôn Duane Richardson, đã làm cuộc hành trình về thủ đô nơi họ được vinh dự đặc biệt.

Đó là bằng chứng về điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”. Thật vậy, những học sinh quảng đại đã không hiến mạng sống cho người bạn của họ, nhưng họ sẵn sàng cho đi phần đời sống họ, một phần rất vui sướng. Họ đã sẵn sàng tử bỏ chính mình, và họ đã được trả lại ngay trong đời sống này.

Là những người tin theo Chúa Kitô, tất cả chúng ta cũng phải từ bỏ mình, phải làm một vài hy sinh. Điều chúng ta từ bỏ để nên người thực sự tin theo Chúa Kitô, có lẽ không đáng loan truyền như hy sinh quảng đại của các học sinh trong câu chuyện trên, nhưng Thiên Chúa sẽ trả công cho mỗi người theo việc họ làm.

Như đến tham dự thánh lễ sáng này, các bạn đã thực hiện một ít cố gắng. Sự ý thức, tích cực tham dự Thánh lễ đòi hỏi một ít cố gắng. Điều đó còn dễ dàng hơn là cầu nguyện trước khi vào giường ngủ, còn dễ hơn ngồi ăn mà không xin Chúa chúc lành. Thức dậy và đi làm cũng không luôn dễ dàng.

Hàng chục lần mỗi ngày, người mẹ phải quên đi những mệt mỏi và an nhàn và lo lắng cho những người thân yêu trong gia đình. Cha mẹ phải từ bỏ nhiều điều để chu cấp cho sức khỏe và hạnh phúc của con cái. Còn các học sinh lại thường không thích đi học. Đó là Thánh giá nhỏ của các bạn.

Mỗi người chúng ta, ít nhất là thỉnh thoảng cũng phải nỗ lực hơn để làm một vài điều gì khác với những điều phải làm luôn mãi. Đây là thánh giá nhỏ mà Chúa Giêsu nói tới.

Chúa Giêsu đã làm nhiều điều khó. Ngài đã vác nhiều thánh giá nhỏ, trước khi vác thánh giá lớn. Ngài đã cầu xin để Ngài khỏi phải vác lấy nó. Tuy nhiên, Ngài đã cúi mình vâng theo ý Chúa Cha, như chúng ta cầu nguyện trong bài tiền tụng của Kinh nguyện Thánh Thể II: “… để chu toàn thánh ý Cha… Ngài đã giang tay chịu khổ hình trên thánh giá”. Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta cầu nguyện “ý cha thể hiện”, mà Ngài còn tỏ cho chúng ta biết cách thi hành ý Chúa Cha, không có khó khăn gì.

Chúng ta hãy đem tất cả những thánh giá nhỏ của chúng ta, và cả thánh giá lớn nữa, và bỏ tất cả vào chén Thánh với Máu châu báu của Chúa Giêsu, rồi tất cả chúng ta linh mục và giáo dân, dâng chúng cho Thiên Chúa làm của lễ cao cả nhất. Chúa Giêsu xin chúng ta vác lấy thánh giá của mình, thực hành một vài hy sinh như các bạn trẻ học sinh trong câu chuyện. Chắc chắn Ngài sẽ giúp các bạn vác thánh giá đó, các bạn hãy cố gắng lên. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

65. Phải từ bỏ mình

 

Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật XXII Thường Niên năm A hôm nay tiếp tục đoạn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chúng ta đã chia sẻ với nhau trong Chúa Nhật tuần trước. Sau khi hỏi các tông đồ: “Người ta bảo Con Người là ai?”, và Chúa Giêsu hỏi chính các tông đồ; “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”, Phêrô đại diện cho các tông đồ tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.

Từ sau lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các tông đồ biết rõ hơn về vận mạng cuối cùng của Ngài, đó là con đường khổ nạn mà Ngài sẽ phải thực hiện lại Giêrusalem. Lúc đó Phêrô lại can ngăn Chúa: “Lạy Thầy, không thể được, không phải như vậy đâu. Nhưng Chúa Giêsu quở trách Phêrô và tiếp tục mạc khải về những điều kiện để theo Chúa: “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá rồi hãy theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống đời lời. Nếu ai được lời tãi cả thế gian mà mất lình hồn thì được ích gì!”.

Chúa Nhật tuần trước chúng ta đã cùng nhau chia sẻ về cuộc đời của người Kitô, và chúng ta đã nói nơi người Kitô có hai con người: Một con người tuyên xưng đức tin vào Chúa, tức là một con người chấp nhận cộng tác với ơn thánh của Chúa để rồi có thể tuyên xưng đức tin, giữ vững đức tin của mình. Và con người thứ hai là con người cũ, con người có những khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi và và các đam mê xấu xa. Con người cũ đó cần phải thanh tẩy để mỗi ngày con người mới được trở nên mạnh mẽ hơn.

Hôm nay chúng ta tiếp tục chia sẻ về đề tài này, về đời sống của người Kitô hữu theo chân Chúa. Xin được kể ra một câu chuyện vui như sau:

Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng. Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ Makia giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác. Trước vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu thêm: Đây là nữ thần Jupia có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên Thập tự như thế này và đạo sĩ chậm rãi trả lời: “Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Kitô”. Với chút xúc động lộ trên gương mặt, anh Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên Thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: “Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một thì cất mất sự đau khổ, còn một thì đề nghị tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích người nào cả. Thế nhưng lại sao giờ đây anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên Thập tự như vậy?”

Anh Intyra giải thích cho đạo sĩ Makia: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa suông, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp hèn tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né khỏi đau khổ. Vì tránh được sự đau khổ này thì sự đau khổ khác cũng sẽ tới.

Tuy nhiên, nhìn vào vị Chúa của người Kitô chấp nhận đau khổ vì người Kitô trên Thập giá như vậy, con người được mời gọi hiểu ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Hơn nữa, một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ, thì niềm vui và an hoà có thể trổ sinh trên trái đất này. Đó là lý do tôi cảm thấy lại sao bị thu hút bởi Đấng chịu chết trên Thập giá và muốn làm môn đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ hãy đưa tôi đến nơi mà người Kitô sống để được trở thành người Kitô.

Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta chấp nhận theo làm môn đệ, Ngài không hứa cho chúng ta được danh vọng, giàu sang, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá hằng ngày mà theo Ta. Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống muôn đời”.

Đây là một sự thật hết sức tốt đẹp mà có thể nhiều người hay mỗi người trong chúng ta thường tặp đi tặp lại nơi chính mình. Nhưng nếu chỉ tặp đi tặp lại ngoài môi miệng mà thôi thì không sinh ích lợi gì, chúng ta cần phải sống và thực hành những chân lý ấy

Câu chuyện về anh Intyra và nhà đạo sĩ Makia còn một đoạn kết thúc nữa, đó là lúc đạo sĩ Makia hướng dẫn anh Intyra đến nhà thờ những người Công giáo để xin lãnh Bí tích Rửa tội. Khi bước vào làng của người Công giáo thì hai người chỉ nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây thì có nhóm những người đang cãi lộn với nhau nơi khác thì giống như sắp giết nhau, nơi công cộng thì vang lên những lời nói tục tằn vô lễ Intyra hỏi nhà đạo sĩ: “Đây là đâu vậy?” Đạo sĩ Makia trả lời: “Đây là làng của người Công giáo”. Vừa nghe qua những lời này, Intyra thúc giục nhà đạo sĩ: Chúng ta hãy đi nơi khác, tôi mộ mến vào Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, nhưng tôi không muốn trở thành người Kitô nữa.

Nếu chúng ta chỉ nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa” ngoài môi miệng mà không sống thực hành trong đời sống của mình, có thể chúng ta sẽ rơi vào trường hợp như đã xảy ra trong câu chuyện vui trên. Chúng ta nói mình sẵn sàng theo Chúa, chấp nhận làm môn đệ của Ngài, chấp nhận những hy sinh, chấp nhận đi trên con đường Thập giá, nhưng trong đời sống chúng ta có thự hành điều này hay không?

Xin Chúa giúp chúng ta được thực sự sống những gì mỗi người chúng ta tin, thực hành những gì chúng ta nói, không phải để khoe khoang, nhưng để góp phần của mình làm tốt cho xã hội chúng ta đang sống, góp phần giúp anh chị em xung quanh đến với Chúa và chính chúng ta là người đầu tiên phải đi trên con đường này để đến với Chúa trước tiên, thì mới có thể hy vọng giúp anh chị em đến với Chúa được. Xin Chúa gìn giữ tất cả chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

66. Chúa Nhật 22 Thường Niên - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

THEO CHÚA, CHÚNG TA TÌM VÀ MONG ĐỢI ĐIỀU GÌ?

Người ta tìm thấy lá thư của một người tù Do Thái tại trại giam Auschwitz. Lá thư viết bằng máu, được nhét trong một lọ thủy tinh. Lá thư có nội dung như sau: Tôi là một người Do Thái, tôi tin vào Thiên Chúa của tôi, tôi yêu chuộng lề luật của Ngài. Làm người Do Thái thì khổ lắm vì đã nhiều lần bị Thiên Chúa của mình hành hạ gần như đến chết mới thôi. Thế nhưng, tôi vẫn tin và vẫn yêu mến Thiên Chúa của tôi. Tôi thượng tôn lề luật của Ngài, dù có những lúc Ngài đánh tôi, hất hủi tôi, nhưng tôi vẫn tin vào lề luật của Ngài, dù như có những lúc Ngài làm mọi cách để tôi từ bỏ Ngài, từ bỏ lề luật đáng kính của Ngài, nhưng tôi vẫn yêu Ngài, vẫn theo Ngài cho dù Ngài có bỏ tôi đi nữa….

Thưa quý OBACE, đọc tâm sự trong lá thư trên của một người tù Do Thái đang cận kề với cái chết trong trại tập trung kinh khủng nhất của nhân loại, mà ông vẫn thể hiện lòng tin và sự trung thành với Thiên Chúa và lề luật của Ngài như thế, quả là điều xúc động và đáng để chúng ta suy nghĩ. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta bị giằng co khi tin Chúa, theo Chúa. Nhiều người nghĩ rằng tin Chúa, theo Chúa là tìm kiếm một chỗ dựa tinh thần, một cuộc sống thoải mái, dễ dãi, hoặc nhìn Thiên Chúa không khác gì một người thủ kho hoặc người bảo vệ để canh gác và là người giải quyết những khó khăn khi cần, mà quên mất đòi hỏi của Chúa khi tin và theo Ngài. Theo Chúa, chúng ta tìm và mong đợi điều gì? Chúa đòi chúng ta điều gì?

Tâm sự của Giêrêmia trong bài đọc một cho thấy ông đã bị cuốn hút, bị khuất phục bởi Thiên Chúa và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Tuy nhiên, ông cho thấy, theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Có thể nói rằng, trong tất cả các ngôn sứ, Giêremia là một trong những người khổ sở nhất: Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ nhạo báng. Vì Lời của Chúa mà con đây bị xỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có những lúc, vị tiên tri cảm thấy chán nản vì sứ vụ của mình và muốn bỏ cuộc: Tôi tự nhủ là tôi sẽ không nghĩ đến Người nữa, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa. Thế nhưng, Lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim, âm ỉ trong xương cốt khiến con phải hao mòn. Tâm sự của Giêremia có lẽ cũng là tâm trạng của nhiều người trong chúng ta khi thấy mình tin Chúa, theo Chúa, giữ lề luật của chúa mà dường như chỉ thấy gặp toàn điều xui xẻo; có khi còn rơi vào cảnh tù đày, bị hắt hủi, bị đề phòng hoặc rơi vào chán nản, thất vọng.

Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đến là để đem lại niềm vui, hân hoan và hy vọng cho cuộc sống này như khi Ngài hóa bánh ra nhiều, hoặc hóa nước thành rượu ngon, chữa lành người què khiến cho dân chúng vui mừng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không hề hứa hẹn, bảo đảm cho ai một cuộc sống dễ dãi, thoải mái ở đời này; trái lại, Chúa luôn đòi hỏi mọi người tin theo Chúa phải chấp nhận một sự từ bỏ dứt khoát để đạt được hạnh phúc và niềm vui Nước Trời. Điều này không hề dễ dàng để chấp nhận, ngay đến Phêrô cũng đã không muốn chấp nhận điều đó.

Câu chuyên trong Tin Mừng cho thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và ông đã được Đức Giêsu khen trước mặt mọi người. Phêrô nghĩ rằng, ông đang đi trên con đường thênh thang, chỉ cần tuyên xưng như thế là đủ mà không cần phải làm thêm việc gì nữa. Thế nhưng, Chúa Giêsu cho thấy việc tuyên xưng của Phêrô chỉ là khởi đầu của một cuộc hành trình theo Chúa cách quyết liệt, đó là phải cùng Ngài đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các kỳ mục gây ra, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Chính vì thấy không được như mong đợi, Phêrô đã muốn can ngăn Chúa, hay đúng hơn, ông muốn dắt Chúa đi theo suy nghĩ, con đường của ông và ước mộng của ông. Cho đến lúc này, Phêrô và các tông đồ vẫn nuôi một hy vọng hết sức trần thế, đó là nếu Thầy của các ông thành công thì chắc chắn các ông sẽ được chia sẻ quyền lực, danh vọng. Đi theo Thầy, các tông đồ muốn tìm vinh quang trần thế hơn là tìm chính Chúa. Vì thế, Phêrô đã đứng ra can ngăn Chúa, ông còn nhân danh Thiên Chúa để ngăn cản Thầy của mình: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.

Lần này, Chúa hết sức nặng lời với Phêrô khi mắng ông: Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Vì muốn một cuộc sống vinh hoa của thế gian, nên Phêrô không muốn nghe nói về đau khổ; vì muốn cuộc sống dễ dãi, Phêrô không muốn thập giá. Hơn nữa, vì không muốn theo ý Chúa nên Phêrô muốn Chúa theo ý mình, đáp ứng cho mình. Thấy được tư tưởng của Phêrô như thế, Chúa đã không ngần ngại gọi ông là satan, là kẻ cản đường. Lời trách mắng này muốn Phêrô tỉnh ngộ và trở về đúng với vị trí của mình là môn đệ của Chúa: Hãy lui ra đàng sau Thầy. Vì ông không thể cho mình là người dẫn đường cho Chúa, mà trái lại, Chúa mới là người dẫn đường, là người đi trước và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Chúa, thì phải đi sau Ngài và đi theo con đường ấy.

Con đường mà Chúa Giêsu muốn là con đường: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Đấy chính là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn theo Chúa. Chúa luôn để mở cho sự tự do của con người: Ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo. Khi đã muốn, đã quyết định, thì phải chấp nhận hai bước quan trọng, đó là từ bỏ chính mình và kế đó là vác thập giá của mình và bước theo. Chúa không ép buộc bất cứ ai, Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do và chọn lựa của con người, ai muốn thì chọn và khi đã chọn thì chấp nhận tất cả những điều kiện kèm theo. Chúa cũng cho thấy những thử thách mà người theo Chúa gặp phải, đó là chịu thiệt thòi, mất mát ở đời này thì sẽ được hạnh phúc đầy tràn đời sau. Trái lại, nếu chỉ lo tìm kiếm vật chất đời này, tìm kiếm lợi lộc trần gian, thì sẽ đánh mất hạnh phúc Nước Trời.

Từ bỏ chính mình là từ bỏ những gì? Thưa, đó là từ bỏ bản thân, là cái tôi ích kỷ nhỏ nhen, là những dục vọng ham muốn, là những tham lam lợi lộc, là những bon chen thiệt hơn, là sự tự ái, tự cao…. Kinh nghiệm cho thấy, có những người có thể làm được nhiều việc to lớn, nổi danh nổi tiếng, nhưng lại không thể vượt qua được bản thân mình, không thể làm chủ được con người của mình, hay đúng hơn không từ bỏ được chính bản thân. Cái tôi hay còn gọi là bản thân mình là thứ virus ở sâu trong mỗi con người. Nó như một thứ nội thù nằm bên trong mỗi người. Một khi chúng ta không thắng nó, không từ bỏ được nó thì sẽ bị nó làm chủ và biến chúng ta thành nô lệ, và chúng ta không thể nhẹ nhàng để bước theo Chúa Giêsu được.

Vác thập giá mình hằng ngày là vác những gì? Chúa không đòi chúng ta phải vác thập giá của Chúa. Chúa cũng không buộc chúng ta phải vác thập giá cho anh em, nhưng Chúa muốn chúng ta vác thập giá của chính mình. Thập giá của ai, vừa vai người ấy. Thập giá của chính mình chính là những bổn phận thường ngày của mỗi người, là sự khiếm khuyết cùng với sự bất toàn, bất túc của con người. Thập giá của mình là những hoàn cảnh hiện tại của bản thân, của gia đình. Đó có thể là cái khổ của sự sung túc, bệnh tật, nghèo khó, hoặc là những trách nhiệm làm ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu cùng với khó khăn vất vả, mồ hôi nước mắt. Khi chúng ta đón nhận thập giá ấy với lòng yêu mến và vui vẻ bước theo Đức Kitô thì chúng ta mới có thể trở thành môn đệ của Ngài.

Thưa quý OBACE, theo Đức Kitô luôn là một đòi hỏi và là một thách thức. Là đòi hỏi vì con đường này chắc chắn sẽ là con đường hẹp, đòi hỏi phải hy sinh, phải từ bỏ, chứ không phải là con đường dễ dãi, thoải mái. Theo Chúa là phải dám chấp nhận bước vào con đường của Chúa, không thể đi đường ngang hay đi tắt đón đầu, mà là một hành trình cố gắng bước đi từng ngày, theo sát Đức Kitô từng bước, nên giống Đức Kitô, sau cùng là chịu đóng đinh cùng với Đức Kitô. Theo Chúa luôn là một thách thức, vì không phải bất cứ ai cũng có thể bước theo, mà phải là những người được Chúa tuyển chọn, những người đặt niềm tin vào Chúa, cùng với sự cố gắng, quyết tâm vượt lên chính mình, làm chủ bản thân cùng những dục vọng trong con người của mình. Là một thách thức, vì khi theo Chúa, có nghĩa là bước vào một cuộc chiến đấu liên tục, đương đầu với ma quỷ dục vọng, thế gian là những kẻ thù khi ẩn khi hiện, là kẻ thù giấu mặt nguy hiểm.

Là những người được chọn để trở nên môn đệ Chúa Kitô, chúng ta không tìm kiếm lợi lộc của thế gian này làm gia nghiệp, mà là tìm Đức Kitô làm gia nghiệp, là hạnh phúc đời đời. Vì thế, chúng ta không thể tránh né thập giá, cũng không thể từ chối con đường của Đức Kitô. Chúa đang muốn các linh mục tu sĩ vác thập giá của bản thân và đi qua con đường tu trì tận hiến, tuân giữ những lời khuyên Phúc âm để bước theo Chúa. Chúa đang muốn các tín hữu khác đi qua con đường gia đình, tuân giữ giới răn lề luật của Chúa, bước theo Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đừng chần chừ, cũng đừng đứng đắn đo, mà hãy vui vẻ đón nhận hoàn cảnh và cuộc sống hiện tại của mình, chu toàn thật tốt đẹp nhiệm vụ là linh mục tu sĩ, là cha mẹ vợ chồng, con cháu, cùng nhau bước theo lời mời gọi của Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được niềm vui, và hạnh phúc cùng với sự sống đời đời Chúa ban tặng cho những ai đi trọn con đường Chúa muốn. Amen.

67. Sống mầu nhiệm Thánh giá

 

“Ai muốn theo Ta…”

Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phí cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các Tiên tri”. Bỗng dưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ ra cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại”.

Mấy lúc gần đây, lời Tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bày tỏ rõ ràng những gì sắp xảy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.

Nhưng khi ngài vừa tiết lộ tất cả những sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo Hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Thánh Phêrô. Phêrô không hiểu nỗi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải chết để cứu vãn nhân loại.

Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc tử nạn của Ngài.

Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Thánh Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: Từ bỏ mình, vác Thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đu khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá mà theo Ta” (Mt 16,24).

Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là Thầy, cả các môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1,24)

Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương cùa nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6.000 được ghi lại, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận Thánh giá.

Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.

68. Tiền của - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

 

Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn: “Có tiền mua tiên cũng được”. Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh doanh giàu có này? Người thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay của người khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên sản xuất vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực. Người thứ ba là giám đốc một hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một nhân viên quèn. Người thứ tư là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước ngoài, không một đồng xu dính túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái lớn tại Niu-Gioóc, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Người thứ sáu là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù trong một vụ dính líu về tội phạm tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong danh sách bảy nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ trong thập niên hai mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.

Bức tranh trên đây không hẳn là số phận tất yếu cho sự giàu có nhất. Có biết bao người giàu có đã có một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Tiền bạc, của cải tự nó không là gì cả. Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền bạc để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ mà Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn, trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như một cứu cánh cho cuộc đời, nghĩa là chúng ta tôn thờ nó như thần tượng mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, một lúc nào đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở: “Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”, hoặc “Được tất cả mọi sự mà mất linh hồn thì ích gì?”. Qua những lời trên, Chúa muốn kéo chúng ta cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh cửu, hãy hướng tất cả mọi sự vào nước trời mai sau. Tóm lại, hãy dùng tiền của và cư xử thế nào để không những ích lợi cho đời sống hiện tại mà cho cả linh hồn và cuộc sống mai sau nữa.

Đối với sự vật, người ta có thể nhìn bằng hai cách khác nhau: người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật nhiều tiền của, vì lòng tham của họ không bao giờ được thỏa mãn. Thu tích cho nhiều mà lòng vẫn không toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá trị đích thực của đồng tiền, của sự vật nữa. Trái lại, người nghèo mà có tâm hồn thanh thoát, không ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự trên đời. Dưới mắt họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương đối. Tất cả phải đặt vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người.

Tiền của là để phục vụ con người, để giúp con người sống và chu toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên Chúa đặt họ vào. Nhưng một khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá hủy giá trị và ý nghĩa của chúng, đồng thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa cuộc đời mình. Thực vậy, vì tiền bạc, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác; vì tiền bạc, người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.

Vì thế, chúng ta cần sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị của tiền của trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm tiền bạc, của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần quảng đại để biết mở rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, san sẻ cho những người anh em túng nghèo khốn khổ hơn.

“Được lợi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn thì ích gì?”. Chúng ta phải luôn nhắc nhở mình điều đó: không bao giờ được quên mối tương quan giữa của cải vật chất và đời sống tinh thần, không bao giờ được quên mới tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau: sẵn sàng hy sinh của cải vật chất để bảo đảm linh hồn chứ không bao giờ hành động ngược lại: sẵn sàng hy sinh đời này chứ không bao giờ để mất đời sau. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cữu. Chúa không cấm chúng ta làm giàu, không cấm chúng ta có nhiều tiền bạc, của cải. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng chỉ lo làm giàu trước mặt người đời mà thôi nhưng còn phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa nữa, bằng một cuộc sống siêu thoát và thánh thiện, bằng một cuộc sống quảng đại, rộng tay chia sẻ và phục vụ. Đó là cách đầu tư bảo đảm cho gia nghiệp đời mình mai sau.

69. Thập giá: Con đường chúng ta đi - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã vất vả ướt đẩm mồ hôi pha lẫn máu mới can đảm đón nhận thập giá, cho dù trước đó không dưới ba lần chính Người đã tiên báo, nghĩa là đã tiên liệu và đã có sự chuẩn bị. Thế mà lời khẳng định của Người, một lời khẳng định không thể làm giảm khinh bằng bất cứ lối giải thích nào, đó là: “Ai muốn đi theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

“Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc”. Giáo lý Hội Thánh Công giáo mở đầu bằng chân lý này và cũng là câu trả lời cho vấn nạn muôn thưở rằng ta sống ở đời này để làm gì. Kitô hữu vốn nằm lòng câu giáo lý của một thời: Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời. Như thế hạnh phúc đời đời hay sự sống vĩnh phúc chính là mục đích tối hậu của đời người. Khi sinh thời, để trả lời cho một chàng thanh niên đạo hạnh vốn đã giữ các giới răn từ thưở bé, muốn có sự sống đời đời, thì Chúa Giêsu nói rằng hãy về bán tất cả của cải, phân phát cho kẻ khó, rồi đến mà theo Người. (x. Mt 19,16-22). Thế thì ta có thể khẳng định rằng theo Chúa Kitô là cách thế để có hạnh phúc vĩnh cửu. Hay nói ngược lại, muốn có hạnh phúc vĩnh cửu là phải theo Chúa Kitô. Và muốn theo Chúa Kitô là phải vác thập giá mình.

Theo Chúa Kitô là theo Con Đường Sự Thật, Sự Sống, và Tình Yêu. Nguyên chỉ với những thiện hảo chóng qua đời này cũng đòi hỏi phải trả giá. Tomas Edison, ông tổ phát minh bóng đèn điện đã khẳng định một tất yếu của cuộc sống: một lần thành công là kết quả của chín mươi chín lần thất bại. Để trung thành với sự thật và công bố sự thật, ngôn sứ Giêrêmia đã phải hứng chịu bao truân chuyên, khốn khó, và có khi, tưởng như sẽ bị mạng vong. Số phận các sứ ngôn khác và những người công chính cũng chẳng hơn gì (x. Mt 23,29-32). Để làm phát triển sự sống với hoa trái tốt xinh thì trước đó hạt giống phải chịu cảnh thối rửa đi (x. Ga 12,24). Để thực sự là yêu trong sự phục vụ người mình yêu đến cùng thì tất yếu phải bỏ mình, hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu (x. Ga 15,13). Những gì phải trả ở trên, đó chính là thập giá mà Chúa Kitô muốn đề cập.

Tuy nhiên, chúng ta cần ý thức rằng thập giá không phải là đối tượng ta muốn cách trực tiếp. Đã nói đến thập giá là nói đến một sự dữ. Không ai được quyền và được phép tự mình trực tiếp tìm kiếm sự dữ. Thế thì chúng ta phải hiểu sao đây về việc phải vác thập giá? Không lẽ Chúa Kitô lại muốn chúng ta phải chịu khổ? Dĩ nhiên không ai dám to gan khẳng định điều này. Thập giá là một mầu nhiệm mà ta chỉ có thể hiểu được phần nào khi quy chiếu về thập giá của Chúa Kitô.

Lật giở các trang Tin Mừng, chúng ta cần chân nhận sự thật này: Chúa Kitô không bao giờ trực tiếp kiếm tìm thập giá. Điều mà Người luôn kiếm tìm đó là thánh ý Chúa Cha. Ngay phút giây nhập thể vào đời, tác giả thư Do Thái đã cảm nhận tâm ý của Ngôi Lời: “Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,5). Lễ vật hy sinh thì Chúa Cha không muốn và Chúa Cha cũng chẳng thích gì khi Con mình phải đổ máu. Điều Chúa Cha muốn là Chúa Con nhập thể, tìm cách bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu bao la vô bờ và hoàn toàn nhưng không của Người.

Thập giá chính là đối tượng trực tiếp mà giới lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ kiếm tìm để đặt trên vai người mà họ cho là “phản động”, xách động quần chúng đi ngược với tập truyền tiên tổ, dám phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa duy nhất… “Chẳng thà một người chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 11,50), và bên cạnh đó, vị thế và quyền lợi của những bậc vị vọng như tư tế, biệt phái, luật sĩ cũng khỏi bị lung lay và sứt mẻ.

Thế mà Chúa Kitô vẫn không ngần ngại lên Giêrusalem để đón nhận khổ hình thập giá, không phải vì chính thập giá nhưng là để vâng phục Chúa Cha tìm cách bày tỏ cho nhân gian thấy tình yêu cua Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện và đến cùng. Cho dù các ngươi có đặt thập giá trên vai ta, cho dù các ngươi có đâm thủng trái tim ta, cho dù các ngươi có giết chết ta cách nhục nhã, thì ta vẫn không hề bỏ các ngươi mà còn đứng về phái các ngươi để cầu bàu cho các ngươi (x. Lc 23,34). Chúa Kitô đón nhận thập giá không phải vì thập giá mà là để mình chứng rằng không có gì có thể ngăn cản được việc Người yêu thương chúng ta (x. Rm 8,38-39).

Như thế thập giá không phải là đích đến, mà chỉ là một cái giá cần phải trả, một thách đó cần vượt qua của hành trình yêu thương. Khi ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Giêrusalem, thực ra Phêrô có ý tốt với Thầy. Thế nhưng, ông đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Tưởng rằng Phêrô bị quở trách nhưng không phải ông mà chính là Satan bị quở trách. Satan lợi dụng ý tốt của Phêrô để cám dổ Chúa Giêsu. Ma quỷ thật lắm tinh ranh. Chúng sử dụng cả những điều thiện hảo thường tình để cám dổ ta đứng lại và không đạt đến sự thiện hảo cuối cùng.

Dẫu biết rằng chẳng có một sự thiện hảo nào mà không đòi phải trả giá nghĩa là đòi phải có sự nỗ lực, gắng công. Thế nhưng thập giá vẫn mãi còn đó sự thách đố cho người tự nguyện sống đạo yêu thương, cho người can đảm làm chứng cho sự thật, cho người tích cực gìn giữ và làm phát triển sự sống. Nếu cứ chăm chăm dán mắt hay quy lòng vào sự khó khăn đầy nghiệt ngã của thập giá thì e rằng nhiều khi chân ta sẽ chùn bước. Ước gì Kitô hữu chúng ta trên đường theo Chúa Kitô biết ngước nhìn đến chân trời tươi sáng, nơi mà tình yêu, sự thật và sự sống hiển trị, thì sẽ có cơ may vượt qua các trở ngại cần phải vượt qua là thập giá, cho dù khó khăn, vất vả, đau thương vẫn có đó. Hiểu được sự thật này thì chúng ta không chỉ biết lắng nghe lời nhận định của Franklin: “Đường đến thành công không hề có bước chân của người ngại khó, sợ khổ”, mà cần phải xác tín rằng “đường đến Nước Trời sẽ chẳng hề có bước chân của người không quyết tìm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân”.

70. Hai con đường

(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long – Bài giảng cho Thiếu Nhi)

 

Các con thương,

Ở tuổi thiếu niên ai trong các con cũng từng nghe những bài hát Con đường đến trường: “Một chiều đi trên con đường này, hoa điệp vàng trải dưới chân tôi, ngập ngừng trong tôi như thầm hỏi, đường về trường ôi sao lạ quá…”

Ngoài con đường đến trường, mỗi ngày các con còn đi trên nhiều con đường khác nữa: đường đến nhà thờ, đường đi chơi, đường đến siêu thị… rồi mỗi đường có những đặc điểm khác nhau: đường nhựa, đường đá sỏi, đường rộng, đường hẹp, có đường sình lầy nếu đi không cẩn thận sẽ xuống ao! …

Tâm lý bình thường ai cũng muốn đi đường nhựa rộng rãi, thích đi trên những con đường bằng phẳng thoải mái. Còn những con đường chật hẹp sình lầy ai cũng ngán và sợ hãi. Vừa qua Cha và một số cha đi đến vùng sâu vùng xa, trên những con đường vừa chật hẹp vừa sình lầy trơn trợt, tí nữa là cả người lẫn xe xuống kinh uống nước chết rồi…

Các con thương, con đường ở trần gian là như thế, còn con đường về nước trời thì thế nào? Có phải thênh thang rộng mở nhiều người muốn đi, và con đường xuống hoả ngục thì chật hẹp ít người muốn đến? Lời Chúa hôm nay muốn các con đi con đường nào?

Trong bài đọc 1, các con nghe lời than van của ông Giêrêmia: vì làm tiên tri cho Chúa, ông phải chịu biết bao nhiêu gian nan khốn khổ, nào là bị người khác chế nhạo, nào là bị phản đối, bị khinh chê thậm chí ông bị mưu sát nữa… Và đã nhiều lần ông không muốn đi theo Chúa làm tiên tri nữa, ông không muốn làm theo ý Chúa nữa… nhưng ông đã không thể bỏ sứ mạng đó được vì Chúa đã lôi cuốn ông…

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiên báo mình sẽ phải chịu khổ hình, chịu người khác bắt bớ thế nào “Người sẽ đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ… sẽ bị giết chết và ngày thứ ba thì sống lại. Và Ngài còn mời gọi con người theo Ngài, đi với Ngài trên con đường thập giá với điều kiện: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”

Các con thương,

Con đường của Chúa Giêsu là con đường thập giá, con đường hy sinh và đau khổ. Chúa Giêsu đã đi đường này ngay khi Ngài xuống thế: chấp nhận sinh làm người phàm; đi trên con đường sang Ai Cập tránh sự truy sát của bạo chúa Hêrôđê, con đường rao giảng rày đây mai đó, Ngài đi trên đường tới Giêrusalem, con đường thập giá tiến về núi Sọ- con đường cứu độ. Tất cả chuẩn bị cho con đường về trời ngự bên hữu Chúa Cha.

Con đường đó các tông đồ và các thánh cũng đã theo, Giáo hội ngày hôm nay đang tiếp bước theo chân Chúa. Chúa Giêsu hôm nay vẫn mời gọi các con hãy đi theo Ngài. Chúa cho thấy rõ điều kiện của những ai muốn theo Chúa: “từ bỏ mình và vác thập giá mình”. Từ bỏ con người cũ của mình để mặc lấy con người mới, con người theo hình ảnh của Thiên Chúa dựng nên từ ban đầu. Chấp nhận bỏ mình đi đồng nghĩa với việc thay da đổi thịt, thay con người của ích kỷ nhỏ nhen, con người tội lỗi, của tính tự ái, kiêu căng tự phụ… từ bỏ hết để nhận thập giá của mình mà theo Chúa với lòng yêu mến.

Có một vị thánh đã tưởng tượng chuyện như sau: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.

Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.

Xin Chúa giúp các con đón nhận những hy sinh hằng ngày, chấp nhận đi trên con đường thập giá là những khó khăn, những mệt nhọc trong việc học tập và rèn luyện những nhân đức.

Xin giúp con ghi nhớ rằng công khó của học tập và rèn luyện hôm nay, chính là hoa trái của niềm vui và hạnh phúc mai sau.

Xin giúp chúng con trung thành theo đạo Chúa, giữ đạo Chúa cho đến cùng.

Xin giúp chúng con biết tiếp bước con đường thập giá của Chúa mỗi ngày với lòng quảng đại vì yêu mến Chúa.

71. Thọc gậy bánh xe - Hoàng Cát Minh, O.Carm

 

Lời tuyên xưng “Thầy là con Thiên Chúa Hằng sống” của Phê rô mới chỉ là chìa khóa đức tin, là đá tảng của đời sống Ky tô hữu. Là nền tảng đức tin của người Ky tô hữu vì nó là sự mạc khải từ Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, để sống với lời tuyên xưng đó là cả một thách đố cho cuộc sống Ky tô hữu và cả Giáo Hội khi xây dựng ngôi nhà đức tin đó. Sống đức tin là một cam kết vĩnh cửa với Đấng mà mình tin: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy.” Theo con đường của đức Ky tô chính là theo con đường thập tự cho những ai cam kết sống trọn vẹn với lời tuyên xưng của mình để cùng sống, cùng chết và cùng sống lại với Ngài. Chính Chúa Giêsu đã đi tiên phong trên con đường tiến về Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ phải vác thập giá, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Con đường của Đức Giê su đi là con đường mang thân phận kiếp người nhưng do Thần Khí hướng dẫn. Cũng Thần Khí đó hiện diện tại sông Gio đan khi Ngài chịu phép rửa, dẫn Ngài vào hoang địa trong 40 ngày đêm chịu thử thách và dẫn Ngài vào con đường rao giảng Nước Trời.

Con đường thập tự là con đường đau khổ, bị nghi nghờ, bị lăng nhục, bị nhục hình và bị tử hình. Thập tự chính là biểu tượng nhục hình và tử hình để trừng phạt những kẻ nổi loạn chống lại đế quốc Roma, những tên trộm cướp giết người cướp của. Nhưng đó cũng là một cảm hứng cho người môn đệ bước đi theo chân đấng Cứu độ, là tự hủy mình đi cho người mình yêu. Cảm hứng đó không phải do con người, nhưng từ sự dẫn dắt của Thần Khí Thiên Chúa. Một khi đã được Thần Khí chúa dẫn dắt thì không ai có thể cưỡng lại được. Ngôn sứ Giê rê mi a đã cảm nghiệm và thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi.” Dẫu cho Giê rê mi a suốt ngày bị trở nên trò cười, và bị mọi người đều chế nhạo; dẫu cho ngôn sứ phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho ông bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Ông cố quên đi vị Thiên Chúa đã dẫn dắt ông, sẽ không nhân danh Ngài mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng ông lại hừng hực nóng bỏng như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt, khiến ông kiệt sức, khiên ông không thể chịu nổi nữa, để làm theo ý định của Thiên Chúa.

Thánh Vịnh gia cũng cảm nghiệm tự đáy lòng mình sự hấp dẫn của Thiên Chúa: “Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước!” Những ai làm nghề nông có thể cảm giác được nỗi khao khát cơn mưa trong những mùa nắng hạn, ruộng đồng khô nứt.

Thánh Phao lô là người cảm nghiệm sâu xa nhất về con đường thập tự của Đức Ky tô khi người sống hoàn toàn lệ thuộc vào sự dẫn dắt của Thần Khí của Đức Ky tô. Thánh Phao lô cảm nghiệm được những đau khổ nơi trần gian mà người Ky tô hữu hứng chịu không thể nào sánh kịp với sự đau khổ Đức Ky tô đã gánh chịu cũng như vinh quang của Ngài tỏ hiện nơi những môn đệ tín trung. Thánh Paho lô được mệnh danh là môn đệ của Đức Ky tô bị đóng đinh vì người cảm nhận sự đau khổ mà Đức Ky tô tỏ hiện nơi người và những gì người đã can qua. Cảm nghiệm được vinh quang của Thiên Chúa, thánh nhân đã khích lệ cộng đoàn tín hữu Rôma của mình: “hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa.” Đó là lời khíc lệ cho những Ky tô hữu tiên khởi ở Rôma một khi phải đối diện với thử thách và phải chọn lựa: tuyên xưng đức tin vào Đức Ky tô là con Thiên Chúa để rồi phải chịu nhục hình và tử hình hoặc tôn vinh Cesa là chúa để lãnh quyền tự do và trở thành công nhân hạng nhất thời bấy giờ.

Một khi được Thần Khí Thiên Chúa thúc đẩy, không ai trong chúng ta có thể cưỡng lại được. Người giáo lý viên có thể từ bỏ chút thời giờ riêng tư, nghỉ ngơi để đi dạy giáo lý; người thanh niên có thể từ bỏ gia đình để theo tiếng gọi làm linh mục, tu sĩ hay nữ tu; nhà truyền giáo có thể từ bỏ nơi ấm cúng của mình để đến một nơi xa vắng, nghèo nàn phục vụ những người nghèo; những người đấu tranh cho công lý và hòa bình phải chịu nhiều cảnh đau thương; những người giám nói lên tiếng nói ngôn sứ cho công lý dễ bị mất mạng; v.v…

Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và sáng tạo thế giới qua Thần Khí của Ngài để đem vạn vật tiến về tương lai tốt đẹp, tràn trề sự sống và đầy những ngạc nhiên. Chống lại công trình sáng tạo và tình yêu Thiên Chúa chính là chống lại Thần Khí, là “chọc gậy bánh xe” vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người và tạo vật. Với suy nghĩ và hành động của mình, Phê rô đã “chọc gậy” vào bánh xe tình yêu của Thiên Chúa một cách ngây thơ như thể để cản lại bước đường nguy hiểm mà Đức Giê su sẽ đến. Nhưng ông có ngờ rằng, hành động đó chỉ là những suy tư hợp lý của thế gian đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa. Kẻ luôn đi ngược lại ý định và đường lối của Thiên Chúa luôn là hành động thúc đẩy của Satan. Satan là kẻ đã thử thách Thiên Chúa trong sa mạc về: quyền lực, vật chất và vinh quang thế gian. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Satan vẫn là kẻ luôn “chọc gậy bánh xe” tình yêu của Ngài qua việc xúi dục con người nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Anh chị em hãy tự nghĩ mình là ai? Là kẻ trợ lực hay trở lực đối với Thần Khí Thiên Chúa?

 

72. Đức Giêsu tiên báo khổ nạn lần thứ nhất - Lm FX. Vũ Phan Long

 

1.- Ngữ cảnh

Lời tiên báo đầu tiên về Thương Khó được trực tiếp nối kết với “cuộc thẩm vấn” Xêdarê Philipphê (cc.13-16.20), nhất là với câu trả lời của các môn đệ. Tâm trí của các ông hình như đang hướng về một lý tưởng thiên sai trần thế và có tính quốc gia. Lúc đầu Đức Giêsu đã yêu cầu các ông phải giữ kín (c. 20), còn bây giờ Người bắt đầu vén mở cho các ông thấy số phận bi đát đang chờ đợi Người. Cứ cho đi là cuối cùng cũng đi đến mục tiêu mà họ đang hết sức khao khát (x. 17,4; 20,20-28), nhưng con đường đưa tới đó lại hoàn toàn đi ngược lại mọi cách nhìn và mọi sự chờ đợi của các ông. Công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu …” được tác giả dùng hai lần để đánh dấu hai phần lớn của tác phẩm (4,17; 16,21): ở đây, công thức ấy cho thấy một khúc quanh trong cuộc đời hoặc trong sinh hoạt của Đức Giêsu.

Trong phép rửa của Đức Giêsu, Chúa Cha đã cho thấy Người là tôi tớ (3,17 dựa theo Is 42,2). Trong các cám dỗ, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người đi theo hướng làm Mêsia khiêm nhường (4,1-11). Khi giảng Bài Giảng trên núi, Người đã chúc phúc cho những người nghèo (5,2). Khi trả lời cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả, Người đã ám chỉ Người là Đấng Mêsia của người nghèo (11,5), của những người đau khổ phiền sầu (11,28-30). Thất bại của sứ vụ Galilê không tiên báo một tương lai màu hồng. Nhưng các tông đồ không để ý đến các hoàn cảnh đó, cũng như không quan tâm đến những ám chỉ hoặc những tuyên bố rõ ràng của Đức Giêsu. Các ông chờ đợi mọi sự, trừ những gì phải xảy ra thật sự. Các câu trả lời ở Xêdarê Philípphê cho thấy tâm trí các ông vẫn còn đang hướng về các lý tưởng vinh quang và uy hùng trần thế.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia làm ba phần:

1) Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó (16,21):

a) Khúc quanh quan trọng (c. 21a),

b) Mô tả chi tiết tương lai đang chờ Người tại Giêrusalem (c. 21b);

2) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (16,22-23):

a) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu (c. 22),

b) Đức Giêsu xác định vị trí của Phêrô (c. 23).

3) Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (16,24-27):

a) Quy luật tổng quát của đời môn đệ (c. 24),

b) Nghịch lý “cứu – mất” (c. 25),

c) Một suy tư mục vụ: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 26),

d) Một biến cố tương lai, “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang”: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 27).

3.- Vài điểm chú giải

– Từ lúc đó (21): Công thức này đánh dấu hai phần lớn của Tin Mừng Mt: phần một là 4,17–16,20 được dành để nói về Nước Trời; phần hai là 16,21–28,20 được dành cho Con Người trên đường đi tới Thương Khó và Phục Sinh. Công thức “Từ lúc đó, Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết” cho thấy tất cả mức hệ trọng của quyết định Đức Giêsu đã lấy và mối nguy hiểm mà Người đang đi vào.

– tỏ cho biết (21): Tác giả không dùng động từ “giảng dạy” (didaskô; x. Mc 8,31), vì ngài coi động từ này ưu tiên diễn tả giáo huấn luân lý.

– Người phải đi (21): Động từ “phải” (hy lạp dei = cần thiết) có ý nói đây là một điểm thuộc ý muốn, hoặc chương trình của Chúa Cha.

– đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (21): Đức Giêsu mô tả chi tiết chương trình Người đang đi vào. Điều này cho thấy Người biết trước và Người làm chủ tình hình. Bị giết chết (apoktanthênai, aor. inf. pass. apokteinô) và … sống lại (egerthênai, aor. inf. pass. egeirô): Đây là những động từ ở thái bị động cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa.

– ngày thứ ba (21): có nghĩa là một thời gian ngắn.

– Phêrô liền kéo riêng … bắt đầu trách … (22): Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của sự khôn ngoan loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Vị tông đồ muốn có sự thoả hiệp, sự thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của tính ích kỷ hoặc của quyền lực. Mới đây còn là gương mẫu của người tin (16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như Tên Cám Dỗ đã đề nghị (4,1-11).

– Anh cản lối Thầy (23): dịch sát “Anh đang trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp”. Mới đây là “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Thật ra, tảng đá xây Hội Thánh không phải là bản thân bác thuyền chài Simôn, mà là niềm tin của ông đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin này, tất cả công việc của ông đều sụp đổ.

– từ bỏ chính mình (24): có nghĩa là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác. Tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình.

– đi (bước) theo (24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. 11,29). Động từ này không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ.

– việc họ làm (27): Praxis có nghĩa là “lối sống, lối cư xử”, hàm ý là có các kinh nghiệm nữa. Tác giả Mt chọn từ này rất có thể bởi vì ngữ cảnh không ưu tiên nói về các “hành vi” (erga) hiện tại của người môn đệ, nhưng nói về sự đau khổ tích cực của họ.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh (21)

Sau lệnh im lặng ở c. 20, làm cho các môn đệ trở thành những người ở bên trong, có sự hiểu biết đặc biệt mà dân chúng không có, Đức Giêsu loan báo cho họ những dau khổ và sự phục sinh của Người. Bây giờ Người đào sâu sự hiểu biết đặc biệt của các môn đệ.

Với công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu”, chúng ta hiểu rằng lời tiên báo Thương Khó-Phục Sinh này không phải là một lời sấm biệt lập, nhưng là một chương mới mà Đấng Cứu thế đang mở ra trước mắt các môn đệ, chứ không riêng Phêrô. Các ông vẫn đang mơ những hào nhoáng thế gian, một cung cách cứu thế vinh quang trần tục, nên không dễ gì mà đưa các ông đến chỗ quan niệm ngược lại. Tuy nhiên, Đức Giêsu cương quyết đi vào đề tài mới. Người trình bày chi tiết: (“tỏ cho biết”, deiknyein) nơi sẽ xảy ra biến cố, bản án tử hình phải chịu, những người sẽ xét xử, và cuộc Phục Sinh ngay sau đó. Đây là điều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Các động từ ở thái bị động (apoktanthênai và egerthênai) cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài tường thuật cuộc Thương Khó sẽ cho thấy Đức Giêsu cũng chủ động. Người đi theo con đường được chỉ định trong tư cách là Con vâng phục của Thiên Chúa.

Qua phản ứng của các môn đệ mà đại diện là Phêrô, tác giả cho thấy sự vấp phạm của cọng đoàn tín hữu sơ khai khi đứng trước chướng kỳ thập giá (x. 1 Cr 1,17-25; Rm 1,16).

* Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (22-23)

Phản ứng của Phêrô giúp hiểu sự kháng cự của trí khôn loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Mới trước đó, với lời tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô (= Đấng Mêsia)”, được Thầy khen là đã phát biểu dưới ánh sáng mạc khải của Chúa Cha, Phêrô nghĩ rằng lời nói này hẳn cũng có giá trị như thế! Ông không ngờ bây giờ ông đã trở thành hiện thân của Satan đang tìm cách cản bước Đức Giêsu đi theo kế hoạch của Chúa Cha. Tảng đá xây dựng Hội Thánh thật mong manh nếu không tin tưởng cạy dựa vào Đức Giêsu.

Ở đây, còn có thể hiểu thêm một tầng ý nghĩa nữa: Phêrôi là người phát ngôn thay cho nhóm môn đệ, giống như ông đã tuyên xưng đức tin ở c. 16 với những lời lẽ của các môn đệ và lời tuyên xưng của Giáo Hội. vậy hẳn là Phêrô không chỉ phản đối nhằm phi bác đau khổ của Đức Giêsu, mà còn phi bác đau khổ của người môn đệ và của Giáo Hội. Trong tư cách là môn đệ, ông sống tình trạng nhị giá giữa tin tưởng và hoài nghi, giữa tuyên xưng và sợ hãi hậu quả của lời tuyên xưng ấy, giữa phản bội và hối hận (x. 26,69-75). Phêrô chẳng xấu hơn các môn đệ vì ông đã phản bội Thầy chẳng hạn, cũng như ông không tốt hơn các bạn vì ông đã tuyên xưng Thầy ở 16,16-19.

Đức Giêsu đã phản ứng rất mạnh lại với lời can gián của Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy (Hypage… Satana)” (c. 23). Lời này nhắc lại chước cám dỗ cuối cùng ở 4,10, khi Đức Giêsu loại bỏ việc thống trị thế giới theo đề nghị của quỷ. “Anh cản lối Thầy”, anh là tảng đá vấp (skandalon) cho Thầy. Skandalon là một từ mạnh để diễn tả dịp tội. Hình ảnh này đối lập lại với “tảng đá” là chính Phêrô ở 16,18. Các câu 17-18 và c. 23 cho thấy rõ sự đối lập căn bản giữa Thiên Chúa và loài người: do ân huệ Thiên Chúa ban, Phêrô là một “tảng đá (xay dựng Hội Thánh)”; do chính suy nghĩ của ông, ông là một “tảng đá vấp”. “Lui lại đàng sau Thầy” (opisô mou) nhắc lại 4,19 và chuẩn bị cho 16,24, xác định vị trí duy nhất được dành cho Phêrô.

* Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (24-27)

Quy luật sống của người môn đệ được tổng hợp trong ba điểm: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và bước theo. “Từ bỏ chính mình” là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác; tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. “Vác thập giá mình” là chấp nhận bản án thập giá; tức là từ bỏ những tiện nghi thoải mái và cả mạng sống mình vì muốn trung thành với Đức Giêsu và với sứ mạng của Người. “Bước theo” không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ. Đau khổ của Đức Giêsu và đời môn đệ với các đau khổ thuộc về nhau. Ta chỉ có thể thực sự hiểu Đức Giêsu bằng cách bước theo Người trong đau khổ. Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.

Chương trình trên đây không dễ; nó đòi hỏi rất nhiều ý chí và can đảm. Người môn đệ sẽ bị cám dỗ trốn chạy để cứu lấy mạng sống mình khỏi những đau khổ và một cái chết tàn bạo, nhưng đó là một ảo tưởng. Rõ ràng là đau khổ không phải chỉ là chấp nhận thụ động, nhưng là một hình thái sống tích cực: “Nếu ai muốn… (ei tis thelei…)”. Qua nghịch lý “cứu – mất”, tác giả giúp hiểu rằng nếu kiên trì trong đời môn đệ, người tín hữu có thể phải chết sớm nhưng sau đó sẽ được sống muôn đời; trái lại, nếu người ấy chối từ Đức Giêsu, cuộc sống trần thế của người ấy có thể được kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng sau đó sẽ kết thúc bằng một cái chết thật sự.

Một suy tư mục vụ (c. 26) bổ túc câu nói về “mất” và “cứu” mạng sống. Viễn tượng được mở rộng ra nữa: Người ta có thể đạt được tối đa thành tích trần thế trong cuộc đời này, tới mức chinh phục được cả thế giới, nhưng nếu phải mất tình nghĩa, sự hiệp thông với Thiên Chúa, là nguồn sự sống chân thật, thì tất cả những lợi lộc có đó sẽ vô ích, bởi vì với các của cải trần thế đã tích lũy lại đó, người ta vẫn không thể vớt lại được những gì đã mất và không thể chinh phục những gì họ không có.

Thế rồi, Đức Giêsu quay về Con Người, Đấng sẽ đến với các thiên thần để xét xử thế gian. Đây là việc xét xử về lối sống (praxis) của loài người mà tác giả sẽ mô tả chi tiết ở 25,31-46. Lời nói về cuộc quang lâm của Đức Giêsu “Con Người” cũng nhắc nhở người ta biết chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Giêsu, là “Con người” và là “Thẩm phán thế gian”, cũng là Đấng đang ở cùng các môn đệ, để dạy dỗ họ, đi trước họ vào trong đau khổ và phục sinh, gọi họ là “có phúc”, vẫn kêu gọi họ “bước theo Người” khi họ sa sút, và ở cùng họ như là Đấng được tôn vinh “cho đến tận thế” (28,20). Sự phán xét mất tính cách đáng kinh hãi, bởi vì Con Người đang được chờ đợi không là ai khác ngoài Đức Giêsu, Đấng mà Hội Thánh biết và Đấng xuyên qua dòng lịch sử đã đi trên nẻo đường họ sẽ đi. Ngoài ra vị Thiên Chúa mà Người Con sẽ cho thấy vinh quang lại không là ai khác ngoài Cha của Đức Giêsu “Con Người”, Đấng nghe các lời cầu nguyện của Hội Thánh.

+ Kết luận

Lời phản đối của Phêrô được dùng như một điển hình. Khi phải đối đầu với đau khổ, ông suy nghĩ như “loài người”, tức là duy lý, ích kỷ, đi từ một tình yêu loài người. Đức Giêsu trả lời bằng một kiểu đối lập sắc bén. Các tiêu chuẩn này của loài người không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Các môn đệ phải chấp nhận công việc của Đức Giêsu và phản ánh lối sống và sự đau khổ của Người. Vậy, sống và chịu đau khổ như Đức Kitô chính là nét tiêu biểu của đời môn đệ, của Hội Thánh.

Về phương diện Kitô học, tác giả đã diễn tả mầu nhiệm Đức Đức Kitô bằng cách đóng khung lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” bằng một phân đoạn nói về Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy. “Con Người”. Nếu với lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” nhắm giới thiệu tính duy nhất của Đức Giêsu, mà chỉ Chúa Cha mới có thể mạc khải cho biết, thì với lời tuyên xưng về “Con người”, mục đích là giới thiệu con đường mà vị Thầm phán thế gian với các môn đệ phải đi xuyên qua sự khiêm nhường, sự thù nghịch, đau khổ, và sự sống lại; các môn đệ thông phần vào tất cả các tình trạng này. Đối với tác giả Mt, điều đã rõ là không một văn phòng huấn quyền nào hay một phân khoa thần học nào có thể là thẩm phán xét đoán tính đúng đắn trong lời tuyên xưng về Con Thiên Chúa, nhưng chỉ có Con Người mới có thể xét đoán praxis của các môn đệ đang tuyên xưng người.

5.- Gợi ý suy niệm

5.1 Làm tín hữu là “bước theo Đức Giêsu”. Vừa chào đời, mạng sống của Người đã bị đe dọa; sau đó Người đã làm nghề thợ mộc ở Nadarét trong một thời gian dài. Khi bắt đầu cuộc đời trần thế, Người đã bắt đầu đi dưới bóng cái chết: cái chết càng lúc càng tỏ hiện rõ ràng hơn. Các môn đệ của Đức Giêsu cần ý thức rằng họ đang đi theo một vị Thầy đã chấp nhận một cuộc sống hiểm nghèo, thì mới đưa lại hạnh phúc cho người khác.

5.2 Cuộc Khổ Nạn nằm trong chương trình cứu độ: đây là điều “cần thiết”, tức thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người. Đây là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn Đức Giêsu và của sứ mạng Người. Nhưng đây cũng là lý do từ bao đời vẫn gây nên cớ vấp phạm: mầu nhiệm này vừa là cớ vấp phạm đối với thế giới Do Thái, và cũng là đề tài gây thắc mắc cho Giáo Hội tiên khởi cũng như cho Giáo Hội ngày hôm nay và ngày mai nữa. Đấy đã là vấn đề của sách Gióp: sau thời Lưu đày, Israel đã tự hỏi về ý nghĩa của “đức công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, làm dân được tuyển chọn, dân của Thiên Chúa, làm đối tượng của tình yêu Người, nghĩa là gì? Nhờ mạc khải của Đức Giêsu, chúng ta thấy điều mà sách Gióp còn coi như một ngoại lệ (= đau khổ của người công chính), đã trở thành tiêu chuẩn: tình yêu của Thiên Chúa đi qua Thập giá.

5.3 Kinh nghiệm của Phêrô rất quý cho chúng ta. Chúng ta rất mong manh, hay thay đổi, mà lại dễ ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa, không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, phải biết ngờ vực chính mình, đồng thời không thất vọng về những mâu thuẫn nhận ra nơi bản thân.

5.4 Nên đề phòng một cách hiểu méo mó về thần học thập giá: đau khổ trở thành mục tiêu, một giá trị tự nó thay vì chỉ là một phương tiện, một con đường đưa tới giải thoát. Người ta hiểu Tin Mừng chỉ nói về hy sinh, từ bỏ, hãm mình, chứ không nói đến niềm vui sướng hân hoan, sự vui thỏa (coi đây là những điều xấu!). Thật ra, đau khổ không bao giờ được nâng lên hàng “sự thiẹn Kitô giáo” cả. Bổn phận của người Kitô hữu không phải là dạy chịu đau khổ, nhưng là dạy sống; không phải là dạy tích lũy các thiếu thốn, từ bỏ, hy sinh, nhưng là loại trừ chính những nguyên nhân gây ra những điều đó. Mục tiêu của con người là hạnh phúc, ơn gọi của con người là thực hiện một thiên đàng trên trái đất trước khi đạt tới thiên đàng trên trời. Đau khổ, hy sinh, đau đớn là cái giá phải trả để có niềm vui mà người Kitô hữu được mời gọi chinh phục cho được. Điểm nhắm của ngươi Kitô hữu thì ở trên cao, nhưng để đến được đó, phải chấp nhận vượt qua một con đường dốc gian khổ. Phải hy sinh một cái gì đó để không đánh mất điều chính yếu. Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải đau khổ, nhưng Ngài có thể yêu cầu họ chấp nhận đau khổ, nếu đó là nguồn làm phát sinh niềm vui cho kẻ khác.

73. Chúa Nhật 22 Thường Niên

(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

 

LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Tại sao Chúa Giêsu loan báo “từ bấy giờ” (c.21) cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người?

2. Làm sao Phêrô vừa là phát ngôn viên một mặc khải của Thiên Chúa (16,17) vừa là khí cụ của Satan (16,23)?

3. Các môn đồ phản ứng thế nào khi nghe loan báo ba lần cuộc Khổ nạn (16,22-23; 17,23b; 20,20-23)? Có sự tiến triển trong ba cuộc loan báo đó không? Phải chăng Chúa Giêsu luôn đề cập đến sự Phục sinh của Người?

4. Đâu là ý nghĩa của các lời loan báo Khổ nạn này so với chính cuộc Khổ nạn? Phải chăng chúng chỉ là những sấm ngôn miêu tả một biến cố tương lai?

5. Đâu là chủ ý thần học của Mt trong việc móc nối chặt chẽ lời Chúa Giêsu khen Phêrô (cc. 17-19) và lời Người khiển trách ông liền sau đó (cc.22-23)?

6. Trong Tin Mừng Mt, ta thấy có ba lời loan báo về cuộc Thương Khó (16,21; 17,22-23a; 20,17-19) tạo nên ba cao điểm của một phần kéo dài cho tới trình thuật Khổ nạn. Sau mỗi lời loan báo đều có một nhận xét ghi lại sự u mê của các môn đồ (16,22-23; 17,23b; 20,20-23). Đó là những nhận xét đơn sơ thuộc về ký sự, nhưng lại mang nặng một ý nghĩa thần học đối với cả Tin Mừng. Sau cùng, cứ mỗi lần như thế, Chúa Giêsu lại quảng diễn cho các môn đồ hiểu thêm ý nghĩa của sứ mệnh Người (16,24-28; 18,1-4; 20,24-28). Thành thử đây là một trình thuật được khai triển theo nhịp điệu tam phân.

Cũng nên ghi nhận có một sự tiệm tiến trong lời mặc khải của Chúa Giêsu và trong phản ứng của các môn đồ. Sau cùng phải lưu ý rằng Chúa Giêsu không ngừng nhắc đến cuộc Phục sinh. Người không chỉ nói tới Thập giá, nhưng bao giờ cũng là Thập giá và Phục sinh, là sự chết và sự sống, dù về chính bản thân hay về các môn đồ.

Tất cả điều đó thật đầu ý nghĩa. Ba lời loan báo như muốn dẫn vào trình thuật về cuộc Khổ nạn để chuẩn bị và giải thích nó một cách thần học. Cuộc Khổ nạn chẳng phải là một biến cố từ ngoài in vào định mệnh của Chúa Kitô, như kiểu một tai nạn phải chấp nhận. Không! Nó là thành tố và là cao điểm của định mệnh Người. Là đường đưa đến Phục sinh, mầu nhiệm này gồm hai phương diện, mà một có tính cách chung quyết: sự sống, niềm vui. Đàng khác, môn đồ và Sư phụ không thể tách rời nhau. Cả hai đều liên kết trong cùng một số phận.

7. Ghi chú thời gian “từ bấy giờ”, mà Mt rất nhấn mạnh, nhắm cho thấy đã đến giờ đề cập đến điều mới mẻ. Người ta đi từ mặc khải về Chúa Giêsu tới mặc khải về Con Người đau khổ. Song song bên đó, người ta cũng thấy phải đối đầu với một loại u mê cứng lòng tin mới, vốn không còn là của đám đông, song là của các môn đồ: họ nhận ra Đấng Messia, nhưng đồng thời từ chối việc Người phải chịu đau khổ. Tương ứng với việc đào sâu viễn ảnh thiên sai là việc nới rộng nhãn giới đức tin vậy.

Theo Mc và Mt (chứ không phải lẽ), Chúa Giêsu “bắt đầu” nói đến cuộc Khổ nạn của người. Viết như thế, hai ông muốn nhấn mạnh sự kiện có tiến triển trong lời mặc khải thiên sai. Dĩ nhiên, đấy chẳng phải là một tiến triển tâm lý trong tâm thức Chúa Giêsu (một viễn tượng ở ngoài đường hướng của các Tin Mừng), song là một tiến triển trong việc biểu lộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đồng thời đó cũng là khả định rằng “từ bấy giờ”, chủ đề Khổ nạn trở thành trọng tâm thường xuyên.

8. Bây giờ ta hãy xem tính cách “mới mẻ” của mặc khải thiên sai hệ tại ở chỗ nào. Nó không giản lược vào viễn tượng cuộc bắt bớ, mà Chúa Giêsu đã phần nào ám chỉ (10,24tt). Đúng hơn tính cách mới mẻ đó phát xuất từ chữ “phải” nghĩa là hệ tại sự kiện: đau khổ là thành phần của chương trình cứu chuộc.

Hạn từ dei ấy (phải), mà các nguồn liệu đều ghi lại cho ta, không chỉ diễn tả một xác tín thuộc bình diện lịch sử và tâm lý dựa trên các nhận xét Chúa Giêsu rút từ môi trường và hoàn cảnh của Người, nhưng còn biểu hiệu cái ý thức rõ ràng của Người về một sự cần thiết thuộc bình diện thần học.

Trong Kinh thánh, (đặc biệt trong Tân ước), động từ dei không còn chỉ một sự bắt buộc của định mệnh, nhưng được dùng để chỉ thánh ý của Thiên Chúa; đúng hơn, trong Tân ước, hạn từ này mang một giá trị cánh chung: nó diễn tả một sự tất yếu bắt nguồn từ chính bản tính Thiên Chúa và quy hương về việc thực hiện chương trình của Ngài trong các biến cố cánh chung. Từ đó, bản văn chúng ta không những muốn nói Chúa Giêsu loan báo về cánh chung, nhưng sâu xa hơn, còn khẳng định rằng chính số phận của Chúa Kitô, tức là cuộc tử nạn của Người, thuộc về cánh chung. Tóm lại, khổ nạn không phải là một sự kiện “ngoại lệ”, cũng chẳng có gì là một biến cố bất ngờ xảy đến trong sứ mệnh Chúa Giêsu, nhưng là nòng cốt của sứ mệnh Người. Điều mới mẻ là ở chỗ đó vậy.

9. Tuy nhiên phải đi xa hơn nữa. Bản văn không chỉ quả quyết là cuộc Khổ nạn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhưng còn khẳng định rằng Chúa Giêsu đã ý thức về điều đó. Thật không đủ tí nào khi bảo rằng việc Người quyết định lên Giêrusalem – cái quyết định tạo nên khúc quanh quan trọng của đời người – chỉ có mục đích duy nhất là đặt dân chúng đối diện với sứ điệp về Nước Thiên Chúa, vốn phải đến đó trong thành thánh, để mời gọi họ quyết định trong giờ tối hậu này. Đúng thế, nhưng còn hơn nữa. Chúa Giêsu đã đi đến cái chết “cách tự nguyện”. Người đã không tiên đoán cái chết hoàn toàn như người đời, như những ai đã thấy Người lên Giêrusalem (x. Mc 10,32; Ga 11,16). Không! Người đã nhìn nó rời ánh sáng chương trình của Thiên Chúa như là một việc phục vụ.

10. Mc dùng động từ “giảng dạy” (8,31). Mt lại thích động từ “tỏ cho hay” (deiknuein). Một lần nữa, đây không chỉ là tiên báo tiên đoán cuộc Khổ nạn để rồi chuẩn bị các sứ đồ sống biến cố đó, nhưng là tỏ cho họ thấy nó ăn khớp với chương trình của Thiên Chúa, nó thật là tối cần. Phải chứng minh là nó cần thiết, vì nó không hiển nhiên, không là một biến cố mà người ta thay là bắt buộc. Chứng minh thế nào? Lc bảo phải đi từ Kinh thánh (24,26-27.46; coi Mc 5,12).

Mt không nói rõ gì về vấn đề này. Nhưng trong thực tế, động từ dei bao giờ cũng hàm án một sự quy chiếu về Thánh Kinh để diễn tả việc hoàn tất Kinh Thánh (vd. Mt 26,54). Vì chính trong Thánh Kinh mà người ta nhận ra chương trình của Thiên Chúa. Ở đây sẽ không ai phủ nhận rằng nền tảng Thánh Kinh phải tìm trong Is 53. Vả lại các sấm ngôn về cuộc Khổ nạn không xuất hiện như những bản văn lẻ loi – kiểu những phiêu nham – dọc dọc theo Tin Mừng. Chúng chèn vào trong đó như những biểu hiệu sáng tỏ ít nhiều của một tư tưởng bàng bạc và bao giờ cũng quy chiếu, nhiều lúc cách minh thiên về sấm ngôn người tôi tớ của Thiên Chúa.

11. Trước viễn ảnh cuộc Khổ nạn, Phêrô làm một cử chỉ thụt lùi và Chúa Giêsu phải nghiêm khắc sửa trị ông, dù người vừa mới ca tụng niềm tin của ông. Không phải vô tình mà Mt tường thuật kế cận nhau lời Chúa Giêsu ca tụng và khiển trách môn đồ mình. Tất cả mọi tác giả Tin mừng đều đặt tương phản sự yếu đuối của Phêrô với cái tên képha (tảng đá) của ông. Chính họ đã cố tình nhấn mạnh sự đối nghịch đó để cho thấy chính nhờ ân sủng, nhờ Thiên Chúa lựa chọn, chứ không phải nhờ các đức tính tự nhiên, mà ông là Tảng đá trên ấy Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người. Một cách tổng quát hơn và đi xa hơn trường hợp Phêrô, chính chủ đề đối nghịch giữa trình diện bản tính tự nhiên và bình diện ân sủng, xuất hiện ở đây. Chủ đề này – yếu đuối và ân sủng – thường có trong Thánh Kinh, được đặt nổi bật ở c.17, được ám chỉ ở c. 18 nếu đọc trong nhãn giới Is 28,16), và lại được đề cập ở c. 22-23.

12. Trước khi nghiên cứu các khẳng định khác nhau của Chúa Giêsu ở cc. 21-27 (được nhập lại nơi đây, nhưng có lẽ được công bố trong nhiều dịp khác biệt), nên nêu ra cái điểm chính liên kết chúng thành một: đó là sự quy chiếu về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chẳng có sự từ bỏ nào được đòi hỏi vì chính nó, nhưng vì Chúa Giêsu. Do đấy câu 24 thực sự là câu căn bản. Dưới một quan điểm khác, ta có thể bảo rằng rốt cuộc phải liên kết các lời nói ấy vào cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô, là cái giải thích lý do nỗi đau khổ và từ bỏ của môn đồ, là cái làm cho ra thông thường sự từ bỏ và khổ đau ấy. Hơn nữa, mối liên hệ này còn cho thấy sự đau khổ của môn đồ là nơi mà số phận của Thầy lại được trở thành hiện tại.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Chúa sẽ có đâu như thế!”: Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: “Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần” (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa…”, “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ” (Mt 4,5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa “Nếu Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô – điều đó không thể nào xảy ra được”. Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.

“Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’, bây giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18,6-9), ta mới lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc: “Xéo đi, Satan” (4,10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.

“Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa”: Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói ở câu l7: “Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời “. Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. “Quả thế, ý nghĩa của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55,8).

“Nếu ai muốn đi sau Ta”: Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống Kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.

“Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được “: Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau: kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu.

Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.

“Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?”: Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.

Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.

KẾT LUẬN

Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất “cần thiết”. Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự “công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.

2) Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.

Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. “Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại”. Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.

74. Chúa Nhật 22 Thường Niên

(Chú giải theo Fiches Dominicales)

 

CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Con đường của Con Người…

Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ “trong miền Xêrarê Philip” trước khi lên đường đi lên Giêrusalem: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho: “Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.

Đến đây Matthêu lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: “Từ thời gian này…” đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.

2. Thông báo lần đầu về khổ nạn

Những kẻ theo Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc: “Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”

Thông báo lần đầu trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem 17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông “kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường “cứu thế” theo ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn chấp nhận, theo J. Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong “Jesus, l’histore vraie” Centurion 1994, trang 334-335)

“Satan, lùi lại đàng sau Thầy”. Đức Giêsu đã đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin, nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của “ý tưởng loài người”, mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của Đức Kitô (“L’evangile de Matthieu” (Centurion 1991, trang 181).

3. Đường của các môn đệ

Và để cất đi mọi ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập gia. “Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp theo đều xây dựng trên từ “mạng sống” sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. “Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? nào ai trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ – đầy tớ giống như sư phụ – đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ. Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà “xác thịt và máu huyết” có thể nghĩ ra, hình dung được.

BÀI ĐỌC THÊM

1. Theo Đức Giêsu (Mgr. Daloz trong cuốn “Le Règlle des cieux s’est approehé” desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của “sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính “người được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. “Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”. Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. “Yêu là cho tất cả là trao ban chính bản thân mình”, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân… cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải đi: Ai muốn theo tôi… Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe doạ đâu, mà là một lời hứa. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: “Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.

2. Biểu trưng của thập giá (D.Ponnau, Giám đốc trường Louvre, trong tạp chí “Le Monde de la Bibbe” số 97, trang 5)

Biểu tượng của Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người “phương Đông” ở mặt đất, ở trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã nói: “Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa, mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm Người – Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống – nhìn ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.

75. Chúa Nhật 22 Thường Niên

(Chú giải của Noel Quession)

 

Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”

Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được “mạc khải” ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!

Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?

Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.

Từ lúc đó…

Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc “tuyên xưng đức tin” tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? “Từ lúc đó”, Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.

Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.

Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã “chạy trốn” ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem “thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.

Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!

Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!

Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.

Từ ngữ “Người phải” luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng “mình phải”, chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.

Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem “các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư…”, mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.

Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy…”

Phêrô bị kết án là “kẻ cám dỗ” đối với Đức Giêsu “Xatan hư hại!”

Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: “Nếu có thể, xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.

“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội… Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết… Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.

Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.

Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua “quan điểm con người” để chấp nhận “quan điểm của Thiên Chúa”.

Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ “giản lược” cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.

Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.

Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.

Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”

Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.

Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: “Tôi muốn sống đời sống của tôi! “.

Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: “phải từ bỏ chính mình”. Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.

Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ “phải nộp thân mình và đổ máu mình”. Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?

Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải “mất” để “được”.

Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.

Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: “Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa”.

Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.

Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.

Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.

 

 

 

 

 

76. Theo Chúa, phải từ bỏ mình và vác thập giá - Lm Trần Bình Trọng

 

Đọc báo chí hay coi tin tức truyền hình hằng ngày, ta thấy đầy dẫy những câu chuyện tang thương, những cảnh khổ đau, buồn tủi của loài người. Mặc dầu loài người cố thoát khỏi đau khổ, đau khổ vẫn đến với loài người.

Phúc âm hôm nay, cũng như Phúc âm Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B theo thánh Marcô, và Phúc âm Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C theo thánh Luca có nội dung và lời lẽ giống nhau hầu như đồng nhất. Trong cả ba Phúc âm nhất lãm, Đức Giêsu bầy tỏ cho thánh Phêrô và các tông đồ thấy điều nghịch lý của Kitô giáo. Chúa đến làm đảo ngược những giá trị của loài người. Phúc Âm mang ý nghĩa đối nghịch với những ai muốn biến đạo Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân bản. Kitô giáo không phải là đạo sống theo sở thích cá nhân và tìm thoả mãn tính ích kỷ. Để nhấn mạnh và bàn sâu rộng về mỗi ý tưởng của lời Chúa, vào Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B, ta sẽ suy niệm về ý nghĩa lời Chúa: Con Người phải chịu đau khổ nhiều (Mc 8:31). Sang Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C, ta sẽ suy niệm về lời Chúa: Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống mình (Lc 9:24).

Hôm nay ta cùng suy niệm về lời Ngài: Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16:24). Từ bỏ chính mình, vác thập giá là điều kiện để làm môn đệ Chúa. Ta không thể theo Chúa mà không từ bỏ. Vậy từ bỏ chính mình có nghĩa là gì? Đứng trước những lựa chọn, ta không thể chọn hết. Chọn vật này thì phải bỏ vật kia. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng, từ bỏ những xu hướng cá nhân và từ bỏ cái tôi. Từ bỏ cái tôi để Chúa có thể vào nhà mình. Khi cái tôi lớn quá thì không còn chỗ cho Chúa vào. Từ bỏ mình để Chúa được tăng trưởng như thánh Gioan tiền hô đã đề xướng: Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi (Ga 3:30).

Từ bỏ mình để có thể vác thập giá. Nếu không từ bỏ thì không thể vác thập giá. Vậy vác thập giá mình có nghĩa là gì? Vác thập giá là chấp nhận những đau khổ, khó khăn trong cuộc sống vì yêu mến Chúa. Nói chung, vác thập giá là chấp nhận những giới hạn và hoàn cảnh mình đang sống. Có một câu hỏi mà người chịu khổ thường thắc mắc là câu hỏi tại sao? Tại sao Chúa để tôi chịu đau khổ? Tại sao Chúa gửi thánh giá đến cho tôi và gia đình tôi? Đa số lòai người, trừ trẻ nhỏ, phải mang những thánh giá của bệnh tật, đau khổ phần xác hay phần hồn, thánh giá của cảnh lo âu, sợ hãi, cô đơn, tẩy chay, thất vọng, thánh giá của cảnh gia đình đổ vỡ, chia ly, phân tán. Có những người phải mang thánh giá kéo dài suốt cả cuộc sống. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ phải rơi lệ khi thành Giêrusalem thất thủ, và dân chúng phải rơi vào cảnh lưu đầy. Mặc dầu bị dân chúng tẩy chay và chống đối vì thái độ chủ bại, vị ngôn sứ vẫn trung thành với sứ mạng...

Đức tin vào Chúa không bảo đảm cho ta một đời sống miễn trừ khỏi bệnh tật, đau khổ và thánh giá hay khỏi những khủng hoảng và trắc trở của cuộc sống. Như vậy thì người có đức tin hay không có đức tin cũng có thể phải mang bệnh tật và đau khổ như nhau. Điều khác biệt ở đây là: người có đức tin không chịu khổ vì khổ như một đường cùng không lối thoát. Họ có Chúa là bạn đồng hành trên đường đau khổ thánh giá. Người có đức tin chịu đau khổ, vác thánh giá vì lòng yêu mến Chúa để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa.

Chúa không bảo ta đi tìm đau khổ và thánh giá. Chúa chỉ bảo ta vác thập giá mình. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi người ta tự chuốc lấy đau khổ và thánh giá cho mình. Ta phải mang bệnh tật đau khổ vì nghiện ngập, hút sách, không biết giữ gìn sức khoẻ hay không biết kiêng cữ. Ta phải chịu cảnh tù đày vì không tôn trọng luật pháp. Ta phải chịu đau khổ về tâm linh, về tình cảm vì tạo ra những mối tình ngang trái, tạm bợ. Và khi phải cắt đứt những mối tình tạm bợ và ngang trái, ta sẽ bị héo hắt tâm can.

Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Ta không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ và thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp bệnh hoạn tật nguyền, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi gặp đau khổ và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để chia sẻ vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ơn ích thiêng liêng. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.

Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về nỗi khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân, và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).

Lời nguyện xin cho được biết tử bỏ mình, vác thập giá:

Lạy Chúa, con xin cảm tạ đội ơn Chúa

đã đến chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người.

Xin tha thứ những lần con phàn nàn kêu trách Chúa

vì những đau khổ thánh giá con phải mang vác.

Xin ban ơn nhẫn nại để con biết từ bỏ mình, vác thánh giá.

Xin Chúa là sức mạnh và là niềm an ủi

khi con phải mang vác thánh giá của cuộc sống.

Xin dạy con thánh giá là dụng cụ biến đổi ở đời này

và là dụng cụ cứu rỗi đời sau. Amen.

 

77. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ - Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là ý định cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giêsu thi hành. Quả thật, Đức Giêsu đã đón nhận cũng như thi hành cách trung thành và trọn vẹn trên con đường ấy. Đến lượt chúng ta, phần vì muốn được cứu độ; phần vì muốn cộng góp với Đức Giêsu trên hành trình cứu độ nhân loại, hẳn chúng ta không còn con đường nào khác là con đường: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

1. Từ bỏ mình, có mất tự do không?

Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?

Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.

Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc.

Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng.

Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ…, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác.

Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai… Con đường đó là con đường của từ bỏ: “… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

2. “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?

“… từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường khó khăn, thiệt thòi, con đường của hy sinh, tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.

Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi.

Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3).

Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.

Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.

Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.

Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất.

Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác.

3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi.

Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.

Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.

Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài.

Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.

 

78. Con đường vinh quang ngang qua Thập Giá - Lm Đan Vinh

 

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất

Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, thì Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người sắp đi lên Giê-ru-sa-lem để qua đau khổ thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh. Ông Phêrô lên tiếng khuyên can nhưng đã bị Người nặng lời quở trách, vì ông đã suy nghĩ theo kiểu loài người. Rồi Đức Giêsu dạy môn đệ phải làm theo thánh ý Thiên Chúa là từ bỏ bản thân, vác thập giá mình mà đi theo Người.

CHÚ THÍCH:

– C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giêsu mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa, tức là thành thánh Giê-ru-sa-lem, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Đức Giêsu lần lượt loan báo 3 lần về cuộc thương khó Người sắp trải qua để đánh dấu từng chặng đường tiến về thành Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ khỏi bị bất ngờ khi thấy sự việc xảy ra.

– C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! Phêrô không muốn Thầy phải bị thua kẻ thù, để mặc chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã trên cây thập tự rồi mới phục sinh vinh quang! Tại sao Thầy không dùng quyền năng để chiến thắng kẻ thù ngay lập tức? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phêrô gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và khi xưa (x. St 3,4-5). Câu này tương tự như câu Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ cám dỗ sau khi Người ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giêsu chỉ buộc Phêrô lui lại vị trí người môn đệ, nghĩa là phải đi phía sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì lòng mến Thầy, Phêrô đã vô tình cản lối Người đi khi ông yêu cầu Người bỏ con đường cứu độ đã được Chúa Cha đặt định là “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phêrô vừa được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị Thầy trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây vấp ngã cho Thầy! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).

– C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng cộng tác vào công việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu luôn tôn trọng tự do của con người. + Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giêsu là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt của mình. + Vác thập giá mình mà theo: Họ cũng phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, phải chịu đựng những nỗi vất vả và các cơn bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thi sẽ bị mất luôn sự sống thiêng liêng ở đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn sống cuộc đời tạm này thế nào, để sau khi chết sẽ được sống lại và được sống đời đời. Đức Giêsu đưa ra con đường dẫn tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh thiệt thòi, ngay cả mất mạng sống của mình. Ngoài con đường này không còn con đường nào khác để đón nhận được ơn cứu độ.

– C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì? Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình và vác thập giá đi theo Chúa ngay đời này. Đức Giêsu quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để xét xử mọi người tùy theo các việc tốt họ đã làm hay không làm khi còn sống.

CÂU HỎI:

1) Tại sao Đức Giêsu phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem? Người tiên báo phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ba lần nhằm mục đích gì? 2) Tại sao tông đồ Phêrô lên tiếng can gián Thầy và ông đã bị Thầy quở trách như thế nào? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày đối với mỗi tín hữu hôm nay cụ thể là bỏ và làm những gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

2. CÂU CHUYỆN:

2.1) Sức mạnh của cây Thánh Giá

Một người đàn bà đạo đức kia phát hiện mình có khối u ở ngực nhưng lại không dám đến bệnh viện mổ vì sợ mình không thể chịu nổi cơn đau khi mổ. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà đâm hoảng mới chấp nhận mổ, hy vọng sống thêm được một thời gian. Bà có một cậu con trai trong tuổi thanh niên. Khác hẳn bà mẹ, anh con trai này tỏ ra khô khan các việc đạo đức và đã bỏ đến nhà thờ từ khá lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà mẹ yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được đứng bên giúp bà thêm sức chịu đựng cơn đau lúc đang mổ và yêu cầu của bà đã được bác sĩ chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua cơn đau khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con!”. Trườc cảnh tượng mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai đã thốt ra những lời phàn nàn trách móc Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt và nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn nâng đã an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê, làm dịu đi cơn đau khủng khiếp mà bà đã và đang phải chịu đựng.

Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho con trai và dặn rằng: “Con ơi! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong cuộc đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông ơn Chúa giúp mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.

2.2) Thánh giá Chúa ban hợp với khả năng mỗi người:

Cây thánh giá mà chúng ta phải chấp nhận mang vác trong cuộc sống đều hợp với khả năng của mỗi người chúng ta. Câu chuyện ngụ ngôn sau đây nói lên điều này:

Có một người đàn ông kia tuy có đức tin vào Chúa nhưng lại hay than trách Chúa để mặc mình phải mang cây thánh giá quá sức chịu đựng là bà vợ luôn “lắm điều nhiều lời” của ông. Lúc nào bà vợ này cũng càm ràm chê trách ông chồng đủ điều. Vào một đêm kia, ông ta nằm mơ gặp một thiên thần hiện ra phán bảo: “Ta thấy con hay than thân trách phận vì phải mang vác thánh giá nặng nề vượt quá sức con. Vậy hôm nay con hãy theo ta vào trong nghĩa trang, nơi mà những người chết được chôn cất đều để lại cây thánh giá đời họ ngay trên phần mộ. Con hãy chọn một cây thánh giá khác phù hợp thay cho cây con đang phải mang”.

Ông ta liền vui vẻ mang theo cây thánh giá theo thiên thần vào nghĩa trang cách chỗ ở không xa, hy vọng sẽ kiếm ra cây thánh giá khác nhẹ hơn. Đến nơi, ông ta lần lượt đi đến các phần mộ người chết để thử hết cây này đến cây khác nhưng mãi vẫn không tìm ra cây thánh giá ưng ý. Vì cây nào nhẹ thì lại dài quá khổ; cây vừa vặn thì lại xù xì gớm ghiếc; còn cây trơn tru láng đẹp thì lại quá nặng nề… Cuối cùng ông đành thưa với thiên thần: “Thưa ngài. Con tìm mãi mà chẳng thấy cây thánh giá nào hợp với con cả. Con xin chọn lại cây thánh giá con đã mang từ nhà ra đây”.

Trên đường về nhà thiên thần đã nói với ông rằng: “Thiên Chúa luôn trao thánh giá cho mỗi người phù hợp với sức của họ và Người luôn ban ơn giúp họ vác thánh giá cuộc đời đến cùng”. Có điều lạ là từ ngày chấp nhận vác cây thánh giá là chịu đựng các thói hư của vợ, ông lại thấy bà không còn xấu tính khó ưa như trước. Nhờ đó cuộc sống chung giữa hai người hòa hợp hạnh phúc trở lại như hồi mới cưới.

3. SUY NIỆM:

Tin Mừng Mát-thêu đã ghi lại con đường Người sắp trải qua như sau: “Con người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phêrô, một người vừa được Đức Giêsu khen có phúc vì đã tuyên xưng đức tin, đã lên tiếng can Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Nhưng ông đã bị Đức Giêsu nặng lời quở trách: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giêsu đã có phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phêrô khi xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ cám dỗ. Về sau Phêrô đã dần dần hiểu được thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng chấp nhận đi con đường thánh giá để được cùng chết và cùng sống lại với Thầy. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng cho biết điều kiện để trở thành môn đệ của Người như sau: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

3.1) Từ bỏ chính mình:

Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình, nghĩa là bỏ các trở lực bên ngoài như người thân, nghề nghiệp, nhà cửa, ruộng nương… và cả những trở lực bên trong như các thói hư, tội lỗi, lòng ham mê địa vị quyền hành, lòng tham lam của cải bất chính, thói xấu ích kỷ, thích phô trương thành tích để tìm tiếng khen nơi người đời… Đức thánh Cha Phao-lô VI trong buổi triều yết chung ngày 11.03.1970 đã nói: “Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được ưa thích nhất trong đời sống công giáo là sự từ bỏ chính mình”. Từ bỏ chính mình nghĩa là phải loại bỏ ý riêng để vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua ý của cha mẹ trong gia đình, thầy cô giáo ở nhà trường, luật pháp trong xã hội, đặc biệt là gương sáng và lời dạy của Chúa Giêsu do các mục tử trong Hội thánh rao giảng.

Quan sát các nhà điêu khắc, ta thấy đàu tiên họ lựa ra một phiến đá cẩm thạch ưng ý rồi chọn kiểu mẫu và sơ phác trên phiến đá. Sau đó họ kiên nhẫn đục đẽo, mài dũa cho tới khi hoàn thành một bức tượng mỹ thuật. Cũng thế, trong việc từ bỏ bản thân, chúng ta cần phải loại trừ lòng tham lam ích kỷ, thanh luyện thói hư và những gì rườm rà để tập trung lo việc nhà Chúa như lời Thánh kinh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69,10).

3.2) Vác thập giá mình mà theo Chúa:

Đây là khía cạnh tích cực của việc đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Ngoài việc từ bỏ chính mình, chúng ta còn phải chấp nhận chịu đau khổ là vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Có hai loại đau khổ cần phải mang vác là thập giá và thánh giá:

Thập giá là khổ hình người Roma dùng để trừng trị nô lệ hay lê dân phạm trọng tội chống lại đế quốc. Đức Giêsu đã bị quan Tổng trấn Rô-ma là Pông-xi-ô Phi-la-tô lên án tử hình thập giá do bị áp lực của người Do thái. Đức Giêsu đã biến khổ hình thập giá trở nên thánh giá để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Người mời gọi các tín hữu chúng ta hãy vác cây thập giá của mình hằng ngày mà theo Người để được hưởng ơn cứu độ như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sông với Người” (2 Tm 2,11).

Ai trong chúng ta cũng đều phải vác thánh giá là các đau khổ gặp phải trong cuộc sống. Giáo lý Công Giáo dạy đau khổ là hậu quả của tội lỗi, bắt đầu là tội Tổ tông và các tội riêng của loài người. Chẳng hạn: Uống rượu nhiều sẽ gây ra ung thư gan… Chúng ta có thể bị chấn thương sọ não trong tai nạn giao thông do tài xế ngủ gục đâm xe vào giải phân cách… Hoặc do chiến tranh đi đường bị trúng bom đạn hoặc do thiên tai như lũ lụt, lở đất, sóng thần… Tuy nhiên vấn đề nói đây là thái độ chúng ta phải có khi gặp đau khổ: Ta sẽ can đảm chịu đựng phấn đấu vượt qua cơn đau hay chỉ biết than thân trách phận?

3.3) Vững lòng cậy trông phó thác khi gặp đau khổ:

Các tín hữu thực sự tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau, thì sẽ sẵn sàng chấp nhận thua thiệt mất mát và ngay cả mất mạng sống ở đời này, vì tin rằng Chúa sẽ đoái thương bù đắp gấp bội là hạnh phúc Nước Trời đời sau. Một bạn trẻ muốn lên đại học, nhưng lại thi rớt, cũng đừng nản lòng thất vọng. Hãy chấp nhận thập giá là sự thất bại nhất thời và hy vọng Người sẽ ban một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Một người muốn có một gia đình hòa hợp hạnh phúc và làm ăn tấn tới, nhưng chẳng may gia đình luôn bất hòa và công việc làm ăn không mấy suông sẻ… thì cũng đừng nản lòng, vì Thiên Chúa cha giàu lòng từ bi thương xót có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Người luôn ban ban cho chúng ta những điều tốt lành như lời Chúa Giêsu: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).

Thiên Chúa để cho chúng ta phải chịu các đau khổ trong cuộc sống là để thử thách đức tin của chúng ta. Người muốn chúng ta vui vẻ đón nhận những điều trái ý cực lòng để chúng ta học tập nơi Đức Giêsu: Luôn vâng theo ý Cha như Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).

Thánh Phao-lô tông đồ cũng chia sẻ kinh nghiệm chịu đau khổ như sau: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái “dằm” đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh. Vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuôi, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).

4. THẢO LUẬN: 1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn cần từ bỏ những gì ngay từ hôm nay? 2) Thập giá hằng ngày ta phải vác theo chân Chúa là những gì? 3) Gặp một người đau khổ tuyệt vọng vì bị thất bại tán gia bại sản không còn thiết sống, bạn sẽ động viên họ thế nào để vui sống trở lại?

5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa luôn có thái độ bình thản trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến. Chúa đã vui lòng chấp nhận thua thiệt để nêu gương can trường cho chúng con. Hiện nay, vẫn đang có nhiều tu sĩ nam nữ tận hiến phục vụ những người bệnh tật, đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.

– Lạy Chúa Giêsu. Khi nhìn lại bản thân, chúng con cảm thấy xấu hổ khi thấy mình quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân và bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh gần bên. Xin Chúa giúp chúng con biết luôn “bỏ mình”: nghĩa là bỏ đi cái tôi ích kỷ tự mãn, để khiêm tốn phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ. Xin cho chúng con chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và bước theo chân Chúa lên Núi Sọ, để cùng chịu chết, cùng được an táng với Chúa và ngày thứ ba sẽ được cùng sống lại với Chúa trong vinh quang.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

79. Thà mất để được

 

“Thả con tép, bắt con tôm” dường như là cách sống của nhiều người qua nhiều thời đại. Nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường hôm nay, người ta lại càng thích theo cách sống này hơn. Người ta sẵn sàng hy sinh cái nhỏ hơn để được cái lớn hơn. Dầu vậy, dường như người ta chỉ quanh quẩn bên những gì chóng tàn. Người ta quên rằng cho dù được cả thế giới này đi chăng nữa rồi cũng có ngày tiêu tan.

“Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”, có thể nói đây là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu muốn nói với tất cả chúng ta. Cách riêng là với những ai chỉ biết quanh quẩn với những gì chóng qua ở đời này. Chắc hẳn lời cảnh báo này ít nhiều gì cũng làm cho ta suy nghĩ.

Nhìn lên Chúa Giêsu ta sẽ thấy chỉ vì yêu thương mà Người sẵn sàng chịu mất tất cả. Là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng Người đã tự nguyện từ bỏ để đến sống trong thân phận con người hèn yếu. Để rồi Người đành chịu mất vinh quang mà chọn lấy thập tự giá. Quả thật, không ai trong chúng ta có thể hiểu nổi sự hy sinh cao cả đó. Bằng chứng là Phêrô đã đứng ra can ngăn không cho Người lên Giêrusalem.