CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Cv 4,32-35; 1Ga 5,1-6; Ga 20,19-31
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị trầy trụa, te ngã.
Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới,
để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”,
và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi, dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người – cũng như con – đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
(Chúa Nhật Lòng Nhân Hậu Chúa)
(Trích trong ‘Manna’ – của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Chúng tôi đã được thấy Chúa”
Đó là tiếng reo vui ngây ngất của các môn đệ.
Thầy Giêsu, người đã bị đóng đinh, chết và chôn cất,
nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Động từ “thấy” được nhắc đến 6 lần trong bài Tin Mừng này.
Thấy Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết đâm.
Nhưng Thầy cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay.
Maria Macđala cứ tưởng Thầy là người làm vườn.
Để thấy được Chúa phục sinh, cần có đức tin.
Ai tin mới thấy, và thấy để rồi tin hơn.
“Phúc cho ai không thấy mà tin”
Chúng ta vẫn tin bao điều mình không thấy.
Các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn.
Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau,
dù chẳng ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một hành vi mù quáng, phi lý.
Tin chẳng hề làm hạ giá con người.
Trái lại, chỉ con người mới biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn bị giam trong thế giới chật hẹp
của cân đo đong đếm, của vật chất khả giác,
nhưng được đưa vào một thế giới phong phú hơn nhiều:
thế giới của những ngôi vị tự do, của chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp bênh, là có thể bị lừa.
Nhưng nếu không tin thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải biết tôi đã tin vào ai.
Khủng hoảng lớn nhất là khủng hoảng niềm tin:
niềm tin vào Thiên Chúa và niềm tin vào con người.
Cả hai niềm tin nâng đỡ nhau và cho toi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào lời chứng của các bạn,
nên ông chậm tin vào việc Chúa phục sinh.
Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm tin vào Chúa,
ông sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
Chúng ta là những kẻ không thấy mà tin.
Không thấy bằng mắt thường,
nhưng vẫn thấy bằng con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy nghiêm túc.
Người tin là người thấy bằng trái tim.
Họ thấy được Đấng Vô Hình rõ hơn cả cái hữu hình.
Kitô hữu là người tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa.
Thấy Thiên Chúa hiện diện như người Cha nhân từ.
Thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người trên trái đất,
sống chết chỉ vì say mê Cha và say mê con người
và đã sống lại để cho cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy mọi người là con cái Cha và là anh em của nhau.
Dù những điều chúng ta tin thật là mầu nhiệm,
nhưng đó không phải là chuyện mơ hồ, viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ tin vào những người đã thấy.
Ươc gì chúng ta dám mạnh dạn tin Chúa hơn,
để có thể thấy Chúa tỏ tường hơn
và giúp người khác thấy điều mình đã thấy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều khi chúng ta không thấy Chúa chỉ vì chúng ta không dám liều lĩnh tin vào Ngài. Có khi nào bạn gặp được Chúa, vì đã dám quên mình để sống cho tha nhân không?
Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đức tin chưa (mất lòng tin vào Thiên Chúa và vào con người)? Đâu là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng? Đâu là cách bạn giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ. Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u. Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chua.” Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay… nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác…
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ hop. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mo có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối cua Tôma.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay la là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kito là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trơ lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau nay, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu nguyện.
Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thày thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thày Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thày. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thày để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thày đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn đức tin.
Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường.
Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin. Như trường hợp của Tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.
Đó là cộng đoàn đức ái.
Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung…Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân.
Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của các Tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mácđala, của Phêrô và Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma.
Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan toả ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẽ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hoà. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống.
Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô phục sinh, đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
1- Giáo xứ của bạn, khu xóm của bạn, gia đình của bạn đã được ơn phục sinh chưa?
2- Bạn phải làm gì để góp phần đem ơn phục sinh đến cho gia đình, khu xóm, giáo xứ của bạn?
3- Trong những nét đẹp của cộng đoàn phục sinh, theo bạn nét đẹp nào có sức hấp dẫn nhất?
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đa tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, va những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con ngươi, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đa từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
7. “Sự hiện diện của Đấng phục sinh”
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Phục Sinh. Bầu khí ồn ào náo nhiệt của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống, những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối với một số tín hữu, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết. Đây là cái nhìn thiển cận và là một lối suy nghĩ lệch lạc về đời sống Đức tin. Để tránh những hiểu lầm đó, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa Phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau. Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ, để nâng đỡ, soi sáng họ trong đời sống Đức tin.
Một sự hiện diện gây ngạc nhiên: Bài Tin mừng hôm nay kể lại hai cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Cuộc gặp gỡ thứ nhất vào buổi chiều chính ngày phục sinh; cuộc gặp gỡ thứ hai sau đó tám ngày. Trong cả hai cuộc gặp gỡ này, tâm trạng của các môn đệ đều ngạc nhiên và vui mừng. Các ông ngạc nhiên vì chính các ông đã chứng kiến cái chết của Chúa mà nay Người sống lại; các ông vui mừng vì cuộc gặp gỡ này giúp các ông hiểu rõ hơn sứ mạng của Chúa. Cuộc gặp gỡ thứ nhất không có Tôma; cuộc gặp gỡ thứ hai, Tôma là trung tâm chú ý của mọi người. Nếu có những người xác tín vào sự phục sinh của Chúa, thì lại có những người chưa sẵn sàng để đón nhận tin vui này. Tôma đại diện cho những người chỉ tin khi chứng minh được bằng kinh nghiệm.
Một sự hiện diện giúp các môn đệ thêm sức mạnh: Cuộc gặp gỡ với Đấng phục sinh đã làm thay đổi suy nghĩ và quan niệm của các môn đệ. Các ông đã theo Chúa ít là ba năm, nhưng trước biến cố thập giá, con mắt và tâm trí các ông vẫn bị bao phủ. Trường hợp hai môn đệ buồn bã về quê ở Emmaus cho thấy các ông thất vọng trước cuộc khổ nạn của Thày mình. Khi hiện ra với các môn đệ, Đấng Phục sinh đã ban cho các ông Thánh Thần, là Đấng ban sức mạnh. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho các ông, giúp các ông hiểu biết kế hoạch của Chúa Cha. “Như Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em”, không chỉ được sai đi, các môn đệ còn được Chúa ban quyền tha tội và cầm buộc. Tha tội và cầm buộc là chính sứ mạng của Chúa Giêsu. Từ nay, các ông lên đường, có Chúa ở với các ông. Các ông không còn sợ hãi, vì các ông hoạt động nhân danh Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Một sự hiện diện toả sáng niềm vui. Sự hiện diện của Đấng phục sinh tác động và ảnh hưởng đến các tông đồ cũng như cộng đoàn tín hữu. Thánh Luca đã kể về một cộng đoàn tín hữu chỉ có một lòng một ý. Mọi người đều chuyên tâm cầu nguyện và chia sẻ bác ái. Kinh nghiệm về Đấng phục sinh đã giúp họ loại bỏ những bất đồng, để sống Đức tin. Trở về với nhân vật Tôma, ông không còn thách thức Chúa nữa, nhưng tâm phục khẩu phục. Lời thưa: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” vừa là lời tuyên xưng Đức tin, vừa là lời sám hối chân thành. Đó cũng là tâm tình yêu mến chân thành mà người môn đệ bày tỏ với Thày mình. Hai môn đệ Emmaus đã vui mừng trở về Giêrusalem ngay trong đêm để kể lại với anh em mình về Đấng phục sinh. Tôma tuyên xưng đức tin với niềm vui và tình yêu mến. Mỗi chúng ta cũng vui mừng vì cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Đấng đã chết và đã sống lại.
Chúng ta cử hành mầu nhiệm Phục sinh với niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa. “Phúc cho những người không thấy mà tin”. Tin là chấp nhận một điều dù con mắt không nhìn thấy. Tin cũng là chấp nhận một chuỗi những điều bị coi như nghịch lý so với quan niệm thông thường. Quả vậy, còn gì “nghịch lý” hơn là một người đã chết rồi sống lại? Còn gì “nghịch lý” hơn một người đã sống cách đây hai ngàn năm, mà hôm nay vẫn đang hiện diện giữa chúng ta? Thiên Chúa quyền năng cũng là Thiên Chúa của những nghịch lý ấy, và Ngài làm cho những nghịch lý trở thành hiện thực.
“Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tn vào Người thì sẽ không phải thất vọng.
Chúa nhật II Phục sinh cũng là Chúa nhật kính Lòng Chúa thương xót. Cuộc đời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Người, cuộc khổ nạn thập giá và phục sinh, tất cả đều diễn tả lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Nhận ra lòng thương xót của Chúa, chúng ta được mời gọi thực thi lòng thương xót đối với anh chị em đồng loại, để tình thương của Chúa lan toả đến mọi người, mọi môi trường xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô ước mong nơi nào có cộng đoàn tín hữu, nơi đó sẽ trở thành một linh địa của lòng thương xót. Đây cũng là điều đã thực hiện nơi cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem mà sách Công vụ đã kể lại.
“Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
Bình an là một khát vọng của con người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thế nhưng, có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hưởng một sự bình an toàn dien. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình và có thể ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai hiểu thấu được lòng người, để có thể đem lại một sự bình an vào tận cõi thẳm sâu ben trong, bởi vì ít ai có được sự bình an đích thật ngay trong cõi lòng mình, đễ rồi có thể chia sẻ cho người khác.
Con người chỉ có thể kiến tạo sự hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sống ngầm vẫn sôi sục ở đáy lòng. Vì thế, hòa bình trên thế giơi từ trước cho đến nay thường chỉ là một nền hoàn bỉnh giả tạo và mong manh. Dĩ nhiên, có được nền hòa bình ấy vẫn còn tốt hơn là không chi, hay chỉ biet lao mình vào lửa đạn chiến tranh.
Sự bình an mà Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại không phải là loại bình an đó, nhưng là một sự bình an của chính tâm hồn, mà Ngài đã có được khi chến thắng tội lỗi, bằng cái chết của Ngai trên thập giá. Sự bình an của Đấng đã yêu thương chúng ta cho đến cùng, khi chấp nhận hy sinh mạng sống cho chúng ta. Nói cách khác, đó là sự bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sư chia sẻ chính mình Ngài cho chúng ta. Sự bình an của Đấng giờ đây cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, vì không còn thuộc về mình, nhưng đã thuộc trọn về những người mình yêu thương. Thánh Phaolô gọi đó là sự bình an của thập giá, và như lời thánh tông đồ đã xác quyết: Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại sự bình an cho muôn loài dướt đất và muôn vật trên trời.
Như vậy, bình an của thập giá là bình an của Đấng đã lấy chính máu mình làm phương tiện thiết lập giao ước mới, hay có thể nói một cách cụ thể hơn, đó là chất keo dính, gắn bó nhận loại vơi Ngài và găn bó nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xoa bỏ tội lỗi, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hỏa giải với Chúa và trở nên một thân thể duy nhất.
Như vậy, nhờ thập giá, Chúa Giêsu đã hòa giải nhan loại với Thiên Chúa, cũng như đã hòa giải nhân loại với nhau, từ đó phát sinh ra sự bình an chân thật. Chính vì thế, để có được sự bình an Chúa trao ban, chúng ta cũng phải sống tinh thần hòa giải. Hòa giải với Thiên Chúa bằng cách xóa bỏ mọi tội lỗi, cũng như hòa giả với anh em bách cách xóa bỏ mọi hận thù. Và như chúng ta thường xác quyết: Sự bình anh chính là hoa trái của việc hòa giải với Thiên Chúa và với anh em.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
HÃY NĂNG CHẠM VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Chúa Nhật II Phục sinh trước đây được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi nhưng vẫn là một, không hề đối nghịch. Vả lại, đó cũng chính là ước muốn của Chúa Giêsu đã mặc khải với Thánh Faustina. Qủa thế, năm 1980, với tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chọn Chúa Nhật II Phục sinh là ngày kính nhớ Lòng Chúa Thương Xót Chúa.
Khi nói đến Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), Thánh Kinh Cựu ước viết: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra” (Kn 11:24). Hay “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3)… Còn Tân ước thì kể: dụ ngôn về đứa con hoang đàng (Lc 15,14-32), dụ ngôn Con Chiên Lạc (Lc 15,4-7) và dụ ngôn Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15,8-9)… Nhưng, tựa trung LCTX được mặc khải qua cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, có nghĩa là LCTX của Chúa thể hiện nơi mỗi người chúng ta đó là ơn tha thứ và cứu độ.
Qủa thế, Chúa Giêsu thực hiện LCTX bằng việc “thi ân giáng phúc, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10,38), “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9,35), cho kẻ chết sống lại (Ga 11,1-44) và rồi chính Ngài Ngài để mình bị bắt, bị đối xử tệ, bị kết án, bị đánh đòn, đội vòng gai, bị đóng đinh vào Thập giá, chết và sống lại. Như vậy, Thập giá và phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa muôn đời dành cho con người. Qủa thế, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Cho nên, Lòng Thương Xót Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tin vào Chúa Con bị đóng đinh, chịu chết và sống lại là được thấy Chúa, vì Chúa đã sống lại và chúng ta cũng sẽ được sống (Ga 14,9), nghĩa là tin tình yêu đó hiện hữu trong thế giới này sẽ làm cho chúng ta được cứu độ ngay đời này và đời sau. Cứu độ là gì? Cứu là cứu lấy, độ là đưa qua. Chúa cứu chúng ta tội lỗi đưa ta đến sự thánh thiện, Chúa cứu lấy cái chết phần hồn đưa ta đến phục sinh cả hồn lẫn xác.
Cụ thể, trang Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu tỏ các vết sẹo tình yêu Chúa, tức là các vết sẹo của LTXC ngang qua cho các tông đồ, đặc biệt ông Tôma đã xem tận mắt và tận tay đụng vào những vết sẹc của Chúa. Người ta nói: “tốt khoe, xấu che”, hơn nữa theo tâm lý thường tình khi nhìn lại những vết sẹo, gợi lại nỗi đau đớn khổ sở nên chẳng ai muốn nhìn, chẳng ai dám khoe, ấy vậy mà Chúa Giêsu hôm nay khoe, tại sao? Vì đưa xem vết sẹo tình, Chúa Giêsu mời chúng ta đụng vào trái tim Đức Giêsu, một Chúa có trái tim đầy tình yêu tha thiết, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu. Cho xem và đụng vết sẹo tình là cho biết và đụng vào Chúa Giêsu Phục sinh đang hiện diện giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá, máu và nước đổ ra để chúng ta được chữa lành, biến đổi tận cân từ tâm hồn ra thể xác nhờ tình yêu và quyền năng của Chúa. Xem và đụng vào sẹc tình là đụng đến Chúa phục sinh, chính nguồn bình an đương nhiên, chúng ta cũng chạm và có được bình an của Chúa. Xem và đụng vào sẹo tình là đụng đến Chúa phục sinh, tin vào Ngài chúng ta sẽ được phục sinh đồng hình đồng dạng và đồng tư tưởng, lời nói và việc làm như Ngài.
Cho nên, bài đọc 2, Thánh sử Gioan nói: “Ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1 Ga 5:1). Chúng ta được Thiên Chúa tái sinh, vậy chúng ta phải yêu thương yêu thương nhau, nếu không thì chúng ta là những người ích kỷ và nói dối. Yêu thương cũng là thương xót. Vì vậy, Thánh Gioan nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (1Ga 5,2-4). Vì vậy, chẳng lạ chi, bài đọc hai kể “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”.
Vậy, LTXC thật tuyệt với biết bao! Chúng ta được tận hưởng LTXC thì chúng ta phải thực thi LCTX với tha nhân: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Trong tâm tình đó, Tông đồ Giuđa gởi lời chúc tới tất cả chúng ta: “Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương” (Gđ 1,2), và “hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (Gđ 1,21).
Cho nên, ngày 13 tháng Ba 2015, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố mở một “Năm Thánh đặc biệt” gọi là “Năm Thánh Lòng Thương xót”. Năm Thánh bắt đầu với việc mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô vào ngày 08-12-2015, Đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, và kết thúc vào ngày 20-11-2016, Đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ. Với “Năm Thánh Lòng Thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đặt trọng tâm nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng mời gọi các tín hữu trở về với Người. Gặp gỡ Chúa sẽ giúp chúng ta biết thực thi lòng thương xót.
Đức Kitô phục sinh là hiện thân cuối cùng của LCTX, dấu hiệu sống động trong lịch sử nhân loại cho đến tận thế. Xin cho mỗi người chúng biết chạy đến đụng chạm vào LTXC qua việc sống Lời Chúa và Rước Mình Máu Ngài để được Chúa xót thương chữa lành hồn xác chúng ta hằng ngày. Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin thương xót chúng con. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nâng đỡ chúng con luôn. Amen.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ, không phải chỉ để an ủi và củng cố niềm tin của các ông sau những giây phút kinh hoàng của cuộc thương khó, mà còn trao ban cho các ông một quà tặng và một sứ mạng. Vay quà tặng ấy là gì? Sứ mạng ấy là gì?
Quà tặng ấy trước hết là niềm vui. Đây không phải là một niềm vui dễ dãi, hời hợt, nhưng là một niềm vui sâu sắc, đằm thắm mà người ta chỉ có thể đạt được, sau khi đã vất vả khó nhọc làm một điều tốt. Nó giống như niềm vui của một người trồng lúa khi mùa gặt đến, niềm vui của một bà mẹ lúc sinh con.
Tiếp đến quà tặng ấy là sự bình an. Đây chính là kết quả của một cuộc chiến đầy cam go với tội ác, để rồi sau cùng đã được hoà giải với Thiên Chúa, cũng như với anh em.
Sau hết quà tặng ấy còn là chính Chúa Thánh Thần như lời Ngài đã phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Thế nhưng, các ông nhận lấy Chúa Thánh Thần cũng như một số quyền hành khác nữa, không phải để hưởng thụ một mình, mà còn phải chia sẻ với anh em hầu chu toàn sứ mạng đã được trao phó đó là sai đi.
Đúng thế, các tông đồ ngày xưa cũng như Giáo Hội ngày nay đã nhận được sứ mạng đi tới với con người để cứu vớt họ. Trải qua dòng thời gian, các tông đồ cũng như Giáo Hội không ngừng khi khắp thế giới, gặp gỡ con người thuộc mọi chủng tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi nền văn minh cũng như thuộc mọi thể chế chính trị, để minh chứng rằng Đức Kitô đã phục sinh. Ngài đang sống và Ngài là Đấng cứu độ. Giáo Hội cố gắng xoá bỏ khoảng cách giữa Phúc Âm và nhân loại, giữa Đức Kitô va con người, đồng thời cố gắng hiện diện với mọi người, để qua hành động của mình, người ta sẽ cảm thấy có Đức Kitô hiện diện với họ.
Do đó một câu hỏi quan trọng cần phải được đặt ra cho mỗi người chúng ta, đó là: Qua đời sống, cũng như qua hành động, liệu chúng ta có ra sức làm cho Đức Kitô hiện diện với những người đang cùng sống chung với chúng ta hay không? Liệu chúng ta có đem tinh thần của Ngài vào trong môi trường chúng ta đang song và trong những sinh hoạt chúng ta đang thực hiện hay không? Vậy chúng ta rao giảng Đức Kitô phục sinh bằng những cách nào? Dĩ nhiên không phải chỉ bằng lời nói, mà hơn thế nữa, cách hữu hiệu hơn cả đó là làm chứng bằng chính cuộc sống và hành động. Bởi vì gương sáng và việc làm của cuộc sống bao giờ cũng có tính cách hấp dẫn và lôi cuốn đối với những người xunh quanh.
Và để kết luật tôi xin gợi lại nơi đây tư tưởng của Đức Thánh Cha Phaolô VI trong Tông huấn về việc Loan báo Tin Mừng, ngài viết như sau: Đối với Giáo Hội, phương thế Phúc Âm hoá thứ nhất vẫn là làm chứng bằng một đời sống Kitô hữu đích thực, tức là sống phó thác cho Thiên Chúa, đồng thời cũng là hiến thân cho anh em bằng một lòng nhiệt thành không giới hạn.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
ĐỨC TIN LÀ MỘT ÂN BAN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Người Công Giáo Việt Nam chúng ta thường hay nhận xét một biến cố hay một nhân vật nào đó, ít có mấy người để ý đến điều đang tiềm ẩn đằng sau những mặt nổi hay chiều sâu bên trong nơi những con người mà ta nhận xét. Vì thế, nhiều khi chúng ta khá chủ quan để kết luận một vấn đề, nên dễ dẫn đến chuyện đóng khung sự kiện hay đối tượng mà ta đánh giá trong một khoảng tham chiếu rất phiến diện dựa trên chuẩn mực mà chính ta đưa ra….
Với thánh Tôma mà hôm nay Tin Mừng nhắc đến, ngài cũng chịu sự nhận xét khá tiêu cực của nhiều người trong chúng ta, qua cái nhìn và lối suy diễn rất hiện sinh: “Tôma, vị Tông đồ cứng lòng tin”.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Lời Chúa và ân sủng do lòng thương xót của Người, chúng ta nhận thấy một điều quan trọng nơi câu chuyện Tin Mừng ngang qua nhân vật và cách biểu cảm của thánh Tôma.
Đức Tin là một ân ban của lòng thương xót Chúa cho ai thì người đó được. Điều này đã được Đức Giêsu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Cha khi nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Quả thật, không phải ai muốn mà được, nhưng còn phải được chính Thiên Chúa là người dẫn lần ta đến với đức tin như chính thánh Phaolô đã viết: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29).
Tuy nhiên, đức tin ấy không thể trưởng thành mà không có môi trường, không có cộng đoàn. Vì thế, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được lãnh nhận hồng ân đức tin ấy trong tương quan và ngang qua cộng đoàn.
Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại ở một bầu khí đức tin cộng đoàn thì chưa đủ, mà nó lại phải trở về với mối tương quan cá vị giữa ta với Chúa, để đức tin của chúng ta mang tính cá biệt với Thiên Chúa, rồi sau đó trở về hòa nhập với cộng đoàn để được lớn mạnh.
Đây cũng là tiến trình đức tin của Tôma mà Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta.
Niềm tin của thánh nhân vào Đức Giêsu, Đấng Phục sinh được khai mào từ lời chứng của cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25). Đây là lời klhẳng định của các Tông đồ khi Tôma vắng mặt trong biến cố Đức Giêsu hiện ra với các ông vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi sống lại từ cõi chết.
Với Tôma, một người hiện sinh về việc tìm tòi cốt lõi của vấn đề, thì lời chứng của cộng đoàn chỉ đóng một vai trò dẫn đường để đưa ngài tới chỗ chính mình phải là người chủ động cảm nghiệm trực tiếp vấn đề mang tính cá vị: “Nếu tôi không thấy tôi không tin” (x. Ga 20, 25). Qua câu nói này của thánh Tôma, chúng ta nhận thấy ngài là một con người ngay thẳng, chân tình và rất thực tế.
Chính vì điều này mà Đức Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót đã mặc khải trực tiếp khi tỏ tình thương đối với vị Tông đồ này cách đặc biệt sau 8 ngày.
Quả thế, khi hiện ra với các Tông đồ lần này, Đức Giêsu đã nhắm thẳng vào Tôma, nên Ngài đã lên tiếng: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20, 27). Đứng trước lòng thương xót của Đấng mà thánh nhân đang đi tìm, ngài đã không dám thực hành điều đã nói với các Tông đồ là: sỏ tay vào vết đinh, thọc tay vào cạnh sườn…, mà ngay lập tức, ông đã quỳ mọp xuống và tuyên xưng niềm tin của mình các mạnh mẽ mang tính cá vị và tuyệt đối: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Đây là đỉnh cao của lời tuyên tín Phục Sinh nơi Tôma.
Nhờ vào lòng thương xót của Đức Giêsu cách đặc biệt, nên cũng từ đây, Tôma nhận ra một chân lý rằng: tin rồi mới thấy cách trọn vẹn. Thấy Đấng Phục Sinh thì cũng thấy Đấng là Thầy của mình trước đó. Thấy Đấng Phục Sinh cũng là thấy Thiên Chúa của mình. Điều này đã đem lại một sự mãn nguyện mang tính tuyệt hảo và hạnh phúc viên mãn của Tôma.
Từ những trải nghiệm đức tin của thánh Tôma, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta xem lại những xác tín và biểu hiện đức tin của mỗi người.
Thật vậy, chúng ta khám phá ra một chân lý rằng: Đức tin không chỉ một phía từ Thiên Chúa ban, cũng chẳng phải do sự cố gắng thuần túy cá vị, mà nó được kết hợp cả hai từ trên xuống dưới, tức là do lòng thương xót của Thiên Chúa ban nhưng không cũng như nghị lực rất cố gắng của mỗi người và được nuôi dưỡng bởi cộng đoàn.
Điều này lý giải cho chúng ta thấy rằng: nếu bất kể cái gì ta cũng thuần phục và gán cho ơn thánh thì sẽ rơi vào tình trạng: “Kính nhi viễn chi” hay không bao giờ dám bàn luận và cũng chẳng cần phải đào sâu hơn nữa, bởi lẽ “mọi chuyện đã rồi” nên chỉ tin mà thôi. Tin như thế, có thể rơi vào tình trạng cả tin rồi lại chẳng tin! Nó giống như số phận của những hạt giống bên bụi gai, vệ đường và đá sỏi.
Còn nếu dựa vào lý trí thuần túy, chúng ta có thể rơi vào trạng thái phỏng chiếu đức tin của mình trên những gì mắt thấy, tai nghe, hay cân đo đong đếm được và phải đáp ứng nhu cầu thỏa mãn sự hiếu tri. Nếu lấy điều này làm tiêu chuẩn, chúng ta rất có thể rơi vào sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, vô cảm và bất tín giống như những Kinh sư và người Pharisêu.
Mặt khác, nếu chỉ dựa vào tập thể, tức là đức tin của tôi phụ thuộc vào cộng đoàn, thì đức tin mạnh mẽ hay là yếu ớt của cộng đoàn cũng là tâm thức của tôi. Tin như thế, không chừng chúng ta đang lấy cộng đoàn làm bình phong hay ngụy biện cho sự hời hợt, giả tạo và hình thức của mình. Điều này có nguy cơ rơi vào tình trạng: “Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì lìa nhau ra”. Rất giống như đám đông dân chúng trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta một kinh nghiệm được lấy từ mẫu thức của thánh Tôma.
Trước tiên, đừng cả tin mọi chuyện. Cần phải suy thấu dựa trên ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa qua Kinh Thánh, Giáo Huấn của Giáo Hội. Lấy Lời Chúa làm nền tảng, Giáo Huấn của Giáo Hội làm điểm tựa cho niềm tin của mình.
Thứ hai, “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin!” điều này soi sáng cho chúng ta: Không phải bất cứ cái gì cũng đo lường được bằng đơn vị định lượng của khoa học, nhưng nhiều khi nó còn được đo bằng từ ánh mắt đến trái tim, từ lòng với lòng. Bởi lẽ, nhận thức của con tim đôi khi khác hoàn toàn với nhận thức của lý trí.
Cần nắm vững điều căn cốt của đức tin chính là: vun đắp, cộng tác với ơn thánh của Thiên Chúa để đức tin do lòng thương xót của Người ban được lớn lên trong tâm hồn, đồng thời làm sao cho đức tin của mình được chung nhịp đập với đời sống đức tin của cộng đoàn.
Cuối cùng, đức tin của chúng ta phải được nuôi dưỡng trong mối tương quan cá vị từng người, để qua đó, ta mới có đủ cảm thức và nhạy bén thực sự với ơn Chúa và hòa nhập được với đời sống cộng đoàn. Có thế, chúng ta mới vươn tới một đức tin vừa mang tính khả giác, vừa mang chiều kích ân sủng và mầu nhiệm. Điều ta muốn thấy mà không thấy thì hãy bắt đầu bằng đức tin, để từ đó, đức tin sẽ dẫn ta đến điều ta không thấy và điều ta không thấy mà tin sẽ đem lại cho mình hạnh phúc trọn vẹn như lời Đức Giêsu đã nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã tỏ lòng thương xót đến thánh Tôma. Xin Chúa cũng thương xót đến chúng con như Chúa đã thương xót đến thánh Tôma khi xưa. Tất cả những ước nguyện đó, con xin tín thác nơi lòng thương xót Chúa. Amen.
Một phần nào đó, tất cả chúng ta đều giống Tôma. Thực vậy, chúng ta chỉ tin một khi đã thấy. Tinh thần khoa học ngày nay làm cho chúng ta đặt lại tất tất cả các vấn đề. Chúng ta phê bình, chúng ta phân tích, chúng ta thí nghiệm, chúng ta kiểm chứng trước khi ưng thuận.
Rồi từ đó chúng ta bước sang lãnh vực đức tin. Chúng ta đòi hỏi đức tin phải có những lý lẽ hợp lý, xác thực như những sự kiện của khoa học. Vì thế, những chân lý mạc khải, đối với chúng ta thật khó mà chấp nhận.
Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn tai hại, chúng ta cần phải xác định: đối tượng của đức tin khong phải là đối tượng của khoa học. Phạm vi của khoa học là vật chất, cho nên nó đòi hỏi những sự vật cụ thể, khả dĩ có thể thực nghiệm được. Còn phạm vi của đức tin là siêu nhiên, cho nên nó đòi hỏi những chân lý khả dĩ đem lại cho con người sự giải thoát. Và những chân lý ấy phải được dựa trên uy quyền và lời chứng của Đức Kitô. Khoa học chỉ có thể biến đổi cái thế giới vật chất bên ngoài, nhưng đức tin sẽ biến đổi cái thế giới tâm linh bên trong của mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy khi Chúa hiện đến, Tôma liền nhận ra Ngài và quỳ gối xuống tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Tất cả mọi nghi ngờ đều tan biến. Tôma chấp nhận toàn bộ thực tế và nhìn nhận Đức Kitô, người đã chết mà nay lại đang sống. Ông không cần sờ vào vết thương của Ngài, chỉ sự hiện diện của Ngài, một sự hiện diện đầy yêu thương và uy quyền đã củng cố niềm tin và thay đổi hẳn con người Tôma.
Và như thế, chúng ta sẽ rút ra được một bài học quý giá, đó là trong phạm vi đức tin, chúng ta cần tìm tòi, cần đào sâu để có được một đức tin kiên vững. Đó mới chỉ là bước thứ nhất. Bởi vì có đức tin mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là phải sống đức tin. Hay nói một cách khác liệu đức tin có đủ mạnh để làm chuyển biến cuộc đời, cũng như đổi thay chính con người chúng ta hay không?
Muốn được như thế, không gì hơn là hãy sống gắn bó và tiếp xúc thân mật với Đức Kitô. Sự tiếp xúc này, ngày xưa đã biến đổi các môn đệ từ những người u mê dốt nát, hèn nhát và sợ sệt trở thành những người thông suốt giáo lý Tin Mừng và nhất là can đảm loan truyền và làm chứng cho Tin Mừng đó. Lạy Đức Kitô phục sinh, xin hãy biến đổi và uốn nắn con người chúng con.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Chúa nhật II Phục Sinh cũng là Chúa nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Bài Tin mừng trong Chúa nhật này được đọc chung trong cả ba năm A,B,C, kể lại hai lần hiện ra của Đức Kitô Phục sinh.
Tôma là nhân vật đáng chú ý nhất trong trình thuật này. Bởi vì, ông không có mặt khi Đức Kitô Phục sinh hiện ra lần thứ nhất. Mặc dầu, sau đó các môn đệ khác báo cho ông biết “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Nhưng, chẳng những ông không tin mà còn thách thức rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.” (Ga 20,25). Thực ra, ông Tôma không được diễm phúc thấy Đức Kitô Phục sinh hiện ra lần thứ nhất là do lỗi tại ông. Do ông không ở với các Tông đồ khác. Do ông sống thiếu liên kết với Tông đồ đoàn. Vậy mà chẳng những ông không nhận lỗi của mình mà còn cả gan thách thức. Nhưng Đức Kitô Phục sinh là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài không chấp nhất Tôma. Trái lại, Ngài còn đáp ứng đòi hỏi của Tôma. Ngài đã hiện ra và bảo Tôma rằng: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” (Ga 20,27). Như vậy, có thể nói vì Tôma mà có cuộc hiện ra lần thứ hai này.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, phải sống liên kết với Giáo hội, cộng đoàn, gia đình: là thành phần của Giáo hội, mỗi người chúng ta cần phải sống liên kết với Giáo hội. Sự liên kết đó được thể hiện qua việc tuân phục Đức Thánh Cha, Đức Giáo Mục Giáo phận và những người được Ngài bổ nhiệm coi sóc chúng ta. Sự liên kết đó được thể hiện qua việc sống hiệp thông và tuân phục những người đại diện cộng đoàn: trong giáo xứ có cha xứ; trong cộng đoàn dòng tu có bề trên; trong gia đình có ông bà, cha mẹ, anh chị; trong các ban đoàn, hội đoàn luôn có người đứng đầu. Nếu biết sống hiệp thông và liên kết không những làm cho Giáo hội, cộng đoàn, gia đình…được vững mạnh mà còn giúp cho chúng ta có cơ hội sống tốt hơn. Còn nếu chúng ta sống riêng lẽ, thiếu sự liên kết, hiệp thông thì không những sẽ mất hạnh phúc gặp Chúa như Tôma mà hậu quả còn tệ hại hơn thế nữa. Về phạm vị Giáo hội: chúng ta vẫn thấy có những người, những gia đình sống thiếu sự liên kết, tuy họ có danh sách trong giáo xứ nọ giáo xứ kia nhưng vẫn không tham gia sinh hoạt, không đóng góp công việc chung; có những người xưng mình là kitô hữu nhưng vẫn “bắt cá hai tay”, nghĩa là họ vẫn đi lại với các tổ chức chống phá Giáo hội nhằm mục đích trục lợi; có những người công giáo nhưng theo phong trào “Sứ điệp từ trời”, họ không tuân phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Về phạm vi gia đình: có những người vợ người chồng sống thiếu liên kết nên đã xảy ra chuyện “chồng ăn chả vợ ăn nem”; có những người con không nghe lời cha mẹ dạy bảo, thậm chí còn bỏ nhà ra đi, dần dần lây nhiễm với bạn bè xấu nên trở thành những kẻ trộm cắp, nghiện ngập và cuối cùng đã đẩy mình vào con đường lao lý tù tội. Đó là hậu quả của những người sống thiếu liên kết với Giáo hội, với cộng đoàn và với gia đình.
Thứ hai, phải có tinh thần tha thứ: Đức Kitô đã tha thứ cho biết bao nhiêu người tội lỗi. Ngài tha thứ tội lỗi cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài trên Thánh giá. Ngài tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài không nhớ đến tội chối Thầy của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ khác, sự cứng lòng tin của ông Tôma. Ngài còn dạy Phêrô không chỉ tha thứ bảy lần mà còn bảy mươi lần bảy, tức là phải tha thứ luôn luôn. Như vậy, tinh thần tha thứ là một đặc tính của Lòng Thương Xót Chúa và chắc chắn đó cũng phải là đặc tính của mỗi người kitô hữu chúng ta.
Là con người thì không ai tránh khỏi sai lỗi: chúng ta sai lỗi với Chúa, sai lỗi với Giáo hội, giáo xứ, cộng đoàn; chúng ta sai lỗi với các thành viên trong gia đình: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em; chúng ta sai lỗi với những người xung quanh, những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Người khác cũng có thể sai lỗi với chúng ta. Chính vì thế, khi chúng ta sai lỗi thì hãy thành tâm nhận lỗi của mình và xin sự tha thứ. Còn khi người khác có lỗi với chúng ta thì hãy sẵn sàng tha thứ cho họ. Tha thứ chẳng những giúp chúng ta sống thoải mái, nhẹ nhàng hơn mà còn là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta như lời Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc: “xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.” (Mt 6,12)
Thứ ba, phải sống tinh thần chia sẻ: Chia sẻ về niềm tin, chia sẻ về của cải vật chất.
Chia sẻ niềm tin: sau khi gặp Đức Kitô phục sinh bà Maria Mađalêna đã đi báo tin cho các Tông đồ, các Tông đồ và các môn đệ báo tin cho nhau. Chẳng những thế, sau ngày lễ Ngũ Tuần, các ngài đã ra đi khắp nơi để rao giảng và làm chứng về sự phục sinh của Đức Kitô. Vì sự xác tín mạnh mẽ vào sự Phục sinh của Đức Kitô, nên bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu phục được khoảng 3000 người trở lại. Và trải qua 20 thế kỷ, Giáo hội tiếp tục loan báo Tin mừng Phục Sinh cho những người khác. Từ con số 12 hiện nay số người công giáo có khoảng 17% dân số thế giới. Giáo hội vẫn luôn mời gọi chúng ta tiếp tục chia sẻ Tin mừng Phục sinh cho những người khác tùy vào khả năng và hoàn cảnh sống của mình.
Chia sẻ của cải vật chất: Trong bài đọc I hôm nay, sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy tinh thần chia sẻ của các kitô hữu thời sơ khai. Mọi người trong cộng đoàn đều đồng tâm nhất trí với nhau, họ yêu thương nhau như anh em ruột thịt. Mọi người đều để tất cả của cải mình có làm của chung: Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các Tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. (x. Cv 4,34-35). Việc làm này trở thành gương sáng cho những người xung quanh. Cho nên, các tín hữu rất được mọi người lương dân mến chuộng. Tinh thần chia sẻ của các tín hữu tiên khởi là bài học cho mỗi người chúng ta hôm nay. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết quảng đại dâng cúng của cải mình có làm của chung để Giáo hội có điều kiện làm việc bác ái, từ thiện. Đồng thời, mỗi người biết quảng đại chia sẻ cho những người nghèo, những người tàn tật, ốm đau tùy hoàn cảnh và địa vị của mình. Vì “hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!” (Lc 6,38).
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin tăng thêm niềm tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống liên kết với Giáo hội và với nhau, luôn có tinh thần tha thứ và biết chia sẻ niềm tin và của cải vật chất cho những người khác. Amen.
14. Mầu nhiệm Lòng Chúa Thương Xót
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúa Nhật II Phục sinh trước đây được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Hai cách gọi nhưng vẫn là một, không hề đối nghịch. Vả lại, đó cũng chính là ước muốn cú Chúa Giêsu đã mặc khải với Thánh Faustina.
Kinh thánh luôn nói đến LCTX, đặc biệt trong Phúc âm có một số dụ ngôn “điển hình” về Lòng Chúa Thương Xót: Người Samari Tốt Lành (Lc 10:30-37), Con Chiên Bị Mất (Lc 15:4-7), Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15:8-10), và Người Cha Nhân Hậu (Lc 15:11-32).
Sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4:32). Đó là một thế giới đại đồng lý tưởng biết bao!
Alleluia! “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:24). Các Tông đồ đã có thể can đảm “làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại”, đó là “nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban” và “Ngài ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng” (Cv 4:33). Đặc biệt, “trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4:34-35).
Điều đó chứng tỏ người ta đầy Ơn Chúa và thực sự có Chúa trong tâm hồn. Khi có Chúa trong mình, người ta biết khước từ cái-TÔI-đáng-ghét, biết sống đại lượng hơn, biết CHO hơn là NHẬN, biết sống VỚI và sống VÌ người khác. Đó là cách sống mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh.
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” là điệp ca trong Tv 118, đặc biệt trong Tv 136. Tác giả Thánh vịnh cho biết: “Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118:13-14), bởi vì “tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:15). Thiên Chúa luôn làm những việc lạ lùng, hoàn toàn “ngược đời”, ngoài sức tưởng tượng của con người: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Vì “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” và là “ngày Chúa đã làm ra”, nên chúng ta “hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:23-24).
(1 Ga 5:1-6)
Thánh sử Gioan nói: “Ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1 Ga 5:1). Tôi được Thiên Chúa tái sinh, bạn cũng được Thiên Chúa tái sinh, vậy tôi phải yêu thương bạn, nếu không thì tôi là chỉ người ích kỷ và nói dối. Yêu thương cũng là thương xót. Thánh Gioan phân tích: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (1 Ga 5:2-4). Thánh Gioan nói “có nặng nề gì đâu”, thế nhưng lại không hề đơn giản, nếu không cầu nguyện và cố gắng thì không dễ thực hiện “luật nhẹ nhàng” ấy của Chúa.
Chúng ta thắng được thế gian là nhờ lòng tin, không tin thì không thể làm gì, điều này chứng tỏ lòng tin cực kỳ quan trọng, Chúa Giêsu đã luôn nhắc nhở về lòng tin. Thánh Gioan đặt vấn đề: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?” (1 Ga 5:5). Câu hỏi đó cũng chính là câu trả lời. Thánh Gioan giải thích luôn: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ Nước và Máu; không phải chỉ trong Nước mà thôi, nhưng trong Nước và trong Máu. Chính Thần Khí Chúa là chứng nhân, và Thần Khí Chúa là sự thật” (1 Ga 5:6). Máu và nước rất mềm nhưng lại không gì mạnh bằng, thiếu máu và nước thì không ai khả dĩ sống!
Chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Ngài cho các ông xem để trấn an và củng cố đức tin cho họ. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21). Rồi Ngài thổi hơi vào họ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23). Ngài “sai đi” là Ngài trao trọng trách, nhưng Ngài cũng ban Chúa Thánh Thần để hỗ trợ chúng ta hằng ngày.
Chúa Giêsu đã dùng Máu và Nước để rửa sạch tội lỗi và tái sinh chúng ta, đồng thời ban Thần Khí Chúa để giúp chúng ta can đảm làm chứng về LCTX vô biên, vì Ngài biết chúng ta còn “yếu cơ” lắm!
Một người trong Nhóm Mười Hai là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20:25). Động thái của ông Tôma cũng chính là động thái của chúng ta, vì đôi khi ngay lúc chúng ta nói tin nhưng hành động của chúng ta lại không chứng tỏ niềm tin đó, thậm chí là trái ngược!
Và tám ngày sau, các môn đệ lại có mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20:27). Ông Tôma hết hồn và choáng váng, liền thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20:28). Ông không nói tin hay không, nhưng câu “lạy Chúa” của ông đã nói lên tất cả. Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Nếu chúng ta thật lòng tin Chúa-Giêsu-tử-nạn-và-phục-sinh thì chúng ta có phúc hơn Tông đồ Tôma đấy!
Thánh sử Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:30-31).
LCTX thật là mầu nhiệm biết bao! Chúng ta được tận hưởng LCTX thì chúng ta phải thực thi LCTX với tha nhân: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:32). Trong tâm tình đó, Tông đồ Giuđa gởi lời chúc tới tất cả chúng ta: “Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương” (Gđ 1:2), và “hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (Gđ 1:21).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin thương xót chúng con. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Chân phước Gioan Phaolô II nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Đại lễ Lòng Chúa Thương Xót
Qua Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938, Dòng Đức Mẹ Thương Xót – O.L.M., Our Lady of Mercy), Chúa Giêsu đã muốn Giáo Hội dùng Chúa Nhật II Phục Sinh để đặc biệt tôn kính Lòng Chúa Thương Xót (*). Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, vấn đề là chúng ta phải biết tin vào tình yêu thương đó, như Chúa Giêsu đã dạy: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Có nhiều dụ ngôn nói về Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), nhưng hôm nay, nhân vật “nổi bật” được nhắc tới là Tông đồ Tôma – người có “biệt danh” là Tông-Đồ-Cứng-Lòng-Tin. Nhưng tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, vì chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đã thực hiện lòng thương xót trên đồi Gôn-gô-tha, và “đại ca” Dismas là người được hưởng LCTX ngay buổi chiều hôm đó. Thật kỳ diệu xảy ra ngay lập tức nếu chúng ta thật lòng tin vào LCTX.
Đức tin rất quan trọng và rất cần thiết, vì nhờ tin mà sống, như Chúa Giêsu đã xác định với cô Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết ” (Ga 11:25-26). Chính Chúa Giêsu đã sống lại trước sự kinh ngạc của mọi loài, nhờ sự phục sinh của Ngài mà mọi loài nên mới, tưng bừng rộn rã: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:24).
Dù đức tin của chúng ta còn non yếu, nhưng chắc chắn ai trong chúng ta cũng đã và đang được hưởng LCTX qua từng ngày sống. Vì thế, chúng ta phải thực hiện lời khuyên của Thánh Vịnh: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở” (Tv 118:1). Đức từ bi đó cũng chính là lòng thương xót. Niềm hạnh phúc cứ tiếp tục dâng cao, lan tỏa… Và cuối năm nay, ĐGH Phanxicô sẽ mở Năm Thánh Từ Bi Thương Xót, thời gian từ 8-12-2015 tới 20-11-2016.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, “cộng đoàn tín hữu đầu tiên đông đảo lắm, nhưng họ chỉ có một lòng một ý, không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, mọi sự đều là của chung” (Cv 4:32). Họ sống như vậy là sống theo di ngôn của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Đó cũng chính là sống và thực thi lòng thương xót theo Tôn Ý Ngài. Chúng ta đã và đang được Thiên Chúa thương xót thì chúng ta cũng phải biết thương xót nhau. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Kinh Thánh cho biết thêm: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4:33-35). Có Chúa, sống vì Chúa và vì tha nhân, người ta sẽ an tâm, chẳng lo gì cả. Đó mới là hạnh phúc và tự do đích thực!
Kinh Thánh luôn nhắc đi nhắc lại: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-4). Dù là ai, từ dân Ít-ra-en tới nhà A-ha-ron, từ người kính sợ Chúa tới tội nhân, cũng đều hân hoan xưng tụng như vậy. Lời xưng tụng đó cũng chính là lời xưng tụng LCTX bao la muôn thuở. Không xưng tụng sao được, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực”, nhờ vậy mà “tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm”, và dù “Chúa sửa phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết” (Tv 118:16-18). Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi bao la, quá đỗi nhân từ, quá đỗi kỳ diệu!
Phàm nhân không thể nào hiểu nổi, vì LCTX vượt quá trí hiểu của con người. Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Ôi, LCTX cao vời khôn ví, chúng ta chỉ còn biết cúi đầu tôn kính và cảm tạ! Vâng, bức tượng làm sao hiểu nổi người tạc tượng? Thụ tạo làm sao hiểu nổi Tạo Hóa? Chắc chắn như vậy. Và điều kỳ diệu đã thực sự xảy ra: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23).
Nhờ TIN mà được SỐNG. Ngược lại, KHÔNG TIN thì KHÔNG ĐƯỢC SỐNG, tức là PHẢI CHẾT. Tin là khôn ngoan, không tin là ngu dại. Vậy thì tại sao lại không TIN để ĐƯỢC SỐNG đời đời?
Thánh Gioan, con-người-của-tình-yêu, đã lý luận rất lô-gích: “Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người” (1 Ga 5:1-2). Yêu thương liên quan niềm tin, và ngược lại. Hai vấn đề nhưng không thể tách rời.
Thánh Gioan giải thích: “Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta” (1 Ga 5:3-4). Rõ ràng YÊU và TIN là hai “đầu mối” của một sợi dây, không thể có đầu này mà không có đầu kia. Nghe rất đơn giản, luật rất “nhẹ” (có nặng nề gì đâu), thế nhưng lại không hề đơn giản để thực thi cho vuông tròn!
Về “nguồn mạch đức tin”, Thánh Gioan cho biết: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người TIN rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ NƯỚC và MÁU; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật” (1 Ga 5:5-6). Nói gì thì nói vẫn liên quan đức tin, có tin thì mới hành động. Đó là hành động gì? Yêu thương và làm chứng nhân về LCTX.
Vẫn liên quan vấn đề đức tin, trình thuật Ga 20:19-31 kể về việc “độ cứng” trong đức tin của Tông Đồ Tôma Điđymô. Tại sao ông Tôma “nhà ta” lại có “máu” đa nghi như Tào Tháo thế nhỉ? Nói khôi hài theo Việt ngữ, vì tên ông là một câu hỏi. Lúc nào ông cũng thắc mắc: “Đi đi mô?”. Cách hỏi “đi mô” của người miền Trung tức là “đi đâu?”. Thảo nào…!
Tám ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Hôm đó, không biết ông Tôma bận chuyện gì mà vắng mặt, không hiện diện với các Tông Đồ. Nghe các bạn nói Thầy sống lại và đã hiện ra với họ. Ông nhất định không tin, nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Mấy Tông Đồ kia lắc đầu và cũng đành “bó tay”, chẳng biết nói chi cả. Ui da, cứng gì mà cứng như đá xanh thế không biết!
Rồi lại tám ngày sau, các ông lại họp mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa vẫn đóng kín như bưng, con muỗi chui qua còn chưa lọt. Thế mà bỗng Đức Giêsu xuất hiện. Không biết lúc đó có ông nào giật mình mà tưởng là ma không nhỉ? Ngài đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Phim có ghép tài tình cách mấy cũng vẫn thua xa. Nói rồi Ngài nói ngay với ông Tôma: “Này, cậu đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy đây này. Nhìn cho rõ nhá. Rồi hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy đây này. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin thật nghe chưa!”. Ui da, ông Tôma xấu hổ quá sức, chắc là chẳng dám sờ nữa đâu. Thế nên ông chỉ còn biết cúi đầu mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Và Chúa Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Nói nào ngay, cũng nhờ ông Tôma cứng lòng tin mà chúng ta có thêm một mối phúc: “Không thấy mà tin”. Dẫu sao thì cũng cảm ơn ông Tôma, nhờ lòng tin của ông cứng như sáp nguội mà hậu sinh chúng con được hưởng thêm một mối phúc nữa đấy!
Thánh Gioan cho biết: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà ĐƯỢC SỰ SỐNG nhờ danh Người” (Ga 20:30-31).
Lại vẫn liên quan đức tin, Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ Faustina: “Trước khi Ta đến như một Thẩm Phán công bình, Ta sẽ mở rộngCửa của Lòng Thương Xót. Ai từ chối bước qua Cửa của Lòng Thương Xót thì phải bước qua Cửa của Sự Công Bình” (Nhật Ký, số 1146).
Lạy Thiên Chúa, xin biến trái tim sắt đá của chúng con thành trái tim mềm mại chứa máu-yêu-thương và máu-thương-xót, xin giúp chúng con biết duy trì và bảo vệ đức tin đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ giàu Lòng Thương Xót của chúng con. Amen.
——————————-
(*) Nhật Ký của Thánh Nữ Faustina [số 699] đề cập Đại Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót với 10 điều này:
(Chú giải Tin Mừng của Học viện Piô Giáo Hoàng)
Tin mừng Ga 20: 19-31: Tô ma sau khi đã được cảm nghiệm về Chúa phục sinh, ông đã tin, một niền tin đầy đủ nhất “Lạy Chúa tôi”.
SỨ MỆNH CỦA CHÚA KITÔ ĐƯỢC
ỦY THÁC CHO GIÁO HỘI (Ga 20,19-31)
CÂU HỎI GỢI Ý:
Nhờ khía cạnh hấp dẫn thú vị, giai thoại về Tôma dễ làm ta chỉ chú tâm đến nó. Tuy nhiên, bản văn ghi lại hai cuộc hiện ra: một cho các môn đồ và một cho Tôma. Sự chen lẫn ấy có lý do của nó và cả hai giai thoại dều soi sáng cho nhau.
Hơn nữa, Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các môn đồ sai họ đi truyền giáo vào chính chiều ngày Phục sinh. Cách trình bày như thế xem ra mâu thuẫn với lối trình bày của Tin Mừng Nhất lãm. Chắc chắn nó nói lên một chủ ý quan trọng của tác giả Tin mừng thứ tư.
Ở vị thế đó, ý nghĩa của đoạn văn sẽ được sáng tỏ rõ ràng nếu ta xem làm sao nó lấy lại, theo kiểu đóng khung, một số dữ kiện đã được đề ra ngay từ chương đầu tiên. Đối ứng với “lúc khởi nguyên” của Bài Tựa (1,1) là “ngày thứ nhất trong tuần” (20, 1) củ a cuộc Sáng tạo mới (20,22). Đối ứng với lời loan báo của Gioan Tẩy giả: “Chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần” (1,33) mà Chúa Giêsu đã dùng lại trong diễn từ giã biệt (14,16-18.26) là việc thực hiện: “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (20,22). Đối ứng với nỗi sợ hãi của các sứ đồ chiều thứ Năm tuần thánh và với lời Chúa Giêsu hứa ban bình an (14, 1.27) là việc họ đang khiếp sợ người Do thái và sự bình an Chúa Giêsu đem đến cho họ (cc. 19-21) ; đối ứng với niềm vui được loan báo cùng chiều hôm đó (16,20-24) là niềm vui đang tràn ngập các môn đồ (c.20); sau cùng, đối ứng với cạnh sườn bị đâm thủng (19,34) là cạnh sườn đang được tỏ cho thấy. Như thế, có thể xem Tin mừng thứ tư như một sự quảng diễn lời rao giảng Tin Mừng sơ khai trong một khung cảnh phụng vụ: hoàn tất Thánh kinh (1; đặc biệt là 1,45) trong con người Chúa Giêsu (2, 12) tự hiến trong cuộc khổ nạn vinh hiển (13,19) cùng thông ban Thánh Thần và quyền tha tội cho cộng đoàn môn đồ (ch.20.). Được đặt lại trong kết cấu chung như vậy, đoạn văn mặc trọn vẹn chiều kích của nó: chứa đựng một suy tư về công trình cứu độ phổ quát được hoàn tất nhờ Chúa Giêsu.
Đi ngày trước và liền sau bản văn là những giai thoại nhằm đặc biệt soi chiếu nó. Đoạn đi trước nói về Maria Mađalêna, là người lúc đầu cứng tin như Tôma, rồi vắng mặt khi các môn đồ đến viếng mộ như Tôma đã vắng mặt lúc Chúa Giêsu hiện ra cho nhóm sứ đồ, và chừng như ông, bà đã tuyên tín khi nghe Chúa Giêsu nói một câu nhỏ, trong cả hai trường hợp, đều là vấn đề đi từ niềm ao ước một sự hiện diên thể lý của Chúa Giêsu sang niềm ao ước sự hiện diện mới mẻ của Người, là từ nay chỉ cảm nhận được nhờ đức tin.
Sau cùng, bản văn được tiếp nối bằng câu kết thúc toàn bộ Tin mừng’ “Các điều đã viết đây là để anh em tin…” (c.31) một câu kết luận dĩ nhiên cũng áp dụng vào bản văn sau hết đó. Thành thử ta như đang đứng trên một đỉnh cao đưa vào xác thực tại chủ yếu nhất đối với đức tin.
Các điểm tương hợp thật rõ ràng. Các điểm dị biệt được gồm tóm như sau:
Nơi Lc, “sứ mệnh” là một diễn từ có kèm theo lời hứa và đứng một mình, độc lập với việc “nhận biết”; nơi Gioan trái lại, yếu tố thứ hai được lồng vào trong yếu tố thứ nhất và chứa đựng một cử chỉ.
Nơi Lc, yếu tố “nhận biết” có nhiệm vụ cho thấy Đấng Phục sinh không phải là ma; nơi Gioan, nó nhằm gây xác tín về sự đồng nhất giữa Đấng Phục sinh với Đấng mà các môn đồ đã biết bằng xương bằng thịt.
Sau cùng nơi Lc, lòng cứng tin hòa lẫn với niềm vui và việc nhận biết không xảy ra lập tức; nơi Gioan trái lại, lòng cứng tin hoàn toàn tập trung trên Tôma, trong lúc việc nhận biết xảy ra tức thì và niềm vui thật thật trọn vẹn.
Cả hai thánh sử hẳn là tùy thuộc cùng một nguồn liệu. Nhưng bản văn Gioan vừa giản dị vừa nặng tính chất thần học hơn. Tác giả muốn phân biệt cái có liên hệ đến sự cứng lòng tin với cái liên hệ đến sứ mệnh của các môn đồ. Vì thế, như thường thấy trong thánh sử thứ tư, mỗi cảnh đều trở thành đặc thức của chủ đề ông trình bày. Tuy nhiên cả hai quang cảnh đều được nối kết mật thiết bởi khung cảnh không gian và thời gian phụng vụ (cc.19-26). Cả hai biến cố quả là có tầm mức Giáo Hội vậy.
Vì phần liên hệ đến “sứ mệnh” sẽ được nghiên cứu về sau (xem bài Chú giải lễ Hiện xuống), nên đoạn còn lại của giai thoại chia làm hai phần:
– Hiện ra cho Tôma: cc.24-29.
Kết luận của Tin mừng: cc.30-31.
Trình thuật về chính cuộc hiện ra được kết cấu như sau:
Nhận biết:
Nỗi hoài nghi của Tôma và vai trò của cộng đoàn: cc.24-25. Cuộc hiện ra của Chúa Giêsu: c.26a
– không thể nhận ra: c.26b
– sáng kiến bằng cách nói một lời: c.27
Đức tin của Tôma: c.28
kết luận:
Liên quan đến Tôma: c.29a
Liên quan đến tất cả Kitô hữu: c.29b
Thành thử các yếu tố chính của bản văn đều xoay quanh đức tin và có thể được nghiên cứu dưới ba khía cạnh.
Tôma được đề cập (c.24) ntlư là “một người trong nhóm Mười hai” và nhóm này được nhắc đến hai lần (cc.24-25) Thành ngữ “nhóm Mười hai” rất hiếm nơi Gioan, điều đó. Gợi lên tầm quan trọng của sứ đồ đoàn trong việc khơi dậy đức tin: chính vì chứng từ của họ mà Tôma đã tự vấn (c.25) và đã được đặt trên con đường “nhận ra” Chúa Giêsu.
Hơn nữa, nhóm Mười hai này đã lại hội nhau “tám ngày sau đó” (c.26). Tiểu chú này, đi tiếp theo tiểu chú “ngày thứ nhất trong tuần” (c.19) hay ngày phục sinh, chắc chắc là dấu chứng nói lên khung cảnh của cộng đoàn sơ thủy, trong đó hình thành bài giáo lý về cuộc hiện ra cho Tôma. Tiểu chú này còn được tăng cường bằng một nét khác là lời chào “Bình an cho các ngươi” mà nay vẫn còn được dùng trong các cuộc cử hành Thánh Thể.
Tất cả các điều này nói lên tầm quan trọng của việc tụ họp và cử hành phụng vụ cũng như của vai trò các tham dự viên trong việc đưa dẫn một người nào đó đi vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục sinh.
Để quán triệt tiến trình của Tôma và đích điểm ông sẽ đến là không thấy mà tin, phải quan sát ông phát xuất từ chỗ nào. Một- đoạn văn khác soi sáng điểm này được: đoạn văn nói về cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với các môn đồ trước khi ra đi (14,1-12). Trong trình thuật đó Tôma xuất hiện như là kẻ không hiểu rõ hai nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nói. Người bảo thế này: “Và Ta đi đâu, các người biết đường rồi”, Tôma hỏi: “Thưa Ngài, chúng tôi không biết Ngài đi đâu, làm sao biết con đường được”. Thế nhưng Chúa Giêsu lại nói đến con đường là chính Người. Tính tình thực tiễn đó của Tôma cũng tỏ hiện trong phản ứng của ông là chỉ nghĩ đến cái chết khi Chúa Giêsu gợi lên vinh quang của Người (11, 15-16). Bấy giờ Philíp đặt một câu hỏi và được trả lời như sau: “Philíp, ai thấy Ta là đã thấy Cha; làm sao ngươi nói: xin tỏ cho chúng tôi thấy Cha? Ngươi không tin…?”..
Do đó, thấy” Chúa Giêsu là thấy người về phương diện nhân loại, bằng xương bằng thịt, nhưng nhất là, bên trên cái khả giác đối với mắt trần, đạt đến ngôi vị của Người và biết bằng cách tin vào ngôi vị đó. thành ra sự hiểu biết này đồng thời là một sự “nhận biết”. Có thể đi sát cánh một người không biết nhân cách sâu xa của họ. Chỉ về sau, khi nhân cách này được biểu lộ hoặc bởi lời nói hoặc bởi hiệu quả của làm đương sự trên kẻ khác, thì nó mới được biết rõ ràng hơn ; có thể bảo rằng nó được “nhận ra” vậy.
Gioan luôn nối kết hai hạn từ “thấy” (oran) và tin (pistouein) trong mục đích làm nổi bật khía cạnh đặc biệt sau đây của niềm tin: tin là “thấy” ngang qua các sự kiện cụ thể hay chính con người Chúa Giêsu. Nó hoàn toàn khác với một thứ trực quan hay với một thứ ý thức hệ nào đó: nó là niềm tin vào một vị Thiên Chúa làm người. Ay là tất cả ý nghĩa đặc biệt Gioan gán cho chữ “chứng nhân martys, thường dùng trong Tin mừng của ông. Cái làm các môn đồ thành “chứng nhân” không chỉ là sự kiện đã được thấy Chúa kitô bằng xương bằng thịt: điều này đã xảy ra cho nhiều kẻ từng đi bên cạnh Người mà chả nhận biết Người là ai. Cái các ông làm chứng phát xuất từ thái độ tiếp nhận của các ông, thái độ đã giúp các ông nhận ra một lời mời gọi tin vào, Chúa Giêsu, ngang qua các dấu chỉ mà Người đã thực hiện. ó đây, đức tín của Tôma được tóm kết trong một chữ gói trọn tất cả kinh nghiệm của ông: ông đã “thấy” Chúa Giêsu khi Người còn sống, theo nghĩa “thấy” thông thường, và ông đã thấy Người, theo nghĩa “đã nhận biết”, trong đức tin sau khi Người phục sinh.
Trái với điều mà nhiều nhà giảng thuyết lẫn thần học gia đôi khi đưa ra quá vội, bản văn không hề bảo Tôma đã tin sau khi làm cử chỉ ông yêu cầu. Giải thích cuộc hiện ra theo kiểu đó là đi vào đường hướng của Lc chứ không trung xác với Gioan, vì đối với Gioan thì Chúa Giêsu, kể từ khi sống lại, là Đấng người ta chẳng còn có thể chạm đến, như đã thấy trong trình thuật trước về Maria Mađalêna. Khi bảo “Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây…”, Chúa Giêsu chỉ lặp lại mối bận tâm của Tôma và chính sự kiện nhận ra mình bị “thấy” đã hoán cải vị sứ đồ, như Nathanael (1,48) và một cách khác như Maria Mađalêna (20,16). Chính trên lời đó của Chúa Giêsu mà ông đã lập tức thốt lên tiếng kêu đức tin: “lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”.
Tước hiệu được gán cho Chúa Giêsu như vậy không lặp lại ở đâu khác, cả trong Gioan, trong Công vụ lẫn trong Phaolô. Theo Công vụ, chữ “Chúa”, Kyrios, mà các dịch giả của bản 70 dùng thay tên riêng của Thiên Chúa, đã được áp dụng cho Chúa Kitô trong lời rao giảng của Giáo hội sau lễ ngũ Tuần, khi các sứ đồ đã có một niềm tin dứt khoát vào thần tính của Chúa Giêsu. Ở đây, thánh sử đưa từ ngữ về thời tiền Hiện xuống, và kết hợp nó với tước hiệu Thiên Chúa để không ai còn nghi ngờ gì về ý nghĩa hành vi đức tin của Tôma.
Thành ngữ “Thiên Chúa của tôi”, được áp dụng vào Chúa Giêsu, gây ngạc nhiên không ít. Vẫn biết Chúa Kitô được gọi là Thiên Chúa” ở nhiều chỗ trong Tân ước (1Tm 16; Cl 1,15) và trong Tin Mừng Gioan (1, 1), nhưng việc nối kết “Chúa-Thiên Chúa” là điều bất thường. Để giải thích, cần phải nhờ đến Cựu ước. Việc nối kết này thường gặp dưới các công thức như: “Lạy Chúa là Thiên Chúa” (2sm 7,28; Tv 30,2). Thành thử Tôma áp dụng cho Chúa Kitô một tước hiệu nói lên thần tính của Người, và nếu được đặt lại trong văn mạch Gioan (5,23; 14,9…) thì tước hiệu có thể diễn giải: “Lạy Chúa tôi, Đấng trong đó tôi nhận ra Chúa Cha”. Vị sứ đồ không thể diễn tả toàn vẹn hơn niềm tin của mình, và nhờ chủ từ đại danh từ “của tôi”, ông góp thêm một tính chất cá vị vào cái mà Phụng vụ gán cho ông nói dưới hình thức lập thể: Lạy Chúa và là Thiên Chúa chúng tôi” (Kh 4,11).
Có mối liên hệ chặt chẽ nối kết sự “bình an” mà Chúa Kitô ban tặng cho môn đồ Người (c.26) với dấu chỉ là Người đề xuất trong lời nói (c.27). Chào các sứ đồ bằng chữ “bình (shalom) là sử dụng thành ngữ thông thường nhất, một thành ngữ không chỉ diễn tả tài tình mà còn diễn tả việc ban phúc lành của Thiên Chúa. Hơn nữa, kể từ cuộc Phục sinh, ban tặng này thực hiện cái Chúa Giêsu đã hứa (14,27; 33) và đã chiếm-hữu được nhờ cuộc Khổ nạn vinh hiển. Đó là điều được nhấn mạnh qua việc đề cập đến các vết thương ở tay và cạnh sườn (chi tiết sau chỉ có Gioan đề cập, khác với Luca). Đức tin tin vào sự đồng nhất ngôi vị giữa Đấng bị đóng đinh và Chúa hằng sống, Đấng ban Thánh Thần. Chính khi đã mặc lấy thân phận con người như vậy mà Chúa Kitô mới chuyển đạt tình yêu và bình an của người cho những kẻ đón nhận Người trong đức tin.
Như thế, Tôma chỉ nhận ra thần tính Chúa Giêsu qua cách Người đã sống cuộc sống con người, kể cả và nhất là cái chết, khi ông tiếp nhận ánh sáng đã được dấu chỉ ấy ban cho ông. Một trong những nét chủ yếu của Tin mừng thứ tư là đấy cuốn Tin mừng hằng bận tâm làm nổi bật điều này là: niềm tin phát sinh từ một sáng kiến nhưng không của Chúa Kitô, nhưng đồng thời cũng đòi con người làm một hành vi tự ý để tiếp nối sáng kiến đó.
Bấy giờ xuất hiện một mối chân phúc mà tầm quan trọng càng tăng vì là mối phúc duy nhất được Gioan ghi lại trong Tin mừng của ông. “Phúc cho”: tiếng kêu này được áp dụng suốt bộ Cựu ước cho những kẻ tin vào Thiên Chúa và vào sự hiện diện của Ngài trong đời họ. Với Chúa Kitô, mối phúc mặc trọn ý nghĩa: chính trong Người giờ đang sống mãi, có sự hiện diện của Thiên Chúa, phúc cho ai tin nhận Người.
Thành thử mối phúc này nhắm đến tất cả những kẻ đã tin hay sẽ tin, bắt đầu từ chính các sứ đồ, đặc biệt là Tôma, người đã được gói trọn trong nối phúc đó. Quả thế, bản văn do ông đã “tin” và đây là điều làm ông “hạnh phúc”. Toàn giai thoại về việc “nhận biết” chỉ có ý nghĩa với cách giải thích như vậy về mối phúc kết thúc giai thoại ấy! nhưng dữ kiện này được Gioan đưa ra với một lối biện chứng cần được làm sáng tỏ Chúa Giêsu nói: “Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho, những ai không thấy là tin”. Đây là một cách bảo rằng: đức tin của Tôma là nguyên kiểu của đức tin mọi Kitô hữu về sau. Nếu khác, có lẽ đức tin sẽ không thể truyền đạt và mất sức lôi cuốn đối với những người đã chẳng biết Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt. Thành thử đức tin của ông và của họ có một cái gì chung và khác nhau.
Cái mà Tôma có chung với toàn thể Kitô hữu, là ông chẳng có đủ bằng chứng, theo nghĩa ngày nay người ta gán cho chết này trong ngôn ngữ thông dụng, nhưng là có một lời nói. Thế mà trong ngôn ngữ Thánh kinh, gán một lời nói cho Thiên Chúa là khẳng định sự hiện diện thực sự của Ngài, sự hiện diện được nhận thấy trong đức tin, vượt lên trên mọi biểu tượng.
“Cái khác biệt, ngoại trừ cường độ của hành động Chúa Gisêu trong ông và việc ông đáp trả hành động đó, là cái ông
phải tin: Chúa Giêsu đang sống bây giờ trong một điều kiện không có tính cách vật chất như trước kia cũng là kẻ mà ông biết bằng xương bằng thịt và đã bị đóng đinh thập giá. Như trong mọi hành vi đức tin, chẳng những chỉ lý trí mà toàn thể con người ông đều mở rộng và khăng khít với một ánh sáng. Sau khi đã biết và tìm cách nhận ra Chúa Giêsu, thì giác quan của ông nhận được một sự dột lại của chức tin trên chúng, phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt này. Tôma là thành viên của nhóm mà Gioan đã đề cập: “Chúng tôi đã được ngắm vinh quang Người” (1,14): “chúng tôi” đây không phải là một tiếng số nhiều trang trọng, cũng chẳng chỉ tất cả mọi người, nhưng chỉ nhóm nhỏ chứng nhân đã mục kích cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu, chỉ những kẻ sau đó đã “nhận biết” người đang sống mãi. Chính sự nhận biết thích hợp và vượt quá kinh nghiệm giác quan ấy là yếu tố đặc thù của đức tin các môn đồ. Từ đó, đức tin của các Kitô hữu chỉ làm họ nhận biết được Chúa Giêsu xuyên qua điều mà các sứ đồ đã nói cho họ hay. Đức tin của họ dựa trên kinh nghiệm đầu tiên này vậy.
Còn lại giáo huấn của phần kết thúc. Giáo huấn này được gởi đến các Kitô hữu và tóm tắt cách nào đó toàn bộ sứ điệp Tin mừng thứ tư trong mục đích giúp họ tiến lên trong đức tin. Nó được chứa đựng trong các chữ: dấu chỉ, tin, Chúa Kitô. Con Thiên Chúa, sự sống.
III. MÔI TRƯỜNG LỊCH SỬ CỦA BẢN VĂN
Có nhiều yếu tố giúp định vị bản văn trong môi trường lịch sử của lần biên soạn nó sau cùng.
Tác giả ngỏ lời với các cộng đoàn mà chủ yếu là gồm những kẻ chẳng trực tiếp kinh nghiệm về các cuộc hiện ra và phải tin dầu không bao giờ được biết Chúa Kitô bằng xương bằng thịt. Ông muốn minh chứng rằng, nhờ đức tin, họ thông sự một cách đầy đủ, trọn vẹn vào cùng niềmvuì như các sứ đồ: vì dù có khác về hoàn cảnh lịch sử, kinh nghiệm của các sứ đồ vẫn chẳng kém bao hàm một hành vi đức tin tương tự như họ.
Bản văn ăn sâu tron.g lột cử hành của cộng đoàn. Nó mặc khải cho thấy các Kitô hữu, vào cuối thế kỷ I, đã chú tâm đến thời gian (ngày Chúa nhật), nơi chốn và các công thức bình an cho các ngươi”) có tính cách phụng vụ còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Thành thử ý nghĩa của việc tụ họp ngày Chúa nhật là để “nhận biết” Chúa không ngừng.
Nguyên việc giai thoại được tường thuật trong 5 câu và với một cấu trúc thần học rõ ràng, đủ nói lên rằng tác giả không có ý cung cấp những chi tiết chính xác về biến cố. Ông chỉ đưa ra điều cốt tủy, trình bày một quét có chung với mọi lời tuyên xưng đức tin sơ khởi khác: các sứ đồ ý thức mình đã tin dựa vào các sáng kiến của chua Giêsu, Đấng mà họ nhận biết đang còn sống qua các biến cố của đời họ. Đặc biệt, việc đồng hóa Chúa Giêsu đang sống với Chúa Giêsu mà họ đã biết trước đây và đã chết, lại được chứng thực trong bản văn song song với Luca (24,36-43). Chính kinh nghiệm độc nhất vô nhị đó đã làm nền tảng cho đức tin của họ, và rồi đến lượt đức tin này lại làm cơ sở cho đức tin của mọi Kitô hữu. Đó là điều mà lời rao giảng xưa nhất do Phaolô ghi lại đã minh chứng (1 Cr 15,3).
Ngoài ra, nếu tác giả trình bày những người có tính khí dễ bốc đồng, bồng bột, thì ta có thể nghi ngờ điều ông nói. Vì thế nhưng ông lại cho thấy một Tôma với tính tình thực tiễn. Chống lại mọi sự nhẹ dạ, dễ tin, nên càng kêu lời ta tin hơn vào xác thực tính của sự kiện.
Sau cùng, phải ghi nhận sự đóng góp của đoạn văn này đối với kiến thức sử học của chúng ta về việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh thập giá. Thân hình tử tội có thể bị cột hoặc bị đóng đinh. Chính là nhờ trình thuật hiện ra cho Tôma mà chúng ta biết phương thức nào trong hai phương thức trên đã được sử dụng trong trường hợp Chúa Giêsu. Năm 1968, người ta đã khám phá, trong một nghĩa địa phía đông Bắc Giêrusalem, bộ xương của một kẻ bị đóng đinh cách đây 2000 năm. Đây là lần đầu tiên những cái đinh được tìm thấy trong thạch mộ, khiến thói tục mà thánh sử cho thiết càng được chính xác hơn trong lãnh vực các sự kiện.
Toàn bộ giai thoại này mời gọi Kitô hữu suy nghĩ về đức tin: đức tin là sự “nhận biết” một hữu thể đang sống nhưng vô hình; nó giả thiết một hành vi tự phát cá nhân và sự chấp nhận chứng từ của các môn đồ tiên khởi; cuối cùng, nó là nguồn hạnh phúc đích thực của con người.
Xét trên bình diện nhân loại, mọi tương giao với một con người giả thiết một niềm tin nào đó. Không thể nghĩ đến việc muốn kiểm chứng mọi lời kẻ ấy nói được. Để tin, chỉ cần có các dấu chỉ là đủ. Trong trường hợp Chúa Giêsu, dấu chỉ người đưa ra là dấu chỉ về sự sống và sự chết của Người: người đã sống và chết phù hợp hoàn toàn với ý Cha Người. Chính vì thế mà Người đã được mặc khải là Chúa-Thiên Chúa. Điều đó đòi buộc người môn đồ tiếp nhận. Người phải vượt lên trên mọi biểu tượng khả giác. Ngay cả những kẻ đã biết Người về phương diện thể lý cũng phải thoát ra khỏi các hình ảnh họ đã lưu giữ về Người. Việc một kẻ thực tế và do dự như Tôma mà cũng đã làm cái bước nhảy đó, khích lệ các Kitô hữu không ngừng bị hăm dọa bởi sự vô tín hằng giam hãm Chúa Giêsu trong một biểu tượng.
Vì thuộc về một nhóm mà tất cả đều đã bắt đầu tin, Tôma nhắc cho mọi Kitô hữu đã sinh ra hay đang sống trong một hoàn cảnh tương tự điều này là: đức tin trước tiên là hành vi tự phát và kinh nghiệm cá nhân. Thật là thường tình khi con người từ chối dấn thân vì một lời kẻ khác nói, bao lâu mình “chưa cảm nghiệm được trong chính mình sáng kiến của Đấng Phục sinh. Nhưng ngược lại sẽ là ba phải chủ nghĩa hay tôn giáo xã hội học chứ chẳng phải là đức tin.
Ngoài kinh nghiệm đó là kinh nghiệm về Thần khí xuất phát từ trái tim Chúa Giêsu ra, thì đức tin của tín hữu dựa trên chứng từ của các môn đồ tiên khởi mà nay được cộng đoàn Giáo hội truyền lại. Kẻ không tìm xem mình đã đạt tới đức tin thế nào nhưng tìm kiếm cơ sở niềm tin của mình, thì sẽ luôn luôn thấy sự kiện này là những ai đã biết Chúa Giêsu đều nói Người là, Đấng sống lại. Tính cách cộng đoàn đó của đức tin cũng nhắc nhở những kẻ thấy khó chấp nhận ý kiến chung của cộng đoàn và vì thế đang phải “khủng hoảng”, hãy sống niềm tin bằng cách diễn tả nó ra ngay chính trong cộng đoàn, là việc lắng nghe Lời Chúa trong buổi lội họp phụng vụ sẽ là một yếu tố để soi sáng họ.
Gilles Becquet, Lecture d’évangiles… année B, trang 378-388
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
17. Chú giải của Noel Quession
Ga 20,19-31
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần… các môn đệ khi đó tụ tập lại… Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà…
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma… bởi vì chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó tin… và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,…hội họp lại… trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau… Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm… Họ cũng sợ… Họ cài chốt các cửa lại. Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống… Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp… Nơi mà ở đó họ đã gài then cửa!
Người nói với họ: “Bình an cho anh em!”. Nói xong Người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: “Bình an cho anh em!”
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh mục: “Bình an cho anh chị em!”. Và Công đồng Vatican II đã lập lại truyền thống xưa “hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử chỉ tầm thướng… chính là “trở nên Đức Kitô” với người gần ta…, khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô nói lại với chúng ta… Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng thương, tôi là “Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi… đúng như Người đã được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta: “sứ mệnh” của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi được Đức Giêsu sai đi… như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. “Sứ mệnh” có nghĩa “sự sai đi” (từ missus trong Latinh)… và “tông đồ có nghĩa là “người được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)…
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn… người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông: “Anh em nhận lấy Thánh Thần”.
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới… Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, “trở lại cùng với Cha”. Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người… họ đi theo công trình của Người: Thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7): “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)”.
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. “Nhờ sự Phục Sinh Người được lập là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần”.
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc… các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ “tích cực”. Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa… như Đức Giêsu khi trước: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những người tù đầy ” (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến… ông tuyên bố: “Nếu tôi không thấy… tôi sẽ không tin…”
Đấy là “người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu” (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).
Tám ngày sau… Đức Giêsu lại đến: “Đặt ngón tay anh vào đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa…”
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin… nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: “Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con”.
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
18. Chú giải của Giáo phận Nha Trang
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”
Bài tin mừng này, Gioan kể lại hai lần Chúa hiện ra với các Tông đồ cách nhau một tuần.
Một lần hiện ra ngay chính buổi chiều ngày Chúa sống lại khi không có mặt Tôma. Và lần sau có mặt Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là làm cho các Tông đồ tin rằng NGÀI ĐÃ SỐNG LẠI THẬT.
1/ “Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần”:
Theo người Do thái, ngày thứ bảy là ngày cuối tuần và là ngày lễ nghỉ, ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày Chúa nhật bây giờ và là ngày Chúa sống lại. Thời Tân ước, Giáo Hội lấy ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày Chúa nhật, ngày lễ nghỉ, ngày Chúa phục sinh.
+ Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín vì sợ người Do thái: Từ khi có biến cố ngôi mộ trống vào ngày thứ nhất trong tuần, dân chúng thì xôn xao, nhà cầm quyền thì điên đầu vì khó xử, các môn đệ nửa tin nửa ngờ, qui tụ nhau để bàn bạc, cầu nguyện, nhưng vì có tiếng đồn là các môn đệ đã lấy trộm xác Chúa nên các ngài sợ bị theo dõi vì thế đã đóng kín hết các cửa của phòng họp.
2/ “Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói”:
* Việc Chúa Giêsu hiện đến trong phòng đóng cửa kín cho thấy thân xác phục sinh của Chúa không còn bị giới hạn bởi không gian nữa.
* Việc Chúa hiện đến đứng giữa các ông và nói: nêu lên ý nghĩa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết thì bây giờ đã sống lại thật.
3/ “Bình an cho các con”:
Lời này được Chúa Giêsu nói sau khi Người phục sinh có ý diễn tả:
+ Ơn tha thứ cho các môn đệ: vì biến cố thương khó tử nạn đã làm cho các tông đồ sợ và đã bất trung với Thầy mình.
+ Ơn giao hoà giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: vì Chúa Giêsu chịu chết đã chuộc tội cho nhân loại và Chúa Giêsu phục sinh đem lại sự sống cho nhân loại.
+ Ơn phúc lành: sự hiện diện của Chúa phục sinh là một phúc lành vì Người là sự bình an cho những ai đón nhận Người. Các tông đồ đã tin nhận Chúa phục sinh đem lại an bình, can đảm và dấn thân trong sứ mệnh truyền giáo.
4/ “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”:
Việc cho xem các vết thương này có mục đích cho thấy có sự liên tục giữa thân xác Chúa đã chịu khổ nạn và thân xác Chúa đã phục sinh là một.
5/ “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”:
Việc Chúa Giêsu xác định về giá trị của ơn gọi để làm phấn khởi các môn đệ:
+ Việc sai các môn đệ đi vào thế gian sau phục sinh chứng tỏ biến cố phục sinh là nền tảng ơn gọi và sứ mạng của các môn đệ.
+ Ơn gọi các môn đệ rập theo khuôn mẫu ơn gọi của Chúa Giêsu.
+ Trong bài Tin Mừng này không thấy Gioan nói tới sứ mạng phổ quát của các môn đệ là đi giảng dậy muôn dân, có lẽ vì điều này đã được các Tin Mừng nhất lãm nói trước rồi (Mt 28, 19 ; Lc 24, 47 ; Mc 16, 25).
6/ “Nói thế rồi, Người thổi hơi…”:
Tác động này tương tự việc tạo dựng con người (St 2, 7) và cho thấy ở đây cũng có thể kể như một cuộc tạo dựng mới, đó là cuộc tạo dựng trong Thánh Thần.
7/ “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”:
+ Chúa Thánh Thần như đã được hứa trong bài diễn văn sau bữa tiệc ly (Ga 10, 16 – 26 ; 16, 7 – 13) chỉ được ban đầy đủ vào lễ Ngũ tuần (Cv 2, 1 – 12). Còn ở đây (Ga 20, 22) chỉ là nhận một phần đầu tiên của ơn Chúa Thánh Thần để cho các tông đồ có thể lãnh quyền tha tội, vì tuy có nhiều đặc ân khác nhau nhưng chỉ có một Chúa Thánh Thần (1Cr 12, 4).
+ Các con tha tội… các con cầm tội ai…: Chúa thiết lập Bí tích Giải tội bằng cách ban quyền giải tội cho các môn đệ. Quyền này được tiếp tục trong Giáo Hội.
8/ “Có ông Tôma gọi là Dyđimô không cùng ở với các ông”:
+ Tôma biệt hiệu là Dyđimô (con sinh đôi) vốn là người có tính thẳng thắn, rõ ràng và thực tiễn:
+ Khi Chúa nói với các môn đệ rằng: Con đường Thầy đi sau này các con cũng sẽ đi, Tôma liền thưa: nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao biết được đường lối của Thầy (Ga 14, 5).
Khi Thấy Chúa Giêsu dứt khoát muốn lên Giêrusalem bất chấp nguy hiểm thì Tôma lại bảo anh em: Nào cả chúng ta nữa, hãy lên Giêrusalem để chịu chết với Người.
+ Tôma vẫn giữ tính đó khi nghe nói Chúa sống lại, Tô mà đã không căn cứ vào sự kiện mồ trống, những bài Thánh Kinh, nhất là lời Chúa Giêsu nói trước về sự sống lại, ngay cả việc Chúa đã hiện ra với các môn đệ khác vào chiều thứ trong tuần. Nhưng Tôma đòi những điều kiện khả giác chắc chắn là nhìn thấy vết đinh, thọc ngón tay vào lỗ đinh…
9/ “Tám ngày sau, các môn đệ họp nhau trong nhà, có Tôma ở với các ông”:
Đây là lần thứ hai Chúa hiện ra với các tông đồ trong cùng một quang cảnh như lần trước, nhưng lần này có cả Tôma và Tôma như là một các cớ để Chúa hiện ra lần này.
Việc Chúa hiện ra ở đây nói lên rằng: Người kiên nhẫn và hiền lành chấp những điều kiện Tôma đưa ra. Nhưng khi Chúa hiện ra, ta không thấy Tin Mừng nói Tôma có sỏ ngón tay và bàn tay như ông đã đòi hỏi hay không. Nhưng ta hiểu Tôma đã không kiểm nghiệm như ông đã đòi hỏi. Chỉ nguyên việc gặp gỡ và nghe Lời Chúa đã đủ để đánh động con người ông.
10/ “Chờ cứng lòng nhưng hãy tin”:
Diễn tả kiểu nói không được tiếp tục công việc đang làm tức là hãy đừng cứng lòng, nhưng hãy tin. Sự hiện diện của Chúa như một mệnh lệnh bảo Tôma đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin vào Người.
11/ “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!”:
Đây là lời tuyên xưng của Tôma, Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng Chúa cách đầy đủ nhất: lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi!
+ Tôma thường bị mang tiếng là cứng lòng tin. Nhưng các môn đệ khác ở vào trường hợp ông cũng không hơn gì. Đàng khác, qua lời tuyên xưng, ta thấy Tôma có yếu kém phần nào về đức tin việc Chúa sống lại, thì Tôma lại đáng khen khi qua đó ông tuyên xưng Người là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa thì Tô ma đã không trông thấy nhưng ông đã tin.
12/ “Phúc cho những ai đã không trông thấy mà tin”:
+ Cái “Phúc” này đã được áp dụng suốt bộ Cựu ước cho những kẻ tin vào Thiên Chúa và vào sự hiện diện của Người trong đời họ.
+ Với Chúa Kitô, mối phúc này mang ý nghĩa: chính trong người Đấng đã phục sinh, có sự hiện diện của Thiên Chúa. Phúc cho những ai tin nhận Người.
Vì vậy, mối phúc này nhắm đến tất cả những ai đã hay sẽ tin, bắt đầu từ chính các môn đệ, tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa.
13/ “Để anh em tin”:
Cũng mang nghĩa “Anh em tiếp tục tin”, vì ở đây nói với những người đã có đức tin. Vì vậy, nói lời này thánh Gioan muốn củng cố các tín hữu trong đức tin.
III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội dùng bài Tin Mừng này của thánh Gioan để mời gọi chúng ta suy nghĩ về đức tin.
1/ Việc Chúa Giêsu hiện ra hai lần với nhóm mười một tông đồ là để củng cố niềm tin cho các ông. Giáo Hội cũng muốn chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này để xác tín vào việc Chúa Giêsu phục sinh hầu giúp cho ta phấn khởi sống theo niềm tin ấy mà hy vọng vào sự phục sinh của mình ngày sau.
2/ Biến cố phục sinh là nền tảng ơn gọi và sứ mệnh của các tông đồ. chúng ta chỉ có thể làm tông đồ cho Chúa khi chúng ta xác tín vào Thiên Chúa.
Chúng ta chỉ có thể hướng dẫn người ta về sự sống đời sau khi chúng ta xác tín và sống hướng về sự sống đời sau.
3/ Đức tin là nguồn hạnh phúc đích thực của con người vì “Phúc cho những ai không thầy mà tin” và “để anh em tin mà được sống nhờ danh Người”.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:
a/ Chúa Giêsu đã sống lại như lời Người đã hứa: chúng ta thường hứa điều này, dốc quyết điều kia, nhưng chúng ta có dùng ý chí để thực hiện điều mình hứa hay dốc quyết không?
b/ Chúa Giêsu hiện đến và ban bình an cho các ông: chúng ta là người thuộc về Chúa Kitô, khi hiện diện ở đâu với ai… thì cũng tạo nên sự bình an vui vẻ, hoà thuận hiệp nhất… ở đó.
c/ Chúa Giêsu đã kiên nhẫn và nhân từ đối với sự cứng lòng của Tôma: chúng ta có đủ kiên nhẫn và quảng đại, dịu hiền đối với những người có thái độ cứng cỏi đối với chúng ta không?
d/ Nhìn vào Tôma: những gì ông không thể hiểu, không thể đo lường, sờ chạm đến, đều bị ông từ chối. Thật là nhà duy vật chủ nghĩa hạng nặng.
Phải chăng Tôma thứ hai chính là tôi: nhưng “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”.
+ Tôma sau khi đã được cảm nghiệm về Chúa phục sinh, ông đã tin, một niền tin đầy đủ nhất ” Lạy Chúa tôi “. Chúng ta chỉ được vững mạnh về đức tin khi chúng ta có cảm nghiệm về niềm tin đó. Chúng ta tin vào tình thương Chúa khi chúng ta có cảm nghiệm bằng cách đón nhận tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình qua đời sống cầu nguyện, thực hành lời Chúa và siêng năng lãnh nhận các Bí tích.
19. Dấu chứng của Chúa Phục Sinh
(Bài giảng của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới tin.
Ngày 23 tháng 9 năm 1968, Cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt 50 năm Cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực Ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến để xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ Cha cử hành. Khi Cha Piô dâng lễ, cả Ngài và dân chúng đều nhận thấy rõ ràng Ngài mang trên thân thể Ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm Cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay của Cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác hai tay Ngài được bao lại trong đôi găng tay màu nâu. Khi dâng lễ, Ngài thường giống như một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi Ngài nhìn Thánh Thể, mặt Ngài như thiên thần, những người có mặt cảm thấy bình an.
Với một số người, câu chuyện của Cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng Ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể Ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.
Thưa anh chị em,
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nổi đau khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác Cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là Cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô.
Chúa Kitô phục sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mộ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xảy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để người ta nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính những dấu đinh. Nếu chính Đấng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. Và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chúa Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả ; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Nhưng, thưa anh chị em, Giáo Hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục sinh không? Có sẵn sàng hòa giải nhân loại với Chúa, hòa giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nhiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống của người kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn kitô hữu tương tự như cộng đoàn kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “những kẻ tin, muôn người như một, chuyên cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (x. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn kitô hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chứng tích tình yêu của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diển ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục sinh.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: PHÚC CHO NHỮNG AI ĐÃ KHÔNG THẤY MÀ TIN.
Kính thưa quý anh chị em,
Đức tin, theo quan niệm kitô giáo, là sự Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian, xuyên qua những công trình thiện hảo Người đã làm. Mỗi loài thụ tạo đều mang dấu vết của Đấng tạo hóa, đặc biệt, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên họ có thể nhận biết một cách không sai lầm sự hiện hữu của Ngài.
Hiểu biết nhờ quy luật nhân quả phổ quát hơn hiểu biết nhờ trải qua kinh nghiệm. Sự phục sinh của Chúa Giê-su là biến có siêu lịch sử, nên chỉ có thể đón nhận qua những dấu vết, những bằng chứng Chúa thực hiện nơi các Tông Đồ và nơi cộng đoàn tín hữu khắp trần gian.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày niềm hy vọng đức tin vào Chúa Giê-su phục sinh thể hiện bằng việc làm của cộng đoàn tín hữu.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, ghi nhận nếp sống rất đặc biệt của cộng đoàn tín hữu sơ khởi:
* Tinh thần hiệp nhất đại đồng: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý” (Cv 4, 32). Sự hiệp nhất nên một khơi nguồn từ sự hiệp nhất của Cha và Con. Trong lời nguyện hiến tế, Giê-su cầu nguyện cho sự hiệp nhất “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Sự hiệp nhất vừa mang chiều kích thần thiêng: đến từ Thiên Chúa, vừa mang chiều kích nhân sinh: cố gắng phấn đấu bảo vệ sự hiệp nhất.
Như vậy, sự hiệp nhất kitô giáo có đặc tính bí tích, nghĩa là: ân sủng cứu độ được ban tặng khi mọi người sống hiệp nhất yêu thương nhau. Tự thân hiệp nhất là lời cầu nguyện, là tâm tình tạ ơn đẹp lòng Chúa và có sức cứu độ những kẻ tin.
Tinh thần liên đới hiệp thông trong cộng đoàn là dây ràng buộc mọi điều toàn thiện: quảng đại sẻ chia, không ai coi những gì mình có là của riêng, quan tâm săn sóc nhau, đến nỗi, trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn.
* Các Tông Đồ hăng hái nhiệt thành làm chứng Chúa đã sống lại: bằng lời rao giảng, bằng chứng từ cuộc sống các ngài và bằng những dấu lạ điềm thiêng. Chúa ban cho cộng đoàn dồi dào ân sủng và số các tín đồ mỗi ngày gia tăng.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc nhấn mạnh chiều kích cử hành. Gio-an ngầm tuyên xưng sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong việc cử hành phụng vụ, nhất là bí tích Thánh Thể.
Gio-an ấn định là buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, rồi tám ngày sau, cũng nhằm ngày thứ nhất. Các Tông Đồ hội họp là để cử hành bữa ăn của Chúa. Chính trong việc cử hành bí tích Thánh Thể, Đức Kitô hiện diện thực hữu trong cộng đoàn.
Việc cử hành giúp củng cố đức tin, gia tăng đức cậy và đức mến. Nơi điều này, các tín hữu đã có lối sống đạo khác thường và phi thường trước mặt muôn dân. Nhờ tin vào Chúa Phục Sinh, tín hữu dám hy sinh tất cả và nâng đỡ nhau cách tích cực, đến nỗi trong cộng đoàn không một ai phải thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu.
Bài học không vui cho Thomas là không được gặp Chúa, vì không có mặt trong cộng đoàn phụng vụ. Ông đòi bằng chứng, phải chờ mãi tới tám ngày sau, cũng vào giờ cử hành phụng vụ, ông đã gặp Chúa, không phải do giác quan tự nhiên, nhưng con mắt đức tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con” (Jn 20, 28).
Thomas có phúc vì xem thấy Chúa, nhưng còn phúc hơn cho ông vì nhờ lòng tin cộng đoàn, đức tin của ông đã được thanh luyện, được chữa lành.
Bài Tin Mừng, không dừng lại trong việc tuyên xưng Chúa đã sống lại thật, mà muốn đưa cộng đoàn đi xa hơn nữa trong việc đón nhận trọn vẹn hiệu quả cứu độ của ơn phục sinh. Chúa thổi hơi ban Thánh Thần: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Jn 20, 22 – 23).
Thánh Thần là hồng ân thời cánh chung ban cho kẻ tin vào Chúa Kitô được trở nên con Thiên Chúa, đồng thời, giúp họ cầu nguyện hợp với thánh ý Chúa, giúp họ sống đời kitô hữu hoàn hảo, trở nên chứng nhân Chúa phục sinh cách cụ thể và sống động, như men, muối, ánh sáng cho đời.
Thánh Gio-an, trong bài đọc II, coi đức tin là tuyệt đối cần cho việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nhờ đức tin mới có lòng yêu mến chân thành, yêu mến tất cả những gì thuộc về Chúa: mến Chúa, yêu người, thành tín vâng giữ luật Chúa.
Nhờ sức mạnh đức tin, người môn đệ Chúa sống giữa thế gian mà vẫn không thuộc về thế gian này.
Chính Thánh Thần của Đấng phục sinh ban cho họ sức mạnh chiến thắng thế gian và ác thần.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta:
* Một là: Đức tin chỉ có thể lớn mạnh, sinh hoa kết trái nhờ việc kiên trì lắng nghe giáo huấn của các tông đồ và siêng năng tham dự phụng vụ, đặc biệt bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải. Thánh thể là mầu nhiệm đức tin, ban và củng cố, nuôi dưỡng đức tin. Chúng ta yêu mến Thánh Thể, siêng năng tham dự thánh lễ. Chúa Giê-su đã cử hành hy tế Thánh Thể để cứu độ trần gian. Làm như Chúa dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” để cứu rỗi chính mình và cứu độ trần gian.
* Hai là: Đức tin có việc làm. Hiệp nhất yêu thương là căn bản đối với kitô hữu: người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa, đó là “yêu thương nhau”. Chia sẻ yêu thương tùy khả năng cũng là cách làm chứng cho tin mừng phục sinh.
Xin nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày mừng Chúa phục sinh hôm nay. Amen.
(Bài Giảng Lễ của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Bản văn Tin mừng Chúa nhật này mời gọi Kitô hữu suy nghĩ về đức tin của mình vào Đức Kitô Phục Sinh. Khởi từ một kinh nghiệm cá nhân, đón nhận chứng từ của các chứng nhân Tông đồ, đức tin đưa con người đến nguồn hạnh phúc đích thực. Đồng thời, chính đức tin ấy thôi thúc Kitô hữu lên đường thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ cho anh chị em chung quanh.
Bản văn Tin mừng này liên kết hai lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ sau khi phục sinh. Lần thứ nhất với các môn đệ không có Tôma, lần thứ hai có sự hiện diện của Tôma. Cả hai trình thuật này soi sáng cho nhau và xoay quanh chủ đề chính yếu là niềm tin của các Tông đồ trước mầu nhiệm Phục sinh và sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh của các ông.
Làm môn đệ Chúa Giêsu là có sứ mạng lên đường loan báo Tin mừng. Tất cả các Tin mừng đều đề cập đến những lần Chúa Giêsu hiện ra sau Phục sinh trao phó sứ mạng cho các Tông đồ (Mt 28,16-20 ; Lc 24,47-49 ; Mc 16,15). Nơi Gioan, Chúa Giêsu hiện ra khi các Tông đồ đang tụ họp vào chính chiều ngày thứ nhất trong tuần. Chúa Giêsu hiện ra trao phó cho các ông sứ mạng mà chính Chúa Cha đã trao phó cho Người. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Chúa Giêsu về với Chúa Cha, nhưng sứ điệp Tin mừng, ơn Cứu độ và những thực tại thần linh mà Người mang đến trần gian vẫn còn ở trong Giáo hội, trong các môn đệ của Người. Các Tông đồ có trách nhiệm phải tiếp nối công trình của Thầy mình để những gì Thầy Chí Thánh đã thực hiện sẽ được trao ban cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại. Trên hành trình sứ vụ các môn đệ không làm một mình nhưng có Thần Khí của Đấng Phục Sinh hiện diện, tác động và trợ giúp. “Nói thế rồi Người thổi hơi…” Như Thiên Chúa khi tạo dựng con người đã thổi hơi để thông ban sự sống cho con người đầu tiên, thì Chúa Giêsu Phục Sinh cũng thổi hơi để tái tạo các Tông đồ thành những thụ tạo mới có sứ mạng đưa sự sống mới đến cho con người. Việc trao ban Thần Khí ở đây không hẳn có nghĩa là tái sinh họ trong Nước và Thánh Thần nhưng chủ yếu là trao phó sứ mạng.
Chương 20 của Phúc âm Thứ tư được cấu thành một khối duy nhất về phương diện văn chương và đề tài. Ghi lại vài lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh ở Giêrusalem cho thấy đức tin của các môn đệ chuyển từ kinh nghiệm thể lý cảm nghiệm thiêng liêng. Một Maria Madalena tin khi nghe giọng nói thân quen của Thầy (20,16) ; một môn đệ yêu dấu đã tin sau khi thấy các khăn liệm và ngôi mộ trống (20,8) ; các môn đệ tin khi thấy lỗ đinh ở tay Chúa và thọc tay vào cạnh sườn Người (20,20) ; và cuối cùng Tôma đã tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô Phục Sinh: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con” (20,25-29). Từ kinh nghiệm đức tin của các Tông đồ, từ giờ trở đi, đức tin không dựa trên cái nhìn thể lý, mắt thấy tai nghe nữa, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà Kitô hữu kết hợp mật thiết với Đức Kitô Phục Sinh, được nhận lãnh ân phúc: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Giữa lúc đang hoang mang lo sợ, các môn đệ tụ họp trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các ông mang lại cho các ông bình an, niềm vui và hy vọng. Quả thật, Người đã phục sinh. Tin Người đã sống lại các môn đệ mới có thể vui mừng và hy vọng được. Tin mừng mời gọi mỗi người chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Đấng Phục Sinh mang lại niềm vui, an bình và hy vọng cho chúng ta. Tin vào Người chúng ta mới có sức mạnh để vượt qua những gian truân, khó khăn và thử thách trong cuộc đời sống và làm chứng cho Tin mừng.
III. Gợi Ý Bài Giảng:
Khi nghe các bạn báo tin Thầy đã sống lại, Tôma đã không tin, ông đòi phải tận mắt chứng kiến mới tin. Việc Chúa sống lại quả thật là khó tin, vượt quá kinh nghiệm của tri thức nhân loại. Với Tôma và có lẽ cũng của rất nhiều người, đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay thì những gì không thể quan sát, không thể đo lường, không thể chứng minh đều có thể bị từ chối. Bên cạnh đó, Tôma không tin các bạn cũng có lỗi nào đó do chính các Tông đồ. Các ông nói Thầy đã sống lại, sao lại vẫn còn sợ hãi, vẫn còn chưa dám ra khỏi nhà, vẫn còn bất động? Câu Chúa nói như để trách cứ sự cứng lòng của Tôma xem ra cũng chính là câu Người khiển trách tất cả các môn đệ: “Tôma, con đã xem thấy Thầy, nên con tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Trong thực tế đời sống Kitô hữu, nhiều khi cách sống theo Tin mừng của mình khiến cho anh chị em vốn đã cứng tin lại càng thêm cứng tin. Tin là một điều không phải dễ nói, dễ thuyết phục. Đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải kiên tâm, trung thành sống và làm chứng cho Tin mừng mới mong có thể giúp người khác tin.
Các môn đệ đang trong tâm trạng thất vọng lo âu, sợ hãi vì Thầy mình đã chết. Khi thấy Thầy mình hiện ra, bấy giờ các ông vui mừng vì được xem thấy Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh đã mang lại niềm vui, niềm hy vọng cho các môn đệ. Ngay khi hiện diện giữa các môn đệ Người đã ban bình an cho các ông. Khi Chúa Giêsu giáng sinh, ca đoàn các Thiên sứ đã vang lời ca bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Hôm nay, Đấng Phục Sinh đã thực sự mang lại bình an cho con người. Người đã chết và phục sinh vinh quang để mở đường cho những ai tin theo Người cũng sẽ sống lại chung hưởng vinh quang, tình yêu và hạnh phúc với Người. Niềm tin Phục sinh mang lại niềm vui và hy vọng cho con người. Từ đây, quả thực nhân loại đã được giải thoát khỏi ách Tử thần, vươn lên trở thành Con Thiên Chúa, sống sự sống viên mãn của Ngài ; từ đây, nhân loại đang sống trong khổ đau, bất an đã thực sự được giải thoát để mưu cầu hạnh phúc và bình an trong tình yêu của Thiên Chúa. Nếu thực sự sống niềm tin Phục sinh giúp cho người Kitô hữu có niềm lạc quan, hy vọng vươn tới. Tất nhiên, ở đây không phải là yếu tố tâm lý nhưng là sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu, được Người thông ban cho các Tông đồ, Giáo hội và tất cả những ai tin, chính Chúa Thánh Thần là tác nhân làm nên niềm hy vọng, niềm vui sống. Những ai tin vào Đấng Phục Sinh sẽ lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần của Người.
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Đức Kitô Phục Sinh trao ban cho chúng ta bình an và niềm vui sống. Trong niềm tin tưởng và vui mừng, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chấp nhận chết để đền thay tội lỗi chúng con và Chúa đã sống lại vinh quang để cứu độ chúng con. Xin cho niềm vui Phục sinh trở nên nguồn động lực giúp chúng con sống đời Kitô hữu thật ý nghĩa và mang lại thiện ích cho mọi người. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
(Hành Trang Mục Vụ – Khoá 10 ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn)
(Suy niệm của Lm Trịnh Ngọc Danh)
Sau khi sống lại, vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện ra lần thứ nhất với các tông đồ, nhưng vắng mặt ông Tôma. Ngài đã chúc bình an và cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Các môn đệ vui mừng vì đã được xem thấy Chúa, và ho đã cho ông Tôma biết: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”; nhưng ông này cương quyết: “ Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà; lần này có mặt ông Tôma. Chúa Giêsu lại hiện ra lần thứ hai cùng các ông. Sau khi chúc bình an, Ngài đã cho ông Tôma xem những dấu đanh nơi bàn tay và vết thương nơi cạnh sườn Ngài và đã khiển trách ông: “ Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Và ông Tôma chỉ còn biết kêu lên: “ Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”. Và Ngài nói tiếp với ông: “ Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Đã xem thấy, đã tin
Cũng như các môn đệ khác, ông Tôma cũng đã từng được nghe những giáo huấn của Chúa, đã được xem thấy những việc kỳ lạ Ngài đã làm, và cũng được nghe Ngài tiên báo về cái chết và sự phục sinh của Ngài…; nhưng ông vẫn còn bán tín bán nghi về việc chết đi sống lại của Thầy mình; vì, Chúa quyền năng có thể làm cho người chết sống lại như trường hợp ông Lagiarô thì còn hiểu được; nhưng đàng này, chính Chúa lại phải chết và lại tự cho mình sống lại thì thật là một việc quá sức tưởng tượng của ông: Làm sao lại có thể có chuyện ấy được! Và đức tin của ông đã bị chao đảo! Ông nghi ngờ đòi cho được tận mắt thấy những dấu đanh nên thân thể Chúa mới tin cũng phải thôi, vì ông đã một lần thất vọng khi thấy Thầy, một Đấng quyền phép mà ông đã tin, lại phải chịu nhục hình cho đến chết trên thập giá. Cung còn may là ông còn lui tới với cộng đoàn, không như hai môn đệ trên đường Êmau, sau khi Thầy chết, đã thất vọng, sợ hãi tìm đường trốn chạy. Điều đó cho thấy ông vẫn còn tin tưởng vào Thiên Chúa, vẫn còn muốn đạt đến một đức tin viên mãn để được cứu độ.
Tuy bị Thầy khiển trách là cứng lòng tin, nhưng qua đó, ông đã thấy và ông đã tin. Đức tin của ông đã được củng cố cho vững mạnh hơn bao giờ hết đến nỗi ông đã kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Cũng không phải chỉ có ông Tôma mới nghi ngờ sự sống lại của Thầy mình, mà ngay chính những người được tận mắt thấy ngôi mộ trống cũng bán tín bán nghi.
Ngày thứ nhất trong tuần, từ sáng tinh mơ, các bà mang theo thuốc thơm đã chuẩn bị sẵn. Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, bước vào trong, không thấy xác Chúa, bà Maria Mađalêna đã hốt hỏang chạy về báo: “ Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu” (Ga 20: 2); và đang khi còn ngơ ngác, vào trong mồ, thì thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà: “ Các bà đừng sợ. Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiareth chịu đóng đinh, nhưng người đã sống lại…”. Các bà chạy ra và trốn khỏi mồ, vì các bà run rẩy bàng hoàng. Các bà không nói gì với ai, vì các bà sợ hãi… (Mc. 16, 6-8)
Trở về nhà, các bà thuật lại cho các tông đồ; “nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin” (Lc. 24,11)
Vì không thấy, nên ông Tôma chỉ đòi hỏi thấy mới tin, nhưng các bà và các tông đồ đã thấy, đã nghe nói về việc ngôi mộ trống, về việc Chúa đã sống lại, thế mà các bà thì sợ hãi cho là ma, còn các ông thì cho đó là truyện vớ vẩn. Ai là người kém lòng tin hơn ai?
Hơn nữa, đứng về phương diện đức tin, thì có thể ông Tôma là người cứng lòng tin, nhưng đứng về phương diện khoa học, thì sự nghi ngờ của ông lại là điều cần thiết để tìm ra sự thật. Nếu khoa học kiểm chứng được những gì chúng ta phải tin, thì những điều chúng ta tin mà khoa học khám phá, chưng minh được, thì cũng chẳng còn gì là siêu việt đối với trí óc của con người.
Ông Tôma cứng lòng tin, vì ông muốn lấy lý trí để củng cố cho lòng tin của ông. Có thể ông đã nghĩ rằng: Nghe người ta nói Chúa đã phục sinh chưa đủ, tôi còn phải tận mắt nhìn thấy Ngài, và phải được tiếp cận thân thể đầy thương tích của Ngài, thì tôi mới tin.Và cuối cùng, Tôma đã thấy và ông đã tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Việc ông Tôma đòi hỏi được nhìn, được sờ, được kiểm chứng Đấng Phục sinh không chỉ là một đòi hỏi cho riêng ông, nhưng cũng là một chứng tích cho chúng ta hôm nay.
Đã không thấy mà tin
Và sau khi nhân định về lòng tin của ông Tôma: Vì con đa thấy và con đã tin; Chúa lại đưa ra một mẫu lòng tin khác được chúc phúc; đó là: Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Qua sự việc của ông Tôma, Chúa đã gián tiếp nói với chúng ta là những người sinh ra “hậu Phục sinh”, những người đã không thấy Chúa sống, chết và phục sinh, nhưng chúng ta tin. Chúng ta chỉ được đọc, được nghe về Thiên Chúa, về Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa xuống thế làm người vì yêu thương con người, để rồi chịu chết và đã phục sinh…; nhưng chúng ta không được may mắn như dân Chúa xưa kia hay gần gũi hơn là các môn đệ đã thấy và đã tin.
Cám ơn các tông đồ và đặc biệt cám ơn ông Tôma đã giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ hơn về việc Chúa sống lại, về lòng tin của mình.
Từ ngàn xưa, con người nói chung và con cái Thiên Chúa nói riêng đã thấy, đã tin, nhưng vẫn còn vô số người đã thấy, nhưng vẫn chối từ, vẫn không tin. Đã không thấy mà tin là một đoi hỏi rất khó đối với đức tin, đồng thời cũng là một yếu tố xác định mức độ lòng tin của chúng ta.
Đức tin và bình an
Trong cuộc hành trình đức tin, những người đã không thấy mà tin và ngay cả những người đã thấy và đa tin vẫn luôn gặp những trở ngại, nghi ngờ, lo lắng, bất an.
Các môn đệ, sau cuộc “bức tử” của Thầy Giêsu, họ đã hoang mang, lo lắng, sợ sệt, bất an: số phận của họ rồi sẽ ra sao? Ai sẽ là người hướng dẫn để tiếp tục công việc của Thầy?… Tụ lại với nhau, nhưng cửa đóng then cài.
Và những người đã không thấy mà tin thì sao? Đức tin của chúng ta ở mức độ nào? Chúng ta tin, nhưng đã sống và chết vì đức tin như thế nào?
Đức tin chưa đủ mạnh, chưa quyết liệt, chưa xác tín..thì luôn gặp những bất an. Thử thách, gian nan, khổ cực là thước đo đức tin, là những bất an trong tâm hồn.
Hiểu được tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bất an của các môn đệ, nên qua hai lần hiện ra với các ông sau khi sống lại, lời trấn an đầu tiên mà Chúa gửi đến các ông là: “Bình an cho các con” và Ngài hứa sẽ sai Thánh Thần xuống để cùng đồng hành với họ. Như thế là họ sẽ được bình an, được an tâm để len đường tiếp tục công việc của Thầy, không còn phải lo lắng, hoang mang.
Và cũng hiểu được tâm trạng bất an của chúng ta ngày nay, Chúa cũng đã chúc bình an và hứa với chúng ta rằng: “Thầy sẽ xin Cha Thầy, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các con luôn mãi”. (Ga. 14,15). Cũng như các môn đệ họp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện ra và chúc bình an cho họ, ngày Chúa nhật họp nhau tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận bình an của Thiên Chúa và chúc cho nhau bình an của Ngài để rồi lại ra đi trong bình an của Ngài đến với anh em. Bình an ấy là kết qủa của đức tin.
Chúng ta là những người “đã không thấy mà tin”, và đã được Chúa chúc phúc; vì, như Thánh Gioan Tồng đồ đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bơi Đấng ấy. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người…, và giới răn Người không nặng nề. Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Chiên Chúa? (1Ga. 5,1-6)
Đức tin đem lại cho chúng ta bình an của Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tuyên xưng đức tin mà còn phải sống đức tin: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết; cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc. 2,26).
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA ĐỐI VỚI TÔMA
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa đã trao cho chúng ta trách nhiệm như Tôma và các môn đệ xưa: hãy đi loan báo và làm chứng về sự bình an và lòng thương xót Chúa cho người khác.
Từ lâu, gương mặt của Tôma đã cuốn hút nhiều người. Người ta thường đã nhìn thấy nơi ông, một con người hoài nghi và Gioan đã giải thích thái độ và cử chỉ của Tôma ra sao.
Ông đã không có mặt khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, chiều ngày Phục Sinh và khi Ngài đã thổi hơi trên họ. Mặc dù các môn đệ kể lại cho ông điều họ đã nhìn thấy, ông vẫn không tin. Ông đáp: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Gn 20,25).
Trong thực tế, Tôma không phải là người hoài nghi, mà là người muốn tự mình cảm nhận tất cả. Ông không bằng lòng với những gì người khác kể lại. Ông còn phải thấy và tự mình sờ chạm và chỉ tin với điều kiện ấy mà thôi.
Gioan mời gọi chúng ta theo gót Tôma để tin vào sự Phục Sinh. Điều kiện mà Tôma đưa ra để tin, chất vấn mỗi người chúng ta. Tại sao ông lại đặt nặng vấn đề các thương tích của Đức Giêsu, những dấu đinh trên bàn tay và vết đâm nơi cạnh sườn?
Có lẽ ông cần đến bằng chứng rằng Đấng Bị Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh là một, vì thật lòng mà nói quả là rất khó tin rằng người chết trong những đớn đau khủng khiếp như thế, lại có thể sống lại một hai ngày sau đó. Ông khó lòng chấp nhận rằng Đấng Messia đã chết trên Thập Giá, một cách bất ngờ, khủng khiếp như vậy, cho nên ông cần một bằng chứng rõ ràng để tin vào một Đấng Phục Sinh. Chính vì vậy học giả Merrill Tenney đã nói như sau: “bất chấp việc các môn đệ khác nói đi nói lại rằng Đức Giêsu đã sống lại, Tôma vẫn không tin. Ông biết rõ cái chết của Đức Giêsu, nên ông không dễ tin vào những lời tường thuật về việc Đức Giêsu hiện ra, và khẳng định ông chỉ tin khi nào ông đụng chạm đến thân thể Người. Điều Tôma cần không gì khác hơn là những chứng cứ vật chất. Sự cứng tin của ông là bằng chứng cho thấy sự kiện hiện ra sau Phục Sinh không phải là ảo tưởng vì quá mong nhớ Thầy.”
Tuy bị coi là cứng lòng tin, nhưng Tôma lại đạt tới đỉnh cao của niềm tin Kitô giáo vì không những Tôma tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, mà còn ý thức được rằng Đức Giêsu chính là “Ngôi Lời” của Thiên Chúa, do đó ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa của con”. Không chỗ nào trong Tân Ước có được lời chứng mạnh mẽ về Đức Giêsu như ở đây. Qui nạp hai tước hiệu đó vào Đức Giêsu Kitô là điều cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo.
Bác sĩ C. Scott Harrison đã đồng cảm với Tôma trong niềm tin này khi thi hành nhiệm vụ của một bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bàn tay. Trong một bài báo được phát hành trên toàn quốc, ông viết rằng trong mọi cuộc giải phẫu, ở một điểm nào đó, ông đã phải kêu lên, “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!
Câu chuyện xảy ra trong thời gian ông ở Việt Nam. Một tối kia, sau khi mới tốt nghiệp y khoa, ông được gọi đến để lấy một viên đạn từ tay một người lính. Đã vậy, ông phải thi hành điều đó dưới ánh sáng của đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã làm ông cảm động đến nỗi, sau cuộc chiến, ông quyết định chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Vì sự chuyên môn này, nhà phẫu thuật rất thấu hiểu sự đau đớn khủng khiếp gây nên bởi vật gì đó, tỉ như viên đạn, xuyên xé qua xương, bắp thịt, và các thần kinh của bàn tay. Ông nói cứ mỗi lần ông nghĩ về sự đau đớn khủng khiếp mà Chúa Giêsu phải chịu khi bị đóng đinh trên Thập Giá thì ông lại phải nhăn mặt.
Nói về bài Tin Mừng hôm nay, bác sĩ cho biết ông nghĩ rằng lời kêu than của Tôma,
“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con,” không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà đó còn là lời sửng sốt bàng hoàng khi thấy các bàn tay của Chúa Giêsu bị xé nát và sứt sẹo biết chừng nào. Chỉ lúc bấy giờ Tôma mới thực sự nhận thức được sự đau đớn mà Chúa Giêsu đã chịu trên Thập Giá. Với khám phá này, bác sĩ nói, “vượt quá mức chịu đựng của thánh Tôma.”
Bác sĩ C. Scott Harrison đã kết thúc bài viết với lời lẽ xúc động như sau: “mỗi lần tôi giải phẫu và nhìn vào bên dưới lớp da… của bàn tay con người, tôi được nhắc nhở rằng Đức Kitô đã hy sinh bàn tay lành lặn của Người vì tôi. Và, cùng với Tôma, tôi thân thưa, ‘Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.’”[1]
Tóm lại, chúng ta thấy nơi Tôma: ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giớ nói mình hiểu khi chưa hiểu. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự.
Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ biết lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến. Chính khi hoài nghi như thế cuối cùng đã đạt đến một đức tin chắc chắn và khi biết chắc, ông sẽ đi đến cùng. Ông nói: “lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.” Với Tôma không có chuyện nửa vời. Ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc và khi biết chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Đây chính là điều chúng ta phải học nơi Tôma. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA ĐỐI VỚI TÔMA
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa đã trao cho chúng ta trách nhiệm như Tôma và các môn đệ xưa: hãy đi loan báo và làm chứng về sự bình an và lòng thương xót Chúa cho người khác.
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe các môn đệ nói với Tôma: Chúng tôi đã thấy Chúa. Nhưng Tôma nói với các môn đệ kia rằng:”Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”.
Rồi tám ngày sau, các môn đệ họp nhau trong nhà, có Tôma ở đó, Chúa đã hiện ra với các ông. Chúa Giêsu lặp lại lời của Tôma và mời ông thực hiện điều ông đòi hỏi. Bấy giờ, Tôma chỉ biết thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin, phúc cho ai không thấy mà tin.”
Câu chuyện của Tôma cho chúng ta thấy con người của Tôma được bộc lộ thật rõ ràng, rất bộc trực và chân thành.
Tôma đã phạm một lỗi lầm
Ông đã vắng mặt trong buổi họp của anh em và vì không có mặt với các bạn nên ông mất cơ hội gặp Chúa Giêsu lúc Ngài hiện ra lần thứ nhất. Khi gặp cảnh đau buồn thất vọng, chúng ta thường có khuynh hướng muốn đóng cửa lại, nhốt mình riêng một nơi, không muốn gặp ai cả. Nhưng chính những lúc như thế, lại là lúc chúng ta cần đến sự chia sẻ cảm thông của anh chị em sống chung quanh chúng ta.
Nhưng Tôma có hai đức tính lớn
Ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giờ nói mình hiểu trong khi không hiểu. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng. Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến. Chính hoài nghi như thế cuối cùng sẽ đạt đến một niềm tin chắc chắn.
Và khi biết chắc, ông sẽ đi đến cùng
Ông nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Với Tôma không có chuyện nửa vời. Ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Khi một con người chiến đấu với nỗi hoài nghi để đi đến chỗ tin Đức Giêsu là Chúa, người ấy đạt được sự chắc chắn mà những người dễ dàng chấp nhận không suy nghĩ sẽ chẳng bao giờ đạt tới được.
Hôm nay cũng là ngày kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Dù mới thiết lập năm 2000, nhưng phong trào phổ biến lòng thương xót Chúa thật lạ lùng.
Lòng thương xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Lòng thương xót ấy vẫn còn để lại dấu vết trên thân thể Chúa, kể cả sau khi Chúa đã sống lại sáng láng vinh hiển. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, khiến các ông vui mừng và tin tưởng.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Đặc biệt với Tôma, Chúa Giêsu rất thương mến Tôma và sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của Tôma, để Tôma tiến tới một xác tín mạnh mẽ vào sự Phục Sinh của Chúa.
Nhà thần học Paul Tillich nói: “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin đích thực”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Như tin vào cha mẹ, thầy cô, những người có thế giá; tin vào tình yêu và lòng tốt của người khác dù họ chưa làm gì cho ta. Tin vào lời hứa trong tương lai dù chưa thấy kết quả trước mắt. Phải chăng đấy là những dấu hiệu của đức tin và niềm hy vọng. Phải chăng vì thế mà cuộc sống của ta được bình an và phấn khởi.
Chính vì vậy, hằng ngày chúng ta vẫn được hưởng sự bình an và lòng thương xót của Chúa qua Giáo Hội khi chúng ta nghe Chúa dạy, lãnh nhận các bí tích nhất là Thánh Lễ.
Nghĩa là Chúa đã trao cho chúng ta trách nhiệm như Tôma và các môn đệ xưa: hãy đi loan báo và làm chứng về sự bình an và lòng thương xót Chúa cho người khác.
Thế giới, xã hội còn đầy bất công và bạo hành, chúng ta hãy đem sự bình an của Chúa Phục Sinh cho họ. Thế giới, xã hội còn đầy vết thương do sự tranh chấp, hận thù và ghen ghét, chúng ta hãy đem lòng thương xót Chúa đến cho họ để chữa lành nỗi đau thể xác và tinh thần, giúp họ tiếp tục bước theo Chúa trên con đường khổ giá để được chung hưởng niềm vui Phục Sinh với Chúa. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trong một căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thân xác vinh quang của Ngài tựa hồ như một luồng ánh sáng chiếu qua những khung cửa kính. Để củng cố niềm tin, Ngài cho các ông xem những vết thương trên tay chân Ngài khiến cho các ông hết sức vui mừng. Rồi Ngài nói với các ông: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Điều đó có nghĩa là: Chúa Cha đã sai Ngài đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, thì Ngài cũng sai các ông đi để đem lại ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân.
Ngài thổi hơi để thông ban thần khí cho các ông và nói: Các con hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Với tác động của Chúa Thánh Thần, Ngài đã trao ban cho các ông một uy quyền thiêng liêng, đó là quyền thao cởi. Quyền tha thứ và cầm buộc nếu như tội nhân chưa được xứng đáng.
Thế nhưng ngày hôm đó Tôma lại vắng mặt, ông đã tỏ ra cứng lòng khi nghe các môn đệ kể lại sự việc. Chúng ta có thể nghĩ rằng sự cứng lòng của Tôma là một sai lỗi, là một khuyết điểm may mắn, vì nhờ đó mà chúng ta có được một bằng chứng về sự sống lại của Đức Kitô, bởi vì các môn đệ không phải là những người cả tin, dễ nghe theo những lời đồn thổi, nhưng cac ông đã đòi phải có những chứng cớ hiển nhiên.
Cũng chính nhờ sai lỗi và khuyết điểm này chúng ta mới có được những lời lẽ đầy an ủi của Chúa Giêsu: Vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho ai không thấy mà tin. Khi phán những lời ấy, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới hàng triệu triệu người qua dòng thời gian luôn tin tưởng nơi Ngài, mặc dù đã không một lần nhìn thấy Ngài trên mặt đất này. Và cũng thật hạnh phúc cho chúng ta, bởi vì chúng ta chưa được nhìn thấy Ngài, chưa được sờ tới gấu áo Ngài, chưa được nghe Ngài nói, chưa được chứng kiến những phép lạ Ngài làm, cũng như chưa được ăn và uống với Ngài. Nhưng chúng ta đã tin tưởng nơi Ngài dựa vào những chứng cớ của các tông đồ, là những người đã dám chết để làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô.
Thánh Gioan đã viết trong sách Phúc Âm như sau: Sở dĩ một số các phép lạ được kể lại là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, đồng thời nhờ niềm tin tưởng này mà anh em có được sự sống, dĩ nhiên đó phải là sự sống vĩnh cửu mà chính Ngài muốn đem đến cho thế gian.
Chúng ta hãy Chúa xin củng cố niềm tin của chúng ta, để một khi đã xác tín việc Chúa sống lại, chúng ta cũng sẽ mạnh dạn làm chứng cho Chúa như các môn đệ ngày xưa.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra cách nhau vừa đúng một tuần.
Lần thứ nhất Ngài hiện ra với nhóm các môn đệ đang run sợ trong một căn phòng đóng kín. Ngài đã cầu chúc bình an, còn các ông thì vui mừng khi gặp lại Ngài. Chúa Giêsu hiện ra không phải chỉ để đem lại cho các ông niềm vui mừng và an ủi sau những giờ phút kinh hoàng của cuộc thương khó. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn muốn mời gọi các ông tham dự vào sự biến đổi sâu xa nơi bản thân Ngài. Hay nói cách khác, Ngài muốn đưa các ông đi vào mối quan hệ với chính Ngài. Các ông đã biết Ngài trong cuộc sống thân xác, nhưng cuộc sống ấy đã qua bởi vì Ngài đã sống lại, đã được đổi mới trong Thánh Thần cho một cuộc sống mới, trong một cuộc sáng tạo mới.
Đúng thế, khi tạo dựng Adong nguyên tổ loài người, Thiên Chúa đã hà hơi ban sinh khí thì nay vào ngày đầu tiên của công cuộc tạo dựng mới, Đức Kitô Phục sinh cũng đã hà hơi trên các môn đệ đang như chết cóng vì hợ hãi, để ban cho các ông sinh khí mới là Thánh thần. Chính nguồn sinh khí mới này sẽ đem lại cho các ông quyền tha tội, mà trước đây chỉ dành cho một mình Chúa Giêsu. Các con hãy chịu lấy Chúa Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Như thế, chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần và quyền tha tội được nối kết chặt chẽ với nhau, vì mục đích chính yếu của Chúa Thánh Thần là tẩy luyện, là đổi mới. Tiếp đến các ông được Chúa sai đi, hầu tham dự vào công cuộc tẩy luyện và đổi mới trần gian. Trước kia, khi Chúa Giêsu còn ở với các ông, các ông có thể sống ỷ lại và tầm thường, nhưng giờ đây thì không được nữa, bởi vì các ông đã lãnh nhận một sứ mạng lơn lao: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. VÌ thế các ông tiếp nối chính sứ mạng được sai đi của Chúa Giêsu. Các ông sẽ lên đường và làm chứng về Ngài cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Lần thứ hai Chúa Giêsu hien ra với các tông đồ, trong đó có cả Tôma một người vốn cứng lòng. Và chúng ta thấy Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình sau khi đã nhìn thấy những vết thương nơi tay chân và trái tim của Chúa. Từ đó, Ngài mời gọi các ong hãy có lấy một lòng tin mới. Từ nay lòng tin sẽ không còn đặt nền tảng trên giác quan, mà là trên chứng từ của những người đã thấy. Chính với lòng tin này mà người Kitô hữu được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô Phục sinh.
Ngày nay, Giáo Hội nói chung và mỗi người tín hữu nói riêng cũng sẽ tiếp nối sứ mạng được sai đi mà ngày xưa Ngài đã trao cho các môn đệ. Chúng ta được sai đi để rao tỉang sự sống lại, để xây dựng một quan hệ mơi giữa con người với con người. Con người tội lỗi, thuộc thế giới cũ, bị đặt dưới quyền lực của sự chết và bị coi như thù địch. Trong khi đó, con người phục sinh với cuộc sống mới, phải đối xử với nhau như anh em phải yêu thương và đùm bọc lấy nhau. Thực hiện được sứ mạng sai đi như thế, là chúng ta đã chu toàn được điều Đức Kitô Phục sinh nhắn gởi đến mỗi người chúng ta.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau:
Một ngày nọ, nhà của thầy bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống thầy chỉ còn “ngàn cân treo sợi tóc”. Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
– Nhảy đi, Thầy nhảy xuống đi!
Thầy Nasruddin nói:
– Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề!
– Ôi, Thầy ơi! Không phải trò đùa đâu, Thầy nhảy mau đi!
Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố:
– Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.
****
Tin là chấp nhận bấp bênh, la chấp nhận có thể bị lừa dối. Nhưng không thể sống mà không tin. Người ta không thể nói: “Có thấy mới tin”. Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy rõ lòng dạ con người, nhưng họ vẫn tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình làng xóm… Người ta cũng không thể nói: “Tôi chỉ tin vào Chúa nếu có bằng chứng”. Paul Misraki nói: “Nếu bạn chỉ đợi có bằng chứng mới tin, thì đức tin đã trở thành khoa học rồi”.
Khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là khủng hoảng niềm tin. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy giữ vững niềm tin.
Tin vào Thiên Chúa và tin vào con người.
Tin vào thế giới do Người tạo nên.
Tin vào cuộc đời mà Người gởi ta đến.
Tin vào vẻ đẹp và hạnh phúc Người tặng ban.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga.20,28). Người tín hữu Kitô là những người không thấy mà tin. Họ không thấy Chúa bằng con mắt thường, nhưng họ thấy Người bằng con mắt đức tin. Họ không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng họ thấy Người với cả trái tim. Thiên Chúa muốn cho giác quan chúng ta ra tăm tối, để niềm tin được ăn rễ sâu trong Người.
Miguel de Unamuno viết: “Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi”.
Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên: “Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người”. Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist có viết: “Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô”.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng con, để chúng con tin Chúa đang sống động, hiện diện, thật gần, ngay bên cạnh chúng con, trong cuộc sống và trong người anh em. Amen.
28. Làm chứng cho Đấng Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Trong suốt tuần bát nhật, Giáo hội chọn những bài đọc trong sách Tông đồ Công vụ, để thuật lại những bài giảng của thánh Phêrô nói về sự kiện Đức Giêsu đã sống lại. Vị Tông đồ đã nhiều lần khẳng quyết sự xác tín này trước nhà cầm nguyền Rôma, trước những đầu mục và biệt phái người Do thái, cũng như trước đông đảo quần chúng. Trong Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn vào chứng tá của cộng đòan Giêrusalem tiên khởi(bài đọc 1), cũng như học hỏi niềm tin nơi các Tông đồ, đặc biệt nơi Tôma Đydimô. Niềm tin đó là nền tảng xây dựng Hội thánh và cũng được truyền thụ lại cho chúng ta ngày hôm nay.
Ngài thổi hơi vào các ông và ban Thánh Thần (Ga 20,22).
Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, các sự kiện liên hoàn được trình thuật lại, gồm việc Chúa sống lại, đi vào trong vinh quang với Chúa Cha và trao ban Thần khí để xây dựng Hội thánh, tất cả chỉ là một mầu nhiệm duy nhất khong tách rời. Vì vậy Chúa Phục sinh hiện đến giữa các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, thổi hơi trên các ông và trao ban năng quyền tha tội, chính là động thái thiết lập Giáo hội, nhiệm thể của Đức Kitô Phục sinh. Sự sống của Đấng Phục sinh được thông truyền cho Giáo hội, vì thế ngoài Giáo hội, tức ngoài nhiệm thể của Đấng Phục sinh sẽ không có ơn cứu độ. Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế thuật lại việc Thiên Chúa lấy bùn đất tạo nên hình người. Sau đó, Ngài thổi hơi ban sinh khí và con người trở nên sinh vật, tức là một vật thể có sự sống(St 2,7). Đây là những hình ảnh biểu trưng, khải thị cho ta biết rằng sự sống phát nguyền từ nơi Thiên Chúa. Song, tội lỗi đã nhập vào trần gian và con người đánh mất sự sống ban đầu. Vì thế, trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu đến trần gian và dùng chính máu của Ngài để ‘Giai án Tuyên công’ (hạn từ của dịch giả Nguyễn Thế Thuấn), cho chúng ta được ‘Công chính hóa’, và phục hồi nơi chúng ta sự sống làm con cái Chúa. Trong cái nhìn thần học ấy, thánh Gioan đã miêu tả việc Chúa hiện đến, và thổi hơi ban Thần khí để tái sinh Hội thánh chỉ là một sự kiện duy nhất. Chúa đã sống lại khai sinh một dân mới, dân tư tế, dân tộc thánh thiện gồm đoàn người đông đảo mặc áo trắng tinh, áo đã được giặt trong máu Chiên Con(Kh 8,14). Trình thuật hôm nay cần được đọc lại, liên thông với sách Khải huyền để chúng ta có thể nắm bắt những tư tưởng thần học mà thánh Gioan muốn trình bày.
Chứng tá của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi
Trong bài đoc 1, Thánh Luca, tác giả sách Tông đồ Công vụ nêu bật chứng tá của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Đây là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng cách thông ban sự sống mới cho họ. Cộng đòan này đã được hồi sinh, và đời sống của họ trở nên chứng tá cụ thể cho Đấng Sống lại. Tác giả đã nêu ra 4 đặc nét của cộng đoàn này:
– Sống một lòng một ý, tức hiệp nhất trong tình yêu.
– Sống theo chế độ cộng sản đúng nghĩa nhất, bằng viec đặt mọi sự làm của chung.
– Chuyên cần trong việc bẻ bánh, tức là cử hành các Bí Tích.
-Tuân theo lời chỉ dạy của các Tông đồ.
Sự sống mới mà Đấng Sống lại ban tặng đã giúp hồi sinh cộng đoàn và các vị đã trở nên những chứng nhân đầu tiên, thể hiện rõ nét qua cách sống mới. Đây là mô thức cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Thế giới ngày nay cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Rao giảng bằng lời nói phải đi đôi với hành động. Phêrô thì rao giảng cách mạnh mẽ và can trường, và cuối cùng Ngài đã chấp nhận cái chết tử đạo để trở thành chứng nhân. Các Kitô hữu tại Giêrusalem thì rao giang qua đời sống chứng tá huynh đệ, gắn kết với nhau trong tình yêu, và biết chia sẻ với nhau của cải vật chất cũng như của ăn tinh thần. Họ vâng phục các tông đồ là những người thừa ủy năng quyền của Đấng Phục sinh, va nhờ đó họ trở nên một nhiệm thể duy nhất. Các cộng đoàn Kitô của chúng ta hôm nay cần nhìn vào mẫu gương đó để học hỏi và sao chép.
Niềm tin kiên định nơi Tôma và các tông đồ.
Tôma không phải là con người cứng tin như nhiều người lầm tưởng. Ngài cũng không phải là con người thuộc trường phái duy nghiệm hay thực dụng, tức là chỉ thấy mới tin. Trái lại, Tôma là một tông đồ có niềm tin rất sâu xa và kiên định. Ngài khao khát muốn được tiếp cận trực tiếp với Đấng Phục sinh để được Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh thần, chuyền tải cho mình sự sống mới. Tôma và các tông đồ đã được Chúa Giêsu cho thỏa mãn ước mơ ấy. Tâm hồn của các Ngài đã được lấp đầy bằng sự sống và ân sủng. Chúa trưng ra các vết tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài để mời gọi Tôma một lần nữa nhìn lại hình bóng Thập giá và nhắc nhở các học trò đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy hầuđược sống với Ngài trong sự sống mới. Lời tuyên tín của thánh Tôma ‘Thưa Thầy…’ là lời tuyên bố bắt đầu khai mở cuộc hành trình mới trong đức tin để cùng chết với Thầy mình trong mầu nhiệm tử đạo mỗi ngày. Sử sách ghi lại rằng, Thánh Tôma sau này đi truyền giáo ở Parthia và đã lãnh triều thiên tử đạo tại đó.
Tôma không phải là một tông đồ cứng tin hay cố chấp. Trái lại, đức tin kiên vững nơi Ngài là mô hình để chúng ta cùng học hỏi và noi theo.
Kết luận
Giáo hội đã mừng lễ Chúa Phục sinh và kéo dài suốt cả tuần bát nhật. Các ngày Chúa nhật cũng là ngày mừng Chúa sống lại, và mầu nhiệm căn bản này phủ bọc trọn vẹn đời sống đức tin của chúng ta. Nhưng điều quan trong là chúng ta đã hiển thị niềm tin ấy cách cụ thể như thế nào. Chúng ta hãy bắt chước cộng đoàn Giêrusalem năm xưa để rao giảng không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Bình an cho anh em” (Ga 20,9).
Hồi còn là sinh viên, tôi bắt đầu thích thú tìm hiểu các chân lý Kitô giáo, khởi đầu qua một sự kiện. Trong lớp học hôm đó, một bạn sinh viên trong lớp thách thức một thần học gia và khẳng định rằng những gì không được kiểm chứng cụ thể thì không phải là chân lý đáng để chúng ta tin theo. Tôi rất tâm đắc lời khẳng quyết này. Là một Kitô hữu, toi cũng đã từng có kinh nghiệm khá nhiều về tình yêu của Thiên Chúa phủ ngập trong cuộc đời tôi. Nhưng phải thú thật, chỉ những Kitô hữu tốt lành và thánh thiện mà tôi đã gặp, mới là những chứng nhân và gương sáng rat cụ thể, đã đánh động và kiện cường đức tin nơi bản thân tôi. Thái độ và cách sống của họ biểu tỏ cho thấy họ đã trải nghiệm thực sự bình an của Chúa nơi tâm hồn, và được biểu thị rõ ràng qua cuộc sống của họ, một cuộc sống được đổi mới trong Thần khí. Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan tông đồ cũng khẳng quyết “Mọi kẻ được Thiên Chúa sinh ra, đều thắng được thế gian” (1 Ga 5,4). Như thế, những người được tái sinh bởi Thần khí sẽ không còn lý do gì để phải sợ hãi. Họ có được an bình trong tâm hồn, giống như những Kitô tốt lành mà tôi đã gặp gỡ.
Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan cho ta thấy các tông đồ cũng được tai tạo, được đổi mới nhờ hơi thở linh thánh của Đấng Phục Sinh. Đây chính là hơi thở mà ngay từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã thổi vào để tác sinh con người. Sách Sáng thế viết “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2,7). Vào buổi chiều ngày Phục sinh, các tông đồ sợ sệt, ngồi co rúm lại với nhau trong một căn phòng đóng kín. Họ đã trải nghiệm niềm vui tot cùng khi được gặp gỡ Đấng Phục sinh, người Thầy đáng kính của họ. Đức Giêsu đến, đứng ở giữa họ và nói “Bình an cho anh em”. Khi nói xong, Ngài thổi hơi trên họ và nói “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”.
Các Ngài đã lanh nhận hơi thở thần thiêng, đã được sinh ra “từ trên cao”, tức là các Ngài đã được đổi mới hoàn toàn, bởi vì “những gì sinh ra bởi xác thịt là xác thịt, và những gì sinh bởi thần khí chính là thần khí (Ga 3,6.7). Rồi sau đo Đức Giêsu ủy trao sức mạnh thần thiêng cho các tông đồ. Họ đã nhận lãnh quyền năng từ chính Đấng Phục sinh “Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, người đó bị cầm giữ”. Tôi không nghĩ rằng, lúc đó Đức Giêsu có ý ám thị về bí tích tha thứ nơi tòa giải tội, cho dù sau này, giáo hội vẫn hiểu như thế, và chắc chắn Đức Giêsu đã trao ban năng quyền bính tha tội cho các thừa tác viên nơi tòa cáo giải. Nhưng thíết tưởng, đong thái của Đức Giêsu thổi thần khí vào các tông đồ, là nhằm tái sinh các ông, ban cho các ông một sự sống mới, để họ được thông dự vào sức sống và quyền năng của Đấng Phục sinh từ sâu tận trong tâm hồn các ngài. Đức Giêsu thổi hơi thở của Ngài, hơi thở của Thần khí trên các tông đồ. Đây là sinh khí và sức sống biểu thị sứ mạng cứu thế và quyền năng của Đấng Sống lại. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tác giả sách tông đồ công vụ cũng cho thấy, các tông đồ đã có đầy quyền năng (megadynamis), một năng động lực với uy quyền để làm chứng cho Đấng Sống Lại.
Tuy nhiên, Tôma không có mặt, không gặp được Chúa buổi chiều ngày hôm đó. Tôma đã không tin, chính xác hơn là ông chưa tin. Tuần sau, Ngài lại hiện đến, với sự hiện diện của Tôma. Vị tông đồ này không chỉ tin, nhưng còn mạnh mẽ thốt lên “Lạy Chúa, Thiên Chúa của con”. Hành vi tuyên tín của Tôma giống như mot động thái mang tính tiên tri, đã mở toang cánh cửa của căn phòng đóng kín, và khai mở sứ vụ rao giảng Tin mừng nơi toàn thể Hội thánh. Trọng tâm của Tin mừng là sứ vụ công bố cho thế giới “Lời” và “Ánh Sáng thật”(Ga 1,1-4), là chính mầu nhiệm Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại. Được ơn soi sáng, Tôma đã can đảm nói lên lời xưng thú và dũng cảm tuyên xưng đức tin. Hành vi tuyên tín của ông có vẻ như đầy kịch tính, nhưng mở ra cho giáo hội một viễn ảnh mới để công bố và làm chứng cho Tin mừng Phục sinh.
Có lẽ, chúng ta dễ nghĩ tưởng rằng Thomas đã tự dàn dựng một khung cảnh để bào chữa cho mình. Ngài đã được các tông đồ khác thuật lại câu chuyện tiếp cận trực tiếp với Đấng Sống Lại, và họ cũng kỳ vọng Thomas sẽ tin mà không cần kiểm chứng hoặc hỏi han điều gì. Khi tôi nghe một ai thuật lại một câu truyện về kinh nghiệm thiêng liêng của họ, ví dụ họ đã đươc thị kiến gặp thấy Chúa, tôi luôn đặt vấn đề, xem có thực sự đó là một ơn ngoại thường Chúa ban riêng cho họ, hay chỉ là một sự bịa đặt hoang tưởng. Thái độ của Thomas cũng phản ánh những suy nghĩ mang tính loại suy như cua các Kitô hữu sau này, bởi vì họ cũng không gặp trực tiếp Đức Giêsu Phục sinh. Chúng ta nghe Chúa Giêsu nói với ông “ Có phải vì anh đã thấy Thầy nên anh tin? Phúc cho những ai không thấy mà tin ”.
Câu nói của Đức Giêsu ngỏ trao cho Tôma cũng là sự nhắc nhở Chúa gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Liệu có phải chúng ta cần những chứng cứ cụ thể để tin, hay chúng ta muốn trở nên những người được Thiên Chúa chúc phúc vì đã tin cho dù không thấy? Vấn đề ở đây, không phải là Tôma cần những bằng chứng cụ thể, và càng không phải là một con người cố chấp, cứng lòng, không tin. Điều quan trọng, là ông đã cảm nghiệm thực sự và bị cột trói vào những gì rất rõ ràng mà ông cảm nhận được. Ông đã tận mắt thấy sự biến đổi sâu xa nơi các bạn đồng nghiệp. Họ đã được đổi mới hoàn toàn. Từ những con người tuyệt vọng và nhát đảm, họ đã trở nên những con người can đảm va tràn đầy hy vọng. Từ những con người ẩn nấp trong bóng tối nơi căn phòng khép kín, các ông đã mở toang cánh cửa, cánh cửa của ngôi nhà chật chội đóng khép, cũng như cánh cửa của ngôi nhà mù tối nơi tâm hồn họ. Giờ đây, các ông ngập tràn niềm tin và được phú trao quyền năng mạnh mẽ. Các ông đã có được quyền năng siêu phàm của Đấng Phục sinh để diễn bày tình thương tha thứ đến cho mọi người. Nhưng trên hết, sự sợ hãi và bất an nơi các học trò Đức Giêsu đã được thay thế bằng sự an bình trong Thần khí mà Đức Giêsu đem lại. Đó chính là quà tặng vô giá. Bởi vì, quà tặng bình an là món quà lớn nhất mà họ đã sở đắc được. Đây là chứng từ mạnh mẽ mà Tôma đã thấy. Ông đã tận mắt mục kích và cảm nghiệm một sức sống mới, tuôn trào mãnh liệt từ sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Đó quả là một cuộc tái tạo trong chính Thần khí của Đức Kitô, Đấng Phục sinh. Tôma đã trở nên như một hình mẫu đức tin cho chúng ta.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phuc Âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: “Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi”.
Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hom nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng se phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chưng kiến một cuộc thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đen, các Tông đồ đang sống trong lo sợ, đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao? Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ khong biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu, chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể: “Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây”. Chúng ta ngày hôm nay không thể nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: “Phúc cho những ai không thấy ma tin”.
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.
31. Sống tin yêu Chúa Kitô Phục Sinh
Niềm tin là điểm tựa để con người vươn lên, là chất sống để con người tiếp tục tồn tại và là sự khởi đầu của tiến trình đi lên trong mối quan hệ hỗ tương. Như thế niềm tin quan trọng và cần thiết biết bao! Hơn nữa tin vào Chúa Kitô phục sinh càng cần thiết hơn. Chính Chúa Kitô luôn nâng đỡ niềm tin của chúng ta và đã thể hiện lòng thương xót, tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Chúa Kitô Phục sinh là một Tin mừng, Tin mừng của lòng thương xót, nhưng là một tin mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Thật thế, sự kiện ngôi mộ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để cho chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có the là một tiếng gọi (cho Maria), một cử chỉ bẻ bánh (cho hai môn đệ Emmaus) hoặc cũng có thể là một phép lạ xảy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chan và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin!” (Ga 20, 27). Điều đó cho chúng ta thấy được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như thế, dấu chỉ để các Tông Đồ nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính những dấu đinh. Nếu chính Đấng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. Và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng Phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng khong có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chúa Phục Sinh một cách sống động nhất. Chúng ta hãy nhận ra lòng thương xót của Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là tình thương của Thiên Chúa đối với vũ trụ, con người. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là Chúa trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, bị đói khát, nghèo hèn, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loai với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nhiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống của người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mo hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một, chuyên cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”(Cv 2, 42 – 47). Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (x. Cv 4, 32-35; 2, 42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, con tin Chúa đã sống lại và đang hiện diện với chúng con, với Giáo Hội. Xin Chúa thêm lòng mến Chúa để chúng con can đảm sống chứng nhân giữa đời thường bằng một tình yêu mà Chúa đã hiến mạng sống vì yêu thương chúng con. Amen.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Với lòng thương xót, khi hiện ra với các tông đồ đang lo sợ và đóng kín cửa, lời đầu tiên mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ là sự bình an của Người.
Suy niệm:
Mừng đại năm thánh 2000, vào ngày 30 tháng 4 cùng năm, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II đã phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài cũng đã lập Thánh lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa trên toàn Hội thánh vào Chúa Nhật tuần II Phục Sinh, đúng như ước muốn của Chúa mặc khải tư cho chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính Lòng thương xót của Ta phải được cử hành vào Chúa nhật thứ II Phục sinh.” Như vậy, Hội Thánh đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng nhân từ thương xót của Chúa.
Với lòng thương xót, khi hiện ra với các tông đồ đang lo sợ và đóng kín cửa, lời đầu tiên mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ là sự bình an của Người. Và cũng với lòng thương xót, Chúa không muốn một ai ở bên ngoài nguồn suối lòng thương xót từ trái tim nhân lành của Người, nên đã tiếp tục hiện ra để củng cố đức tin nơi Tôma, người vắng mặt trong lần Chúa hiện ra với các bạn hữu của ông.
Với Tôma, ông có lý do khi đòi hỏi được nhìn thấy những dấu tích. Việc tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh không phải là một sự mê tín, cũng không nghe theo những lời nói suông, lời đồn đại và không có cơ sở để tin. Chúng ta, các thế hệ sau này phải cảm ơn Tôma vì nhờ ngài mà chúng ta có được một đức tin được củng cố khi Tôma dám thẳng thắn nói lên suy nghĩ của mình: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Nơi Tôma, có cái gì rất dễ thương, đáng ngưỡng mộ của một con người tìm đến với đức tin cách chân thành, không mập mờ hay nửa vời. Và khi đã thực sự gặp gỡ Chúa Phục Sinh, thì đây, lời tuyên xưng từ miệng Tôma không phải là từ “Chúa” hay “Thầy” cách chung chung nữa, nhưng là từ được xác định rõ ràng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chính khi kinh nghiệm để thốt lên “Chúa của con”, đức tin ấy giúp Tôma vâng phục cho đến cùng, dám sống chết với điều mình dấn thân.
Chúa Giêsu là Đấng nhẫn nại và giàu lòng thương xót, Người hiện ra lần này đến lần khác để củng cố, để giải gỡ những mối rối, ngờ vực và hoang mang trong lòng người môn đệ. Sự hoài nghi của các Tông đồ, cũng như việc cứng lòng tin của Tôma nhờ vậy giờ đây đã trở nên bằng chứng đức tin đầy thuyết phục đối với các tín hữu Giáo hội sơ khai cũng như với con người mọi thời đại mà không cần bằng chứng nào thêm nữa. Các Kitô hữu giờ đây vinh dự được lãnh nhận niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh nhờ ân sủng “phúc cho ai không thấy mà tin”.
Vâng, nhờ tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã quây quần bên nhau, hợp nhất cầu nguyện, đồng tâm nhất trí trong tư tưởng, lời nói cũng như sẵn sàng góp công góp của, coi mọi sự làm của chung với lòng bác ái chân thành. Và nhờ dấu này mà mọi người nhận biết các Kitô hữu là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau.
Chúng ta không thể định nghĩa được tình yêu, nhưng qua cách những người yêu thương thể hiện cho nhau mà nhận ra được thế nào là tình yêu. Nào là người cha người mẹ hy sinh cả đời cực khổ vì con, nào là người bạn dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình, nào là người anh chị em biết nhường nhịn phần tốt cho người còn lại… Vâng, cao cả hơn hết là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài tỏ bày tình yêu cho nhân loại bằng lòng thương xót dẫu cho con người còn đầy dẫy những bất toàn, yếu đuối, tội lỗi, ngờ vực, thất vọng, khiếm khuyết, bất xứng, phản bội… Nhờ đó, mọi người, nhất là các tội nhân biết mau mắn chạy đến với tình yêu đầy lòng thương xót của Chúa với một niềm tin tưởng, như Người đã nói với thánh nữ Faustina: “Không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của họ có đỏ như máu đi nữa…”
Từ thánh tâm Chúa Giêsu, hai luồng sáng trắng đỏ như nước và máu. Nước làm cho linh hồn nên công chính; và máu là sự sống của linh hồn. Xin cho mỗi người chúng ta mau mắn và thành tâm chạy đến với lòng thương xót của Chúa, để chính từ trái tim nhân lành của Người, linh hồn chúng ta cũng nhận được ơn cứu độ. Và con tim của chúng ta mềm ra, để sống đáp lại tình thương của Thiên Chúa luôn chở che và không ngừng ban ân sủng cho từng người chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Đức Kitô. Đức Kitô đứng yên lặng không trả lời. Philatô lên tiếng:
Ông không biết là tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?
Đức Kitô lên tiếng:
Ông không có quyền gì trên nói nếu Thiên Chúa không ban cho ông. (Ga 19,10)
Đức Kitô nhắc Philatô quyền hành ông hiện nắm giữ trên tay không phải tự ông có được mà chính là do ơn Trên ban cho. Vì là ơn trên ban cho nên có ngày ông cũng sẽ mất quyền đó. Chính vì nhận biết quyền đó không tồn tại suốt đời, không nắm vững trọn đời nên tốt hơn hết là xử dụng quyền đó một cách chân thành. Dùng quyền hành trong khả năng để bảo vệ sự sống, cổ võ công bình và sống thật thà, ngay thẳng.
Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và tổng trấn Philatô tưởng đâu đã đi vào quyên lãng, không ngờ mẩu đối thoại trên tồn tại cho đến ngày nay. Nó tồn tại đến ngày nay là vì nó liên quan đến Đức Kitô. Ngày nào còn có người tin vào Đức Kitô ngày đó mẩu đối thoại kia còn tồn tại. Không phải chỉ có mẩu đối thoại kia tồn tại mà chính những giáo huấn của Chúa cũng tồn tại. Đức Kitô sống lại từ cõi chết nên những gì lên quan đến Ngài cũng sống lại từ cõi chết. Giáo huấn của Ngài, việc Ngài làm, điều Ngài nói tất cả đều tồn tại và sống động. Những điều trước kia người ta sợ không dam loan truyền rộng rãi sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết tất cả đều được phô bày, dù nói nơi kín đáo, dù nói trong cung điện. Tất cả đều bộc lộ, đều được phơi bày ra ánh sáng. Nếu không được phô bày làm sao ngày nay chúng ta còn được nghe thuật lại những mảu đối thoại nơi cung cấm xưa.
Sự kiện Đức Kitô sống lại làm sống lại những gì câm nín trước kia. Tất cả dù tin hay không tin đều vướng vào vòng tranh biện về cái chết và sự sống lại của Ngài. Kẻ tin thì mau mắn rao giảng Tin Mừng cho muôn dân như được truyen dậy trước kia. Kẻ không tin, chống lại thì ngày đêm suy nghĩ tìm mưu, tính kế chống phá lại giáo huấn của Ngài. Như thế không ai có thể nói rằng, không biết, không nghe đến Đức Kitô. Chính những kẻ chống đối và câm nín nhiều nhất lại là người nghe được nhiều nhất. Nhóm đầu tiên tự thú chính là viên đội trưởng thi hành lệnh hành hình Đức Kitô. Đứng dưới chân thập tự ông chứng kiến giờ Đức Kitô sinh thì, trời u ám, đất rung chuyển. Vị đội trưởng đấm ngực ăn năn tự thú:
Người này quả là người công chính (Lc 23,47)
Kế đến là nhóm chống đối và cũng là nhóm ra lệnh giết Đức Kitô đó là các Kinh Sư đền thờ và hàng qúi tộc nắm quyền sinh sát trong tay. Ba ngày trước đó họ tuyên án, ra lệnh cho thuộc hạ thi hành bản án ngay lập tức mà không thể đình vì sợ có thay đổi ngoài dự tính của họ. Họ vỗ ngực tự nhận là kẻ chiến thắng. Chiến thắng tồn tại đúng ba ngày họ hạ hối lộ thuộc cấp ra lệnh cho thuộc cấp phao tin thất thiệt.
Các ngươi cứ nói là trong lúc chúng tôi ngủ môn đệ ông Kitô đến trộm xác. Nếu việc này đến tai quan tổn trấn đã có chúng ta lo, các ngươi sẽ không liên luỵ gì. (Mt 28,15)
Quả là lạ, quan quân hoàng gia, vũ khí trong tay lại thua các tông đồ tay không, chân đất. Quân canh, ngủ gục, không làm tròn trách nhiệm được cấp trên bao che. Bất công từ trong tổ chức đi ra. Lạm dụng quyền hành từ đầu đến cuối. Khởi đầu cuộc xét xử quan tổng trấn không cần biết sự thật. Ngài tuyên bố tha kẻ đó vô tội; ngài tuyên án kẻ đó có toi.
Nhóm lãnh đạo không thể giải thích lí do nào khiến môn đệ Đức Kitô chạy tán loại khi Ngài còn sống nhưng lại tụ họp lại, liên kết lại sau khi Đức Kitô qua đời. Lời nói mất tiền mua chuộc quân lính có quá nhiều kẽ hơ cho công luận nhận xét.
Những kẻ không tin chắc chắn không nghe được tiếng nói lặng câm của Thánh Thần Chúa. Chính tiếng nói âm thầm thúc đẩy những người tin theo Đức Kitô mạnh dạn tiến ra ánh sáng, đối diện với sự thật dù có phải bách hại, đau khổ và kết án họ cũng sẵn sàng hy sinh để làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Trước Kia họ chạy trốn vì chưa nghe được tiếng nói lặng câm kia. Nghe được họ cất tiếng ca ngợi Lậy Chúa, Lay Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin nghe được tiếng Thánh Thần Chúa.
34. Phúc cho ai không thấy mà tin – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Nguyễn Du, một thiên tài thi ca Việt Nam, đã kết thuc áng văn kiệt tác của ông bằng câu thơ: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Tâm chỉ tấm lòng yêu mến, tư tưởng, tinh thần, tâm linh, là cái không thấy được. Tài là khéo léo, làm giỏi, là tiền tài, danh vọng, phú quý, chỉ những thứ trông thấy được.
Sau những đoạn trường của cuộc đời đau khổ như đứt từng khúc ruột, Nguyễn Du đã thấm thía: Mọi của cải danh vọng, giàu sang mà ông đã từng trải và từng thấy rõ ràng, chẳng làm cho con người được hạnh phúc. Con tâm chí thiện mới thật quý giá và làm cho người được hạnh phúc. Như vậy, cái không thấy có phúc, có giá trị hơn cái thấy được. Đại học Nho giáo đã viết: “Đại học chi đạo? Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (ĐH. I.). Chí thiện là thiên mệnh, là ý trời ở trong tâm tính không thể thấy được bằng tai mắt nhưng có thật, con người phải cố gắng thể hiện ý trời đó mới thực là đạo người. Đạo đưa lại hạnh phúc cho mình và cho muôn dân: “Thiên mệnh chi vị tính. Xuất tính chi vị đạo” (Trung Dung I).
Hôm nay, Đức Kitô chỉ cho các tông đồ và riêng Tôma biết: “Ai không thấy mà tin là người có phúc”.
Nghe tin các bà nói Thầy đã sống lại, các tông đồ tụ họp hồi tâm cầu nguyện chờ đợi xem sao. Tôma vắng mặt. Ông vắng mặt vì ông là người đa nghi và nhát đảm (Ricciotti: Vie de Jesus Christ No 633). Khi các bạn tông đồ đến nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông nổi khùng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Lý lẽ của ông xem ra đã được nghiền ngẫm trước một người bị đóng đinh co dúm lại, da thịt rách nát, chân tay và cạnh sườn bị đâm toạc ra, làm sao sống lại được? Còn Madalêna thấy Thầy sống lại ư? Đó là kẻ bị quỷ ám, dễ ảo tưởng, đầu óc đầy ảo ảnh mê hoặc. Các bạn tông đồ đã thấy Chúa ư? Có thể lòng trí các ông đang bối rối nóng điên lên rồi, dễ tưởng tượng theo tin đồn nhảm.
Lý luận của Tôma hoàn toàn theo chủ thuyết tân sinh lý. Ông chỉ tin ở tai nghe mắt thấy, chân tay sờ mó. Không ai lay chuyển được sự khôn ngoan của ông. Đó là sự khôn ngoan của loài người, bắt nguồn từ xác thịt và ma quỷ. Xác thịt thấy trái cấm quyến rũ, ma quỷ giả dạng ẩn núp, rỉ tai và con người sa ngã. Sự khôn ngoan theo mắt xác thịt của Tôma bị diệt vong ngay tám ngày sau. Đức Giêsu hiện đến bảo Tôma “đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra thọc vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin”. Tôma sụp lạy thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”. Không cần ai báo cáo, Đức Giêsu cũng biết rõ Tôma nói gì, nghĩ gì, đòi yêu sách gì. Yêu sách đó đã dằn vặt Tôma, nên khi vừa nghe Thầy trả lời, Tôma đã sụp lạy hai lạy: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, lạy Chúa, để tỏ mình là tôi tớ hèn hạ của Chúa, Chúa là chủ mình. Lạy Thiên Chúa của con để nhận ra Thầy là Thiên Chúa hằng sống đã dựng nên mình, đã cho mình sống. Thầy là Thiên Chúa nên đã sống lại và chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết. Những ai tin Thầy sẽ được phúc sống lại và hằng sống.
Trước kia Tôma đã hỏi Thầy: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi theo Thầy? Thầy đáp: Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga. 14, 5-6). Thầy đã nói cho ông biết Thầy là sự sống, thì nay Thầy sống lại, ông mới thấy rõ sự thật: Thầy là sự sống.
Tôma đã thấy Thầy, muốn được phúc, ông phải theo Thầy đi rao giảng Tin mừng, theo Thầy vác thập giá đến hơi thở cuối cùng.
Chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta vững tin theo Chúa, Chúa sẽ chúc phúc: “Phúc cho con không thấy mà tin”. Lạy Chúa là sự sống lại và hằng sống, tai mắt chân tay con không thấy được Chúa nhưng xin cho con vững tâm tin mến Chúa đã sống lại và đang ngự trong những người thiện tâm, thiện chí để con biết phục vụ Chúa trong hết mọi người.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Phục sinh: tạo dựng con người mới trong Thần Khí thứ tha.
Theo tông đồ Gio-an, lần Đức Ki-tô Giê-su hiện ra trước đông đủ các môn đệ, sau khi Người sống lại (việc hiện ra lần hai có mặt Tô-ma càng nhấn mạnh sự đông đủ này) có một tầm quan trọng rất lớn. Sau những lời chào hỏi và tự giới thiệu, Người đã tuyên bố một điều và làm một cư chỉ long trọng hầu biểu lộ trọn vẹn bản chất sâu xa nhất của tông đồ đoàn và của người môn đệ, tức là của những kẻ tin và thuộc về Người – của Hội Thánh. Ngài thổi Sinh Khí mới vào các môn đệ và sai các ông ra đi để thứ tha, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nếu trước đó Người đã ‘cho các ông xem tay và cạnh sườn’ thì cũng chỉ là để cho các ông nhận ra Con Người Phục Sinh cũng chính là Con Người Cứu Chuộc. Con Người đó đã được Chúa Cha sai đến để cứu rỗi trần gian, “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Người Con này, một khi đã sống lại, thì cũng yêu thế gian đến nỗi đã sai các môn đệ của mình đi, hầu tiếp tục sứ vụ làm cho thế gian khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’.
Cũng như trong cuộc tạo dựng đầu tiên, hơi thở của Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người, thì cũng vậy hơi thở của Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh thoi Thần Khí vào các môn đệ, hầu các ông trở thành tạo vật mới. Nếu thổi hơi lần đầu đã ban cho con người quyền sống để làm bá chủ muôn loài (St 2:7), thì hơi thổi lần hai này ban cho người môn đệ ơn tha thứ, để rồi họ cũng thi hành quyền thứ tha cho hết mọi người “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…” Nếu Thiên Chúa tạo dựng là Thiên Chúa hằng sống, và ai nhận được hơi thở của Ngài sẽ có sự sống và có khả năng thông truyền sư sống (St 1:28), thì Đức Ki-tô Phục sinh là Thiên Chúa của thứ tha và xót thương nên ai nhận được hơi thở của Người cũng được tha thứ và có khả năng làm lan tỏa thứ tha tới hết mọi người. Như thế trong Thần Khí Đức Ki-to Phục Sinh, người môn đệ trở nên tạo vật mới đầy tràn sức sống của thứ tha. Nếu mọi con người đều có quyền sống, thì mọi Ki-tô hữu đều có quyền sống thứ tha. Nếu mọi người nhân loại đều phải bảo vệ sự sống và truyen sinh, thì mọi Ki-tô hữu trong Hội Thánh đều phải bảo vệ ơn tha tội và thúc đẩy việc thứ tha. Tôi thiết tưởng cái gọi là ‘quyền tha tội và cầm buộc’ của Hội Thánh phải được hiểu theo nghĩa và nội dung này.
Về mặt này tôi rất tâm đắc với nhận xét của Hurault trong Christian Community Bible: ‘Ki-tô hữu càng nỗ lực tiến xa trong đời sống thiêng liêng luân lý, thì càng thấy mình chưa được hoàn toàn giải thoát khỏi tội lỗi. Do đó họ càng cam nhận ơn tha tội là một quà tặng và quyền lợi lớn lao nhất được ban cho Hội Thánh. Tội không phải chỉ là những lỗi luân lý phạm hàng ngày, trong đó phần sai lầm và yếu đuối là chính. Tội thực ra là từ chối hay e sợ nộp mình cho Thiên Chúa tình yêu và tha thứ, là Đấng duy nhất có khả năng đưa chúng ta đến một cuộc sống hoàn toàn trần trụi, nhưng lại hoàn toàn viên mãn. Một khi tha tội cho chúng ta, Người ban cho ta khả năng biết tự nop mình cho Người. Nói cách khác, đó là khả năng tha thứ, là sức mạnh duy nhất có thể cho phép ta giải quyết và giải phóng mọi kiểm tỏa của con người… Thái độ dung thứ là bí quyết vô cùng quí giá mà Hội Thánh phải xem là tài sản độc đáo nhất của mình, là Tin Mừng mình đón nhận và trao ban cho thế giới… Ki-tô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội tức là họ ý thức thân phận tội lỗi trường kỳ của mình, họ đón lấy hơi thở Thần Khí thứ tha của Thiên Chúa, và họ quyết sống tình yêu tha thứ này luôn mãi trong đời mình và trong mọi tương quan với tha nhân. Tha thứ, đối với họ, là quyền sống căn bản nhận được từ Đức Ki-tô Phục Sinh, mà họ sẽ cố bảo vệ bằng mọi giá.’ Ai càng thuộc về tông đồ đoàn, thì càng phải cảm nhận được hơi thở tha thứ của Đức Ki-tô Phục Sinh. Càng là tín hữu trung kiên trong Hội Thánh, tôi càng phải sở đắc và sống sung mãn ơn cứu chuộc và thứ tha.
Tôi thiết nghĩ, trong tư cách một linh mục của Hội Thánh, tôi là người trước hết phải nắm bắt được bản chất thánh thiện đích thực này của Hội Thánh, và thi hành quyền ‘thứ tha’ mà Đức Ki-tô đã ban cho Hội Thánh trong Thánh Than với tất cả sự khẩn trương và quảng đại. Đặc biệt thế giới ngày nay, đặc biệt giới trẻ, đang trông chờ được Hội Thánh chính thức trình bày khuôn mặt thật này của Đức Ki-tô Phục Sinh.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Than Khí một lần nữa trên con và trên mọi tín hữu như Chúa đã thổi trên các môn đệ trong lần hiện ra đầu tiên. Trong đêm Phục Sinh, con đã tuyên xưng mình muốn sống Ki-tô hữu cách trọn vẹn hơn. Xin dạy cho con hiểu rằng, sống Ki-tô hữu là giữ trọn quyền được tha thứ và thứ tha cho tha nhân. Xin hãy sai con đi làm chứng tá cho tình yêu Phục Sinh của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Ngày thứ nhất của nhân loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam (St 2,7), tức thì Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống và được trở thành thuỷ tổ loài người đông đảo trên khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất của lịch sử loài người, ngày khai sinh nhân loại cũ, khởi đi từ con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, thông ban sự sống và những phẩm tính cao đẹp của Ngài.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời nên Thiên Chúa phải thực hiện kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân loại mới
Thế rồi, “vào ngay thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới – nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Chúc anh em được bình an!” (Ga 20, 19-22)
Kế đó, như thời khởi thuỷ, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Than cho họ: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sức sống mới, các ông được hồi sinh, được trở nên can đảm mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất trong tuần đồng thời cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ
Vậy mà cho đến hôm nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu khai sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta sự ương ngạnh của Ađam, muốn sống theo dục vọng của mình bất chấp lời giáo huan của Thiên Chúa. Vẫn còn trong ta tính ù lì khiếp nhược của các tông đồ sau biến cố Thầy Giêsu thụ nạn, tự giam mình trong phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn trong ta con người ích kỷ chỉ biết sống cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở ra với tha nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ xưa, để chúng ta được hồi sinh, được vươt ra khỏi ngục tù do lòng tham lam ích kỷ dựng nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính sự hèn yếu của chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ được khai mở trong ta.
37. Phúc cho ai không thấy mà tin
(Suy niệm của An Phong)
Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện ông Tôma cứng lòng tin; ông không chấp nhận lời chứng của các môn đệ khác và chỉ tin khi được “nhìn tận mắt, sờ tận tay”; đòi hỏi của Tôma cũng được chấp nhận, và ông đã thốt lên “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa tôi!”.
Trong đời thường, hẳn không thiếu những người như ông Tôma, tức là những người không dễ dàng chấp nhận điều mình chưa kiểm nghiệm. Xét cho cùng, điều đó cũng đúng thôi; vì đây không phải là chuyện vui chơi, đùa cợt, nhưng là điều có thể thay đổi tất cả cuộc đời mình.
Nhưng điều “đáng trách” của Tôma là ông đã “không có mặt” cùng các bạn hữu của mình trong những ngày “khó khăn” này. Khi người ta không “ở cùng nhau” thì chẳng những điều không hợp lý mà cả điều hiển nhiên rõ ràng cũng không dễ làm cho người ta chấp nhận.
Thái độ của Tôma có lẽ cũng “hợp lý”, vì cuộc đời này còn quá nhiễu nhương, vì trong cuộc sống con người còn quá nhiều mưu mô lừa đảo.
Nhưng nếu như đối với một sản phẩm, một đồ vật, người ta có thể kiểm nghiệm được chất lượng một cách khá chắc chắn; thì trong mối tương quan con người với nhau, điều đó lại không bao giờ có thể thực hiện được. Thật tình với một người bạn, lựa chọn người bạn đời, sinh một đứa con… tất cả đều là một cuộc phiêu lưu mà không ai có thể nắm chắc được tương lai. Muốn có bạn, muốn có vợ (chồng), muốn có con, người ta phải chấp nhận tin bằng “con tim” của mình, chứ không thể “kiểm nghiệm chất lượng” một cách hoàn toàn chắc chắn. Đó là ý nghĩa điều Đức Giêsu đã nói: “Ai không thấy mà Tin mới là người có phúc”.
Dầu vậy, Chúa Giêsu không bỏ rơi Tôma cũng như không bỏ rơi những người giống như Tôma sau này. Ngài lựa chọn một lần khác, khi mà “có mặt ông Tôma” cùng với các môn đệ khác của Chúa Giêsu để cho ông được “nhìn tận mat, sờ tận tay”; để lời chứng của Tôma sẽ là một lời chứng rõ ràng hơn với chúng ta, những người sống trong một xã hội có đầy dẫy những điều điên đảo…; để “anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa; và đe anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người”.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết sống cuộc đời này,
không những bằng lý trí suy xét khôn ngoan,
nhưng còn bằng con tim tràn đầy yêu thương nữa.
Để chúng con có thể nhận ra anh chị em,
và nhận ra Chúa vẫn đang ở giữa chúng con.
Anh chị em thân mến.
Có một đoàn hát đi về một vùng quê để phục vụ. Trong đoàn hát có một anh hề rất nỗi tiếng, chuyên đem đến cho người xem những phút thư giãn quí báu. Chỉ cần anh xuất hiện, thì bất cứ một cử chỉ, một hành động nào của anh cũng đem lại cho người xem những liều thuốc bổ bằng những trận cười thoải mái.
Nhưng chuyện không may lại xảy ra. Không biết vì lý do nào mà nơi cư ngụ của đoàn bị bốc cháy. Mọi người lo chạy chửa, còn anh hề lo đi tìm những người chung quanh đến phụ giúp. Nhưng khốn khổ thay, khi mọi người nhìn thấy anh, họ rất vui mừng, xúm lại chung quanh. Mặc cho anh nói gì, làm gì, họ chỉ có được những trận cười thỏa thích. Anh càng tỏ ra sự việc nguy hiểm, càng cầu khẩn, van xin, họ càng thích thú và cho rằng: Ở bên ngoài anh hề càng gần với thực tế thì càng biểu diễn xuat thần hơn. Thế là đoàn hát dành phải chịu như số phận nó đã được định như thế.
Họ cố gắng được bao nhiêu thì chỉ có bấy nhiêu thôi, còn sứ mạng của anh hề để cứu cho đoàn kể như thất bại. Vì bao nhiêu người chỉ nhìn thay chất hề nơi anh ta, cũng với một cung cách đó, cũng với những hành động đó, cũng với những kiểu nói đó và cùng với chính con người đó thì làm sao có thể thuyết phục được người nghe có một cái nhìn khác về anh ta được.
Nghe qua bài Phúc Âm chắc có lẽ chúng ta không khỏi trách thầm Tôma tại sao lại quá cứng tin khi nghe các Tông Đồ tường thuật lại những gì mình đã chứng kiến, những gì mình đã nghe, những gì đã được chỉ bảo. Thử nhìn lại xem: cũng với những con người đó: Những con người đã từng phản bội, những con người đã từng hèn nhát, trốn chạy, những con người đã từng sợ sệt; cho đến giờ này, những thái độ đó vẫn còn hiện diện, không có gì thay đoi. Làm sao Tôma có thể tin được lời: “Chúng tôi đã thấy Chúa, chúng tôi đã được nhận Thánh Thần, chúng tôi đã được sai đi…” Vậy mà giờ nầy họ vẫn còn ngồi ỳ ra đó, vẫn còn sợ sệt, vẫn còn bất động, thì thử hỏi các ông đã thấy, đã tin Chúa Sống lại như thế nào? Nếu chính các ông không có thái độ tin thật sự, thì việc các ông báo lại cho người khác với một thái độ như thế thì làm sao người nghe có thể tin được, khi nhìn thấy lơi nói và hành động hoàn toàn khác như thế. Vậy thì ai là người đáng trách?
Chúa Giêsu không trách Tôma, Ngài đã nhìn thấy, Ngài muốn củng cố lòng tin cho ông. Chúng ta thấy thái độ của ông rất đáng khâm phục: Ông đã tỏ thái độ xứng đáng của một người tin thật sự. Chắc là Ông không cần phải thực hiện lời nói của mình là: phải chạm đến, phải sờ vào. Nhưng khi ông cảm nhận được những gì Thiên Chúa đặt biệt đối xử với ông. Không con cách nào khác hơn là ông phải tin. Không phải chỉ bằng lời nó suông nhưng bằng hành động cụ thể.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin.”
Lời chúc phúc dã trải qua hơn 2000 năm lịch sử. Giờ đây chúng ta có cảm nhận được Lời Chúc đó cho chính mình, hay chúng ta vẫn ngỡ rằng: Lời đó cho ai chứ không phải cho tôi. Vậy thì chúng ta vẫn còn mang nặng tâm trạng của các Tông Đồ khi xưa. Chỉ nhìn thấy nỗi thống khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Hình khổ thập giá vẫn đè nặng trên con người chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày. Đó là chúng ta chỉ nhìn thấy những vất vã của cuộc đời, nên nỗi bi oan thống khổ luôn đè nặng trong tâm trí. Mặc dù Chúa đã sống lại, đa hiện ra, đã truyền lệnh và đã chúc phúc.
Trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, chúng ta vẫn ngồi yên bất động, không có chút gì thay đỗi trong cuộc sống. Chúng ta vẫn trình bày bộ mặt thảm sầu của cây thập giá qua cách sống của chính mình. Nhiều khi chúng ta cũng cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa phục sinh: thông báo cho mọi người biết nhưng không kết quả, vì chúng ta chỉ dùng lời nói, nhưng hành động lại hoàn toàn khác.
Chúng ta hay phiền trách người này người nọ cứng tin, chúng ta chỉ biết quy lỗi cho người. Nhưng có khi nào tự nhìn lại bản thân, nhìn lại cách sống của chính mình xem. Chúng ta chưa sống thật với Lời chúc phúc, cũng chưa sống được với niềm vui phục sinh mà chúng ta đã lãnh nhận, thì làm sao thông báo cho ai được. Dùng lời lẽ để chứng minh cho đức tin là một điều tốt, nhưng tốt hơn và cần hơn là hành động cho người khác thấy niềm tin của mình.
Đó chính là điều mà các bạn của Tôma lẽ ra phải có, nhưng không có. Còn chúng ta, chẵng lẽ trong cuộc sống đời thường, mình cũng vẫn là một anh hề trên sân khấu, để đến khi kết cuộc chúng ta không có điều gì có thể tin được sao? Như vậy, hậu quả chúng ta sẽ lãnh nhận được như thế nào? Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận được sự sống mới của Chúa, và biết sống sự sống mới, sự Phục Sinh trong cuộc sống đời thường.
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
PHỤC SINH KHÔNG PHẢI ĐIỀU TƯỞNG TƯỢNG
Chúng tôi đã thấy Chúa và vui mừng
Chỉ sau khi được gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, các môn đệ của Đức Giêsu mới tin rằng Người đã sống lại thật. Có thể nói, sau cái chết đau thương của Đức Giêsu, tất cả các ông đều sợ; các ông tụ họp nhau và đóng kín cửa. Trong bối cảnh đó, các ông cảm thấy tràn ngập vui mừng vì gặp lại Đức Giêsu vẫn đang sống, đang hiện diện giữa các ông. Các ông nhận ra Đức Giêsu bằng xương bằng thịt, chứ không phải là ma, cũng không phải do ảo giác. Các ông đã nhận ra Đức Giêsu với những thương tích trên mình: Người đã chết thật, nhưng đã sống lại. Các vết thương làm chứng Người đã chết; nhưng con người đang chịu những vết thương ấy bây giờ đang sống giữa họ đây. Người đã sống lại thật. Các môn đệ tin như thế.
Tin Mừng Phục Sinh quả là Tin Mừng đúng nghĩa, Tin Mừng lớn lao nhất. Có lẽ các môn đệ chưa hiểu được tất cả ý nghĩa sâu xa của biến cố này, nhưng ít ra trong lúc này, các ông cũng hiểu lờ mờ về những điều Đức Giêsu đã nói trước với các ông: Đức Kitô phải chịu đau khổ. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi…” (Ga 12,24). Những điều ấy nay đã được thực hiện cách trọn vẹn.
Các môn đệ vui mừng vì cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa: thế lực thù nghịch Thiên Chúa và con người đã bị đánh bại; sự sống đa chiến thắng sự chết, tình yêu đã vượt lên trên hận thù, đem lại ơn tha thứ và sự sống mới. Nhờ cảm nhận được sức mạnh này, các ông sẽ can đảm dấn mình vào công trình cứu độ của Đức Giêsu, và làm cho công trình ấy nảy sinh kết quả nơi nhiều người.
Ngoài ra, các môn đệ vui mừng vì các ông được biến đổi để thành con người mới. Các ông đón nhận từ Đấng Phục Sinh một luồng khí mới, một luồng khí làm cho các ông trở thành những con người can đảm và hăng say làm chứng về Đấng Phục Sinh tại khắp mọi nơi trên thế giới.
Như thế, nhờ cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, các môn đệ bắt đầu một hành trình mới của lòng tin. Các ông sẽ dần dần gắn bó sâu xa hơn với Đức Giêsu: các ông tin Người là Chúa bởi vì Người đã chiến thắng sự chết, đồng thời sẵn sàng chia sẻ thân phận của Người. Các ông biết chắc rằng, sau khi đã cùng bước đi với Đức Giêsu trên con đường thập giá, cac ông sẽ được tham dự vào cuộc chiến thắng của Người. Nói cách khác, các ông hiểu rằng chính mình cũng sẽ được phục sinh như Đức Kitô nếu như các ông chu toàn trách vụ được giao phó, dù có những gian truân, dù phải hy sinh mạng sống.
“Tôi chỉ tin… nếu…”
Niềm vui của các môn đệ, bằng chứng các ông đưa ra không thể thuyết phục ông Tôma, người môn đệ vắng mặt khi Đấng Phục Sinh hiện đến.
Thật ra, thái độ của ông Tôma cũng dễ hiểu. Tự nhiên ông cảm thấy mình thiệt thòi và thua kém. Trước đây, chính ông đã từng lên tiếng thúc giục các môn đệ: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16). Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Đang Phục Sinh, ít ra như mọi anh em, thế nên ông đã đưa ra điều kiện: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… tôi chẳng có tin.” Ông quả là một người chính trực và thẳng thắn.
Nhìn từ một góc cạnh khác, thái độ không dễ tin của ông Tôma lại là một cơ hội để mầu nhiệm Phục Sinh được chứng thực một cách rõ ràng hơn. Biết đâu các anh em muốn đùa với ông một chút, hay là câu chuyện các anh em kể lại chỉ là một thứ ảo giác tập thể. Vậy thì tốt hơn hết là khôn ngoan. Và nhờ vậy, người ta có dịp kiểm chứng về lời loan báo của các môn đệ.
Đàng khác, có lẽ ông Tôma là người duy nhất nghĩ đến việc tổ chức lại sinh hoạt cá nhân cũng như cộng đoàn sau khi Đức Giêsu chịu chết. Ông đã đi ra ngoài vì ông không sợ. Ông phản ứng dường như Đức Kitô đã rời bỏ trần gian và chỉ trở lại vào ngày cuối cùng. Trong khoảng thời gian này, ông nghĩ rằng cần phải sống điều được gọi la sự vắng mặt của Thiên Chúa. Do đó ông đã ra ngoài, đi đâu đó, và không có mặt cùng với các môn đệ trong căn phòng.
Cuối cùng, ông Tôma đã được gặp gỡ với Đức Kitô Phục Sinh và đang sống. Tám ngày sau, Người hiện đến và đáp ứng những yêu cầu của ông: “Đặt ngón tay… và hãy nhìn xem… Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma hẳn là cảm thấy mình kỳ cục khi Đức Giêsu sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi của ông. Ông chỉ còn biết lap bắp thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.”
Trước chứng cớ rõ ràng, mọi nghi ngờ của ông đều tan biến, ông chỉ có thể bày tỏ sự thần phục của mình. Lời tuyên xưng phát xuất từ đáy lòng cho thấy tất cả niềm tin của ông vào Đấng Phục Sinh. Ông đã đi xa hơn các môn đệ khác về những bằng chứng làm nền tảng cho lòng tin, nhưng có lẽ ông cũng đã vượt lên trên thái độ vui mừng của các môn đệ, để đi đến một lòng tin sâu sắc: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.”
Lời tuyên xưng của ông đã trở thành khuôn mẫu, là tiêu biểu cho cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai cũng như sau này. Mọi người, mọi thế hệ cũng đều thưa lên như thế để bày tỏ niềm tin sống động vào Đấng Phục Sinh.
Như vậy, xét cho cùng, thái độ của ông Tôma chẳng có gì là đáng trách: ông có lý do để nghi ngờ, nhưng một khi đã được mặc khải, ông sẵn sàng tin và tin đến cùng.
Lòng tin bắt đầu từ cộng đoàn
Ngày nay, có khá đông tín hữu chấp nhận thái độ như ông Tôma. Họ thích lặp lại câu nói: Chúng tôi chỉ tin điều chúng tôi thấy. Hơn thế, người ta còn hành động như thể là đời sống trần gian này chỉ tuỳ thuộc vào con người mà thôi. Người ta vẫn quả quyết rằng Đức Giêsu Kitô đang sống, mỗi người vẫn đang tìm kiếm khuôn mặt của Người trong cuộc sống, trong cuộc gặp gỡ với người khác. Thế nhưng, khi hành động, người ta lại làm khác đi và từ tận đáy lòng vẫn vang lên câu hỏi: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?”
Thật ra, những người này nên nhớ rằng cuộc gặp gỡ riêng tư giữa Đức Giêsu và ông Tôma, trong đó ông Tôma tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, đã diễn ra trong mot cộng đoàn, khi các môn đệ đang tụ họp với nhau. Xưa cũng như nay, không khi nào Đức Kitô hiện diện mà không có chứng tá của những cộng đoàn làm nên Giáo Hội. Có Đức Kitô là phải có Giáo Hội.
Nhưng tại sao họ lại không tin vào lời chứng của cộng đoàn tín hữu?
Trong niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, đây là một đòi hỏi luôn có tính thời sự. Tin vào Đức Kitô Phục Sinh và đang sống là một hành vi riêng tư chiếm lĩnh toàn bộ con người. Tuy thế, hành vi này phải dựa trên lòng tin và chứng tá của một cộng đoàn tín hữu. Hơn nữa, hành vi này chỉ thực sự có ý nghĩa một khi nó được diễn tả qua việc loan báo Tin Mừng, vượt ra khỏi căn phòng đóng kín cửa. Vì vậy, nguy cơ lớn của thời đại hôm nay là người tín hữu muốn coi kinh nghiệm về Đức Giêsu là của riêng mình và muốn giữ riêng cho mình, đóng kín tâm hồn.
Tin vào Đức Kitô Phục Sinh là một niềm vui, đồng thời cũng là một cuộc phiêu lưu. Đó là người ta có thể tin vào điều không thể và đem hết nỗ lực làm cho điều ấy được thực hiện.
(Suy niệm của Martin Vũ Thái Hiệp, OP)
PHÚC THAY NGƯỜI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cộng đoàn thân mến!
Là thụ tạo bất toàn, loài người lắm khi còn nhìn và suy xét mọi sự theo lý trí rất con người. Và, ngày hôm nay môn đệ Tôma, người đã theo Đức Giêsu ba năm nhưng đứng trước biến cố phục sinh ông cũng không thể tin được. Đó quả là một sự lạ vượt quá lòng tin của ông. Đức Giêsu đồng cảm với lòng tin còn non yếu của Tôma, Người không trách móc ông nhưng yêu thương nói rằng: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Đọc đoạn Tin Mừng này, hẳn có không ít người đã trách móc lòng tin của thánh Tôma, nhưng Thánh Gregory Cả đã nói về thánh Tôma như sau: “Sự cứng lòng của thánh Tôma đã mưu ích cho đức tin của chúng ta hơn là đức tin của các thánh tông đồ khác. Khi thánh nhân chạm đến Chúa Kitô Phục Sinh và được cải hóa, thì mọi hoài nghi nơi ngài đều bị loại trừ và đức tin của chúng ta được củng cố.” Thật ra, chúng ta cũng nên cảm ơn thánh nhân vì nhơ thánh Tôma, chúng ta như cũng cùng được đụng chạm đến con người thật của Đức Chúa Phục Sinh và lòng tin của chúng ta thêm kiên vững hơn.
Xin nhìn đức tin ở một khía cạnh khác. Chuyện kể rằng có một thày tu khổ hạnh Ấn Độ tên là Sundar Singh (1889-1929), ông là một trong những gương mặt Sadhu nổi tiếng của Ấn Độ. Ông kể lại ngày ông còn trẻ, ông đã đốt Kinh Thánh. Ông dị ứng với niềm tin Kitô giáo. (X. Nguyễn Tầm Thường, Đường Đi Một Mình, t. 149)
Nhưng rồi một ngày nọ, ông lặng lẽ ngắm nhìn bầy chim non đang tranh nhau kêu líp nhíp, miệng há to khi nghe tiếng vỗ cánh của mẹ chúng bay về. Nhà tu khổ hạnh cứ ngày ngày nhìn bầy chim non bé bỏng há miệng đón mồi. Rồi một giây phút linh thiêng nọ, ông chợt bừng tỉnh. Ông thấy lạ quá. Bầy chim non chưa mở mắt. Cả thế giới chung quanh chúng vẫn tối đen mịt mùng, không ánh sáng, không sắc màu, thế mà nó vẫn há miệng đón mồi. Và nhờ vậy mà nó được sống dồi dào.
Ngày nay, trong chiều kích tục hoá đời sống tâm linh, con người có khuynh hướng buông thả mình trong những lý luận ngây ngô. Người ta muốn nhìn thấy, đụng chạm đến rồi mới tin. Xin hãy lặng người suy nghĩ xem, nếu bầy chim nhỏ nói trên không chịu ăn, nếu nó lý luận rằng nó chỉ ăn khi nó chứng minh được miếng mồi này có độc hay không, có phù hợp với nó không thì đời nó sẽ ra sao? Bầy chim non đã không đợi cho đến khi mở mắt, biết nhìn, biết lý luận, biết phân biệt mọi thứ rồi mới ăn. Vì lúc này nếu chúng không ăn thì chắc chắn là nó sẽ chết đói. Cũng vậy, chúng ta sẽ chết mất nếu lúc này cứ đóng chặt cửa lòng không tin vào Thiên Chúa. Vì thế, thánh Tôma Aquinô đã nói rằng: “Đức tin là nếm trước điều chúng ta sẽ được hưởng trong cuộc sống hạnh phúc mai sau”.
Một cách sâu xa, chúng ta vững tin vào mọi mặc khải của Thiên Chúa và Giáo Hội vì tin chắc rằng Ngài là Chúa Chiên Nhân Lành, Đấng trung tín và là người cha nhân hậu luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho ta. Nếu như cha mẹ ở trần gian còn yêu thương con cái rất mực, thì Cha trên trời còn yeu thương ta hơn bội phần như thế. Vì vậy, ta hãy cứ vững tin vào Thiên Chúa, và chắc chắn ta sẽ được no thoả. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chúng ta tâm tình của một trẻ thơ, để ta hằng khiêm tốn tin nhận mọi mặc khải của Người và không do dự.
Trong thực tế, ân sủng của Thiên Chúa cần có niềm tin để đón nhận. Và một khi niềm tin rộng mở đón lấy ân sủng thì có phép lạ xảy ra. Trong hành trình rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chẳng làm phép lạ với những nơi, những người không tin vào Người. Bên cạnh đó, mỗi lần cứu chữa một bệnh nhân, Người lại nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17, 19). Một cách nào đó, Đức Giêsu đã khẳng định chính niềm tin của bệnh nhân đã mang lại hiệu quả chữa lành cho bệnh nhân. Trong thư gởi tín hữu Galát, thánh Phaolô đã đề cao vai trò của đức tin khi xác tín rằng: “Chúng ta được nên công chính nhờ đức tin.” (Gl 3,24)
Nguyện xin thánh Martinô – vị thánh khiêm nhường hằng vững tin vào Thiên Chúa, xin tổ phụ Abraham là “tổ phụ của tất cả những người tin”, và nguyện xin Mẹ Maria là “người thể hiện lòng tin cách hoàn hảo nhất” cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng ta thêm lòng tin vào Thiên Chúa hơn. Và xin Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng con nhìn ngắm mọi sự bằng con mắt đức tin chứ không quá cậy dựa vào con mắt xác thịt, để chúng con một lòng cảm mến chân lý va tin tưởng tuyệt đối vào mặc khải của Người qua Giáo hội, hầu đón nhận được lời chúc phúc của Người, như lời Ngài đã hứa “phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 4 năm ngày Đức Bênêdictô XVI được bầu làm Giáo hoàng, chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho người cha kính yêu của chúng ta một lòng tin kiên vững hơn để ngài sáng suốt lèo lái con thuyền Giáo hội về bến Nước Trời đẹp tươi. Amen.
41. Phúc cho ai không thấy mà tin
Mẹ tôi trả lời: “Mẹ chỉ nghe ông bà ngoại (của tôi) nói lại thôi, ông bà sơ qua đời đã lâu lắm rồi, nhưng mẹ tin chắc rằng đó là mộ của ông bà sơ”.
Trong cuộc sống, có những điều chính mắt chúng ta chứng kiến, kiểm nghiệm, nhờ đó ta tin, thế nhưng có những điều chúng ta tin nhờ vào người khác.
Tôma chậm tin vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào Chúa Phục sinh. Ông cũng chậm tin, hay quên cả lời Chúa báo trước về sự phục sinh của Người. Điều đáng trách của Tôma là ở chỗ đó, nhưng cũng có cái hay là vì ông chậm tin, nên ngày hôm nay chúng ta vững tin vào việc Đức Kitô Phục Sinh hơn, bởi ông không là người nhẹ dạ cả tin.
Trong cuộc sống hẳn chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về điều này để ứng xử; nhưng trong lãnh vực đức tin và luân lý, thì không còn nghi ngờ gì nữa, mà phải tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu và Lời Người dạy. Vì Lời Người là chân thật, hằng sống. Chúng ta cũng phải tin vào lời chứng của các Tông Đồ và các đấng kế vị các ngài, vào Hội Thánh của Chúa, nơi chân lý được lưu truyền. “Phúc cho ai không thấy mà tin”, lời chúc phúc này tiếp tục trao ban cho mọi Kitô hữu, qua mọi thời, mọi nơi dù không thấy Chúa bằng mắt thường, nhưng nhận ra sự hiện diện của Người qua đức tin.
Với những cách sống như thế, chúng ta không thể là người có phúc được vì chứng tỏ ta không thực sự tin vào Chúa Phục sinh, không tin Lời Người dạy và như vậy làm sao có thể làm chứng cho tha nhân biết rằng Chúa đã phục sinh?
(Suy niệm của Cố Lm Hồng Phúc)
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục sinh sống lai từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolo buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom – Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thien Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm Tin ấy.
43. Định nghĩa Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ lòng thương xót Chúa. Thiết tưởng chúng ta cần hiểu lòng thương xót nghĩa là gì? Thương xót nghĩa là sự biểu lộ lòng xót xa đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn. Lòng thương xót đối với Chúa còn là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ đó. Như vậy, lòng thương xót của Chúa là sự biểu lộ tình thương trước những hoàn cảnh khó khăn của dân Chúa.
Lòng thương xót của Chúa không như con người. Vì con người thương xót nhưng có chọn lựa, có tính toán. Cùng hoàn cảnh nhưng chúng ta thương người này và có thể ghét người kia. Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa thì trải rộng cho mọi người. Không toan tính. Không chọn lựa. Ngài yêu thương con người bất kể tình trạng luân lý của họ. Bởi vi, Chúa vẫn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thế nên, lòng thương xót của con người chúng ta thì giới hạn. Chúng ta có thể xót thương kẻ cơ hàn. Xót thương những người già yếu, bệnh tật bị bỏ rơi. Xót thương những trẻ nhỏ bị lạm dụng, bị bóc lột nơi cha mẹ hay người nuôi dưỡng. Và chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ xót thương những phường tội lỗi như: trộm cắp, mại dâm, hay tham ô. Chúng ta thường không thương xót họ mà có khi còn nguyền rủa họ.
Lòng thương xót Chua thì không giới hạn. Ngài yêu thương mà không cần nhìn xem họ là ai? Ngài chỉ bận tâm đến nhu cầu của con người và ra tay nâng đỡ. Thánh Kinh bảo rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Thế nhưng, Chúa đã không chấp toi con người, Ngài cũng không giáng phạt theo như tội ta đã phạm. Lòng thương xót của Chúa trải rộng trên con người. Trên người lành cũng như người dữ. Ngài luôn biểu lộ lòng thương xót cho bất cứ ai đến với Ngài. Lòng thương xót ấy không dừng lại ở nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành cho cả kẻ ghét Ngài, xỉ nhục và kết án Ngài. Chính trong đau thương khổ nhục mà Ngài vẫn xót thương những kẻ đang hành hạ Ngài khi Ngài cầu nguyện cùng Cha: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Có lẽ với bản tính con người, chúng ta sẽ thù hận kẻ giết hại chúng ta một cách oan uổng. Có lẽ chúng ta cũng kinh tởm kẻ vô ơn, phản bội với chúng ta. Thế mà, Chúa Giê-su dường như không còn nhớ đến tội lỗi của con dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đã tha thứ cho kẻ làm nhục Ngài. Ngài cũng tha thứ cho những môn đệ đã bỏ Ngài trong tuần thương khó.
Vâng, khi Chúa sống lại Ngài không tìm ai để trách móc, kêu oan. Và dường như Ngài cũng không bận tâm đến lỗi lầm của các môn sinh. Ngài đã trao bình an cho các môn sinh mỗi khi hiện ra với họ. Ngài biết trong lòng các ông còn một nỗi buồn vì phản bội, vì bỏ rơi Thầy trong gian nguy. Ngài biết sau khi Chúa sống lại lòng các tông đồ còn rối bời hoang mang lo sợ, bất an vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm phản bội Thầy. Chúa đã biết điều đó nên đã đi bước trước để ban bình an cho các ông.
Sứ điệp lễ lòng Chúa thương xót là sứ điệp của yêu thương. Thiên Chúa vẫn tiếp tục xót thương dân Người. Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở mà vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài. Lòng thương xót Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an vì tội lỗi. Lòng thương ấy vẫn đang chữa lành cho những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn hay thể xác. Lòng thương xót ấy vẫn là căn tính của Thiên Chúa rất yêu thương và xot thương dân Người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót Chúa cho dẫu chúng ta còn mang đầy những vết thương của yếu đuối lỗi lầm. Hãy để cho lòng thương xót Chúa chữa lành những tật nguyền của chúng ta. Ước gì khi chúng ta đã hưởng nếm lòng thương xót vô bờ của Chúa thì cũng biết trao ban lòng thương xót ấy cho anh em. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng có một tấm lòng bao dung để gạt qua những thành kiến, những đố kỵ, ghen tương mà đón nhận nhau trong yêu thương chia sẻ. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở thành một chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa bằng tình yêu hiến dâng phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ai cũng biết Tôma là vị tông đồ bi quan, đa nghi, cô độc và hình như ông không thể tin điều gì mà ông không thấy, không nghe. Chúng ta gặp Tôma đầu tiên trong câu chuyện của Lagiarô chết. Lúc bấy giờ Chúa và các môn đệ đang ở ngoài vùng Giuđê là nơi mà người Do Thái quá khích tranh luận, đã hai lần ở vùng này đòi bắt giữ và ném đá Chúa, nhưng Chúa Giêsu đều lánh đi sang bên kia bờ sông Giordan. Bây giờ Chúa muốn trơ lại Giuđêa để phục sinh La-gia-rô. Tôma thấy ngay sự nguy hiểm đang rình chờ. Ông liền quay lại nói với các tông đồ: “Nào cả chúng ta nữa, hãy đi qua đó để chết với Ngài” (Jn 11,16). Câu nói xem ra có tính cách nhiệt thành nhưng cũng tỏ lộ một nội tâm bi quan, buồn thảm nhìn vấn đề dưới khía cạnh mặt trái, đen tối thất bại… Tại sao ông không nghĩ đến Thiên Chúa uy quyền có thể biến giông tố im lặng, có thể tự cứu mình, mà lại nghĩ đen cái chết thất bại phải nhờ đến sự hỗ trợ của các tông đồ? Tại sao lại tắt đi hy vọng, cam chịu một định mệnh là bị dân chúng dồn vào chân tường?
Lần thứ hai chúng ta gặp Tôma bên bàn tiệc ly. Mọi người yên lặng vào nghe Chúa dạy: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy vững tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Thầy đã dọn sẵn cho các con rồi, Thầy sẽ đến đem các con đi. Thầy ở đâu các con ở đó. Thầy đi đâu các con biết đường đi rồi” (Jn 14, 1 –4).
Tôma thấy khó hiểu, vấn đề nghe lạ tai. Một đàng Chúa tiên báo cái chết, một đàng lại nói đến chỗ ở, đường đi, sự sống… Tôma không thể im lặng được nữa nên phát biểu: “Lạy Thầy, chúng con nào biết đi đâu, thì làm sao biết được đường đi lối về (Jn 14, 5 – 6). Một câu nói mang dáng dấp của đêm đen giăng kín, đến mức độ chẳng biết đường đi!
Lần thứ 3 là dịp Chúa Phục Sinh. Phúc âm kể rằng: mọi người đều ngồi nói chuyện với nhau về những lần Chúa hiện ra. Mọi người đều vui mừng vì Thầy đã sống lại. Tại sao chỉ một mình Tô-ma lại không tin. Ông không tin vì Chúa không hiện ra với ông? Ông không tin vì ông bỏ cộng đoàn? Sống mot mình trong thất vọng, u sầu? Có lẽ đúng. Tô-ma đã bỏ cộng đoàn! Tô-ma có lẽ đã nghe cả thành xôn xao về sự kiện Chúa đã sống lại, nhưng lòng ông quá thất vọng nên không thể đón nhận niềm vui Chúa phục sinh. Có lẽ ong đã mang tâm trạng thất vọng, nên bỏ lỡ cơ hội nhận ra Chúa như hai môn đệ Emmau đã từng không nhận ra Chúa đang đồng hành với mình.
Phúc âm ghi lại: Chúa phục sinh đã hiện ra với các tông đồ, trừ Tô-ma. Tô-ma đã vắng mặt ngày hôm đó. Không rõ lý do tại sao vắng mặt, nhưng nếu có thể đoán với tính tình mau nản dễ bỏ cuộc của ông. Ông đã tách lìa công đoàn. Ông đã quá quen với những tin tức đen tối u buồn, cho nên những tin tức nào có tính cách đau thương, thất bại, bách hại thì ông mới tin. Ông không đủ lạc quan để tin vào niềm vui Chúa sống lại. Do đó, các tông đồ là những người xưa nay ông vốn kính trọng, vốn tín nhiệm, nay đưa tin Chúa Giêsu phục sinh, thì ông không tin được vì ông chưa thấy trong nhân loại có chuyện phục sinh bao giờ. Đức tin của ông đòi sự kiểm chứng. Ông đã hùng hồn tuyên bố: nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn, vào lỗ đinh ở tay, chân Chúa thì tôi không bao giờ tin. Rồi một tuần sau đó, cũng tại căn nhà tiệc ly. Tôma đã nấc nghẹn từng lời để thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Cuộc đời chúng ta đôi khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin, để sống… Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của Chúa. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một điều chúng ta phai học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được Chúa. Sau khi Chúa bảo Tôma “hãy tra tay sờ vào các lỗ đinh cạnh sườn…” Từ đó con người Tôma biến đổi hơn. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu đuoi, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Tô-ma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong đêm tối của cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muon bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn. Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Nguyện xin Chúa Phục sinh ban cho chúng ta ơn bình an và lòng tin mạnh mẽ để có thể tuyên xưng Chúa trong mọi biến cố vui buồn trong đời. Xin cho chúng ta đừng bao giờ rời xa cộng đoàn, nhưng luôn hiệp nhất với nhau trong một đức tin, đức cậy, đức mến nồng nàn. Amen.
(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)
PHÚC THAY NHỮNG NGƯỜI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Tiếng hát reo vui Alleluia đang còn vang dội trong các thánh đường trong Giáo hội mừng Chúa sống lại. Phải, chúng ta có lý do để vui mừng. Niềm vui này phát xuất từ một tình yêu, là chính tình yêu của Thiên Chúa. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian”. Đó là khởi điểm niềm vui của chúng ta là những kẻ tin. Con Thiên Chúa đã đến sống kiếp người như chúng ta, với chúng ta và cho chúng ta. Ngài đã chết và đã sống lại. Ngài toàn thắng tội lỗi và sự chết, cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. “Nếu Chúa Kitô không sống lại, niềm tin chúng ta là hão huyền”. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế. Chúng ta vẫn tuyên xưng: “Chúa đã sống lại rồi!”
Làm sao chúng ta không rộn vui khi nghĩ rằng từ tro bụi, chúng ta được sống lại hiển vinh với Chúa, từ vũng lầy tội lỗi, chúng ta sẽ được vinh quang trong Chúa?
Để chứng minh việc lạ lùng đó, Chúa Giêsu đã xuất hiện cho các môn đệ khi họ đang đóng kín cửa, và sợ hãi. Thánh Gioan nói: “Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Ngài đến như thế nào? Chúng ta không thể biết và không ai biết. Ngài đã sống lại, Ngài không còn lệ thuộc vào thế giới vật chất, Ngài hoàn toàn tự do. Không một cái gì có thể cản trở Ngài. Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng không phải là một bóng ma. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Ngài vẫn có xác như mọi người. Các môn đệ có thể kiểm chứng. Ngài thành một con người vừa bí nhiệm vừa thực tế. Một huyền nhiệm. Thánh Gioan đã nói trong chương mở đầu sách Tin Mừng của ngài: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngài mãi mãi là người nhưng vẫn là Thiên Chúa. Sau này, khi sống lại, chúng ta cũng sẽ như Ngài, chúng ta vẫn mang lấy cơ thể bằng xương thịt của chúng ta, nhưng chúng ta sẽ là con người được vinh quang, không còn lệ thuộc vào vật chất. “Người ta sẽ như thiên thần” nhưng với cái xác này.
Thánh Gioan tiếp: “Các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa”. Chúng ta cũng sẽ được thấy Chúa. Lúc ấy niềm vui của chúng ta sẽ trọn vẹn. Chúa sống lại mang lại niềm vui. Cuộc sống chúng ta hôm nay cực nhọc khốn khổ, nhưng những kẻ tin vào sự sống lại sẽ còn niềm hy vọng, vì họ biết rằng những lao khổ đời này sẽ không thể so sánh với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”.
Hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu không chỉ cho họ thấy Ngài mà thôi. Ngài đến để trao cho họ những hồng ân cuối cùng để chuẩn bị cho họ tiếp tục cuộc hành trình của Ngài: “Ngài nói với các ông: “Bình an cho anh em. Như Cha đã sai Thầy, thì Thầycũng sai anh em”. Chúa sống lại là khởi đầu một chương trình mới. Ngài đã làm xong những gì phải làm, bây giờ là đến lượt các môn đệ. Sứ mệnh của các ông cũng giống như sứ mệnh của Ngài. Ngài đã huấn luyện họ trong suốt mấy năm và giúp họ hiểu biết chương trình của Ngài, giờ đây chính là lúc họ phải ra đi, tiếp nối công việc của Ngài. Hôm nay chính thức họ được sai đi. Để làm gì? Để làm chứng rằng Chúa đã sống lại, Chúa đã cứu thoát mọi người khỏi tội, giờ đây chúng ta không còn đi trong tăm tối mà trong ánh sáng của Đấng đã sống lại.
Chúng ta cũng được sai đi làm chứng nhân cho Chúa. Mọi Kitô hữu đều là nhân chứng cho Chúa. Nhiều người trong chúng ta không biết đến ơn gọi đó của mình. Làm chứng cho Chúa không phải là làm những gì lạ thường mà chỉ cần sống thật tốt như Cha trên trời, mà chỉ cần thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Chúa không cần chúng ta, nhưng Chúa cũng muốn chúng ta tham dự vào công việc của Ngài, nhờ đó chúng ta tỏ lòng biết ơn của chúng ta vì chúng ta đã được cứu thoát và đưa vào ánh sáng và sự sống của Chúa.
Chúa Giêsu cũng thổi hơi của Ngài trên các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội ai, người ấy được tha…” Chúa muốn cho thấy Thánh Thần chính là hơi thở của Chúa. Khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao ban Thánh Thần khi trút hơi thở cuối cùng, hôm nay Ngài cũng trao Thánh Thần qua hơi thở. Ngài ban Thánh Thần là để tha thứ. Khi chúng ta đến tòa giải tội, chúng ta được Thánh Thần ban ơn tha thứ chứ không là một linh mục, nhưng qua tay linh mục.
Chúa Giêsu liên kết ơn tha thứ với Thánh Thần vì Thánh Thần là Đấng sáng tạo. Ngài sẽ tái tạo chúng ta thành con người mới, thành con Thiên Chúa, nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta được mời gọi sống mầu nhiệm phục sinh hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày, liên kết với Chúa phục sinh. Ông Frédéric Nietzsche, một nhà chống đạo đã nói: “Mấy người nói rằng đã được cứu chuộc mà tôi không thấy các người vui mừng”. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nói: “Chúng ta đừng mang bộ mặt của người vừa đi đưa đám về”. “Có những người giữ đạo như chỉ có mùa chay mà không có mùa Phục sinh”. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Chúng ta không thấy Chúa nhưng chúng ta thấy được những dấu chỉ của Ngài, thấy những nhân chứng của Ngài là các Tông đồ và các thế hệ Kitô hữu dám sống cho niềm vui phục sinh.
Tám ngày sau. Tại sao lại tám ngày? Trong khoảng tám ngày đó Chúa ở đâu? Ngài là Thiên Chúa, Ngài không cần một nơi nào, Ngài sống trong mầu nhiệm của Ngài. Ngài hiện ra lần nữa và lần này hình như Ngài chỉ hiện ra cho Tôma mà thôi. Tôma vắng mặt khi Ngài hiện ra lần trước. Các anh em đồng thanh báo cho ông biết Thầy đã sống lại rồi: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tôma không chịu tin và tuyên bố một cách cương quyết rằng: “Nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh của Thầy, không thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy thì tôi không tin”. Tôma cho tất cả anh em là dối láo. Tôma chính là đại diện cho những con người hôm nay, những con người có đầu óc khoa học, đòi phải kiểm chứng rõ ràng mới tin. Những con người luôn hoài nghi và cố chấp, những con người xem khoa học là tất cả mà quên rằng, khoa học, dù có phát minh ra được nhiều thứ tinh vi, cũng chỉ là một bước chập chững đi vào thế giới thôi.
Chúa Giêsu không bỏ rơi con người cố chấp đó, Ngài biết ông thành thật. Ngài gọi: “Tôma, lại đây. Hãy xỏ ngón tay anh vào lỗ đinh Thầy đây… Và chớ cứng tin”. Đứng trước tấm lòng ưu ái của Thầy và những chứng cứ quá rõ rệt, Tôma khuất phục kêu lên: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Trước đó không ai thuyết phục được ông, giờ đây ông đã tuyên xưng đức tin bằng cả con tim. Xin cho chúng ta cũng biết tuyên xưng đức tin với cả con tim như thế. Niềm tin phát xuất từ con tim mới là đức tin đích thực. Niềm tin ấy chỉ có thể có được khi có một kinh nghiệm nào đó với Đấng chúng ta tin. Tôma không thể tin được nếu không nhìn thấy, không cảm nghiệm tình yêu của thầy mình. Câu nói của Chúa cũng khó hiểu: “Phúc thay những kẻ không thấy mà tin”. Tất cả chúng ta thuộc hạng diễm phúc này. Nhưng lời này chỉ áp dụng cho những người tin Chúa thôi, vì ở trong trần gian này, chúng ta không thể tin bất cứ ai. Trong xã hội hôm nay, sự dối trá đã trở thành đồng tiền thông dụng. Chúng ta chỉ có thể tin vào những chứng nhân đích thực của Chúa thôi, tức là Giáo hội. Niềm tin của Giáo hội là niềm tin của chúng ta, vì chỉ có Giáo hội mới là chứng nhân duy nhất của Chúa. Đức tin đó chỉ có một nội dung là tin rằng Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài.
Niềm vui hôm nay của chúng ta được trọn vẹn khi chúng ta ăn lấy Chúa, đem Chúa vào trong con người chúng ta và sống với Ngài. Cầu xin cho đức tin của chúng ta cũng trọn vẹn, để chúng ta cũng có thể nói với Chúa: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con” với tất cả tình yêu đơn thật của chúng ta.
Bài đọc I (Cv 4, 32-35) cho ta thấy hình ảnh của một cộng đoàn Kitô hữu sơ khai sống trung thành tuyệt đối với Tin Mừng.
Bài đọc II (1Ga 5, 1-6) nhấn mạnh đến ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Tin Mừng thánh Gioan tường thuật lại việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra, tỏ cho các Tông Đồ xem thấy những vết thương và ban bình an cho họ. Sau đó, Ngài ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các ông. Đặc biệt khi chạm vào những vết thương của Chúa Giêsu Phục Sinh thì sự nghi ngờ của Tôma trở thành lòng tin.
Đức tin là cái gì kỳ diệu và quý báu nhất trên đời. Nếu thế giới này chỉ có sự nghi ngờ thì mọi tương quan của chúng ta lấy gì mà bảo đảm. Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy cố gắng nhận ra sức mạnh của lòng tin sắt đá.
“Nếu tôi không thấy, không chạm…tôi sẽ không tin”. Những lời của Tôma nghe ra có vẻ rất hợp lý và có cơ sở. Nó đại diện cho những lối giải quyết thời đại theo con đường hiểu biết, lý trí. Ngày nay, người ta có thể giải thích mọi sự dựa trên lý trí. Nếu một điều gì khó hiểu, tất cả chúng ta phải làm sáng tỏ dưới ánh sáng của khoa học thì mọi chuyện sẽ được rõ ràng.
Tất nhiên, chúng a cần phải được lý trí hướng dẫn, nhưng chúng ta cũng phải biết lắng nghe trí tưởng tượng và biết lắng nghe tiếng nói từ con tim của mình. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống mà chúng ta không thể hoàn toàn giải quyết hay hiểu bằng lý trí. Khoa học chưa phải là tất cả. Như một nhà tư tưởng đã nói: Những gì khoa học biết thì rất ít, nhưng chưa biết thì rất nhiều.
Quan niệm của Tôma sẽ dẫn chúng ta đến với một cuộc sống duy vật thuần tuý (hoàn toàn dựa vào vật chất). Nhưng một trong những thành phần quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta cũng chưa thể nhìn thấy hay chạm được. Có những điều vượt quá mà giác quan ta không thể cảm nhận được nhưng chúng lại hiện hữu thật sự. Thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy được chỉ là một phần của thế giới bao la với vô số những gì có thật mà ta không thấy nhưng nó mang một ý nghĩa quan trọng. Như thái tử Little đã nói: “Cái chính yếu là cái ta không nhìn thấy được.”
Thấy và nghe có thể là một chướng ngại ngăn cản những suy nghĩ, cảm giác và trí tưởng tượng của chúng ta. Cái chúng ta thấy chỉ góp một phần nhỏ bé cho sự cảm nhận sâu sắc bên trong. Người ta chỉ thích cái nhìn thực tế, nhưng theo Van Gogh: muốn đặt niềm tin vào điều gì thì cái nhìn chỉ đóng vai trò nho nhỏ. Khi một người biết một cái gì và thật sự biết sâu sắc về nó trong tận cõi lòng, thì anh ta không cần phải lý luận hay chứng minh về nó. Anh ta chỉ biết nó, như thế là đủ. Chúng ta không đủ khả năng để nhận thức sự quan trọng của một điều gì nếu như chúng ta không hiểu chúng tường tận. Nhưng chúng ta còn cần phải biết bằng nhiều cách khác.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thông cảm với Tôma. Ông ta chỉ là một tiếng vang trong nhân loại đang chạy tìm những gì thực tế. Vì ở trần gian, chúng ta không thể biết về Thiên Chúa và thế giới linh thiêng một cách tuyệt đối. Chúng ta hãy bằng lòng vì: thấy là sự phản chiếu mơ hồ từ một tấm gương soi. Chung ta không được nhìn từ cánh cửa được mở sẵn nhưng nhìn xuyên qua từ những khe hở. Khe hở này đủ lớn để để ánh sáng có thể đi qua, nhưng nếu nó quá lớn sẽ làm mất đi sự thán phục và vẽ huyền nhiệm. Ánh sáng quá nhieu hay quá ít đều làm cho chúng ta bị mù. Cần có đủ ánh sáng để chúng ta có thể nhìn những gì mình muốn, cũng cần đủ bóng tối để con người có thể quay trở lại.
Chủ nghĩa duy lý xem Thiên Chúa và Tôn giáo như những gì có thể hiểu và lý giải được. Còn đức tin đến với Thiên Chúa như là mầu nhiệm không thể hiểu và lý giải được nhưng chỉ bằng cảm nghiệm. Đức tin sẽ mang chúng ta đến những nơi mà cảm giác không thể đến. Vì vậy mà Pascal đa nói: “Đức tin không đến từ lý trí nhưng đến từ con tim.”
Lạy Chúa! Xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con nhạy cảm nhận ra Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, nhất là nhận ra Chúa nơi từng người mà chúng con gặp gỡ.
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhan để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: “Adam, Adam ngươi đang ở đâu?”. Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có đieu pha trộn chút âm điệu xót xa. “Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?”.
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiet hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem “đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì “họ không biết việc họ làm”; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: “ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn “Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ” như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tam hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biet đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống ke về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: “năm nay cao hơn năm trước”.
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25).
Tin là gì? Có phải tin là chấp nhận một điều mà ta không thấy? Nếu thế thì phải chăng tin chỉ là thất bại của trí tuệ? Nói tin vào Chúa thì đơn giản. nhưng khi niềm tin bị thử thách bằng tính mạng, của cải, thương tích… liệu chúng ta có còn đứng vững hay không? Đây là một thách đố cho niềm tin của con người.
Tin Mừng hôm nay thuật cuộc hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ sau khi Ngài sống lại, cốt ý là để phục hồi niềm tin cho các Tông đồ. Các ông hân hoan vì: “đã được thấy Chúa” (Ga 20,25). Thế nhưng, tin không phải là nhìn nhận một điều không có, nhưng là nhìn nhận một điều có mà không thấy. Một điều đã có mà dù chối từ, điều ấy cũng vẫn tồn tại. Tin Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ là việc của lý trí nhưng là việc làm của con tim.
Quả thật, điều này mọi kitô hữu điều biết và tin. Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận được thâm thuý điều này hay không còn tuỳ nơi mỗi tâm hồn. Vì niềm tin đòi buộc toàn diện cuộc sống, tình yêu, đau khổ, ước mơ, yếu đuối, sáng tạo, lầm lẫn… Bởi vì, Chúa Giêsu đi từ những thất bại của sự chết đến sự toàn thắng của phục sinh, chính trong cái tuyệt vọng nhất của cuộc đời theo Chúa lại tàn ẩn một niềm hy vọng và một sức sống mãnh liệt. Đó chính là khởi điểm cho một sự sống mới, sống niềm tin.
Qua cái chết và phục sinh của Đức Kitô đã trở nên một nguyên lý của sự sống, sống cho niềm tin. Là kitô hữu hãy soi rọi vào tâm hồn của mình với lòng cậy trông vững chắc của niềm tin, mỗi lần chúng ta trở về sau những lầm lỗi là được phục sinh với Chúa. Mỗi lần chúng ta tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại là đang ra khỏi mộ với Chúa. Mỗi khi chúng ta chết với Đức Kitô là được phục sinh với Ngài.
Tin vào Đức Giêsu phục sinh, chính là đón nhận chứng từ của các Tông đồ. Vì các ngài đã lấy máu mình quả quyết trước mặt thế gian và cho rằng: Thầy mình đã chết trên thập giá và đươc phục sinh trong thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của không gian và thời gian.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho con một lòng yêu mến Chúa như các Tông đồ: Maria Mađalênna, Phêrô, Gioan. đã cảm nem được niềm vui phục sinh. Xin cho con biết chia sẻ niềm vui và sống niềm tin ấy cho mọi người mà con gặp gỡ, để tất cả được hưởng niềm vui phục sinh của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Thiên Phúc)
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
– Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Toma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
Trong suốt những ngày qua, từ đêm thứ bảy Vọng Phục Sinh, rồi Chúa Nhật Phục Sinh, và trong suốt tuần Bát Nhật Phục Sinh vừa qua, chúng ta đã nghe rất nhiều về sự kiện Chúa Phục Sinh, với những dấu chỉ ngôi mộ trống, các dây băng và vải khăn liệm, cũng như các lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ của Người. Ngày Chúa Nhật hôm nay được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn làm ngày Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa. Hôm nay chúng ta cùng suy niệm về Lòng Thương Xót Chúa trong mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa, để chúng ta thêm tin tưởng và phó thác đời mình vào tình thương bao la của Chúa.
Từ lúc khởi đầu của vũ trụ, Chúa đã tỏ tình thương khi dựng nên vũ trụ cùng muôn vật, muôn loài, trong đó có con người chúng ta. Chúa ban cho loài người cai quản và sử dụng muôn loài muôn vật trong vũ trụ làm phong phú đời sống con người. Thế nhưng con người đã nghe theo ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa, trong lúc ấy Chúa lại hứa ban Đấng Cứu độ cho con người chúng ta. Chúa lấy Lòng Thương Xót mà xử với kẻ chống lại mình. Trong Cựu Ước Chúa không ngừng biểu lộ Lòng Thương Xót cho dân của Ngài khi dân chúng phản nghịch cùng Ngài mà chạy theo các thần mà thờ lạy. Chúa đánh phạt, sửa dạy nhưng không huỷ diệt họ.
Đến khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, Chúa đã giảng dạy và cứu chữa làm cho người bệnh được lành mạnh, người đói được no nê, làm cho dân chúng cảm thấy được an ủi, được ấm lòng khi nhận được Lòng Thương Xót Chúa.
Đặc biệt là sau khi chết và sống lại Chúa Giêsu đã làm thay đổi rất nhiều trong đời sống các Tông đồ và những người theo Chúa. Chúa Phục Sinh đã “hoàn tất” sự biểu lộ của Lòng Thương Xót Chúa trong cuộc khổ nạn, khi Ngài đem lại sự Bình An và Sức Sống mới nơi các học trò của mình.
Chúa Giêsu Phục Sinh xóa tan sự sợ hãi nơi lòng các môn đệ và những người thân của Chúa. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, các môn đệ của Người đã bị đánh tan tác, kẻ thì chạy trốn, người thì bỏ ve quê, có người đi theo Chúa xa xa, nhưng lại yếu hèn chối Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh không truy cứu những lỗi lầm nhưng tha thứ cho những kẻ vấp ngã trong cuộc Thương Khó của Ngài. Chúa lại thương yêu tin tưởng ban cho kẻ yeu đuối trách nhiệm gánh vác đàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh biến đổi những anh thuyền chài thành những người thông thạo Kinh Thánh, thành những kẻ chài lưới người ta. Chúa Giêsu Phục Sinh ban Bình An và sự tha thứ, cùng niềm khích lệ cho các môn đệ và cho Hội Thánh khi trao phó trách nhiệm cho các ông. Chúa Giêsu Phục Sinh ban Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ và Hội Thánh, nhờ đó Hội Thánh luôn vững bước tiến về quê hương vĩnh cữu là quê trời.
Ngày hôm nay Chúa cũng không ngừng tha thứ cho chúng ta trong Bí tích Giải tội dù chúng ta cứ mãi phạm tội phản nghịch Ngài. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì Lòng Thương Xót Chúa luôn tuôn đổ trên đời sống chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng dù chúng ta tệ hại quá nhưng hãy tin tưởng phó thác mọi sự trong tình yêu và Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta cũng hãy học nơi Chúa để cũng biết thương xót và không ngừng tha thứ cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Tối nay có một thanh niên hấp hối; anh ta vật vã đau đớn. Theo ý anh, tôi bắt đầu đọc chuỗi kinh Chúa dạy. Khi đọc xong, cơn đau của anh van chưa dịu xuống. Tôi muốn đọc tiếp Kinh Cầu Các Thánh, nhưng thình lình được nghe những lời sau: “Con hãy đọc chuỗi kinh.” Tôi biết linh hồn này cần sự trợ giúp đặc biệt của những kinh nguyện và lòng thương xót vô biên. Thế là tôi đóng cửa phòng và sấp mình xuống trước thánh nhan Chúa, nài xin Người tỏ lòng thương xót linh hồn ấy. Bấy giờ, tôi cảm nghiệm được uy linh cao cả và phép công thẳng vô cùng của Thiên Chúa. Tôi run rẩy, rùng minh sợ hãi, nhưng vẫn không ngừng khẩn xin lượng xót thương của Chúa cho linh hồn ấy. Rồi tôi lấy tượng Thánh Giá ra khỏi ngực, tượng tôi đã nhận trong dịp khấn dòng, rồi đặt lên ngực người hấp hối và thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu xin đoái nhìn linh hồn này với tình thương, mà Chúa đã đoái nhìn đến của lễ toàn hiến của con trong ngày vĩnh thệ, và với sức mạnh của Lời Chúa, đã hứa với con cho những người hấp hối, và những ai kêu nài long thương xót Chúa để cầu cho họ. Xin Chúa ban cho người này ơn chết lành.” Lúc đó, cơn đau đớn của thanh niên dịu xuống và anh ta ra đi bình an. Ôi, chúng ta cần phải cầu nguyện rất nhiều cho những người hấp hối! Chúng ta hay tận dụng lòng thương xót của Chúa, trong lúc vẫn còn thì giờ của tình thương. (MM Ngọc Đính, Sr Sophia Michalenko, NK 1035, Cuộc đời Thánh nữ Faustina Kowaska)
Thánh nữ Faustina đã được thị kiến Lòng Chúa Thương Xót vô ngần với bất cứ ai trông cậy vào Người. Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh hôm nay suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, Thánh sử Gioan trình thuật hai cuộc hiện ra của Chúa Giêsu với ba lần chúc bình an.
Bình an khi theo Chúa
Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giêsu chân tình thốt lên những lời cáo biệt thắm thiết và yêu thương với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 17) Trước đó, biết bao lần Đức Giêsu trấn an các môn đệ đừng sợ hãi thế gian đố kỵ, hăm dọa, ghét bỏ, tẩy chay, bắt bớ, hành hạ, mưu sát, khi trung thành đi theo Chúa, thực hành sống theo Lời Chúa. “Anh em đừng sợ người ta… Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Vậy anh em đừng sợ…” (Mt 10, 26, 28, 31)
Rồi sau khi Đức Giêsu chịu khổ nạn và phục sinh.“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nghe lời chúc bình an và thấy Chúa Phục Sinh với năm thương tích, các môn đệ vui mừng, không còn lo sợ khiếp hãi như trước. Chúa hiện diện đem bình an đến nâng đỡ an ủi, chở che, bất chấp sự dữ đang hằn học, đe dọa. Chúa hiện diện đem đến cả niềm vui, hoan lạc đến những tâm hồn đang lo sợ, u sầu, bị kềm kẹp, bách hại vì danh Chúa.
Hiện nay, Chúa vẫn còn đang tiếp tục hiện diện, qua Lời Chúa, qua Thánh Thể và qua tha nhân. Chỉ vì thiếu niềm tin, thiếu trông cậy và thiếu lửa mến, nên Ki tô hữu mới không nhận ra Chúa hiện diện trong từng phút giây cuộc đời, trong mọi môi trường xã hội, cũng như trong từng hoàn cảnh thuận và nghịch.
Như vậy, làm sao nhận ra Chúa hiện diện, thì sẽ luôn có bình an và niềm vui sống đạo. Tôi Tớ Chúa, ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận dứt khoát không chấp nhận người Kitô hữu bị cô đơn: “Tại sao người Kitô hữu than vãn mình cô đơn? Chúa Kitô của họ ở đâu?” (Đường Hy Vọng, số 237)
Bình an khi làm chứng nhân
Sinh thời, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ hãy sẵn sàng chấp nhận đau khổ, gian lao, thử thách khi thực hiện sứ vụ rao giảng.“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (Lc 10, 2-3) Nhưng hãy can đảm đối đầu với sự dữ thế gian hãm hại: “Đừng sợ những kẻ giết được xác, nhưng không thể giết được hồn; hãy sợ Đấng có thể diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 28)
Nay Người phuc sinh chúc bình an cho các môn đệ. “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Đồng thời Chúa Giêsu nhắc lại sứ vụ Đi Gieo Tin Mừng, như Người đã hoàn thành vô cùng mỹ mãn.Nay có Chúa cùng đồng hành, thì luôn bình an trên đường truyền giáo, mặc cho kẻ chống Chúa, phản Chúa khó dễ, cấm cản trăm bề.
“Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật. “Tôi tơ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy, họ đã đối xử với Thầy thể nào, cũng sẽ đối với các con như vậy. Hãy vui mừng hoan hỉ…, vì nếu chúng con theo thế gian, thì thế gian không ghét chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 319)
Bình an khi tha thứ
Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, không hề trách mắng các ông đã phản bội, bỏ chạy, chối Chúa, khi Người chịu khổ nạn. Người tha thứ tất cả tội lỗi con người ăn năn hối cải, cùng ban bình an, và tái lập quan hệ tốt lành với hối nhân.
Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” Chúa cũng chẳng rày la ông Tôma cứng lòng, công khai phủ nhận lời chứng của bà Maria Mađalêna, của ông Phêrô và các môn đệ khác. Trái lại, Chúa hoàn toàn tha thứ và ban bình an cho ông Tôma, cùng thêm Lời Chúc Phúc Thứ Chín: Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Bình an cũng đến với những ai biết tha thứ cho anh em, vì đó là điều kiện tiên quyết để được Chúa thứ tha cho.”Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.(Mt 6, 14-15)
Tóm lại bình an là trạng thái tuyệt hảo, chỉ có Chúa trao ban, khi sống mật thiết, kết hợp với Chúa Giêsu trong mọi lúc, mọi nơi suốt cuộc đời. Trong Thư gửi tín hữu Êphesô, Thánh Phaolô đã công khai xác tín: “Chính Người là bình an của chúng ta.” (Ep 2, 14)
“Làm sao con hết buồn? Hãy cầu nguyện! Tại sao thế? Vì con gặp Chúa: Mađalêna tìm xác Chúa, hai môn đệ đi làng Emmau đã gặp Chúa và quên hết mọi ưu sầu.” (Đường Hy Vọng, số 541)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin Chúa tái sinh linh hồn chúng con khỏi sự chết tội lỗi, khỏi lòng phản bội, xa Chúa, để chúng con được chúc phúc bình an, tràn đầy niềm vui hy vọng.
Lay Mẹ Maria, Mẹ là nguồn cậy trông và hy vọng của chúng con. Xin cầu bầu cứu giúp chúng con khỏi cứng lòng, vì mê đắm thế gian phù phiếm, hư ảo, mà tin cậy vào Lòng Chúa Thương Xót, và luôn biết sám hối, ăn năn quay ve với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
PHỤC SINH KHÔNG GIẾT CHẾT THẬP GIÁ
Có lần, một linh mục chia sẻ: Có một anh sinh viên gởi thư và nêu thắc mắc bao gồm một nỗi khổ rất lớn, liên quan dữ dội đến đức tin. Anh sinh viên hỏi rằng, “Thưa Cha, chỉ còn có ba tháng nữa, con sẽ tốt nghiệp đại học. Dù lúc này, ba con rất yếu, nhưng con cầu xin Chúa cho ba con được sống cho tới ngày con cầm được mảnh bằng tốt nghiệp về khoe với ba: “Thưa ba, đây là bằng tốt nghiệp của con”. Cha có biết không, cái bằng tốt nghiệp đó, con đã phải chờ phải đợi biết là chừng nào. Ba con cũng thế, đêm ngày mong mỏi, cứ mong mỏi, cứ chờ đợi làm sao để nhìn thấy con tốt nghiệp đại học, y như là khi con đậu đại học là chính lúc ba con đậu đại học vậy. Cũng đúng thôi cha ạ. Vì mảnh bằng tốt nghiệp, nếu con đạt được thì đâu chỉ của riêng con mà là của cả hai cha con cộng lại. Đó là công lao nuôi dưỡng của ba con hai mươi mấy năm trời và công lao học tập miệt mài của con bao nhiêu năm mới có nó, vậy mà Chúa không nghe lời con xin. Cách nay một tuần, Chúa đã cất ba con. Ba con chết mà không nhìn thấy kết quả do mình tạo ra, và ngày đêm mong mỏi. Sao Chúa lại làm như vậy? Sao vậy cha?”
Và trong lá thư gởi theo địa chỉ mà anh sinh viên cho biết, vị linh mục trả lời:”Tôi cũng không biết nữa, không hiểu vì sao Thiên Chúa lại làm như vậy. Nhưng chắc Chúa có lý do của Ngài. Đọc thư anh, tôi thông cảm với anh, thông cảm nhiều lắm, vì tôi cũng đã từng gặp đau khổ tương tự như anh. Tôi cầu nguyện cho anh và dâng những đau khổ, dâng sự đồng cảm của hai chúng ta, để Chúa tìm cách bù cho anh trong kết quả thi tốt nghiệp sắp tới. Điều tôi quan tâm hơn hết, đó là anh còn tin Chúa nữa hay không?”.
“Anh có còn tin Chúa nữa hay không?”. Tôi nghĩ rằng, lời hỏi đó cũng rất can thiết cho bạn và tôi. Có những lúc đau khổ tột cùng, những lúc tưởng như cuộc đời mình bế tắc, chính những lúc như thế, chúng ta có còn tin Chúa nữa hay không?
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ là câu trả lời quí giá về nỗi đau trong cuộc đời của bạn và của tôi. Vì hiểu được ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay, sẽ giúp ta vững tin hơn. Chỉ với một bài Tin Mừng không dài lắm, nhưng thánh Gioan có đến hai lần kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: hôm nay Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của niềm vui, một niềm vui lớn. Đàng khác bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ, lại là một niềm vui không nhỏ. Vậy mà từ đầu tới giờ, tôi chỉ toàn nói đến đau khổ. Vì sao lại nói đến đau khổ giữa mùa Phục sinh? Là bởi vì Chúa không tự nhiên mà phục sinh. Nhưng Chúa phục sinh từ trong đau khổ. Chúa phục sinh từ trên thánh giá. Hôm nay, dù đã sống lại, đã chiến thắng khải hoàn, thân xác phục sinh chói ngời đã cùng quyền năng Thiên Chúa bước vào vô biên, bước vào vĩnh cửu# nhưng bây giờ hiện ra với các môn đệ, thân xac phục sinh rạng rỡ ấy vẫn còn y nguyên dấu của thập giá.
Cả hai lần trong bài Tin Mừng đều chứng minh Chúa hiện ra chỉ có cùng một kiểu như thế. Lần thứ nhất, thánh Gioan ghi nhận, ngay khi hiện ra” Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”. Bạn có biết điều gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem vậy? Vì nơi ấy, dấu thập giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay ấy và trên cạnh sườn ấy, còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chỉ sau khi xem tay và cạnh sườn bị thương tích như thế, các môn đệ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy “vui mừng vì xem thấy Chúa”. Như vậy dấu của thập giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ.
Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt, nên thánh Tôma nhất quyết không tin. Bởi đó tám ngày sau, Chúa lại hiện ra một lần nữa, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn lần trước, dứt khoat hơn lần trước. Ngài không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục sinh còn lên tiếng nói: ” Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”. Ví dụ có một ngày nào Chúa hiện ra và cũng nói với bạn những lời mà Chúa đã từng nói với thánh Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy thọc bàn tay con vào đây”, bạn có còn dám nhìn Chúa nữa không? Chẳng những không dám nhìn, càng không dám đưa ngón tay đưa bàn tay, mà có khi run rẫy chết khiếp, bạc vía kinh hồn. Thánh Tôma cũng không hề là trường hợp ngoại lệ. Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thập giá con in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Một lần nữa, thánh Gioan lại cho thấy, dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin cua chúng ta.
Mà dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin, nên trong mùa phục sinh, ta lại bàn đến vấn đề đau khổ, đó cũng là điều hợp lý. Chúa Phục sinh đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thập giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục sinh, lại làm cho các môn đệ, dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.
Người ta nói: ” Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Và tôi thêm, đối với người có đạo, đau khổ rèn luyện đức tin của họ. Đối với anh sinh viên, tôi tin rằng, nếu anh đọc và suy nghĩ Lời Chúa, suy nghĩ về cuộc đời của Chúa Kitô, về sự chết và sống lại của Ngài, chắc chắn anh sẽ vượt qua nỗi buồn mất cha, dù anh rất yêu cha của anh. Tôi cũng tin y như thế về các bạn và chính bản thân tôi. Nếu chúng ta để cho Lời Chúa thấm trong cuộc đời của mình, thì có nỗi đau nào bạn và tôi không vượt qua!
Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Hay con đường tương lai của mình, hay sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngơi sáng phía trước mặt, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình như trường hợp anh sinh viên kia# những lúc bi đát đến cùng cực ấy, bạn và tôi hãy nhớ lại lời vị linh mục hỏi chàng sinh viên kia: “Tôi có còn tin Chúa nữa hay không?”.
Chúng ta rất may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.
Sau hết tôi muốn mời bạn cùng tôi dâng lời cầu nguyện, chỉ một lời cầu nguyện thôi nhưng bằng tất cả tình yêu thẳm sâu tận hồn chúng ta: “Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa”.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
HỒNG PHÚC TỪ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA
Sau cuộc khổ nạn đau đớn, nhục nhã và cuộc Phục Sinh thầm lặng của Chúa Giêsu, các Tông đồ chưa khỏi bàng hoàng, khiếp sợ. Mặc dù chính hai ông Phê rô và Gioan đã đích thân ra vào mồ, thấy khăn lệm đã xếp lại ngăn nắp, đã tin Chúa đã sống lại thật. Nhưng nỗi sợ hãi vẫn còn ám ảnh, hằn dấu trên gương mặt các đấng. Do vậy, phòng họp mới phải cẩn thận cửa đóng then gài, an toàn và chắc chắn.
Các ông tụ họp, âm thầm nguyện cầu, cùng đang nhỏ to thuật lại những biến cố mới xảy ra. Thì bất ngờ Chúa hiện đến, trao tặng những món qua vô cùng quý giá.
Ban bình an và niềm vui, yên ủi những kẻ sầu khổ, lo sợ.
Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã chúc: “Phúc cho những ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5, 5) Hôm nay lời chúc phúc ấy đã được thực hiện tỏ tường. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (Ga 20, 20)
Chỉ trong đoạn trình thuật ngắn ngủi này của Tin Mừng theo Thánh Gioan, đã có đến 3 lần Chúa Giê su lập lại cầu chúc bình an.
Ban Sứ Mạng Truyền Giáo
Ngay sau khi sống lại, Chúa Giêsu trao phó cho các môn đệ công việc đầu tiên, ưu tiên và cấp bách nhất, đó là mệnh lệnh truyền giáo. Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. (Ga 20, 21) Như thế lệnh truyền này thực sự quan trọng và thiết yếu vô cùng. Các môn đệ đã vui vẻ thừa hành, Đi Gieo Tin Mừng, để bây giờ chúng ta mơi hân hạnh nhận được hồng ân của Lòng Thương Xót Chúa.
Ban Chúa Thánh Thần cho người được sai đi.
Nhưng Chúa biết sức người hạn hẹp, tinh thần yếu đuối, không thể làm nên việc gì, nếu không có Thần Khí giúp đỡ, dìu dắt. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22) Nhờ Đức Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan và can đảm, các môn đệ sau đó mới dám công khai đi rao giảng trước các Thượng tế, Biệt phai, kinh sư, quan quân Hêrôđê, Philatô và đông đảo dân chúng khắp nơi. Sau này các chứng nhân đã cam đảm chịu hy sinh tuẫn đạo, như Thánh Gioan bị tù tội, làm kiếp nô lệ lưu đầy ở đảo Patmos, Thánh Phêrô chịu đóng đinh ngươc, Thánh Phaolô bị chặt đầu ở Roma…
Ban quyền năng tha tội cho các môn đệ, linh mục sau này.
Nhân dịp này, Chúa Giê su nhắc lại quyền năng tha tội qua Bí tích Hòa Giải: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga, 20, 23) Mà trước đây Chúa đã từng trao phó cho các môn đệ, khi Người còn chưa chịu khổ nạn: “Thầy bảo thật anh em, dưới đất anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.”(Mt 18, 18)
Ngày hôm nay tôn kính trọng thể Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Từ cạnh sườn Người đã tuôn trào hai luồng sáng, biểu thị Máu và Nước, để thanh tẩy linh hồn nên trong sạch, cùng ban sức sống cho linh hồn. Thánh nữ Faustina Kowaska đã giải thích như thế sau khi nhiều lần được thị kiến Chúa dẫn giải. Hai luồng sáng này phát xuất từ lòng xót thương dịu hiền sâu thẳm của Chúa, lúc trái tim thống khổ của Chúa bị lưỡi đòng mở ra trên Thập Giá.
Những luồng sáng này che chở các linh hồn khỏi cơn nghĩa nộ của Chúa Cha. Phúc cho linh hồn nào cư ngụ, nương náu vào Lòng Thương Xót của Chúa, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đè nặng trên họ. (NK 299)
Lạy Chúa, Giê su xin ban cho con luôn biết tìm đến Lòng Thương Xót của Ngài, để con luôn được bình an, niềm vui và niềm hy vọng được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, xin luôn dẫn con đến Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để con canh tân, đổi mới và làm chứng nhân cho Tình Yêu tuyệt đối của Chúa. Amen.
54. Chúng tôi đã xem thấy Chúa
Anh chị em thân mến,
Còn niềm vui nào lớn hơn khi tìm lại được người thân, nhất là khi ta tưởng rằng họ đã chết vĩnh viễn. Thử tưởng tượng: sau trận sập cầu Cần Thơ, ta may mắn vô cùng vì tìm lại được người thân mà họ vẫn còn sống… hay trong tran bão số 5 ngày 02 tháng 11 năm 1997, giữa bao nhiêu ghe tàu bị mất tích, bao nhiêu người mất chồng, mất con, còn ta, ta lại may mắn trong gang tấc tìm được người thân trở về. Những hoàn cảnh nêu trên vô cùng giống với câu chuyện Chúa phục sinh của các tông đồ; họ tưởng rằng đã mất Chúa vĩnh viễn, nhưng bất ngờ sau đó đúng ba ngày, sáng Chúa Nhật, mấy bà nói Chúa đã sống lại. Rồi trong câu chuyện bài Tin mừng hôm nay đây, vào chiều tối Chúa Nhật, chính họ được xem thấy Chúa…Niềm vui nào diễn tả được đây? Trên môi miệng họ chỉ có một câu duy nhất: Chúng tôi đã xem thấy Chúa…. Xin mời anh chị em cùng suy niệm….
a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu y:
Khung cảnh câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay: diễn ra ở ba khoảng thời gian rõ rệt.- Thứ 1. Vào chiều ngày Chúa nhật phục sinh; có nghĩa: buổi sáng các bà đi ra mộ và thấy mộ trống; cũng có mấy bà nói đã được xem thấy Chúa sống lại. Chiều tối lại, chính hôm đó, Chúa hiện ra trong nhà Tiệc ly với hết mọi người, không có Tôma.- Thứ 2. Vào một ngày trong tuần đó, Tôma, đi đâu đó và trở về, họ bèn thuật lại cho ông nghe. Ông không tin.- Thứ 3. vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Phục Sinh, có thể cũng vào ban đêm, Chúa lại hiện ra với họ, có cả Tôma nữa. Chính Chúa đã sửa lòng cứng tin của Tôma…
b/. Lời Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay cũng chính là lời các tông đồ truyền lại bằng câu này: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa..”
Bây giờ chúng ta thử tưởng tượng, như đang ngồi trong căn phòng lớn của một hội đường do thái, và đang nghe một vị tông đồ giảng về câu chuyện Chúa Giêsu vừa phục sinh… Vị tông đồ có thể nói thế này: “Thật vậy, Chúa Kitô đã sống lại. Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúng tôi xin làm chứng về điều này.Trong chúng tôi, cả những người bị coi là cứng tin nhất như Tôma, cung đã thấy và đã tin, đã nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa, đã tin rằng người đã sống lại. Lời truyền này của chúng tôi cho các bạn hôm nay, không chỉ là lời truyền trên môi miệng, mà còn truyền bằng cả cuộc sống của chung tôi nữa. Chính niềm vui phục sinh đã biến đổi chúng tôi, từ những con người tham sống, sợ chết, thành những chứng nhân trung kiên cho Chúa Kitô. Hiện nay, trong chính anh em chúng tôi, như Stêphanô, như Giacôbê, đã dám đo máu đào mình ra, không hề sợ chết, sẵn sàng làm chứng Đức Kitô đã chết, và nay đã sống lại vì chúng ta….Các bạn cũng thế, hãy vui lên, đừng buồn rầu nữa, vì Đức Kitô đã sống lại. Người anh em chúng tôi là Phaolô, tông đồ dân ngoại, đã nói một câu rất chí lý: Nếu Đức Kitô đã chết mà không sống lại, thì niềm tin của anh em thật vô ích…
Dù sao, chúng tôi là các tông đồ, những người xưa kia khi Chúa còn sống, đã cùng ăn cùng ngu với Chúa, chúng tôi trong vui mừng và hi vọng, xin hết lòng làm chứng cho anh em rằng, Đức Kitô đã sống lại. Anh em hãy vui lên. Anh em đã theo Chúa trên đường Khổ giá, đừng dừng lại ở đồi Golgôtha, mà hãy tiến thẳng len núi Tabor, nơi Chúa phục sinh vinh hiển….
Câu chuyện trên đây được coi là bài giảng của các tông đồ sau khi Chúa phục sinh, hay sau ngày lễ Ngũ Tuần cũng được. Thực ra, đó không hẳn là bài giảng, mà phải nói đó là những lời chứng hùng hồn, đanh thép, đầy xác tín, đầy niềm vui và hi vọng, vì họ đã thấy Chúa sống lại. Rõ ràng họ muốn trao cho người nghe không phải là những lời nói mà thôi mà cả niềm tin, xác tín….. đúng hơn họ muon trao niềm vui phục sinh cho hết mọi người….
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa; điều đó các ông gọi là niềm vui phục sinh. Còn chúng ta ngày hôm nay, khi mừng lễ Chúa phục sinh, có phải đó cũng là niềm vui của chúng ta không? Trong bài Phúc âm này ghi, khi Chúa hiện ra, đến với các môn đệ, Chúa đều chúc bình an, và thực sự đã mang lại bình an cho họ. chúng ta có luôn là niềm vui và bình an cho những người chúng ta gặp gở không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngai nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhuc trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ mang của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
“PHÚC THAY NHỮNG NGƯỜI KHÔNG THẤY MÀ TIN!”
Thánh Tô-ma cứng lòng tin, nhưng không chỉ thánh nhân, mà tất cả các tông đồ khác nữa. Thật vậy, Đức Ki-tô phục sinh khiển trách thánh Tô-ma, như đã khiển trách các tông đồ, vì đã không tin khi nghe lời chứng của các chứng nhân (x. Mc 16, 9-15; bài Tin Mừng của thứ bảy, tuần Bát Nhật Phục Sinh). Nhưng tại sao thánh nhân lại muốn thấy và không chỉ muốn thấy, mà còn muốn đụng? Và rồi khi Chúa tỏ mình ra, Người mời gọi đụng vào Chúa, nhưng thánh nhân không dám đụng? Đó là vì Người vừa là Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó và vừa là Đức Chúa, là Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và sự chết, vừa là Đấng Khác Hẳn, vượt không gian và thời gian. Vì thế, người ta không thể tự mình nhận ra ngay, mỗi khi Người tỏ mình ra.
Xin cho chúng ta có lòng ước ao mạnh mẽ “thấy” Chúa để đi theo Người một cách cụ thể; và xin cho chúng ta vượt qua bình diện thấy thể lí, để có thể nhận ra Đức Giê-su Ki-tô, là Đức Chúa Phục Sinh, ngang qua các dấu chỉ sáng tạo, sự sống, cuộc đời, ơn gọi, Lời Chúa, Thánh Thể dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua trong cuộc đời của chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể nhận ra sự hiện hiện của Chúa ngay trong lòng chúng ta, vì Người đã từng nói: “Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em.”
Trong ngày đầu tiên của mầu nhiệm Phục Sinh, những người đã từng đi theo Đức Ki-tô đang ở trong những hoàn cảnh rất khác nhau:
– Ngày thứ nhất trong tuần, sáng sớm, bà Maria Mác-đa-la ra khỏi nhà, đi đến mộ trong buồn đau, chạy về, chạy ra trong lo âu, rồi lại chạy về trong niềm vui khôn tả. – Bà nói với các Tông Đồ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà. |
– Ngày thứ nhất trong tuần, buổi chiều, các môn đệ ở trong nhà, các cửa đều đóng kín, tâm trạng sợ hãi. – Và đặc biệt với tông đồ Tô-ma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… tôi chẳng có tin. |
Các môn đệ đang ở trong tâm trạng sợ hãi, vì thế, ơn điều tiên mà Đức Ki-tô phục sinh muốn thông truyền cho các môn đệ là ơn bình an: “Bình an cho anh em!” Bình an của sự sống mới, nhưng Chúa lại muốn thông truyền cho các môn đệ và cho chúng ta ngay trong sự sống đầy thách đố này; bởi lẽ chính Ngài đã sống ơn bình an này ngay trong cuộc Thương Khó đầy nhọc nhằn và đau đớn. Đức Ki-tô phục sinh sẽ “viếng thăm”, “đi ngang qua” những tình huống khác nhau của những người thuộc về Ngài, của từng người chúng ta, của cả nhân loại để khơi dậy lòng tin nơi Ngài, Đấng chiến thắng Sự Dữ và sự chết; một lòng tin có sức mạnh “tái sinh” chúng ta cho niềm vui của sự sống mai sau, ngay hôm nay giữa những thử thách của thân phận và số phận con người.
Chắc chắn chúng ta cũng đã trải qua những hoàn cảnh như thế, và có kinh nghiệm về sự viếng thăm của Đức Ki-tô phục sinh, ngang qua Lời của Ngài. Chúng ta có thể nhớ lại những kinh nghiệm này. Xin cho chúng ta cũng nhận ra sự hiện diện sống động của Chúa trong cầu nguyện và trong ngày sống của chúng ta, và nhất là trong những thử thách làm chúng ta sợ hãi và đóng kín.
Như tất cả các lần hiện ra khác, Chúa luôn luôn cho thấy mình chính là Người đã bị đóng đinh: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Điều này cho thấy:
* Sự sống mới phát xuất từ con đường Thập Giá. Như thế, tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết, đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui Phục Sinh.
* Đức Ki-tô chịu đóng đinh và Đức Ki-tô phục sinh vừa rất khác, khiến cho những người đã từng sống với ngài không nhận ra, nhưng vửa vẫn là một.
* Tuy Ngài đã đi vào sự sống mới, nhưng tất cả những gì đến từ cuộc Thương Khó, mãi mãi gắn bó với ngôi vị của Ngài. Đó chính là để chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót vô hạn của Chúa.
Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn bình an và niềm vui, không chỉ vì Đức Ki-tô đi vào sự sống mới, nhưng còn là vì, mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa có liên quan sâu xa đến cuộc đời và hành trình ơn gọi của chúng ta: tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết, đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui Phục Sinh, và sự sống Phục Sinh đã được gieo và sinh hoa kết quả ngay hôm nay.
Đức Ki-tô phục sinh, thay vì trở lại nắm quyền, Ngài tin tưởng trao lại hết cho các môn đệ: Đức Ki-tô phục sinh lại ban ơn bình an một lần nữa cho các môn đệ, vì trong tương lai đầy thách đố của ơn gọi và của sứ vụ, các môn đệ và chúng ta cũng vậy, cần ơn bình an của Đức Ki-tô phục sinh biết bao. Xin cho chúng ta được bình an, vì “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 136), tình thương mà Chúa Cha dành cho chúng ta nơi Đức Ki-tô, như thánh Phaolo diễn tả:
Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
(Rm 8, 38-39)
“Như Chúa Cha đã sai thầy, thì thầy cũng sai anh em”. Tương lai không còn thuộc về chúng ta nữa, nhưng thuộc về Chúa: sống là sống cho Chúa; và chết cũng chết cho Chúa. Cuộc đời của chúng ta giờ đây trở thành sứ mạng, được Chúa sai đi để sống từng ngày như là những chứng nhân. Và Chúng ta cần hiểu lời trao ban sứ mạng này xuất phát từ sự thông truyền sự sống và tình yêu và được thúc đẩy một cách tự nhiên bởi ơn huệ sự sống và tình yêu.
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúa đã được đầy Thánh Thần thế nào, Ngài cũng muốn chúng ta được đầy Thánh Thần như thế, đế có thể sống sứ mạng đến cùng. Thánh Thần sẽ thêm sức, làm cho can đảm không sợ hãi, chữa lành và nhất là dẫn chúng ta vào Chân Lý của Đức Ki-tô, để làm cho chúng ta hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô mỗi ngày mỗi hơn.
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Đức Ki-tô phục sinh tin tưởng trao ban cho các môn đệ một quyền, thuộc về Thiên Chúa, đó là quyền tha tội, bởi vì con người không thể sống, mà không cần được tái sinh bởi ơn tha thứ. Chúng ta không có chức thánh, nhưng vẫn có thể làm chứng về lòng thương xót của Chúa, bằng con tim bao dung và tha thứ. Và Ngài trao cả quyền cầm giữ nữa, không phải để giết chết, nhưng là để phục vụ cho sự sống. Đã có lúc Giáo Hội dường như đã mê quyền cầm giữ hơn quyền tha tội. Không gắn bó với Đức Ki-tô, không hiểu Ngài cách sâu xa, nhất là mầu nhiệm Thập Giá, không nhớ lại kinh nghiệm được thương xót, không để cho Thánh Thần dẫn dắt,chúng ta rất dễ sử dụng quyền bính Chúa ban để giết chết thay vì để cứu sống. Giáo Hội được đặt xây dựng trên đá tảng Phê-rô, nhưng đá tảng Phê-rô lại được nâng đỡ bởi lòng thương xót. Hãy cảm nếm lòng tin của Đức Ki-tô phục sinh dành cho các môn đệ và cho chúng ta hôm nay.
Trong phần còn lại của bài Tin Mừng, thánh sử Gioan kể cho chúng ta nghe về hành trình đức tin của thánh Tô-ma và mời gọi chúng ta nhận ra mình nơi hành trình này. Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta ít nhất nghe thánh Tô-ma lên tiếng bốn lần:
“Chúng ta cũng vậy, chúng ta hãy đi để cùng chết với Ngài” (Ga 11, 16).
“Thưa Thầy, chúng con không biết được Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết được đường đi” (14, 5).
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (20, 25). Khởi đi từ hai lời nói trước của thánh Tô-ma, chúng ta có thể nhận ra tâm tình thật sự ẩn đàng sau lời nói, vẫn bị coi là cứng lòng tin, đó là “tôi khao khát Thầy vẫn còn hiện hữu trên cõi đời này, hiện hữu bằng xương bằng thịt, để tôi tiếp tục đi theo Thầy”.
Cuối cùng là lời tuyên xưng đức tin vượt qua vô hạn điều ông Tô-ma nhìn thấy: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Qua những lời này, chúng ta có thể nhận ra nơi thánh Tô-ma một sự quyết tâm rất lớn muốn đi theo Đức Giêsu, không phải trong tư tưởng, nhưng bằng “chính đôi chân của mình”. Đây đã một lời gọi đầy ý nghĩa đối với mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, cứ mỗi lần ông Tô-ma lên tiếng, Đức Giêsu đều mời gọi ông đi từ bình diện hữu hình sang bình diện vô hình, từ bề ngoài sang bề trong, từ bề mặt sang bề sâu: cuộc Thương Khó và nhất cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá không đơn giản như ông Tô-ma nghĩ, nghĩa là “thôi thì đi chết với Thầy cho rồi đời” (x. Tv 139: “ước gì bóng tối bao phủ tôi”); đường đi không phải là đường “Đồng Khởi”, nhưng là chính ngôi vị của Đức Giêsu, bởi vì chính Đức Ki-tô là Đường, chứ không phải là bất cứ điều gì khác.
Đáng lẽ ra, với lời chứng của các tông đồ khác, ông Tô-ma đã phải tin rồi. Vì khi gặp ông Tô-ma, Đức Giêsu Ki-tô phục sinh sẽ trách ông: “Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin”. Ông Tô-ma vẫn muốn có được Đức Giêsu như xưa kia, trong khi Ngài đã đi vào trong sự sống mới. Vì thế, tương quan với Thầy, việc đi theo Thầy cũng sẽ mới. Đức Ki-tô không còn hiện diện với các môn đệ, và với chúng ta hôm nay một cách thể lý nữa, nhưng qua Thần Khí của Ngài, qua Lời của Ngài, qua các bí tích, qua những ơn huệ, qua những con người mà chúng ta được sai đến để phục vụ, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bị thua thiệt, qua tương quan hiệp nhất, qua hành vi “bẻ bánh” của chúng ta, nghĩa là chia sẻ sự sống.
Tám ngày sau; có nghĩa là đúng một tuần. Đó là đêm tối của đức tin, nhưng cũng là thời gian cần thiết để đi tới đức tin đích thật. Thực vậy, ông Tô-ma đã trở thành con người khác, sau thời gian một tuần: ông đã không làm điều ông tuyên bố, mặc dù chính Đức Giêsu mời ông thực hiện. Đức Ki-tô “chiều” ông Tô-ma biết bao, nhưng là để mời gọi ông đi xa hơn và sâu hơn trong cách thức tin, hiểu, yêu và đi theo Đức Ki-tô Phục Sinh. Ông tuyên xưng:
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.
Bởi lẽ, Đức Giêsu phục sinh mà ông “nhìn thấy” trước mặt ông là một “Đấng Khác”, không như ông đã nghĩ. Đó là sự hiện diện thần linh, sự hiện diện của Đấng vô hình. Biến cố hiện ra này, cũng như tất cả các biến cố khác (chẳng hạn trong trình thuật về cuộc gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh của bà Maria Mác-đa-la, của hai môn đệ trên đường Emmau) làm cho chúng ta hiểu ra rằng, người ta không tự mình nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, nhưng chính Ngài đến và cho nhận ra thì người ta mới nhận ra, bởi vì Đức Ki-tô sau cái chết đã đi vào sự sống mới.
Tương quan giữa chúng ta cũng cần vượt qua sự hiện diện hữu hình: tuy không thấy nhau, chúng ta vẫn được mời gọi sống sự hiện của nhau, ngang qua quà tặng, ngang ơn huệ. Điều này đặc biệt quan trọng trong huấn luyện: giữ tương quan ngay trong sự vắng mặt. Xin cho mỗi chúng ta hưởng được mối phúc mà Đức Ki-tô công bố:
Phúc thay những người không thấy mà tin.
Nghĩa là nhận ra, ở lại, đi theo và trở nên một với Đấng Phục Sinh ngang qua kinh nghiệm lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện và nhận ra Ngài hiện diện nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh thể, và cả trong đời thường nữa với những hoàn cảnh và biến cố xẩy ra trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta; như thánh Gioan kết luận sách Tinn Mừng của Ngài: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.”
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phan thưởng cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta thường tặng thưởng huân chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối hạy gặp phải tai ương hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt ra.
Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
– Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ắng nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
– Như người đàn bà lo âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện này luôn có một sự liên tục trong phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tai sao Tôma có thể nhìn thấy những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và những dấu đanh đã không làm xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục sinh của Ngài.
Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu đau khổ, và phải chết đi trước khi được bước vào vinh quang.
Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ tám sau khi Chúa sống lại. Vì thế, hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Phục sinh, tức là ngày cuối cùng của tuần bát nhật mừng đại lễ Phục sinh, chúng ta nghe đọc lại câu chuyện này. Thực vậy, vào buoi chiều chính ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện đến với các môn đệ đang tụ họp nhau trong căn phòng ăn bữa tiệc ly trước đó ba ngày, Chúa cho họ xem các thương tích ở tay và cạnh sườn Ngài để chứng thực Ngài đã sống lại. Nhưng hôm ấy không có mặt ông Tôma. Vì thế, khi nghe các bạn kể lại, ông không tin và khi nào tự tay kiểm chứng mới tin. Tám ngày sau, tức là Chúa nhật liền sau đó, Chúa Kitô hiện đến lần nữa và gọi ông Tôma ra kiểm chứng tay và cạnh sườn Ngài. Chúa đáp lại tất cả lời thách đố của Tôma. Khi ấy, ông cung kính và run sợ nói lên lời tuyên xưng lòng tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa âu yếm nhìn ông và nói: “Hỡi Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin”. Rồi Chúa đưa mắt nhìn tất cả và nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Qua câu chuyện Tin Mừng kể lại, có người coi ông Tôma như là “bổn mạng” của những kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như là “ông tổ” của phái duy lý, duy thực nghiệm, chỉ tin những gì nhìn thấy được, sờ mó được. Nói thế quả là quá đáng và bất công. Nhưng dầu sao trong thái độ của ông Tôma, chúng ta cũng thấy phản ảnh thái độ hoài nghi và kém lòng tin của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta dễ tin lời người ta nói, dễ tin quảng cáo, tuyên truyền, nhưng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta lại dễ hoài nghi, yêu sách lý lẽ minh bạch và đòi bằng chứng rõ ràng. Cho nên đừng vội trách ông Tôma, vả lại, thái độ toàn diện của ông rất đáng cho chúng ta khâm phục. Quả thực, lúc ban đầu, ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin. Chúa nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt cua ông. Nhưng trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh thánh nổi tiếng: đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự ông Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài đe tới thực tại tiềm ẩn. Mắt ông chỉ nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương vật chất hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Giáo Hội. Đức tin ở đây không phải là tin theo một học thuyết, một chân lý viễn vông, nhưng là tin vào một nhân vật lịch sử, sống động: Chúa Kitô chết và Phục sinh. Quả thực, sự hy sinh lớn lao của Chúa Kitô trên núi Sọ được Thiên Chua đáp ứng, đó là Chúa Kitô đã sống lại. Nếu Chúa không sống lại thì tất cả cuộc khổ nạn của Ngài chỉ là một đường hầm mù mịt, chẳng dẫn đến đâu hết. Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh là hai mặt của chung mot thực tại. Giả sử thiếu một trong hai biến cố: Chúa chết, Chúa sống lại, thì sự việc thành vô nghĩa. Tất cả những điều trên đây làm cho chúng ta phấn khởi và tăng thêm niềm xác tín vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thái độ cứng lòng tin của ông Tôma cũng là điều có lợi cho chúng ta. Việc ông không tin lúc đầu là một bảo đảm làm cho niềm tin của chúng ta thêm vững chắc, vì niềm tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và sờ tới tận tay vào thân xác sống lại của Chúa. Do đó, cùng với thánh Gơrêgôriô, chúng ta có thể kết luận: “Ngón tay đa nghi của ông Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới; bàn tay đa nghi của ông Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh”.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
– Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời khong chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
– Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
– Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
– Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
– Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:
– Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
– Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
– Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
– Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cung lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
– Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngai đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy lam cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhan lời của anh em khác không? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thay” mà được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng ve việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào các ông…”
Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban sự sống mơi là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức manh lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khung hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải la những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.
Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc phiện mê hoặc dân chúng. Thế nhưng khi bàn bạc và trao đổi, thì một cụ già đã phát biểu như sau:
– Theo tôi thì khoa học chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét. Viên kỹ sư ngạc nhiên hỏi cụ già tại sao nói thế, thì cụ già đã trả lời:
– Ngài chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại lên tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi đây, tôi chả biết gì về khoa học, thì liệu tôi có quyền phê bình khoa học như tôi vừa phát biểu hay không?
Khoa học và đức tin, phải chăng là hai thái cực đối nghịch. Làm thế nào để dung hòa đức tin và khoa học.
Từ những ý nghĩ trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma, nếu không phải là thánh tổ của các nhà khoa học thì cũng là một vị thánh có tinh thần khoa học, bởi vì các nhà khoa học chỉ tin, chỉ công nhận là thật những gì mình có thể kiểm chứng được. Nhà khoa học trước khi tin, thường nghi ngờ. Cái đó gọi là óc phê bình.
Jean Guitton đã nói: Tôi luôn hoài nghi. Chính vì hoài nghi mà tôi có được óc phê bình, nhờ đó mà tôi có thể tin vững chắc. Tuy nhiên, liệu chúng ta có quyền xử dụng óc phê bình trong lòng tin hay không? Dẫu muốn hay không, thì trong quá trình của lòng tin, chúng ta thường gặp rất nhiều nghi ngờ như Bernanos đã noi: Tin là hai mươi bốn giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ những giây phút trông cậy. Làm sao chúng ta có thể dung hòa được giữa khoa học và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối cùng cua khoa học và đức tin nhằm tới chính là Thiên Chúa, tuy nhiên phương pháp xử dụng thì khác biệt nhau.
Phương pháp của khoa học là phương pháp thực nghiệm, đi từ những sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến đến cùng Thiên Chúa, là tác giả của những sự việc cụ thể ấy. Trong khi đó, đức tin thì xuất phát từ Thiên Chúa dựa vào những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để tìm biết về Ngài. Cũng theo Jean Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết tin và nhất là làm cho lòng tin trở nên có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Còn đối với chúng ta, những người tín hữu bình thường thì không đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói tin yêu. Càng yêu mến nhiều, thì càng tin tưởng vững chắc. Và những người có lòng kính mến Chúa thì thường không cần phải tin, vì họ đã thấy.
Đây là trường hợp của Gioan, khi nhìn thấy bóng người đi trên mặt biển, trong khi các tông đồ bảo là ma, thì chỉ mình Gioan đã kêu lên: Thày đấy.
Rồi trong ngôi mộ rỗng, với những dây băng và khăn liệm được xếp gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng Chúa đã sống lại. Sở dĩ Gioan đã thấy, đã tin chỉ vì ông có lòng yêu mến. Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa thắp lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà lòng tin nhỏ bé của chúng ta sẽ được củng cố và trở nên vững vàng.
(Suy niệm của Maurice Brouard)
Bối cảnh. Tường thuật này đến sau việc viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc Tôma tuyên xưng đức tin mạnh nhất trong Tin Mừng, đưa chúng ta trở về lời tựa của thánh Gioan, tuyên bố thần tính của Chúa Giêsu.
Một việc nhìn nhận.
Hôm đó, người ta đang nghĩ đến một việc gì khác. Bỗng chốc có ai đó xuất hiện, “một người quen biết” mà người ta tuyệt đối không thể nhận ra được; sau một lúc do dự, nghi ngờ, người ta đã phá vỡ được khối băng: “Càng nhìn bạn, bạn càng làm tôi nhớ đến ai đó mà tôi đã gặp, tôi đã trông thấy bạn ở đâu đó rồi… Tôi quen biết bạn nhưng không thể nào nhớ ra tên bạn…”. Dần dần, trong ý thức hiện ra kỷ niệm này, hoàn cảnh kia… Rồi bỗng chốc niềm xác tín “tôi nhận ra bạn rồi… tôi đã gặp bạn tại…”. Ai lại đã chẳng có một kinh nghiệm như thế, gần giống với kinh nghiệm hoàn toàn độc nhất vô nhị của các Tông đồ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ.
Chúa Giêsu không đến gặp môn đệ vì các ông đã có hẹn với Ngài. Các ông chẳng còn chờ đợi gì nơi Đấng đã chịu đóng đinh thập giá nữa. Không một người Do Thái nào, dù say mê gắn bó với Chúa Giêsu, đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Và giờ này đây, “Ngài đến và đứng ở giữa họ”. Chính Ngài đã có sáng kiến đến gặp gỡ họ.
Chúng ta có thể nào được kinh nghiệm này của các Tông đồ không? Có và không. Kinh nghiệm của các ngài về những lần Chúa hiện ra quả là độc nhất vô song và kinh nghiệm đó chính là nền tảng cho đức tin của chúng ta. Vả lại, cũng như các ngài, chúng ta gặp Chúa Kitô trong đức tin: chúng ta cảm thấy mối liên lạc sống động với Chúa như với một người bạn, sự hiện diện của Ngài vừa bao quát vừa làm chúng ta phấn khởi. Ngài đã hứa với chúng ta rằng: “Ai yêu mến Thầy… thì Cha Thầy và Thầy, chúng ta sẽ đến lưu lại nơi người ấy”.
Nhờ lời chào của Ngài “Bình an cho các con!” và việc Ngài cho xem tay và cạnh sườn của Ngài, các môn đệ nhận ra Đấng đã chịu đóng đinh thập giá ngày thứ sáu tuần thánh. Tôma nghi ngờ trước khi có được một đức tin đầy xúc động và hăng say.
Chúa Giêsu không hiện ra để cho người ta chiêm ngắm Ngài, nhưng để sai họ đi tiếp tay với Ngài mà loan báo Tin Mừng: “Cũng như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Kinh nghiệm của chúng ta.
Câu hỏi.
Tôi có chỉ bằng lòng đọc Tin Mừng, chia sẻ, lắng nghe Tin Mừng, cử hành Thánh lễ mà không làm gì hơn nữa chăng? Nếu đúng vậy, thì đó là tránh né: khi tôi không thao thức làm cho Chúa Giêsu hiện diện trên thế giới thì tôi đã không chu toàn sứ vụ mà tôi đã được trao phó.
Lời Chúa và Thánh Thể.
Như thánh Tôma, chúng ta hết thảy đều ước mong kiểm chứng cách khả giác sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô Phục Sinh trong Thánh Thể. Câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn có giá trị: “Phúc thay những kẻ không thấy mà tin”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Kính Lòng Thương Xót Chúa.
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.
Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: Đây đâu phải là một cảnh bình an. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức họa này.
Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36). Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm. “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Chúa Giêsu ban tặng”.
Tôi có một anh bạn thân, anh ta là dự tòng và rất có thiện cảm với đạo Công Giáo của chúng ta. Mới có ý định theo đạo mà anh ta đã siêng năng đi lễ rồi. Trong cuộc trò chuyện với anh tại sân nhà thờ nọ, tôi chủ động bắt chuyện với anh, tôi hỏi anh: “anh đi lễ như vậy thì anh cảm thấy ấn tượng nhất là phần nào trong Thánh lễ?” Anh bạn trả lời: “mình ấn tượng nhất chính là các lần chào chúc bình an của linh mục với giáo dân và ngược lại”. Câu đó là: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, sau đó cộng đoàn đáp: “và ở cùng cha”. Anh bạn nói tiếp: “mình rất thích và cảm động vì lời chào chúc đó có một ý nghĩa sâu xa là cầu xin Thiên Chúa ban bình an của Người xuống trên ta”; “Sau lễ, mình ra về và hạnh phúc vì đã đón nhận được sự bình an của chính Thiên Chúa”. Thật vậy, người được Chúa ban bình an của chính Chúa thì khác xa với sự bình an giới hạn theo lối hiểu của con người. (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Phục Sinh hiện đến và trao ban bình an, đó là quà tặng tuyệt vời cho các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức.
Khi Thầy đã chết và an táng trong mồ, các Tông Đồ hoang mang sợ hãi, giờ đây họ lại càng bồn chồn lo lắng khi nghe tin Thầy đã sống lại. Chúa Phục Sinh đến với lời chúc lành đã củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn các môn đệ.
Bình an của Chúa Phục Sinh đã thổi sức sống mới giúp các môn đệ trở thành con người mới. Thánh Phaolô đã xác tín Thiên Chúa là nguồn mạch bình an:“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24). Như thế, bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ. Bình an là kết quả của lòng trông cậy và sống đẹp lòng Chúa.
Hoa quả của bình an là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục…
Tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh; chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình; dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến; sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình…
Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa quả bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hòa thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần. Tâm hồn tràn ngập bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chình mình. Tâm hồn bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét bất hòa. Tâm hồn bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại cho chúng ta.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc xao xuyến, âu lo, sợ hãi, thử thách, luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Cả bốn Tin mừng đều thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh với những cá nhân (Ga 20,14-17; Mt 27,5-7; Lc 24,25-31; Mc 16,9-13) và những nhóm môn đệ khác nhau (Mt 28,16-20; Lc 24,36-49; Ga 21,1-23).
Tường thuật Chúa Phục Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ nhất trong tuần có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền tảng của cộng đoàn Đức Tin, thành những chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa Phục Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người (x. Cv 4,20).
Khi Chúa đến với Nhóm Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các Tông đồ đã nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”(Ga 20,25). Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lơi làm chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức tin đang phai nhạt nơi Tôma.
Tám ngày sau, cũng trong cộng đoàn đó, Tôma tìm lại được đức tin của mình. Chính cộng đoàn đã thắp sáng lên niềm tin cho người anh em. Bởi đó, khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi yêu thương: “Tôma,hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh,hãy đặt bàn tay con vào cạnh sườn Thầy.Chớ cứng lòng nhưng hãy tin”, lập tức Tôma được biến đổi từ bóng tối nghi nan sang ngời sáng niềm tin “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”(Ga 20,28).
Khuyết điểm lớn nhất của Tôma là tự mình tách rời khỏi các Tông Đồ khác, xa cách đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng, thất vọng, chán nản, trong tâm trạng hoài nghi, đau khổ, Tôma đã tự nhốt mình trong nỗi cô đơn xa lánh anh em. Vì Tôma muốn tìm quên lãng trong sự phiền muộn nên đã đánh mất cơ hội gặp Chúa Phục Sinh. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, Tôma mới gặp gỡ Chúa và nhờ đó ông đã tìm lại được lòng tin mạnh mẽ, kiên trung. Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt, nghi ngờ và tuyên xưng đức tin.
Truyền thống Giáo hội kể lại, Tông đồ Tôma qua Ấn độ truyền giáo và chịu tử đạo ở đó.
Đức tin của người tín hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng đoàn giáo xứ. Nơi cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm lại được niem tin của mình.
Đức tin Kitô giáo vừa có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích cá nhân. Đức tin cá nhân được cộng đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng đoàn. Cộng đoàn lớn lên và phát triển là nhờ đức tin cá nhan. Cộng đoàn làm cho đức tin cá nhân phong phú và độc đáo.
Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục Sinh, mỗi người tín hữu lắng nghe và chấp nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ lòng tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong tâm hồn.
Mình Máu Chúa được trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn Thánh Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người tín hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh Thể của Đấng đã chết và sống lại.Không chỉ ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma vậy. Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào vào tam hồn mình.
Đời sống cộng đoàn thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu. Thánh Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân thành,được sống trong bầu khí bác ái,được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở,ai cũng cảm thấy mình thuộc ve giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin: Mọi người được bồi dưỡng đức tin,được kêu gọi sống đức tin,được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giao lý,các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa, được Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng để người tín hưũ hiểu biết những biến cố cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự,có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất,hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến vơi muôn dân.
Năm nay là năm Phúc-âm-hóa đời sống giáo xứ, Đức Giám Mục Phan Thiết nói về 3 hình ảnh giáo xứ: cộng đoàn phụng vụ, cộng đoàn Lời Chúa và cộng đoàn hiệp thông[i].
* Giáo xứ là cộng đoàn phụng vụ: Phúc-âm-hóa đời sống giáo xứ chính là canh tân tâm hồn để cử hành hoặc tham dự phụng vụ một cách linh hoạt và sốt sắng. Linh mục quản xứ bảo đảm cho sinh hoạt phụng vụ được cử hành đầy đủ, không chỉ nghiêm túc theo chữ đo mà còn sốt sắng theo lòng tin trong Giáo Hội; còn giáo dân làm thành cộng đoàn phụng vụ cũng cần tham dự cách chủ động, không như khán giả xem buổi trình diễn mà như những tham dự viên cùng hiệp thông dâng lễ.
* Giáo xứ là cộng đoàn Lời Chúa: Qua Thánh Lễ hằng ngày, Giáo Hội đã dọn phần phụng vụ Lời Chúa như một bữa ăn với đủ chất bổ dưỡng, mùa nào thức ấy. Nhưng người ta sống không bởi những gì mình ăn vào mà bằng những gì mình tiêu hóa được, nên vấn đề đặt ra cho giáo xứ là phải làm sao nhận thức được Lời Chúa như thực phẩm bổ dưỡng đã vậy, mà còn biết vận dụng tối đa để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong đời sống. Điều này tùy thuộc ở nhieu phía. Phía các chủ chăn, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở qua Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, là cần cống hiến thời giờ, khả năng và công sức để trình bày Lời Chúa phù hợp với tầm hiểu biết và điều kiện sống của cộng đoàn, đi kèm với đời sống nhiều gương mẫu nữa. Sống điều mình giảng để có thể chu toàn nhiệm vụ một cách thuyết phục. Còn phía giáo dân, hãy đón nhận Lời Chúa được giảng giải với tâm hồn đơn sơ khát khao rộng mở, không nhằm bổ sung kiến thức cho bằng bổ dưỡng tâm linh, không tìm sự vui tai cho bằng việc lay động tâm hồn và đổi mới đời sống.
* Giáo xứ là cộng đoàn hiệp thông: Khi chuyên cần việc phụng vụ và siêng năng tham dự bàn tiệc Lời Chúa, giáo xứ sẽ có một đời sống chan chứa tình hiệp thông, như các tín hữu thuở ban sơ. Đó là sự đồng tâm nhất trí của mọi người trong cộng đoàn dưới sự lãnh đạo của các tông đồ, khiến chẳng ai màng chi tơi phận riêng, chỉ mong sao cho cuộc sống chung được triển nở. Chúa Kitô là Đầu quy tụ và nối kết mọi Kitô hữu trong cùng một mạch sống cứu độ duy nhất. Đó là hiệp thông giáo lý tinh tuyền do các tông đồ truyền lại. Từ hiệp thông giáo lý đến hiệp thông đời sống, trong đó mọi người biết chia vui sẻ buồn với nhau và biết nâng đỡ cũng như giúp đỡ lẫn nhau trong các nhu cầu tinh thần và vật chất. Thời nay thật khó mà gặp được lối sống hiệp thông như thời các tông đồ, nhưng với nỗ lực xây dựng từ những điều nhỏ nhất, chúng ta có thể làm cho bộ mặt giáo xứ dần dần thay đổi tích cực[ii].
Cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và thường xuyên của Chúa Phục Sinh với các tín hữu.Không nên lỗi hẹn với Chúa trong các cuộc họp cộng đoàn (x.Dt 10,25). Cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh. Người luôn có mặt để giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng mở trí cho các tín hữu hiểu Lời Người (x.Lc 24,32.45) và hiến ban chính mình để nuôi sống người tín hữu.
Tôma đã nhờ cộng đoàn yêu thương nâng đỡ mà tìm lại được niềm tin. Tômatìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho Tôma khi ông ở giữa cộng đoàn. Nơi Tôma có cái gì đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin nhưng lại dễ dàng khiêm nhường đón nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn. Nhờ Tôma ma chúng ta có được mối phúc thứ chín: “Phúc cho ai không thấy mà tin”(Ga 20,29). Mỗi tín hữu vững tin sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18), nhờ đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên: “Chúng tôi đã thấy Chúa”(Ga 20,25).
Sách Công vụ cho biết: cộng đoàn Hội Thánh sơ khai là cộng đoàn cầu nguyện,cộng đoàn đức tin,cộng đoàn đức ái và là cộng đoàn chứng nhân. Nhờ gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, đón nhận được ơn phục sinh nên các ngài đã hoàn toàn đổi mới, trở thành những con người mới. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn giáo xứ khi thực hành phụng vụ, nghe và sống Lời Chúa, yêu thương và hiệp thông, thì sẽ là cộng đoàn phuc sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
——————
[i] Thư mục vụ đầu năm mới 2015.
[ii] x. gpphanthiet.com
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại.Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ong tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chut ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội loi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.
Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…
Chàng trai ngac nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.
Chàng trai thắc mắc:
– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?
Ông cụ mỉm cười rồi nói:
– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc song trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.
Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trai tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn…
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh!
Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, “chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?”.
Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.
Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, “Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người”.
Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: “Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và đe ý đến họ.”
Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xe Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái. Chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trang thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi con người thì khao khát bình an.
Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36).
Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.
“Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Chúa Giêsu ban tặng”.
Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.
– “Bình an cho các con”. Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.
– “Bình an cho các con”. Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại; bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm… Tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giưa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.
Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
– “Bình an cho các con”. Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuoc sống.
Có nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù. Có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.
Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục…
Tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh; chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình; dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến; sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình…
Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Tâm hồn tràn ngập bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chình mình. Tâm hồn bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghet bất hòa. Tâm hồn bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại cho chúng ta.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chua ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc xao xuyến, âu lo, sợ hãi, thử thách, luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chúng ta gặp Tôma đầu tiên trong câu chuyện của Lagiarô chết. Lúc bấy giờ Chúa và các môn đệ đang ở ngoài vùng Giuđê là nơi mà người Do Thái quá khích tranh luận, đã hai lần ở vùng này đòi bắt giữ và ném đá Chúa, nhưng Chúa Giêsu đều lánh đi sang bên kia bờ sông Giordan. Bây giờ Chúa muốn trở lại Giuđêa để phục sinh La-gia-rô. Tôma thấy ngay sự nguy hiểm đang rình chờ. Ông liền quay lại nói với các tông đồ: “Nào cả chúng ta nữa, hãy đi qua đó để chết với Ngài” (Jn 11,16). Câu nói xem ra có tính cách nhiệt thành nhưng cũng tỏ lộ một nội tâm bi quan, buồn thảm nhìn vấn đề dưới khía cạnh mặt trái, đen tối thất bại… Tại sao ông không nghĩ đến Thiên Chúa uy quyền có thể biến giông tố im lặng, có thể tự cứu mình, mà lại nghĩ đến cái chết thất bại phải nhờ đến sự hỗ trợ của các tông đồ? Tại sao lại tắt đi hy vọng, cam chịu một định mệnh là bị dân chúng dồn vào chân tường?
Lần thứ hai chúng ta gặp Tôma bên bàn tiệc ly. Mọi người yên lặng vào nghe Chúa dạy: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy vững tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Thầy đã dọn sẵn cho các con rồi, Thầy sẽ đến đem các con đi. Thầy ở đâu các con ở đó. Thầy đi đâu các con biết đường đi rồi” (Jn 14, 1–4).
Tôma thấy khó hiểu, vấn đề nghe lạ tai. Một đàng Chúa tiên báo cái chết, một đàng lại nói đến chỗ ở, đường đi, sự sống… Tôma không thể im lặng được nữa nên phát biểu: “Lạy Thầy, chúng con nào biết đi đâu, thì làm sao biết được đường đi lối về” (Jn 14, 5–6). Một câu nói mang dáng dấp của đêm đen giăng kín, đến mức độ chẳng biết đường đi!
Lần thứ 3 là dịp Chúa Phục Sinh. Phuc âm kể rằng: mọi người đều ngồi nói chuyện với nhau về những lần Chúa hiện ra. Mọi người đều vui mừng vì Thầy đã sống lại. Tại sao chỉ một mình Tô-ma lại không tin. Ông không tin vì Chúa không hiện ra với ông? Ông khong tin vì ông bỏ cộng đoàn? Sống một mình trong thất vọng, u sầu? Có lẽ đúng. Tôma đã bỏ cộng đoàn! Tôma có lẽ đã nghe cả thành xôn xao về sự kiện Chúa đã sống lại, nhưng lòng ông quá thất vọng nên không thể đón nhan niềm vui Chúa phục sinh. Có lẽ ông đã mang tâm trạng thất vọng, nên bỏ lỡ cơ hội nhận ra Chúa như hai môn đệ Emmau đã từng không nhận ra Chúa đang đồng hành với mình.
Phúc âm ghi lại: Chúa phục sinh đã hiện ra với các tông đồ, trừ Tô-ma. Tô-ma đã vắng mặt ngày hôm đó. Không rõ lý do tại sao vắng mặt, nhưng nếu có thể đoán với tính tình mau nản dễ bỏ cuộc của ông. Ông đã tách lìa công đoàn. Ông đã quá quen với những tin tức đen tối u buồn, cho nên những tin tức nào có tính cách đau thương, thất bại, bách hại thì ông mới tin. Ông không đủ lạc quan để tin vào niềm vui Chúa sống lại. Do đó, các tông đồ là những người xưa nay ông vốn kính trọng, vốn tín nhiệm, nay đưa tin Chúa Giêsu phục sinh, thì ông không tin được vì ông chưa thấy trong nhân loại có chuyện phục sinh bao giờ. Đức tin của ông đòi sự kiểm chứng. Ông đã hùng hồn tuyên bố: nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn, vào lỗ đinh ở tay, chân Chúa thì tôi không bao giờ tin. Rồi một tuần sau đó, cũng tại căn nhà tiệc ly. Tôma đã nấc nghẹn từng lời để thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Cuộc đời chúng ta đôi khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin, để sống… Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của Chúa. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một điều chúng ta phải học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được Chúa. Sau khi Chúa bảo Tôma “hãy tra tay sờ vào các lỗ đinh cạnh sườn…” Từ đó con người Tôma biến đổi hơn. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu đuối, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Tôma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong đêm tối cua cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muốn bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn. Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Nguyện xin Chúa Phục sinh ban cho chúng ta ơn bình an và lòng tin mạnh mẽ để có thể tuyên xưng Chúa trong mọi biến cố vui buồn trong đời. Xin cho chúng ta đừng bao giờ rời xa cộng đoàn, nhưng luôn hiệp nhất với nhau trong một đức tin, đức cậy, đức mến nồng nàn. Amen.
68. Đức tin là một sự tăng trưởng.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Ký sự thuật lại lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại phòng Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản tính cứng tin. Ký sự đáng cho ta chú ý về hai điểm được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại hữu thể trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa ra bất kỳ lý thuyết phỏng đoán về cơ thể hiển vinh của Chúa. Tiếp đến là tầm quan trọng và ưu thế của đức tin.
Trước khi nhấn mạnh vấn đề đức tin, chúng ta ghi sơ qua rằng rất có thể bài tường thuật muốn trả lời hai ý kiến phản kháng:
a/ Chúa Phục Sinh không phải làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một ảo ảnh. Chúa phô bày những dấu vết về nhân dạng –về thực tại hữu thể của Người: đó là những thương tích của một người đóng đinh trên thập giá, Chúa cho Tôma tra tay vào những vết thương đó.
b/ Truyền thuyết mà người Do Thái tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy môn đệ lấy đi mất, là một chuyện dựng đứng, bởi lẽ một số đông môn đệ đã thấy Chúa, nhận đúng Chúa bằng xương bằng thịt.
Giả thuyết này, giả thuyết nọ cốt ý giải thích cái thực tại hữu thể, nhưng không thay đổi được gì trong việc kiểm chứng một sự kiện.
Đối với chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất liên quan đến đức tin:
1) Trước đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào Thiên Chúa, vậy hãy tin vào Ta (Ga 14,1). Đáp lại lời đó của Thày, vang lên tiếng hô của Tôma: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng giữa Lời Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của Tôma, một quá trình dài đã được thực hiện. Có thể nói rằng một trong những mạch văn chứa đựng tính chất bi kịch trong toàn bộ Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ trong bước tiến chật vật từ cứng tin vươn tới đức tin. Người Do Thái sau này sẽ đứng tại chỗ với lòng cứng tin. Đức tin chỉ được vươn tới sau khi vượt thắng bao khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng người ưa phản kháng, khó thuyết phục. Ta nhớ lại, ông đã từng xem việc Chúa đi thăm mộ Lagiarô như một việc liều lĩnh (Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng ông không biết cuộc phiêu lưu của Người rồi đây sẽ kết thúc ở đâu (Ga 14,5). Vậy mà chính ông đã tuyên xưng đức tin bằng một câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước. Đây là một kết quả cho thấy cùng một lúc lòng rộng rãi Chúa khi Người ban ơn đức tin, và lời đáp đơn sơ của một tâm hồn khó tính nhưng ngay thẳng.
Người ta sẽ nhận xét: Tôma dễ có được niềm tin vì may mắn được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận định rằng các môn đệ khác cũng may mắn như Tôma. Tuy nhiên đã có một khoảnh khắc các ông nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhiều hơn là một người. Niềm tin của ông nằm trong quá trình các ông thừa nhận Đức Giêsu Thiên Chúa.
Chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta vượt lên trên những gì chúng ta biết về con người Giêsu lịch sử, để vươn tới niềm tin vào Đức Giêsu Thien Chúa.
2) Đức tin là một sự “trở nên” liên tục, một sự tiến tới không ngừng. Không bao giờ người ta đạt tới hoàn hảo trong đức tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta và là Thiên Chúa chúng ta. Một trong những bản dịch có thẩm quyền nhất về câu 27, viết: Ngươi đừng trở nên cứng tin, mà là người thành tín. Cứng tin hay thành tín không phải là trạng thái bất động của nội tâm. Từ chối không tin, là khiến cho đức tin càng thêm khó. Ngược lại, chấp nhận tin và làm cho đức tin càng dễ được chấp nhận và sống động. Người ta tiến hóa trong đức tin. Người ta trở nên cứng tin hơn hoặc thành tín hơn.
Sự kiện này có một hệ quả. Đức tin sống động thiết lập trong con người một sự tăng trưởng thiêng liêng. Sau một thời kỳ tăng trưởng, cơ thể bị hao mòn dần rồi chết. Đức tin là một thực tại thiêng liêng lớn lên và tăng trưởng theo mức độ chúng ta muốn sống trong đức tin. Đức tin không hao mòn, nhưng phát triển và nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức tin nối chúng ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận của sự sống. Tuy nhiên chúng ta có trở nên mỗi ngày một thành tín hơn hay không là tùy thuộc lòng ước muốn, thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung cách chúng ta nghênh tiếp đức tin.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới tin.
Ngày 23 thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chua Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay cua cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.
Với một số người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.
Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chưng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lan hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính dấu đinh. Nếu chính Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ hơn 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sư là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Nhưng thưa anh chị em,
Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chua, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mo hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có the làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Toma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.
Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ co rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này có nghĩa là cuộc sống chỉ có mot chiều kích mà thôi. Trào lưu này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai ngươi đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sơ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì ngươi thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ ve các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khóa, để giai mã mầu nhiệm của cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó khăn, đó là tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sư thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Chúa Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù qaung. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe dọa hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và người còn đi đến chỗ mong muốn chung ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Một cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn vào rừng sâu, bỏ mặc những con bệnh đang nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một vị linh mục thừa sai đã quyết định ở lại cùng với mấy người thiện chí, ra sức chạy chữa cho những người mắc bệnh. Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy lui, dân chúng trở về làng để tiếp tục cuộc sống.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta ghi nhận được sự sợ hãi của các môn đệ sau ba ngày đen tối.
Thực vay, mười hai tông đồ là những người nòng cốt được Chúa Giêsu kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm đã từng hy vọng Ngài sẽ thiết lập vương quốc và mình thì sẽ làm lớn và chiếm một chức vụ quan trọng.
Nhưng rồi những biến cố đau thương dồn dập xảy đến, làm cho hiện tại của các ông trở nên đen tối và tương lai thì mù mịt. Một người trong nhóm đã phản bội, nộp Ngài cho người ta đem đi giết. Con người phản bội ấy đã thắt cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là trưởng nhóm, cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài môn đệ khác đã lên đường trở về quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.
Từ bối cảnh này, chúng ta thấy mười một người còn lại như bị co rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thế nhưng, chính trong cái bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, Đức Kitô Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm tin của các ông d củng cố. Chỉ cần điểm qua những nhân vật của buổi sáng Chúa nhật Phục sinh, chúng ta sẽ nhận ra điều đó.
Trước hết là Madalêna. Cô tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở tung, cô nghĩ rằng người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ. Và như vậy, cô vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Cô chỉ tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi cô và chính cô được thấy Ngài.
Kế đến là Phêrô và Gioan. Khi tới mộ, hai ông thấy khăn liệm và dây băng đã được xếp lại cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi, nhưng Gioan thì đã tin. Còn nhóm mười một đã tiến từ sợ hãi đến niềm tin, khi các ông được nhìn thấy Ngài. Cuối cùng là Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng không tin, nếu mắt không thấy và tay không sờ. Thế nhưng, chính Chúa đã mời gọi ông đi vào niềm tin ấy.
Qua những nhân vật kể trên, chúng ta thấy tin không phải chỉ là chuyện chấp nhận một số những tín điều. Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh và nhận được ơn biến đổi của Ngài. Và ơn biến đổi đầu tiên chính là nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó là dấu chứng của tình yêu lớn lao nhất khiến các ông tràn ngập niềm vui.
Và hơn thế nữa, qua Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết Ngài là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa ấy được dấu ẩn trong suốt những năm tháng đã qua, bây giờ mới được tỏ hiện với tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó, với niềm xác tín sâu xa, các ông đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự là những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời này hay chưa?
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến bảo Thánh nhân:
– Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm chú nhìn vào ông vua và hỏi:
– Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp:
– Ta là Đấng Kitô đây mà!
Martinô lại hỏi:
– Vậy thì những vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
– Ta từ vinh quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
– Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với các Môn đệ trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu, bắt đầu có buổi họp hàng tuần. Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại. Niềm tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, từ Do thái giáo sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó là một lễ Phục sinh, va Chúa ở giữa các tín hữu Người. Cho dù chúng ta khoá kín cửa, cho dù tâm hồn ta còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa xuất hiện sau khi người sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc biệt tới Tôma. Tông đồ Tôma là người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”. Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa cho ta biết dù Người không có mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” cho dù chúng ta không thấy Chúa.
Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời Chúa, vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn bản cuộc sống và của niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con mỗi khi chúng con ngắm nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
– Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ:
– Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
– Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
– Đức tin cua chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
– Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục thường là những chướng ngại vật can ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
– Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhan, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
– Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành hai giới tuyến: Giới tuyen của những người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, kể lại câu chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy bình an vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa và tuyên bố là được ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời, “Rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không?” ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau: “Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và chán chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông ta hả? Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để nghe được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ, cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi sợi dây oán thù.
Trong thành Gierusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
– Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:
– Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình la trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng van phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đoi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đa khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêro. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha tra lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa đam đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn bằng cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa”. Chủ đoàn xiếc nói, “Nghe anh nói thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn ra sao đã”. Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, “Thật là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta lắc đầu nói, “Cám ơn, nhưng tôi không muốn”. Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ 250 tơi 500 và 1000 đô la một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi nên nói, “Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!” Anh ta trả lời, “Tôi đau lắm… Tôi không bao giờ dám nữa đâu!” Anh thanh niên này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài”. Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi đã nhìn thấy Chúa”, ông trả lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy” (Ga 20,25). Tám ngày sau đó, Đức Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn thấy Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28-29).
Tin luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện để đi theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi sự đều có thể cho những kẻ tin”, chính Chúa Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trơ nên con người và nhận ra toàn diện bản chất con người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn không làm một sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”. Nhưng khi bạn làm sư thay đổi đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đa làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô đieu kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!”
Anh chị em thân mến.
Trong một đoàn xiếc, có những diễn viên bước ra sân khấu người ta vẫn không biết người đó sẽ biểu diễn trò gì. Nhưng có một người vừa bước ra, thì không ai bảo ai, mọi người đều vui mừng vì họ sẽ được những giây phút thư giãn, được những trận cười thoã thích. Nhìn vào anh hề, người ta biết anh ta sẽ mang đến cho họ một sứ điệp vui mừng. Từng cử chỉ, từng điệu bộ, những lời nói, tất cả mọi hành động đều mang sứ điệp của niềm vui.
Nếu một người nào khác, làm nhiệm vu thay thế cho anh hề, thì họ cũng phải có phong cách như thế nào để mọi người nhận ra được phong cách vui mừng mà họ thay thế. Nếu không làm được như thế thì họ sẽ khó được mọi người chấp nhận.
Vừa nghe qua bài phúc âm, có lẽ cảm giác đầu tiên đến với mọi người là Chúa Giêsu khó chịu vì Tôma quá cứng tin, không chịu nghe những gì các tông đồ chứng kiến và thông báo lại cho ông. Không phải thế. Chúng ta bình tâm nghe lại lời Chúa Giêsu, một lời nhẹ nhàn thân mật, một lời khiến cho Tôma cảm động và giật mình, một lời đi vào tận cõi riêng tư của ông mà ông cảm nhận được, lời khiến ông không thể nào đứng yên được mà phải quỳ gối xuống để tuyên xưng niềm tin của mình. Những gì Tôma suy tưởng, những gì ông nói, những gì ông làm, Chúa đều biết cả. Ông cảm nhận được đều đó. Cảm động hơn nữa là Chúa Giêsu còn nhớ đến ông đặc biệt hơn những người khác, đáp ứng nhu cầu của ông. Nhận ra như thế ông liền biểu lộ niềm tin của mình.
Còn các tông đồ cũng báo tin cho Tôma: các ông bảo rằng đã nhìn thấy Chúa sống lại, chúc bình an cho các ông, Chúa sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Làm sao Tôma có thể tin được các ông ấy khi các ông vẫn ngồi yên bất động trước lệnh truyền của Đấng đã sống lại. Các ông vẫn hèn nhát, vẫn trốn tránh mọi người, vẫn ưu sầu phiền muộn, vẫn không có gì đổi mới. Làm sao Toma có có thể tin được những người lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng, nhưng không có một chút nào là vui mừng. Làm sao Tôma có thể tin được nơi những người không có một chút niềm tin nào trong cuộc sống để cho ông nhìn thấy.
Chỉ cần nhìn thấy Chúa Giêsu, Tôma biểu lộ niềm tin của mình ngay: ông không thể ngồi yên bất động, ông quỳ xuống và tuyên xưng “Lạy Chúa Tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Trong cuộc sống đời người, mỗi người mang lấy một sứ điệp mà Thiên Chúa trao ban, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho người khác. Mọi người nhìn vào nơi chúng ta và có nhận ra được rằng chúng ta mang đến cho họ sứ điệp như thế nào không? Làm sao người khác nhận được niềm vui nơi gương mặt không có nụ cười, làm sao có được niềm vui nơi một gương mặt giận dữ và những lời nói nặng nề biều lộ sự nóng nãy, giận hờn với những lời chua cay khó chịu. Cũng thế, làm sao có được niềm vui nơi những người chỉ biết trốn chạy, với những lời nói khô khan. Như thế mọi người làm sao có thể tin vào Chúa Kitô được với những sứ giả Tin Mừng như thế.
Mọi người nhìn vào trong chúng ta và họ nhận ra được Tin Mừng, khi họ nhìn thấy được một con người biết đổi mới cuộc sống mình tốt hơn. Mọi người chỉ nhận được Tin Mừng nơi những người sống Tin Mừng thật sự.
Nếu chúng ta vượt qua được những ưu sầu phiền muộn của cuộc sống, với sự bình tâm chấp nhận mà vẫn có được niềm vui khi đón nhận người khác. Nếu chúng ta nhận ra được Chúa Phục Sinh và lắng nghe mệnh lệnh của Ngài để thi hành trong hoàn cảnh sống, để biết đến và giúp đở mọi người khi cần thiết, biết nói những lời động viên an ủi, biết giằng lại một chút nóng giận để có thể cho đi một nụ cười, biết nhẫn nhịn khi bi thiệt thòi chút ít, biết chấp nhận để nâng đỡ người khác làm cho đời sống được nhẹ nhàng hơn. Nếu chúng ta biết quỳ gối cảm tạ Chúa, vì nhận ra hồng ân lạ lùng của Chúa ban cho mình, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó chúng ta không cần phải dùng lời nói mà loan báo Tin Mừng, nhưng chúng ta đã thi hành mệnh lệnh Chua bằng hành động thật sự. Khi đó chúng ta đáng được lời Chúc phúc của Chúa Giêsu “Phúc cho những ai không thấy mà Tin”.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban đức tin cho mỗi người, để biết sống đức tin bằng chính đời sống hang ngày, và biết đem Tin Mừng cho những người chung quanh.
Trong sinh hoạt bình thường, đôi khi chúng ta có dịp gửi đến cho nhau những quà tặng. Chẳng hạn như ngày cưới, ngày sinh nhật… Thế nhưng, có những qua tặng chẳng mang lại một ý nghĩa nào cả, hay ít nữa một sự tiện dụng nào đó. Người tặng cũng chỉ tặng cho xong bổn phận, cho xong món nợ. Còn người nhận thì cũng miễn cưỡng vui vẻ lúc bấy giờ, còn sau đó thì xếp quà tang vào một xó góc tăm tối, bụi bậm và có lẽ chẳng bao giờ ngó ngàng tới.
Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh đức tin của nhiều người trong chúng ta. Một thứ quà tặng mà chúng ta không phải vất vả mua sắm. Một thứ đơn thuốc đã được ghi sẵn: phải làm cái này và phải tránh cái kia. Một thứ đồ vật đã lỗi thời, bị phế thải và không còn dùng vào việc chi, thoảng hoặc họ mới ngó ngàng tới, như người ta vốn mỉa mai diễn tả:
– Một năm họ tới nhà thờ ba lần để rửa tội, để kết hôn và để vĩnh viễn ra đi. Một tuần nếu có đi lễ ngày Chúa nhật, thì cũng chỉ đứng tận đàng xa, tít ngoài sân cho qua lần chiếu lệ. Trong suốt thời gian còn lại, đức tin được xếp vào một xó góc tăm tối, hay một ngăn tủ khóa kín.
Với chúng ta thì khác, đức tin không phải là một quà tặng bất đắc dĩ, không phải là những hình thức bề ngoài, cũng không phải là một cái gì đã chết. Nhưng đức tin chính là sự sống. Bởi đó thánh Gioan đã viết:
– Sự chiến thắng trên thế gian là đức tin của chúng ta.
Kinh nghiệm trong những trại giam cho chúng ta thấy: những người có được một nền giáo dục tôn giáo vững chắc mới dễ dàng tránh được những hành vi dã man và độc ác. Đồng thời dựa vào những bản thống kê, thì số người Công giáo tự tử chỉ là một con số nhỏ nhoi khiêm tốn. Nếu đức tin không phải là sức mạnh thì làm sao người Công giáo có đu khả năng chịu đựng.
Đức tin chính là sự sống. Thân xác của chúng ta, chẳng hạn, là một vật sống động. Ở đó có máu huyết lưu thông, để không ngừng phát triển, không ngừng lớn lên và đổi mới.
Ngày rửa tội, đức tin được gieo trồng trong tâm hồn chúng ta, nó cần phải nẩy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Điều đó có nghĩa là Đức Kitô sống trong tôi và tôi sống trong Đức Kitô. Toàn thể con người tôi được ơn sủng thấm nhập, được gìn giữ trong tình yêu của Ngài. Được trở nên cao cả với địa vị là con cái Ngài. Được vượt trên trần thế để tiến vào quê hương nước trời.
Như một mầm non phải được chăm sóc thì mới có thể phát triển, bằng không nó sẽ bị thui chột. Đức tin của chúng ta cũng vậy. Nó phải được chăm sóc, được nuôi dưỡng bằng việc đọc và suy gẫm lời Chúa cũng như các sách đạo đức, nhờ đó tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho hành động.
Tiếp đến bằng việc cầu nguyện. Chúng ta sẽ không thể nào có được một đức tin trưởng thành mà không cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải chỉ là đọc một số kinh dọn sẵn, nhưng là thực sự tâm tình và kết hiệp với Chúa.
Nếu chúng ta chỉ sống đạo ở cái mức tối thiểu: dự lễ một tuần một lần, xưng tội rước lễ thì một năm một lần, thì chúng ta không hy vọng gì thắng nổi thế gian. Cứ như thế, đức tin dần dần thui chột để rồi chỉ còn lại một bộ xương cach trí, một tín đồ hữu danh vô thực mà thôi.
Và tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ dễ dàng bán Chúa vì một lợi lộc nhỏ nhoi, sẽ dễ dàng chối Chúa chỉ vì một lý do không đâu mà thôi.
(Suy niệm của Đam. Maria Cao Tấn Tĩnh)
CHỈ CÓ TRẺ NHỎ MỚI CÓ THỂ ĐI VÀO CỐT LÕI CỦA TIN MỪNG PHỤC SINH
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật thứ II sau Phục Sinh, dù khác nhau ở các bài đọc 1 và 2, cũng có cùng bài Phúc Âm, bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan, bài Phúc Âm thuật lại biến cố 8 ngày sau là chính thời điểm của Ngày Chúa Nhật Thứ Hai sau Chúa Nhật Phục Sinh này. Nếu bài Phúc Âm, nhất là ở phần thứ hai, trình thuật lại việc Chúa Kitô tám ngày sau tỏ cho riêng tông đo Tôma thấy những dấu vết tử giá của Người nhờ đó đã làm cho vị tông đồ này tin tưởng thế nào, thì bài đọc thứ hai theo Thánh Gioan cũng nhấn mạnh đến đức tin như vậy, một đức tin vào Chúa Giêsu là Đức Kitô để được Thiên Chúa tái sinh, và là một đức tin làm cho con người nhờ đó chiến thắng thế gian, vì họ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến bởi nước và máu. Còn bài đọc thứ nhất theo Sách Tông Vụ cho thấy lòng tin tưởng vào Chua Giêsu Kitô đây của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi được tỏ ra nơi việc họ tin tưởng Giáo Hội, tin tưởng vào thành phần đại diện cho Giáo Hội là các vị tông đồ, bằng cách dâng hiến tất cả mọi sự của riêng mình cho các vị để các vị tùy nghi phân phối theo nhu cầu của một cộng đồng hiệp thông hoàn toàn chỉ biết “đồng tâm nhất trí” với nhau.
Tuy nhiên, Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này, từ ngày Chị Nữ Tu Faustina được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh ngày 30/4/2000, cũng là chính ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, đã trở thành Ngày Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, như được Giáo Hội qua Bộ Phụng Tự Và Bí Tích chính thức tuyên bố vào ngày 5/5/2000. Đó là ly do chúng ta thấy đức tin thần linh, đức tin Kitô Giáo (faith) ở đây không phải thuần túy chỉ là một đức tin (belief) theo thần học, theo tín điều, tức chỉ tin theo những khoản được liệt kê trong Kinh Tin Kính, như tin Thiên Chua hiện hữu, tin Ngài đã nhập thể, tử giá và phục sinh nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô v.v., mà còn là và chính là tin tưởng (trust) vào lòng thương xót Chúa nữa. Nếu Kitô hữu chúng ta chỉ tin Thiên Chúa theo các khoản của Kinh Tin Kính thì ma quỉ và thành phần đã đời đời trầm luân hư đi cũng tin nhận như vậy, cũng biết có Thiên Chúa, Đấng “đã yêu thế gian đến ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống trương sinh” (Jn 3:16). Đó là lý do chúng ta thấy, như ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói với Mai Đệ Liên trong Phúc Âm Thánh Gioan về “Cha của Thày cũng là Cha của các con, Thiên Chúa của Thày cũng là Thiên Chúa của các con” (Jn 20:17), Tin Mừng Phục Sinh không phải chỉ là tin mừng về Chúa Kitô sống lại, mà còn là tin mừng con người được cứu độ, được hiệp thông với Thiên Chúa, được tái sinh trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận Tin Mừng Phục Sinh không phải chúng ta chỉ tin rằng Chúa Kitô đã sống lại, mà còn tin rằng Người đã sống lại vì chúng ta (x 1Cor 15:13,15-16; Rm 4:25).
Bởi thế, chấp nhận Tin Mừng Phục Sinh thực ra chính là tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, là chấp nhận tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng chẳng những đến với con người bằng cả nước, máu và Thần Linh (x 1Jn 5:6-8): bằng nước là nhập thể, bằng máu là tử giá, nhất là bằng Thần Linh sau khi Chúa Kitô phục sinh từ trong kẻ chết, để con người có thể nhờ Thần Linh của Đấng Phục Sinh nhận biết Ngài và yêu mến Ngài, đáp lại tình yêu nhân hậu của Ngài. Đó là lý do, theo Phúc Âm Thánh Ký Gioan và Luca, tin mừng phục sinh chính là tin mừng về lòng thương xót Chúa: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha…” (Jn 20:22-23); “Như có lời chép Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và sống lại vào ngày thứ ba. Nhân danh Người, lòng thống hối để được xá tội phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước” (Lk 24:46-47). Đó cũng là lý do, theo tiến trình tu đức và cảm nghiệm sống đạo, Thiên Chúa luôn tỏ mình cho con người nói chung, nhất là Kitô hữu, để, với đức tin (faith) đã được lãnh nhận khi chịu phép rửa tội, họ tin tưởng (trust) vào Ngài hơn trong mọi nơi và mọi lúc, nhất là những khi gặp thử thách và trái ý, nhờ đó, họ mới có thể hoàn toàn nên giống Đức Giêsu Kitô Con Yêu Dấu đẹp lòng Ngài mọi bề (x Mt 3:17; 17:5). Và cũng chỉ khi nào con người Kitô hữu hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, họ mới thực sự và trọn vẹn hoan hưởng mối hiep thông thần linh mà họ đã được ban cho khi họ trở nên con cái Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, nghĩa là họ mới cảm thấy Thiên Chúa và mới được Ngài bao chiếm bằng một đức ái trọn hảo, một đức ái khiến họ dám hy sinh tan tuyệt cho tha nhân.
Nếu “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16), một cảm nhận thần linh, một xác tín thần học cũng là một lời tuyên xưng đức tin của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” (Jn 13:23; 19:26; 21:20), thì tình yêu chính là bản tính của Thiên Chúa, tức nếu không phải là tình yêu thì Thiên Chúa không còn là hay không phải là Thiên Chúa nữa, mà có thể là một hung thần, một bạo chúa, một quỉ vương v.v. Bởi vì, với quyền năng tuyệt đối trong tay, vị thiên chúa không phải là tình yêu này sẽ tác hành ra sao, nếu không phải dương oai tác quái, động một tí là sát phạt liền, như thực tế cho thấy nơi trường hợp của các bạo chúa trong lịch sử loài người từ trước tới nay. Ngược lại, nếu quả thực “Thiên Chúa là tình yêu” thì Thiên Chúa chẳng những là Đấng toàn năng mà còn là Đấng toàn thiện nữa. Vì “tình yêu” bao gồm cả hai phẩm tính toàn năng và toàn thiện của Đệ Nhất Hữu Thể là Thiên Chúa. Về phẩm tính “toàn năng” của “tình yêu”, con người đã chẳng cảm nghiệm và cho rằng “tình yêu” mạnh hơn sự chết là gì. Về phẩm tính “toàn thiện” của “tình yêu”, con người cũng đã chẳng thấy rằng chỉ khi nao họ có “tình yêu” hay có đức ái trọn hảo họ mới có thể hy sinh xả kỷ và rộng lượng thứ tha hay sao, đến nỗi, họ có thể hy sinh mạng sống cho tha nhân? Nếu “toàn thiện” cho thấy một “tình yêu” có thể thắng vượt sự dữ nơi đối tượng yêu và dám chết cho đối tượng yêu như thế thì “toàn thiện” bao gồm cả phẩm tính “toàn năng”, và “toàn thiện” đây có tính cách “nhân hậu”. Vậy, nếu “Thiên Chúa là tình yêu”, một tình yêu “toàn thiện”, thì “tình yêu” “toàn thiện” này phải là và chính là “tình yêu” “nhân hậu”. Và khi Thiên Chúa tỏ mình ra, tỏ bản tính thần linh của mình ra, chính là Thiên Chúa tỏ tình yêu nhân hậu của Ngài ra cho con người hèn yếu và tội lỗi.
Đung thế, nếu Chúa Giêsu Kitô “là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15), và là “hiện thân đích thực của bản thể Cha” (Heb 1:3), thì Người chính là tình yêu nhân hậu Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người. Và nếu Chúa Kitô đến là “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18) thì Người đến là để tỏ cho con người biết tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng “đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta ở chỗ đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kito đã chết cho chúng ta” (Rm 5:8), tức Ngài “đã không tiếc Con Một Ngài song đã trao nộp Người vì chúng ta” (Rm 8:32). Vị Thiên Chúa Làm Người là Chúa Giêsu Kitô đã bày tỏ tình yêu nhân hậu của một Vị “Thiên Chúa là thần linh” (Jn 4:24) đến nỗi “Người đã yêu những ai thuộc về mình thì yêu cho đến cùng” (Jn 13:1), yêu đến “thí mạng sống mình vì chiên” (Jn 10:11), vì mỗi một con chiên (x Lk 15:4-7), bằng cả một tấm lòng rộng lượng bao dung tha thứ, chẳng những đối với những đứa con phung phá (x Lk 15:11-32), mà còn đối với cả thành phần ác tâm, được Người cho là vô tình, đóng đanh tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa nữa (x Lk 23:34).
Thế nhưng, đối với kẻ mạnh, với thành phần người lớn thì dấu hiệu tột đỉnh của tình yêu nhân hậu được bộc lộ nơi tử giá là một thảm bại, bởi vì, theo lý luận thuần nhân, họ không thể nào hiểu được và chấp nhận được một vị Thiên Chúa toàn năng mà lại không thể nào xuống khỏi thập giá. Bởi vậy, tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa không phải là Bí Mật Nước Trời mà chỉ có những kẻ nào bé mọn nhất mới thấu biết và cảm nhận hay sao? (x Lk 10:21)
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh năm B tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những thành quả mà biến cố nầy đem lại trong suốt Mùa Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần.
Cv 4: 32-35
Đoạn trích sách Công Vụ nầy trình bày cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi: chia sẻ cho nhau nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như “cơm ăn áo mặc”.
1Ga 5: 1-6
Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh đã biến đổi những mối quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa.
Ga 20: 19-31
Trong Tin Mừng Gioan hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, đặc biệt với thánh Tô-ma, qua người môn đệ cứng lòng tin nầy, Ngài nhắn gởi đến tất cả chúng ta: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
BÀI ĐỌC I (Cv 4: 32-35)
Trong suốt Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I, trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ, trình bày cho chúng ta một cái nhìn bao quát trên cuộc sống cộng đồng tiên khởi, cộng đồng Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem.
Như chúng ta biết, sách Công Vụ bao gồm hai phần: phần thứ nhất vạch lại thuở ban đầu của Giáo Hội trong đó nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, vị thủ lãnh của Giáo Hội. Phần thứ hai dâng hiến cho hoạt động truyền giáo của thánh Phao-lô, vị Tông Đồ của dân ngoại, trong đó thánh Lu-ca là người đồng hành và là môn đệ của thánh nhân: tác giả tường thuật những biến cố mà mình được dự phần vào hay biết rất rõ.
Để mô tả thời kỳ mà tác giả đã không được trải nghiệm, thánh Lu-ca đã lợi dụng thời gian sống hai năm ở Pa-lét-tin khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Xê-da-rê (59-60), để điều tra, tìm hiểu từ những chứng nhân mắt thấy tai nghe. Chúng ta thấy những dấu vết của sự tra cứu tận nguồn này ở nơi văn phong, từ vựng, những ngữ điệu sê-mít điểm xuyến phần thứ nhất của sách. Trong khi đó, tác giả biên soạn phần thứ hai tùy thuộc vào chính kinh nhiệm của riêng mình.
Sự kiện Ki-tô giáo lan tràn nhanh chóng đã đánh động thánh Lu-ca. Thánh ký khám phá sức sống kỳ diệu của Giáo Hội tiên khởi, vừa ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (tác động nầy chiếm một chỗ quan trọng trong sách Công Vụ), vừa ở nơi sức mạnh lời chứng của các Tông Đồ cũng như cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Ba lần thánh Lu-ca phác họa đời sống của các Ki-tô hữu nầy, chắc chắn hơi được lý tưởng hóa nhưng thật sự là mẫu mực, được phân phối theo chu trình ba năm Phụng Vụ: Bản tóm lược thứ nhất (Cv 2: 42-47) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A, bản tóm lược thứ hai (Cv 4: 32-35) vào Chúa Nhật II năm B, và bản tóm lược thứ ba (Cv 5: 12-16) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C.
Bản văn, trích dẫn hôm nay thuộc vào Chúa Nhật II năm B, nêu bật những nét đặc trưng của cộng đoàn tiên khởi như sau:
Cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn là một tập thể hỗn hợp gồm những người Ki-tô hữu gốc Do thái bản địa và những người Ki-tô hữu gốc Do thái hải ngoại hay còn gọi những Ki-tô hữu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp (Cv 2: 9), họ sống cùng nhau tại Thành Thánh và các vùng phụ cận, thuộc đủ tầng lớp: giàu cũng như nghèo, dân thường cũng như tư tế (Cv 6: 7), không phân biệt nam hay nữ (Cv 5: 14). Bất chấp những nguồn gốc và tầng lớp khác nhau, họ đồng một lòng một ý với nhau: một niềm tin duy nhất gắn bó họ lại với nhau, đó là niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh vinh quang.
Thánh Lu-ca cũng không cố tình che dấu những bất đồng, những tranh cãi nhỏ nhặt trồi lên ở giữa lòng cộng đoàn hỗn tạp nầy, ví dụ như những lời kêu trách của các Ki-tô hữu Do thái hải ngoại đối với những Ki-tô hữu Do thái bản địa, nhưng những bất đồng mà thánh ký gợi lên không tác động đến sự duy nhất trong cùng một niềm tin của họ.
Sự duy nhất niềm tin nầy tạo nên đức ái huynh đệ được cụ thể hóa bởi việc đặt của cải chung, điều nầy hàm chứa việc người giàu chia sẻ cho người nghèo những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc. Việc chia sẻ nầy không bắt buộc, nhưng hoàn toàn tự nguyện. Phần tiếp theo nêu gương ông Ba-na-ba, một thầy lê-vi thuộc đảo Sýp. Có một thửa đất, “ông bán đi lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4: 37).
Mẫu gương của cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn tạo nên những làn sóng thi đua. Lời chứng gần nhất với lời chứng của sách Công Vụ là cộng đoàn Ki-tô hữu Carthage cuối thế kỷ thứ hai. Cảnh tượng cộng đoàn nầy phô diễn cuộc sống huynh đệ đã lay động nhà biện giáo Tết-tu-li-a-nô lừng danh và không lạ gì đã lôi kéo nhà biện giáo nầy theo. Ông hết lòng ca ngợi đức ái sống động của cộng đoàn nầy ở nơi việc chia sẻ của cải, lòng ưu ái đối với những người nghèo.
“Tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các tông đồ”. Dường như thánh Lu-ca muốn mặc cho hành vi nầy một sắc thái phụng vụ. Quả thật, trong thời kỳ Ki-tô giáo tiên khởi, những của lễ mà các tín hữu dâng hiến đều được định vị trong khung cảnh phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể. Phụng sự Thiên Chúa hàm chứa “phục vụ anh em”. Không phải bàn Tiệc Thánh Thể dâng hiến mẫu gương tuyệt vời nhất ở đó mọi người, giàu cũng như nghèo, đều đón nhận cùng một của ăn thức uống đó sao?
Ngôn từ thánh Lu-ca sử dụng ở đây thật đáng chú ý. Động từ “phân phát” được dùng ở đây cũng là động từ Đức Giê-su đã sử dụng khi Ngài bảo chàng thanh niên giàu có: “Hãy bán tất cả những gì anh có mà phân phát cho người nghèo” (Lc 18: 22). Việc ám chỉ đến câu chuyện Tin Mừng này kết thúc bức phác họa của thánh Lu-ca về cộng đoàn tiên khởi.
BÀI ĐỌC II (1Ga 5: 1-6)
Sau bài trích dẫn sách Công Vụ Tông Đồ, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị chúng ta suy niệm các bản văn của thánh Gioan: các thư và Tin Mừng Gioan, chung cho ba cả ba năm Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh. Điều này phù hợp với một truyền thống rất lâu đời (chỉ trừ Chúa Nhật III Phục Sinh được trích từ Tin Mừng Lu-ca về hai người môn đệ trên đường Em-mau).
Ba bức thư không đề tên tác giả được quy cho thánh Gioan. Quả thật, tư tưởng và văn phong rất gần với sách Tin Mừng Gioan nên không thể không xếp chúng vào cùng một tác giả. Thư thứ nhất dài nhất và quan trọng nhất trong số ba bức thư nầy dường như gởi cho các cộng đoàn miền Tiểu Á bị tác động bởi các trào lưu ngộ đạo. Thánh Gioan nhấn rất mạnh trên đức tin. Chính nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Đấng Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa. Không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đấng Ki-tô.
Thánh Gioan liên kết mật thiết đức tin với đức ái, vì tiêu chuẩn của đức tin Ki-tô giáo chính truyền là đức ái đối với anh em đồng loại, nghĩa là, “yêu người đích thật” là hoa trái của “mến Chúa thực lòng”. Cuối cùng, thánh Gioan cũng liên kết đức tin với lời chứng của Chúa Thánh Thần.
Hành vi đầu tiên của đức tin là gắn bó với Đức Giê-su Ki-tô. Hành vi nầy dẫn đưa chúng ta vào trong cung lòng của Chúa Cha, Đấng sinh chúng ta ra làm con cái Thiên Chúa về phương diện siêu nhiên, và liên kết chúng ta với nhau trong mối tử hệ tình yêu nầy đến nỗi đức ái huynh đệ Ki-tô giáo là hệ luận tức khắc của đức tin.
Những khẳng định nầy là đòn đáp trả chí mạng cho những diễn từ sai lạc của hai trào lưu tư tưởng: học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái và ngộ đạo thuyết, đang hoành hành ở giữa lòng các cộng đoàn mà bức thư nầy gởi đến.
Trào lưu thứ nhất xuất phát từ những Ki-tô hữu gốc Do thái. Những người nầy không chấp nhận Đấng Ki-tô bị đóng đinh, vì thế họ phân biệt giữa Đức Giê-su, một phàm nhân là con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a, và một nhân vật được biến đổi thành Đấng Ki-tô nhờ phép Rửa và nhờ việc Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trở thành Đấng Ki-tô (nghĩa là Đấng được xức dầu tấn phong), Đức Giê-su đã có thể công bố một sứ điệp siêu việt và thực hiện các phép lạ, nhưng Đức Ki-tô thiên giới nầy tự tách ra khỏi Đức Giê-su phàm nhân vào giây phút Tử Nạn. Vì tự bản tính thần linh, Đức Ki-tô thiên giới nầy không thể nào chịu đau khổ và phải chết được.
Từ đó, chúng ta hiểu điểm nhấn của thánh Gioan: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra” (5: 1a). Trong một đoạn văn trước đó, với một giọng điệu mãnh liệt hơn, thánh Gioan viết: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô? Kẻ ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con” (2: 22). Hai tước hiệu: Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa, không ngừng được lập đi lập lại trong bức thư nầy.
Trào lưu ngộ đạo nầy xuất phát từ những Ki-tô hữu gốc lương dân. Họ nhạy bén trước những tư tưởng thần bí của các tôn giáo mầu nhiệm rất thịnh hành vào lúc đó, đặc biệt trong miền Tiểu Á nầy được xem như chiếc nôi của trào lưu này. Những người truyền bá trào lưu tư tưởng nầy cho rằng không cần thiết phải qua Đức Ki-tô để đến Thiên Chúa. Con người có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua ơn thần khải nội tâm, sự xuất thần hay thậm chí nghi thức khai tâm.
Chống lại những suy luận nầy, thánh Gioan đề cập đến tử hệ thần linh mà Chúa Cha ban ngay tức khắc cho những ai tin vào Con của Ngài. Ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, người ấy thật sự sinh ra từ Thiên Chúa. Người nầy không thể nào không yêu mến Chúa Cha, bởi vì chính Chúa Cha là tác giả của cuộc sinh hạ siêu nhiên nầy.
Ngược lại với những suy luận trừu tượng nầy, thánh Gioan nêu lên việc thực hành “mến Chúa” và “yêu người” như tiêu chuẩn cơ bản của Ki-tô giáo chính truyền.
Từ đó, thánh Gioan mạnh mẽ xác quyết: “Căn cứ vào điều nầy, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa” (5: 2a). Đức ái Ki-tô giáo cắm rễ sâu vào tận nguồn mạch Thiên Chúa. Thánh nhân tố cáo ngụy đức ái theo đó yêu thương anh em của mình chỉ là một thứ tình cảm thuần túy nhân bản. Cội nguồn yêu thương độc nhất và chân thật là Thiên Chúa.
“Đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa, và thi hành các điều răn của Người” (5: 2b). Những điều răn nầy đã được xác định ở 3: 23, ở đó Chúa Cha đòi hỏi con người: phải tin vào Con của Ngài và phải yêu thương nhau. Việc đòi hỏi nầy không là gánh nặng: “Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (5: 3). Ở đây ám chỉ đến lời của Đức Giê-su: “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 30). Thánh Âu-gút-ti-nô đã quảng diễn lời nầy trong một biểu thức danh tiếng: “Ở đâu có tình yêu ở đó không có sự nhọc mệt; hay nếu có sự nhọc mệt, thì sự nhọc mệt được yêu” (De bono viduitatis, 26).
Đừng quên rằng những dòng nầy được ngỏ lời với những Ki-tô hữu trung thành sống điều răn kép: đức tin và đức ái, trong hoàn cảnh đầy khó khăn. Vị tông đồ an ủi họ: “Vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (5: 4a). Đây là một chủ đề mang đậm nét Gioan: người Ki-tô hữu sẽ chiến thắng thế gian (thế gian được hiểu theo nghĩa thế giới tội lỗi, từ chối tin như trong sách Tin Mừng thứ tư). Trong thư thứ nhất của thánh Gioan nầy, động từ “chiến thắng” lập đi lập lại đến sáu lần.
“Và điểu làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là nhờ lòng tin” (5: 4b). Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan xưng hô: “chúng ta”, như thế thánh nhân liên kết mình vào cùng một cuộc chiến với những tín hữu của ngài. Thánh nhân nâng đỡ và khích lệ họ khi nhắc cho họ nhớ lý do cuộc khải hoàn của họ: đối diện với mọi diễn từ sai lạc, họ đã giữ vững niềm tin vào tính toàn vẹn bất khả phân của Đức Giê-su. Vừa là Đấng Ki-tô vừa là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã tỏ mình ra không chỉ trong nước Thánh Tẩy của Ngài nhưng cũng trong máu Tử Nạn của Ngài, nghĩa là không chỉ trong nước mà thôi như những nhà ngụy giáo khẳng định, nhưng cả trong máu hiến tế của Ngài nữa. Đây không là một Đức Giê-su phàm nhân, nhưng Con Thiên Chúa nhập thể đã đổ máu mình ra.
Chắc chắn thánh Gioan cũng nghĩ đến ân ban cao vời của Đấng Ki-tô, dù đã chết vẫn để máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của mình (x. Ga 19: 34-35). Vị Tông Đồ là chứng nhân nhãn tiền của những dấu chỉ về bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể.
Nếu nước và máu là những chứng từ hữu hình, thì cũng có một chứng từ vô hình khác, chứng từ của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chân lý chiến thắng sự sai lạc, đức tin chiến thắng lạc giáo, điều nầy chứng thực sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chính Ngài bảo tồn sự thật.
Ở nơi lời nhắc nhở đạo lý nầy, chúng ta nhận ra một cuộc bút chiến. Vài trào lưu ngộ đạo tự nhận mình là “thuộc Thần Khí” và viện dẫn những ơn đặc sủng của mình cũng như ánh sáng “thần khải” của mình là “thuộc Thần Khí”. Ấy vậy, hành động của Thần Khí chỉ được xem là chính truyền nếu hoạt động nầy làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện, bởi vì Chúa Cha làm chứng cho Chúa Con khi sai phái Chúa Thánh Thần đến. Đoạn trích thư này kết thúc với việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa thường hằng được lập đi lập lại trong bức thư thứ nhất này của thánh Gioan.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đây là một trong những trang Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: “Đức Giê-su của niềm tin thật sự là Đức Giê-su của lịch sử”. Chính các Tông Đồ chứng thực sự kiện Phục Sinh. Hơn nữa, nhờ sự cứng lòng tin của một trong số họ, vài ngày sau đó, các ngài hưởng được một sự kiểm chứng.
Theo truyền thống, bản văn nầy được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, bởi vì thánh ký nói với chúng ta Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau”, nghĩa là cũng vào “chiều ngày thứ nhất trong tuần” sau đó. Quả thật, chúng ta đọc thấy nơi bài tường thuật nầy hai tình tiết: Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho mười Tông Đồ không có thánh Tô-ma vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần và Ngài hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt cho thánh Tô-ma, cũng vào buổi chiều thứ nhất trong tuần sau đó. Việc chỉ dẫn thời điểm nầy rất quý: ngày thứ nhất trong tuần chính là ngày những người Ki-tô hữu đã chọn rất sớm để cùng nhau tham dự việc bẻ bánh, như vậy nhấn mạnh tính chất phục sinh của việc cử hành Thánh Thể.
Các Tông Đồ họp nhau lại gồm mười vị không có thánh Tô-ma. Dường như Tô-ma đã không tha thiết gì đến việc hội họp với các Tông Đồ khác nữa. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ họ để thông báo cho họ những sự cố vừa mới xảy ra: việc khám phá ngôi mộ trống: khăn che mặt không để lẫn với những băng vải liệm, sự kiện bà Ma-ri-a Mác-đa-la trong số vài người phụ nữ nói đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh và Ngài đã nói với bà…
Các Tông đồ đang sống trong bầu khí hoang mang vừa hy vọng lẫn sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái” (20: 19). Diễn ngữ: “vì sợ người Do thái”, được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Gioan, thậm chí trước cuộc Thương Khó, như cha mẹ của anh mù từ lúc mới sinh chỉ trả lời vòng vo “vì sợ người Do thái” (9: 22). Trong Tin Mừng thứ tư, người Do thái trước hết chỉ giáo quyền Giê-ru-sa-lem. Họ đã ra án tử cho Thầy phải chăng nay họ sẽ ra tay với các môn đệ?
Đức Giê-su thình lình xuất hiện giữa họ, dù “cửa khóa then cài”. Ngài tự đặt mình ở giữa nỗi sợ hãi của họ cũng như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau (Lc 24: 13-32). Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ sớm trở thành niềm vui.
Theo các Tin Mừng Nhất Lãm, bà Ma-ri-a báo tin Chúa đã sống lại cho các môn đệ, nhưng bà đã gặp phải sự cứng lòng tin của các môn đệ (Mc 16: 9-11; Lc 24: 11); sau đó, Chúa Giê-su đích thân hiện ra với các môn đệ và “khiển trách các ông không tin và cứng lòng” (Mc 16: 14; Lc 24: 25). Theo Tin Mừng Gioan, trong lần hiện ra này, không có bất kỳ lời quở trách nào, Chúa Giê-su Phục Sinh chỉ đem đến cho các môn đệ bình an như Ngài đã hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14: 27; 16: 20-22).
Thật ra “bình an” là lời chào thường ngày của người Do thái, nhưng lời chào của Đức Giê-su trong bối cảnh này chẳng bao giờ là thường tình cả. Đức Giê-su đem đến sự bình an của Ngài cho những môn đệ nầy, những người đã bỏ rơi Ngài vì thất vọng. Bình an mà Ngài đem đến cho họ qua sự hiện diện và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ nào đến bất kỳ khuyết điểm nào của họ, cả nỗi cô độc mà họ đã bỏ rơi Ngài một mình trong cuộc khổ nạn của Ngài.
Để họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho họ thấy những chứng tích ở “tay và cạnh sườn” của Ngài như chính thức đồng nhất hóa “thân thể phục sinh” của Ngài với “thân thể chịu đóng đinh” của Ngài. Ở đây, chúng ta thẩm định tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, thân thể mang lấy những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài không bị phân hủy trong ngôi mộ; mặt khác, chính thân thể ấy mà Ngài hiện ra với các ông, chứ không như một bóng ma hay một ảo giác: một thân thể đang sống, có thể đụng chạm, gặp gỡ tiếp xúc. Lúc đó, “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (20: 20). Niềm vui này được Đức Giê-su báo trước rồi: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16: 20).
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan viết: “Người đưa cho các ông xem tay và cạnh sườn” (20: 20), trong khi thánh Lu-ca trong bài trình thuật song song viết: “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24: 40). Thánh Gioan là thánh ký duy nhất tường thuật tình tiết người lính Rô-ma lấy lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn của Đức Giê-su. Thánh ký đã chứng kiến “máu” cùng “nước” chảy ra, đây là hai ân ban tột cùng từ cái chết của Đức Ki-tô. Ở nơi hai ân ban này, thánh ký đã hiểu cuộc sinh hạ Giáo Hội trong “nước” (bí tích Thánh Tẩy) và trong “máu” (bí tích Thánh Thể). Trong bản văn hôm nay, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa Giáo Hội chào đời vào buổi chiều Phục Sinh, dưới hơi thở của Thần Khí và bởi lệnh truyền sai đi thi hành sứ mạng. Thật tương phản đến ngạc nhiên, với những người sợ hãi giam mình trong căn phòng cửa khóa then cài, Đức Giê-su ra lệnh cho họ lên đường, ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh “cho hết tất cả mọi người” không phân biệt một ai.
C- Sứ mạng sai đi:
Chúa Giê-su Phục Sinh chính thức ủy quyền cho các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (20: 21). Trong lời công bố này, nguồn gốc sứ mạng của Đức Giê-su là Chúa Cha: “Như Cha đã sai Thầy”, nguồn gốc sứ mạng của các môn đệ là Chúa Giê-su: “Thầy cũng sai anh em”, như Ngài đã nói trong lời nguyện tư tế của Ngài: “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, Con xin thánh hiến chính mình Con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”(17: 18-19).
Khi sai các môn đệ, Đấng Phục Sinh không để cho họ phải đơn độc trong sứ mạng của họ, vì sự hiện diện và quyền năng của Ngài sẽ ở với họ ở nơi ân ban Thánh Thần: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’” (20: 22). Một lần nữa, chúng ta thường nghĩ về Chúa Thánh Thần được ban vào ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng đó là việc Chúa Thánh Thần ngự xuống một cách chính thức và công khai để hướng dẫn sứ mạng của Giáo Hội tại thế. Đối với Tin Mừng Gioan, ân ban Thánh Thần, tự bản chất là mầu nhiệm, bắt nguồn từ cuộc Vượt Qua của Đức Giê-su bao gồm Tử Nạn, Phục Sinh và Vinh Thăng của Ngài.
Khi ban Thánh Thần, Chúa Giê-su hiện thực những gì Ngài đã hứa. Trước đây, vào dịp bế mạc Lễ Lều, Đức Giê-su trích dẫn Kinh Thánh khi áp dụng vào chính mình: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”, và được người kể chuyện giải thích: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (7: 38-39). Vào lúc Ngài chịu chết, Chúa Giê-su ban Thánh Thần cho nhân loại, biểu tượng nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâm của Ngài. Giờ đây, Đức Giê-su đã được tôn vinh, vì thế Ngài ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đấng mà trong diễn từ Cáo Biệt, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ, sẽ thế vì Ngài, hiện diện và hoạt động với họ (x. 14: 16-17, 26; 15: 26; 16: 7-15).
Cách thức Chúa Giê-su ban Thánh Thần nhắc nhớ câu chuyện sáng tạo: Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam (x. St 2: 7) như thế nào, thì Chúa Giê-su thổi hơi vào các môn đệ cũng như vậy. Ngoài ra, cách thức này cũng nhắc nhớ thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về dân Ít-ra-en được tái sinh vào thời sau hết khi Thiên Chúa phán với các bộ xương khô: “Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống” (Ed 37: 5, 9-10). Trong ánh sáng này, việc Đấng Phục Sinh thổi hơi vào các môn đệ có thể được thấy như một cuộc tạo dựng mới vào thời cánh chung. Thiên Chúa đã thổi hơi ban sự sống cho nhân loại, nay Chúa Giê-su thổi hơi ban sự sống mới cho các môn đệ. Các môn đệ lãnh nhận sự sống này nhờ Thánh Thần, vì thế họ cũng được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên (x. 3: 3-8). Ở đây, các môn đệ có kinh nghiệm về mối dây liên kết giữa họ với Thầy qua hơi thở ban sự sống của Đức Giê-su, như trong diễn từ Cáo Biệt, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống, anh em cũng sẽ được sống” (14: 19).
Đ. Tha thứ và cầm giữ:
Ở đây, sứ mạng của các môn đệ được trình bày cách cụ thể: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20: 23). Theo Tin Mừng Gioan, tội chủ yếu là không nhận biết Đức Giê-su hiện thân Mặc Khải Thiên Chúa (x. 8: 24; 9: 39-41; 15: 22, 24). Dựa trên những lời Đức Giê-su nói và những việc Đức Giê-su làm, mỗi người phải tự xét xử chính mình là tin hay không tin. Công việc của Chúa Thánh Thần cũng được Chúa Giê-su mô tả như thế: “Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội… vì chúng không tin vào Thầy” (16: 8-9). Có Chúa Thánh Thần ở cùng, các môn đệ cũng làm chứng rằng phán quyết của Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi Đức Giê-su, Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (1: 29). Những ai chấp nhận lời chứng của các ngài, tội của họ được tha; trái lại, những ai từ chối lời chứng của các ngài, tội của họ sẽ bị cầm giữ.
Hai mệnh đề: “Anh em tha tội cho ai” và “Anh em cầm giữ ai”, cho thấy tính hữu hiệu lời chứng của các môn đệ. Đồng thời, hai mệnh đề thụ động thần linh: “Người ấy được tha” và “người ấy bị cầm giữ”, cho thấy chính Thiên Chúa ẩn mình ở nơi lời phán quyết của các môn đệ. Sứ mạng của Đức Giê-su hình hành nên cuộc xét xử: được cứu độ hay bị kết án như thế nào, thì lời chứng của các môn đệ cho sứ mạng này cũng đòi hỏi được tha tội hay bị cầm giữ như thế.
Vì mục đích của sứ mạng nầy, Đức Giê-su tái tạo họ, chúng ta có thể nói như vậy, khi thổi Thần Khí của Đấng Phục Sinh trên họ và ban cho họ được quyền tha thứ cho anh em mình… như Ngài đã hứa với họ: máu Ngài đã đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Chắc chắn thánh Tô-ma gắn bó mật thiết với Đức Giê-su. Thánh nhân đã yêu mến Ngài và tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem sau cùng, thánh nhân đã nói lên trọn tấm lòng của mình đối với Thầy khi mời gọi các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Người” (11: 16). Nhưng ông không ngờ Ngài phải chịu chết ô nhục trên thập giá, cái chết nầy đã làm giấc mơ của ông tan thành mây khói. Niềm thất vọng lẫn nỗi buồn phiền khiến ông tách biệt khỏi các bạn đồng môn khác. Chúng ta biết được nhân cách của Tô-ma chỉ nhờ Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng nầy ba lần đưa thánh nhân vào hoạt cảnh (11: 16; 14: 5-7; 20: 14-29).
Với một tâm trí thực tiển, trước đây trong bữa Tiệc Ly thánh nhân đã nêu lên cho Đức Giê-su một câu hỏi thực tế và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?” (Ga 14: 4-5); vì thế, thánh nhân từ chối tin vào sự kiện Phục Sinh nếu không có bằng chứng do chính mình kiểm chứng. Khi đòi hỏi “thấy” Đức Giê-su Phục Sinh, thánh nhân cũng không hơn gì các môn đệ khác. Dù đã nghe lời chứng của bà Ma-ri-a Ma-đa-la, nhưng họ đòi hỏi thấy mới chịu tin. Tuy nhiên, những đòi hỏi của thánh Tô-ma không đơn giản muốn được thấy, nhưng còn muốn được đụng chạm đến thân thể của Chúa Phục Sinh. Điều này làm cho ước muốn của thánh nhân càng trở nên sinh động hơn. Trong mỗi người chúng ta ẩn hiện một dáng dấp nào đó của thánh Tô-ma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (20: 25).
Đức Giê-su Phục Sinh cảm thương người môn đệ có tâm hồn nhiệt thành nầy đang đắm chìm trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hớn hở vui mừng. Vì thế, Ngài chấp nhận đáp ứng những đòi hỏi của thánh nhân.
Tám ngày sau (tức Chúa Nhật sau đó), Chúa Giê-su lại hiện đến với các môn đệ, đặc biệt với Tô-ma khi bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (20: 27a). Truyền thống cho rằng thánh Tô-ma nghi ngờ, tuy nhiên chúng ta không gặp thấy động từ “nghi ngờ” trong bản văn. Thay vì đó, Chúa Giê-su kêu mời thánh Tô-ma: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (20: 27b), nghĩa là chuyển đổi từ “không tin” (“apistos”) sang “tin” (“pistos”). Bản văn nhấn mạnh nhu cầu “thấy” để “tin”.
Bản văn không nói cho chúng ta biết thánh Tô-ma có thực sự làm đúng như Thầy bảo, nhưng đúng hơn ông lập lại điều mà thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi chứng kiến các dấu chỉ trong ngôi mộ: “Ông đã thấy và ông đã tin” (20: 8). Khi được thấy bằng chứng của biến cố Phục Sinh, ngay lập tức thánh Tô-ma tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (20: 28).
Dù lúc đầu không tin, nay thánh nhân không chỉ tin, nhưng còn tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20: 28). Lời tuyên xưng này họa lại lời tuyên xưng của Tv 35: 23: “Lạy Thiên Chúa, lạy Chúa con thờ”. Đây cũng là Danh mà Thiên Chúa xưng với dân Ít-ra-en: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20: 2). Thật có ý nghĩa biết bao, trước đây Chúa Giê-su đã nói với thánh Tô-ma: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (14: 7). Nay với lời tuyên xưng của mình, thánh Tô-ma làm rõ ra những hàm ý ở nơi lời khẳng định của Đức Giê-su. Dĩ nhiên, người đọc đã biết vị thế độc nhất này của Đức Giê-su như đã được làm rõ ra ngay từ khởi đầu Tin Mừng:
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (1: 18).
Trong Tuần Lễ khai mạc sứ vụ của Chúa Giê-su, các môn đệ đã ban cho Chúa Giê-su một loạt những tước hiệu, điều này chỉ ra một sự hiểu biết tiệm tiến về Ngài. Ở đây, thánh Tô-ma ban cho Đấng Phục Sinh một tước hiệu sau cùng, tước hiệu vĩnh viễn: Đức Giê-su là “Chúa” và là “Thiên Chúa”. Tin Mừng Gioan kết thúc với lời khẳng định tuyệt đối về Thần Tính của Đức Giê-su. Lời tuyên xưng của thánh Tô-ma cho thấy niềm tin của ông vượt quá những gì thánh nhân đã thấy. Những gì thánh nhân đã thấy là Thầy mình đã chết nay sống lại, nhưng ông tuyên xưng Thần Tính của Đức Giê-su Như vậy, dù được diễm phúc thấy Thầy sống lại, nhưng cũng không miễn trừ đức tin của ông.
Qua lời tuyên xưng của ông, Chúa Giê-su nhắn gởi đến những tín hữu của mọi thời: “Vì thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (20: 19). Đây là mối phúc duy nhất của Tin Mừng Gioan. Trước hết, mối phúc nầy chính xác dựa trên lời chứng của các Tông Đồ trong đó lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất. Chính nhờ lời chứng của người môn đệ Chúa yêu đã thấy những băng vải liệm trong ngôi mộ trống, cũng như nhờ lời chứng của những người đã gặp gỡ chính Đấng Phục Sinh mà những ai sau này cũng có khả năng tuyên xưng đức tin như thánh Tô-ma. Đó cũng lời cầu nguyện Tư Tế của Đức Giê-su: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (17: 20-21).
Đó là những tín hữu sau nầy mà thánh Phê-rô ca ngợi đức tin của họ trong thư thứ nhất của thánh nhân: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng anh em vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin là ơn cứu độ con người” (1Pr 1: 8-9). Mục đích của sách Tin Mừng Gioan đã được hoàn tất mỹ mãn: những biến cố được sưu tập cho thấy Thần Tính của Đức Giê-su đến nỗi nhờ tin người đọc có sự sống nhờ Ngài.
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nền khoa học phát triển vượt bậc. Ngày nay, người ta đã phát minh ra được nhiều thứ rất tinh vi và hiện đại. Người ta có thể đi lên cung trăng hay xuống lòng biển một cách dễ dàng như đi chợ… Trước tình trạng đó, dường như người ta tưởng là con người có thể kiểm nghiệm được tất cả mọi sự trong thế giới này. Rồi những gì họ thấy được, nghe được, sờ được… nói chung là những gì kiểm chứng được giác quan thì họ mới tin.
Thế là, con người nói chung và cách riêng với người Kitô hữu lại áp dụng điều trên cho cả niềm tin tôn giáo. Cách riêng là họ áp dụng điều ấy vào cho đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Điều này đã có từ thời các Tông đồ. Khi nghe các bạn báo tin Thầy Giêsu sống lại, Thánh Tôma đã tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Do đâu mà Thánh Tôma cũng như con người chúng ta lại thường hay muốn đòi kiểm chứng như vậy? Thưa vì chúng ta chưa thật sự mến Chúa hết lòng. Khi thật sự mến Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ tin vào Người cách dễ dàng. Ngay cả, chúng ta sẽ cho là xúc phạm khi nghi ngờ Chúa. Và khi ấy chúng ta mới thật sự được hạnh phúc và bình an.
Thật vậy, một đứa con trong gia đình khi đã yêu mến cha mẹ thật lòng thì nó sẽ biết tin và làm theo những điều cha mẹ khuyên dạy. Lúc ấy, chắc chắn nó sẽ được cha mẹ yêu thương và chăm sóc cho nhiều hơn nữa. Cũng vậy, vợ chồng khi đã yêu nhau thì sẽ tin nhau chứ không nghi ngờ nhau. Bao lâu họ còn yêu và tin nhau thì bấy lâu gia đình họ sẽ còn hạnh phúc và đầm ấm.
Như vậy, lòng mến hổ trợ rất nhiều cho đức tin. Nó cũng sẽ là một trong những điều quan trọng làm nên sự hạnh phúc cho chúng ta đời này lẫn đời sau. Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Hơn nữa, tin vào Chúa Giêsu phục sinh không phải là điều hão huyền. Vì nếu đây là chuyện phù phiếm thì chắc là niềm tin ấy đã tan rã từ lâu rồi.
Chúng ta đã theo Chúa từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta đã long trọng mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh cách đây đúng một tuần. Thử hỏi chúng ta có thật sự mến Chúa và thật sự tin vào Người chưa. Hay là chúng ta vẫn còn nghi ngờ như Thánh Tôma. Chúng ta hãy luôn nhớ bao lâu còn sống trong tâm trạng nghi ngờ thì bấy lâu đời sống của ta sẽ còn luôn bất ổn.
Như chúng ta biết, đoạn Tin mừng này được Giáo hội chọn đọc trong cả 3 năm Phụng vụ của Chúa nhật cuoi tuần bát nhật hôm nay. Dĩ nhiên là có lý do. Đó là Giáo hội muốn cũng cố lòng tin và lòng mến vào Chúa Giêsu Phục sinh của mỗi người chúng ta ngày càng trở nên chắc chắn hơn. Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục ban thêm long tin và lòng mến cho mỗi người chúng ta.
83. Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Bài Giảng Giờ Kính Tối Thứ Bảy 11/4/2015 Vọng Lễ Lòng Thương Xót Chúa
Anh Chị Em thân mến,
Lời chào của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ của Người vào tối Phục Sinh: “Bình an ở cùng các con!” (Gioan 20:19), vẫn tiếp tục vang vọng trong tất cả chúng ta. Bình an, nhất là trong Mùa Phục Sinh này, vẫn còn là ước mong của rất nhiều người đang chịu đựng bạo lực chưa từng thấy gây ra bởi kỳ thị và sát hại chỉ vì họ mang danh “Kitô hữu”. Lời cầu nguyện của chúng ta càng thiết tha và trở nên một tiếng kêu van xin trợ giúp lên Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, để Ngài bảo trì đức tin của nhiều anh chị em chúng ta đang chịu đớn đau. Đồng thời chúng ta cũng xin ơn hoán cải tâm can của bản thân mình để biết cảm thương chứ đừng dửng dưng lạnh lùng.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã được cứu độ nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Người là Đấng Hòa Giải, Đấng đang sống giữa chúng ta để cống hiến đường lối hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Vị Tông Đồ này nhắc nhở rằng, bất chấp những kho khăn và khổ đau của cuộc đời, niềm hy vọng cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trong lòng chúng vẫn tiếp tục tăng trưởng. Tình thương của Thiên Chúa được tuôn đổ trên chúng ta, làm cho chúng ta nên công chính và ban cho chúng ta bình an.
Nhiều vấn đề được đặt ra là tại sao hôm nay đây lại có Năm Thánh Tình Thương? Chỉ vì Giáo Hội, ở vào thời điểm đổi thay lịch sử cả thể này, được kêu gọi để cống hiến những dấu hiệu hiển nhiên hơn nữa về sư hiện diện và gần gũi của Thiên Chúa. Đây không phải là thời điểm bị phân tâm; trái lại, chúng ta cần tỉnh táo và làm bừng lên lại trong bản thân mình khả năng thấy được những gì là thiết yếu. Đây là một thời điểm cho Giáo Hội tái nhận thức ý nghĩa của sứ vụ được Chúa ký thác cho Giáo Hội vào ngày Lễ Phục Sinh: ở chỗ trở thành một dấu hiệu và là một dụng cụ cho tình thương của Chúa Cha (xem Gioan 20:21-13).
Vì lý do ấy, Năm Thánh này cần phải làm sống động ước muốn làm sao để đón nhận nhiều dấu hiệu về niềm êm ái dịu dàng được Thiên Chúa cống hiến cho toàn thế giới, nhất là cho những ai đang chịu khổ đau, những ai đang lẻ loi cô độc và bị bỏ rơi, không hy vọng được thứ tha hay không cảm thấy được tình yêu thương của Chúa Cha. Một Năm Thánh để mạnh mẽ cảm nghiệm trong bản thân mình niềm vui được tìm thấy bởi Chúa Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành là Đấng đã đến đe tìm kiếm chúng ta vì chúng ta đã bị lạc loài. Một Năm Thánh để lãnh nhận hơi ấm của tình Người yêu thương khi Người vác chúng ta trên vai của Người hầu mang chúng ta về nhà Cha. Một Năm Thánh chúng ta được Chúa Giêsu chạm tới và được tình thương của Người biến đổi, nhờ đó chúng ta có thể trở thành những chứng nhân cho tình thương.
Thế nên lý do cho Năm Thánh này đó là vì đây là thời điểm của tình thương. Đây là thời điểm thuận lợi để chữa lành các vết thương, một thời điểm không mệt mỏi để gặp gỡ tất cả những ai đang đợi chờ để thấy được và chạm vào bằng bàn tay của họ những dấu hiệu của việc Thiên Chúa gần gũi, một thời điểm để cống hiến cho het mọi người ơn tha thứ và hòa giải.
Xin Mẹ Thiên Chúa mở mắt chúng ta, để chúng ta có thể thấu hiểu công việc chúng ta đã được kêu gọi, và xin Mẹ xin cho chúng ta ơn cảm nghiệm được Năm Thánh Tình Thương này như là những chứng từ trung thực và phong phú của Chúa Kitô.
*********
BÀI GIẢNG LỄ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Chúa Nhật 12/4/2015
(Bài giảng được chia làm 2 phần: phần lời ngỏ đầu cùng anh chị em Armenia, và sau đó là phần sau bài giảng)
Phần Lời Ngỏ
“Thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến thứ 3…”
Anh chị em Armenia thân mến,
Anh chị em thân mến.
Tôi đã nói một số lần về thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến thứ 3, đang đánh nhau từng phần, một cuộc thế chiến chúng ta hằng ngày chứng kiến thấy những thứ tội ác man rợ, những cuộc tàn sát tàn ác và việc hủy hoại điên cuồng. Buồn thảm thay, hôm nay đây chúng ta cũng nghe thấy được tiếng kêu la bị bóp nghẹn và bị lãng quên của rất nhiều anh chị em không thể tự vệ, những người vì niềm tin tưởng của mình nơi Chúa Kitô hay vì nguồn gốc của mình, đang bị công khai sát hai một cách tàn nhẫn – bị chặt đầu, bị đóng đanh, bị thiêu sống – hay bị buộc phải lìa bỏ quê cha đất tổ của mình.
Cả đến ngày hôm nay nữa chúng ta đang cảm nghiệm thấy một loại diệt chủng gây ra bởi thái độ lãnh đạm chung chung và tập thể, bởi thái độ im lặng đồng lõa của Cain là kẻ hô lên rặng: “Cái đó đâu có liên hệ gì với tôi? Chẳng lẽ tôi là người canh giữ anh em tôi hay sao?” (xem Khởi Nguyên 4:9; Homily in Redipuglia, 13 September 2014).
Trong thế kỷ vừa qua, gia đình nhân loại của chúng ta đã trải qua 3 thảm họa to lớn chưa từng có. Thảm họa thứ nhất, một thảm họa nói chung được coi như là “cuộc diệt chủng đầu tiên của thế kỷ 20” (JOHN PAUL II and KAREKIN II, Common Declaration, Etchmiadzin, 27 September 2001), đã đổ xuống trên nhân dân Armenia của anh chị em, quốc gia Kitô giáo đầu tiên, cũng như những tín hữu Công giáo và Chính Thống giáo Syria, Assyria, Chaldea và Hy Lạp. Các vị giám mục, linh mục, tu sĩ, những con người nam nữ, người già và thậm chỉ cả trẻ em bất khả tự vệ và người yếu đau bệnh nạn đều bị sát hại. Hai cuộc thảm họa còn lại gây ra bởi chủ nghĩa Nazi và Stalin. Gần đây hơn nữa đa xẩy ra các cuộc tàn sát khác, như những cuộc tàn sát ở Cam Bốt, ở Rwanda, ở Burundi và ở Bosnia. Dường như nhân loại không thể ngăn chặn được việc đổ máu vô tội. Dường như cái nhiệt tình xuất phát từ lúc kết thúc The Chiến Thứ II đã bị hao mòn và giờ đây đang biến mất. Dường như gia đình nhân loại không muốn học từ các lầm lỗi của mình đây ra bởi luật khiếp sợ, mà cả đến ngày nay vẫn còn có những kẻ muốn loại trừ người khác bằng sự trợ giúp của một thiểu số cũng như bằng cái im lặng đồng lõa của những kẻ chỉ biết đứng nhìn. Chúng ta chưa học biết rằng “chiến tranh là những gì khùng điên”, là “tán sát vô cảm” (cf. Homily in Redipuglia, 13 September 2014).
Anh chị em Kitô hữu Armenia thân mến, hôm nay, với tâm can đầy đớn đau nhức nhối đồng thời với niềm hy vọng cao cả vào Chúa phục sinh, chúng ta nhắc lại biến cố 100 năm này, một biến cố mà ông bà tổ tiên của anh chị em đã phải chịu đựng cái dã man tàn ác của cuộc tàn sát man vàn và vô cảm này. Cần phải, đúng hơn là phải có nhiệm vụ tưởng nhớ đến họ, vì bất cứ bao giờ ký ức trở nên nhạt nhòa thì sự dữ làm cho các vết thương bị mưng mủ. Chae đậy hay chối bỏ sự dữ thì giống như việc để cho vết thương rỉ máu mà không băng bó nó lại!
(ĐTC ngỏ lời chào….)
Trong niền tin tưởng mạnh mẽ rằng sự dữ không bao giờ xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng vô cùng tốt lành, và với niềm tin vững chắc, chúng ta hãy tuyên xưng rằng những gì dã man tàn bạo không bao giờ được coi là việc Thiên Chúa làm, hơn thế nữa, tuyệt đối không thể nào được biện minh bằng Danh Thánh của Ngài. Chúng ta hãy tiếp tục việc cử hành này bằng việc gắn mắt của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh từ trong cõi chết, Đấng Chiến Thắng sự chết và sự dữ!
Phần Bài Giảng
“Ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương”.
Thánh Gioan, vị đã ở trên Căn Thượng Lầu với các môn đệ khác vào tối ngày thứ nhất sau Ngày Hưu Lễ, nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã đến và đứng giữa các vị mà nói: “Bình an ở cùng các con”, và Người tỏ cho các vị thấy đôi tay cùng cạnh sườn của Người (Gioan 20:19-20); Người đã tỏ cho các vị thấy các vết thương của Người. Nhờ đó các vị đã nhận ra rằng đó không phải là một thứ hiện ra mà thực sự là chính Người, là Chúa và các vị cảm thấy tràn đầy niềm vui.
Vào ngày thứ tám, Chúa Giêsu lại đến Căn Thượng Lầu và tỏ các vết thương của Người cho Tông Đồ Tôma, để vị tông đồ này có thể chạm vào các vết thương đó như vị tông đồ này mong muốn, nhờ đó có thể tin tưởng và trở thành chứng nhân cho sự Phục Sinh.
Cả với chúng ta nữa, vào ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương. That thế, các thương tích của Chúa Giêsu là các thương tích của tình thương: “Chúng ta được chữa lành nhờ các lằn vết của Người” (Isaia 53:5).
Chúng Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn xem các thương tích ấy, hãy chạm đến những thương tích này như Tông Đồ Tôma đã làm, để chữa lành sự thiếu lòng tin tưởng của chúng ta. Trước hết Người kêu mời chúng ta hãy tiến vào mầu nhiệm của các thương tích ấy, tức là mầu nhiệm về tình yêu thương nhân hậu của Người.
Qua các thương tích này, như nơi một nơi mở ra đầy ánh sáng, chúng ta có thể thấy toàn thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Thiên Chúa: Cuộc Khổ Nạn của Người, đời sống trần gian của Người – đầy những cảm thương đối với thành phần yếu đuối và bệnh hoạn – việc nhập thể của Người nơi cung dạ của Đức Maria. Và chúng ta có thể lần về với toàn thể lịch sử cứu độ: các lời tiên tri – đặc biệt về Người Tôi Tớ Chúa, các Thánh Vịnh, Le Luật và Giao Ước; cho đến cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, đến cuộc Vượt Qua đầu tiên cũng như đến máu của các con chiên bị sát tế; và từ các vị Tổ Phụ đến Abraham, và rồi đến mãi Abel với máu kêu lên từ trái đất. Tất cả những điều ấy chúng ta đều có thể thấy nơi các thương tích của Chúa Giêsu tử giá và phục sinh; với Mẹ Maria, nơi ca vịnh Ngợi Khen của Mẹ, chúng ta có thể thấy rằng “tình thương của Người trải qua từ đời nọ đến đời kia” (Luca 1:50).
Trước các biến cố thảm thương của lịch sử nhân loại có những lúc chúng ta có thể cảm thấy tan nát tự hỏi “Tại sao?” Sự dữ của nhân loại có thể xuất hiện trên thế giới như là một vực thẳm (an abyss), một đại khuyết (a great void), nghĩa là trống rỗng yêu thương (empty of love), trống không thiện hảo (empty of goodness), trống trơn sự sống (empty of life). Thế nên chúng ta đặt vấn đề: chúng ta làm thế nào để lấp đầy cái vực thẳm này? Đối với chúng ta là những gì bất khả; chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấp đầy cái trống không do sự dữ mang đến cho tâm can của chúng ta và cho lịch sử của nhân loại mà thôi. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết trên Thánh Giá và là Đấng lấp đầy vực thẳm tội lỗi bằng thẳm sâu của tình thương Người.
Thánh Bênađô, ở một trong những dẫn giải của ngài về Sách Diệu Ca (Sermon 61, 3-5: Opera Omnia, 2, 150-151), đã chia sẻ chính yếu về mầu nhiệm về các thương tích của Chúa, bằng cách sử dụng những lời diễn tả mãnh liệt đến bạo dạn mà chúng ta muốn lập lại hôm nay đây. Ngài nói rằng: “nhờ những thánh tích này chúng ta có thể thấy được cái bí mật của tâm can Chúa Kitô, thấy được một mầu nhiệm yêu thương cao cả, thấy được lòng thành của tình thương khiến Người từ trên cao đã đến viếng thăm chúng ta”.
Thưa anh chị em, hãy nhìn xem đường lối Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta để cuối cùng chúng ta ra khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi và sự chết của chúng ta, nhờ đó tiến vào mảnh đất của sự sống và bình an. Chúa Giêsu, tử giá và phục sinh, là đường lối ấy và các thương tích của Người đặc biệt đầy tình thương.
Các thánh nhân dạy cho chúng ta rằng thế giới được đổi thay bắt đầu từ việc hoán cải tâm can con người, và điều này xẩy ra nhờ tình thương của Thiên Chúa. Thế nên, cho dù có phải đối diện với tội lỗi riêng của tôi hay các thảm họa lớn lao trên thế giới, “lương tâm của tôi có bị sầu thảm nhưng không bị rối loạn, vì tôi nhớ lại các thương tích của Chúa: ‘Người đã bị đả thương vì lỗi lầm của chung ta’ (Isaia 53:5). Tội lỗi nào đáng chết đến độ cái chết của Chúa Kitô không thể thứ tha chứ?” (cùng nguồn vừa dẫn).
Gắn ánh mắt vào các thương tích của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cùng với Giáo Hội ca lên rằng: “Tình yêu của Người bền vững muôn đời” (Thánh Vịnh 117:2); tình yêu của Người vĩnh hằng. Và với những lời này ăm ắp trong lòng của mình, chúng ta hãy tiến lên trên các con đường lịch sử, theo sự dẫn dắt của Chúa chúng ta và là Đấng Cứu Độ chúng ta, là sự sống của chúng ta và là niềm hy vọng của chúng ta.
Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không những là chuyện khó tin, khó hiểu đối với người thời đại nhưng nó vẫn luôn là một thách thức cho niềm tin của mọi Kitô hữu và ngay cả các tông đồ là những người sống cùng thời với Chúa. Mà đại biểu cho niềm tin yếu kém ấy chính là tông đồ Tôma.
Chúng ta phải công nhận rằng, dù sống cách chúng ta hằng 20 thế kỷ nhưng Tôma có tâm trạng và lối suy nghĩ giống với suy nghĩ của con người sống trong thời đại khoa học hôm nay. Ông thuộc mẫu người có đầu óc thực tế. Ông chỉ xác nhận những gì là chân lý khi được kiểm chứng bằng giác quan. Tuy nhiên, ông quên một điều quan trong là không phải tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống là tuyệt đối và chắc chắn, điều có thể kiểm chứng bằng giác quan, nhất là trong lãnh vực tinh thần. Khổng Tử có nói: “những gì mắt thấy, tai nghe chưa hẳn là sự thật”.
Qua thật, kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy, có quá nhiều vấn đề mà chúng ta không thể giải quyết với kiến thức khoa học. Khoa học không phải là tất cả và sự hiểu biết của con người vẫn luôn là giới hạn. Khoa học không thể cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống này, cũng như không thể cất đi những đau khổ mà con người đang phải đương đầu gánh chịu. Nhưng câu hỏi: Con người từ đâu tới? Rồi sẽ đi về đâu? Đằng sau cuộc sống đầy những nuớc mắt và hạnh phúc là gì…? Vẫn luôn là một dâu chấm hỏi thách thức các nhà khoa học.
Chúng ta tưởng rằng khi khoa học phát triển đến một cạnh giới rực rỡ thì chúng có có thể xóa hết mọi đau khổ của kiếp người. Nhưng thực tế cuộc sống hôm nay cho chúng ta câu trả lời chính xác: có qua nhiều chiến tranh, quá nhiều bệnh tật, quá nhiều vũ khí giết người tối tan do con người tạo ra…một sự thật là con người có nguy cơ là nạn nhân của khoa học: vũ khí hạt nhân, bom nguyên tử… Đương nhiên chúng ta không phủ nhận những giá trị và những cống hiến của khoa học cho công ích con ngươi nhưng nếu khoa học không được đặt trên nền tảng ý nghĩa của cuộc sống con người thì nó trở thành thảm họa cho nhân loại.
Với cách suy nghĩ cá nhân và với đầu óc khoa học của mình, Tôma có quyền đặt nghi vấn cho sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu do các Tông đồ thuật lại. Ông đòi được thấy và chạm vào Chúa. Và rồi Chúa đã hiện ra, có mặt Tôma. Chúa chê ông cứng lòng tin trước những lời chứng của anh em. Nhưng Ngài cũng đáp ứng khát vọng của ông. Để rồi ông cũng đượcthấy và tin như anh em.
Xung quanh chúng ta hôm nay, cũng có nhiều người như Tôma, thậm chí còn cứng lòng hơn Tôma. Họ đòi được thấy và chạm đến những thực tại vô hình như: Thiên Chúa, linh hồn, đời sau… rồi mới tin. Nhưng liệu khi thấy và chạm đến thì đức tin có còn cần thiết và có ý nghĩa gì nữa không?
Thật ra đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau. Nhưng bổ túc cho nhau: chính đức tin làm cho chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn và cũng chính nhờ lý trí mà niềm tin của chúng ta thêm vững chắc.
Trước những tực tại vô hình thì sự tuân phục của đức tin vẫn luôn cần thiết. Chính nhờ sự tuân phục của đức tin mà những người phụ nữ viếng mồ Chúa nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và trở thành nhân chứng cho Người. Các Tông đồ cũng thế. Cách nào đó họ có diễm phúc hơn chúng ta. Nhưng đức tin của họ cũng không được trang bị hơn chúng ta bao nhiêu khi đưng trước sự kiện Chúa Giêsu sống lại và hiện ra. Sự khác biệt giữa Tôma và các Tông đồ khác chính là sự tuân phục của đức tin. Phép lạ chính yếu không phải là một việc phi thường mà trước tiêm là một gặp gở trong đức tin. Chỉ có trong đức tin con người mới nhận ra phép lạ, và cũng chỉ trong đức tin chúng ta mới có thể gặp được Đức Kitô phục sinh.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dam hy sinh mạng sống để nói lên rằng Chúa đã sống lại. Vì thế, chúng ta cũng phải giúp người khác thấy và chạm đến Chúa. Muốn thế, chúng ta cần phải sống như người đang thấy Chúa. Thấy Chúa phục sinh khi sống thanh thoát, không bám díu vào những danh lợi thấp hèn. Tin Chúa phục sinh khi nhận ra ý nghĩa của thập giá đau khổ chỉ là chặng đường tiến đến sự sống vĩnh cữu. Tin vào Chúa Phục sinh là dám hiến thân vì hạnh phúc nhân loại. Vì nếu tin vào Chúa phục sinh mà con tha thiết với cuộc sống trần thế đến nỗi sợ thiệt thân, ngại hy sinh… thì đó là niềm tin giã tạo.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn tâm trí, suy nghĩ và hành động của chúng con, để trong tất cả mọi sự chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con nhận ra được giới hạn của lý trí và sự yếu kém của đức tin để cần được Chúa gia tăng đức tin và mở mang trí hiểu. Ước gì sư hiểu biết của con không làm cho con rời xa Chúa mà kéo chúng con đến gần Ngài hơn để chúng con nhận ra tình thương của Chúa hiện diện quanh con trong từng phút giây của cuộc sống.
Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin Mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu nguyện. Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thầy thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyen. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thầy Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thầy. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thầy để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thầy đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô Phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn đức tin. Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ay không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường. Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin. Như trường hợp của tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.
Đó là cộng đoàn đức ái. Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung… Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các tông đồ. Tiến ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đơi sống của một cộng đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân. Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của các tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mađalêna, của Phêrô và Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma. Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan tỏa ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẻ. Đời sống cầu nguyện song động. Đời sống bác ái chan hòa. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống. Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Bối cảnh của đoạn 20,19-23 là buổi chiều cùng ngày Phêrô và Gioan chạy ra mồ Chúa (20,1-10). Chúa hiện ra cho các môn đệ sau khi Maria tin cho họ biết là cô đã thấy Người. Có thể phân đoạn nầy thành hai dựa trên lời Chúa nói: “Bình an cho các con” (20,19.21). Một hành động được kèm theo sau mỗi lời nầy: Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn (20,20a), Người sai các ông đi và ban Thánh Thần (20,21b-22). Theo sau hành động của Chúa là thái độ của các môn đệ: vui mừng vì thấy Chúa (20,20b) và lãnh nhận quyền tháo gỡ tội lỗi (20,23).
Chúa Giêsu ban bình an lần thứ nhất để chứng tỏ Người đã sống lại. Vì sợ người do thái mà các môn đệ đã mất bình an. Dấu hiệu bên ngoài của điều nầy là họ đóng chặt mọi cánh cửa. Họ lo sợ người do thái vì người do thái đóng vai trò chủ chốt trong việc bắt và đóng đinh Người (18,12). Nhiều người khác cũng đã phải sợ quyền lực nầy, nhất là trong những chuyện liên quan đến Người (7,13; 9,22; 19,38). Hơn nữa, trước những sự kiện Phêrô và Maria Mađalêna đã thuật lại, họ càng xao xuyến thêm. Phải tin vào ai? Chúa Giêsu đã báo cho họ trước là đừng để tâm hồn xao động, cả khi bị bắt bớ vì Người đã ban cho họ sự bình an của Người (14,27; 16,33). Lần nầy rất ý nghĩa, việc ban bình an của Người kèm theo việc cho các môn đệ thấy vết thương ở tay và cạnh sườn. Đó là những dấu vết của cuộc thương khó mà Người đã chịu bởi tay người do thái (19,34). Nhưng Người đã sống lại. Người đã chiến thắng sự chết mà được xem như là biện pháp cuối cùng và hiệu quả nhất người do thái đã nghĩ đến để tiêu diệt Người. Do đó, không còn lý do gì để phải sợ hãi nữa những người ấy chỉ giết được thân xác. Ngược lại, họ vui mừng vì đã thấy và gặp lại Người. Nỗi vui mừng ấy từ nay không ai lấy mất được (16,22; 20,20).
Chúa Giêsu ban bình an lần thứ hai để sai các môn đệ đi và mở ra giai đoạn mới. Để thực hiện, Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ những điều mà Chúa Cha đã làm cho Người: ban sứ mạng và Thánh Thần. Người sai họ đi như Chúa Cha đã sai Người vào trần gian (17,18). Họ lãnh nhận cùng một sứ mạng như Người đã lãnh nhận. Người ban cho họ Thánh Thần mà Người đã lãnh nhận trong ngày khởi đầu sứ vụ (1,33). Bây giờ Người đã được tôn vinh, nên Người có thể ban Thánh Thần ấy lại cho các môn đệ của Người (x. 7,39). Hơn nữa, trong lời ban bình an (cc. 19.21) Người bảo đảm cho họ cả sự hiện diện luôn mãi của Người.
Với quyền tháo gỡ tội lỗi được ban cho các môn đệ (c. 23), Chúa Giêsu muốn họ chuẩn bị tâm hồn con người để đón nhận tin mừng về sự phục sinh của Người; việc mà Người đã làm khi khởi đầu việc rao giảng (x. Mk 1,14-15). Tuy nhiên, lúc nầy vì Người đã hoàn tất công trình cứu chuộc và đã biểu lộ cách rõ ràng Người là Con Thiên Chúa đã sống lại trong vinh quang phục sinh, nên lời mời gọi tin vào tin mừng (x. Mk 1,15) sẽ đồng nghĩa với một chọn lựa: tin vào Chúa Kitô sống lại thì được cứu độ, không tin vào Người thì bị kết án (x. 3,18). Đó là lý do tại sao Người ban cho các môn đệ quyền tháo gỡ tội lỗi dựa trên phán đoán ai tin hay không tin vào Chúa Giêsu sống lại.
Chúa Giêsu sống lại ban sự bình an không sợ hãi sự chết cho những ai tin vào Người. Sự bình an ấy ban cho họ sức mạnh để loan báo tin mừng Người đã phục sinh.
Các tông đồ đã đưa ra cho ông Tôma một thách đố. Họ đã nhìn thấy Chúa. Ông Tôma có tin họ không? Như chúng ta đã biết, lúc đầu câu trả lời của ông Tôma là không tin. Tuy nhiên, sau khi Tôma cũng được gặp Chúa Giêsu thì ông sẵn sàng tin. Tôi nghĩ là trong hoàn cảnh phải chịu một thách đố như vậy thì phản ứng của ông Tôma cũng là một điều bình thường.
Chúa Giêsu Phục sinh có thể hiện ra với dân chúng, nhưng Người đã không làm như vậy. Người để cho mỗi người chúng ta, với tư cách là những người môn đệ của Chúa, có một trách nhiệm là làm cho thế giới nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh qua chính cách mà chúng ta sống cuộc đời của mình. Có lẽ bạn sẽ thốt lên: “Ồ, không thể được”. Nhưng điều đó thật sự có thể thực hiện được. Nhiệm vụ này là một niềm vui cho chúng ta, nếu chúng ta tin đây là việc của Chúa Thánh Thần và không chỉ lệ thuộc vào bản than chúng ta mà thôi đâu. Đó là một trách nhiệm đáng sợ nhưng đồng thời cũng là một niềm vui lớn lao cho chúng ta. Giúp người khác tin vào Chúa Giêsu Kitô là một niềm vui mà chúng ta có thể cảm nghiệm được trong cuộc đơi. Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui giúp cho một người có số phận phải chết được tiến đến với Thiên Chúa và lãnh nhận hồng ân sự sống đời đời.
Chúng ta đã đồng hành với Chúa Giêsu ngang qua các đau khổ và cái chết của Người. Giờ đây, chúng ta cảm nghiệm được niềm vui Chúa đã Phục sinh. Chúng ta hãy nắm vững sự thật này, và từ đó rút ra một niềm vui mừng và hạnh phúc để tăng cường sức lực hầu hăng hái thi hành sứ vụ đang chờ chúng ta. Cuộc đời của chúng ta sẽ luôn luôn là một tổng hợp của niềm vui và nỗi buồn, may mắn và rủi ro. Nhưng tâm hồn sẽ luôn giữ được sự bình an và cảm nghiệm được một niềm vui tràn đầy khi biết rằng chúng ta đang cùng đi với Chúa Giêsu, nếu chúng ta đặt trọn niềm tín thác vào Người và vững tin rằng Chúa đã sống lại từ cõi chết. Không có gì có thể làm hại chúng ta được, nếu chúng ta xây dựng cuộc đời mình trên lòng tin tưởng và tín thác vào Chúa Giêsu Phục sinh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp con có một niềm xác tín mạnh mẽ vào sự sống lại của Chúa Giêsu để niềm tin đó cũng biến đổi con trở thành một con người mới, con người phục sinh.
Khi bị quân dữ bắt và tra tấn, mọi Tông đồ đều bỏ và chối Chúa, chỉ trừ một mình thánh Gioan. Trên cây Thánh Giá Chúa cũng chỉ nhìn thấy một Thánh Gioan bên cạnh và mẹ Người. Khi Chúa sống lại thì các tông đồ lại không tin, dù những người phụ nữ ra mồ trông thấy và đã nói một cách khẳng định cho họ, nhưng họ vẫn không tin. Nhưng Chúa vẫn không hề bực tức hay khó chịu, còn tỏ ra khoan hồng đến nỗi hiện ra với họ, để cho họ trong thấy mà không còn nghi ngờ nữa. Và hơn thế, khi nói chuyện, Người không một lời la rầy, mắng nhiếc cũng không, và nhất là không nhắc đến sự hèn nhát, bội phản và yếu tin của họ. Chắc chắn lần hiện ra này không phải chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh, mà tất cả mọi người chúng ta ai cũng nghĩ tất cả các Tông đồ không còn ai dám nghi ngờ hay yếu tin nữa. Nhưng không phải thế! Chúa hiện ra và ban cho các Tông đồ ơn huệ được “mắt thấy”, “tai nghe”. Má những ân huệ đó chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được khi chúng ta có đức tin.
Than ôi! đức tin là cái mà con người ta thường không có. Phúc âm hôm nay kể lại sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Khuýnh hướng đó cũng chính là khuynh hướng của những con người đang sống trong thời đại hôm nay. Ai ai cũng muốn sống bằng thực nghiệm bằng kiểm chứng, chỉ muốn tin cái gì mắt mình trông thấy, trí mình hiểu được. Còn cái gì mà người khác thuat lại, phải nhờ người khác cho biết thì khó tin, và cho là nhảm nhí. Vì thế, sự thật mà nói ai ai trong chúng ta cũng muốn được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa thì mới tin ở Người.
Người cứng tin nhất chắc chắn là Tôma và người được may mắn nhất chắc cũng là ông, được thỏa tính tò mò, được đặt tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa. Vì chính ông đã đòi hỏi đích thân động đến Chúa thì ông mới tin, nên Chúa đã phán với ông: “Vì đã thấy nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Do đó, Chúa muốn đòi mỗi người chúng ta hãy rút ra bài học kinh nghiệm từ Tôma. Khi thấy thì mới tin thì chẳng còn gì lạ, mà hay tin khi chưa thấy. Đó mới là đức tin Chúa cần nơi mỗi người.
Thật ra tin chính là chấp nhận có một cái gì đó mà ta chưa thấy, nhưng phải phó thác vào một người thật đáng tin cậy. Như thế, đức tin của chúng ta là phó thác vào sự chân thật của Thiên Chúa để mà chấp nhận những chân lý đã được Người truyền dạy. Mặc dù lúc đó ngũ quan ta không cảm thấy và trí khôn ta không hiểu được. Nhưng cũng đừng hiểu lầm tin như thế là mù quáng, nhưng mù quáng sao được khi ta tin vào một người rất đáng tin cậy, vì thế lòng tin của ta thật có lý.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng đã phải tin nhiều điều chúng ta không thấy rồi. Như ông bà ổ tiên, chúng ta cung đâu thấy các ngài, cũng đâu sờ được các ngài, cũng đâu trò chuyện được với các ngài, nhưng chúng ta vẫn tin trong quá khứ vẫn có các ngài. vậy ai có thể quả quyết chỉ tin những điều mình trông thấy, và coi tất cả những người nói cho mình biết điều mình không trông thấy là dối trá, thì người ấy không thể sống trong xã hội loài người được. Vì trong xã hội loài người mối tương thân tương trợ, chỉ bảo, nương tựa tin tưởng lẫn nhau là đieu cần thiết. Ngược lại, người không tin tưởng vào bất cứ ai, chứng tỏ họ không có một nhân cách thật sự, chỉ biết cố thủ trong ốc đảo ích kỷ nghi ngờ, nhìn người khác với cặp mắt giả dối, vì chỉ có người dối trá mới không tin vào lời người khác nói là sự thật, chỉ có người hà tiện mới không tin người rộng rãi. Một người không dám đặt niềm tin vào ai, chứng tỏ mình thiếu hẳn các đức tin của một con người. Đó là nhìn vào phạm vi tư nhiên. Trong phạm vi siêu nhiên sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa còn sâu xa hơn sự lệ thuộc của ta vào xã hội nhiều. Vì thế đức tin không những cần thiết mà còn đánh giá sự thánh thiện của mỗi người, vì người thánh thiện chắc chắn phải có một đức tin chuyển được núi, vì người ấy nhận biết Thiên chúa toàn năng và đặt cả niềm cậy trông của mình vào Người.
Lạy Chúa, chúng con không được may mắn như các tông đồ, được trông thấy Chúa, sờ đến Chúa, nói cùng Chúa và ăn uống với Người. Nhưng chúng con lại được may mắn chứng kiến rất nhiều người đã sống cho Chúa và chết cho chúa. Vì chỉ có Chúa Phục Sinh thật sự mới là động lực như thế. Xin cho con biet vững tin. Amen.
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc đó vắng mặt ông Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt ông Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là để minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn Ngài đã sống lại thực sự. Bài Tin Mừng này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đang chú ý và suy nghĩ: Câu thứ nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin”, đây cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những người đang sống xa biến cố Phục sinh cả hơn hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục sinh, nhưng chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”, đây cũng là điều Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.
Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin, ông nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt, cho nên, đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn: mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chua phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Phán câu ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI này và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của các tông đồ, thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội giảng dạy, ai tin qua đó là có phúc. Chúng ta có thể nói như thánh Ghêgôriô: “Ngón tay đa nghi của thánh Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay đa nghi của thánh Tôma đã dạy cho con người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục sinh của Chúa Kitô”. Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta sẽ là người có phúc: phúc cho chúng ta, dù không thấy, chúng ta vẫn tin.
Đàng khác, ngay khi hiện đến với các tông đồ, cả hai lần, lời nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời cầu chúc đó được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Quả thực, các ông đã bỏ mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ đâu, “công chưa thành, danh chưa toại”, mới được 33 tuổi, vị thầy của các ông đã bị giết chết như một nhà cách mạng thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ đá. Chúa chết, các môn đệ “tay trắng vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây các ông còn phải sống chui lủi trong cảnh “sảy đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm, hoang mang, lo sợ, các ông sợ tất cả mọi người, nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong căn phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện đến và chúc bình an, còn gì quý bằng, đang hoang mang, chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và được Chúa ban cho điều các ông đang cần, đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn dành cho chúng ta hôm nay.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình, hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chien, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.
Sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu: về tương lai, gia đình, con cái, tiền bạc, công ăn việc làm, sức khỏe… những lo ấu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến chúng ta luôn băn khoăn, khắc khoải, cố gắng tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những lo âu, và như thế có phải là chúng ta rất cần sự bình an không? Sự bình an đó do Chúa ban và cũng là cố gắng của mỗi người.
Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuoc đời cho Chúa để bản thân chúng ta tìm thấy sự bình an, đồng thời hãy cố gắng sống tốt đẹp, chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác, nếu chúng ta chưa đem lại bình an cho ai, thì chúng ta đừng cố tình làm mất bình an của ho bằng lời nói hay việc làm lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa ban bình an cho chúng ta và xin Chúa cho chúng ta là “khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Ông Tô-ma là một người có óc thực tế, có vẻ chậm hiểu và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều đó cũng đúng và dễ hiểu thôi. Ông có đủ lý do để nghi ngờ, vì ông chưa thấy Chúa sống lại rõ ràng như các môn đệ khác. Và sự kiện ông đòi chính mình phải kiểm chứng mới tin lại có lợi cho chúng ta, và là dịp khiến Chúa Giêsu liên tưởng tới đông đảo những Ki-tô hữu, từ đó cho đến ngày cánh chung, sẽ tin vào Ngài. Chúa chúc phúc cho họ, vì họ là những người, dù khong thấy tận mắt sự kiện phuc sinh nhưng vẫn tin vào Ngài: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời Chúa Giêsu trên đây được coi là mối phúc thứ chín trong đời mỗi Ki-tô hữu. Chúng ta phải cám ơn ông Tô-ma, chính vì thái độ thực tế của ông mà chúng ta được thêm một lần Chúa Ki-tô Phục Sinh hiện ra để minh chứng Ngài đã sống lại, và ban cho chúng ta, qua Tô-ma, một mối phúc thật khác là “phúc thật đức tin”.
Một điều lý thú nữa trong bài Tin mừng hôm nay, đó là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Ki-tô Phục Sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”. Lời cầu chúc này được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Còn gì vui mừng và sung sướng hơn họ nữa không? Họ được gặp lại người thân yêu nhất vừa mời chết. Họ được thấy tận mắt Thầy của họ, được nghe tận tai tiếng nói của Thầy. Thầy của họ đã sống lại thật rồi và còn được Thầy ban cho một món quà mà họ đang khao khát nhất, đang cần nhất, đó là “bình an”.
Món quà ấy Chúa cũng dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Bởi vì Chúa quá hiểu tâm lý con người nhân loại. Chúa quá hiểu cục diện thế giới này, ít khi có bình an, lúc nào cũng đầy những bất hòa, bất thuận, chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối…nên ai cũng muốn xin được hai chữ “bình an”. Có hiểu như thế chúng ta mới thấy lời chúc bình an của Chúa thật ý nghĩa và là món quà quý giá Chúa dành cho các môn đệ xưa kia và mỗi người chúng ta hôm nay.
Anh chị em hãy hồi tưởng lại cuộc đời mình xem: có phải anh chị em rất cần sự bình an không? Có lần người ta hỏi ông Đan-tê, một đại thi hào của nước Ý rằng: “Điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc đời là gì?”. Bậc vĩ nhân đã trả lời rằng: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm, đó là sự bình an”. Chúng ta cần và chúng ta tìm kiếm sự bình an, là bởi vì cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng đầy những lo âu và phức tạp về bản thân mình, về gia đình mình và xã hội chung quanh…luôn gây cho chúng ta những bất an.
Có khi chúng ta muốn yên ổn mà không được, vì cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Không cần nói đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta cũng đầy những ngột ngạt, lườm nguýt, hành tỏi, xích mích, tranh giành, lừa dối nhau, nghi ngờ nhau…khi thì chiến tranh lạnh khi thì chiến tranh nóng, mạnh ai nấy sống. Thậm chí có những người chỉ muốn sống ở những nơi khác mà không muốn về nhà mình. Chính vì thế mỗi người chúng ta, mỗi người trong gia đình, cần suy nghĩ xem: tại sao mình không có bình an, lý do là bởi ai, bởi đâu? Và chính mình có là nguyên nhân gây bất an cho gia đình cho những người chung quanh không?
Người ta nói: “Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”, “hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, nghĩa là chúng ta là những người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, oán thù nhau, thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho chính những con cái trong nhà, cho anh em hàng xóm chung quanh và xã hội. Xin mọi người hãy suy nghĩ hai chữ “bình an” hôm nay để chính mình sống bình an và giúp người khác cùng sống bình an.
Tất cả chúng ta, ai ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Vì thế, Chúa luôn luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo Hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa cũng như Giáo Hội cầu chúc chúng ta ” “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục bảo chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Vâng, đúng vậy, có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, nghĩa là góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Xin nhớ rằng: nếu chúng ta không chia sẻ bình an thì thôi nhưng đừng bao giờ làm mất bình an của người khác.
Chuyện kể rằng: Một môn đệ của Khổng Tử hỏi sư phụ: “Thưa thầy, đâu là yếu tố cơ bản của một chính quyền vững chắc?”. Sư phụ đáp: “Đủ lương thực, binh khí và lòng tin của dân”. “Nhưng giả sử thầy phải cat giảm một trong ba thứ đó, thầy sẽ bỏ cái nào?”. “Binh khí”. “Giả sử chỉ chọn một trong hai thứ còn lại, thầy sẽ bỏ cái nào?”. “Lương thực. Chết là phần số của mọi người. Nhưng dân tộc không còn lòng tin vào lãnh đạo, dân tộc ấy sẽ tan rã!”.
Vâng, không chỉ trong cộng việc lãnh đạo đất nước, mà bất cứ mối quan hệ nào cũng cần phải có lòng tin. Vợ chồng tin nhau, trò tin thầy, bạn bè tin tưởng nhau, tin tưởng đối tác làm ăn… Nếu mat niềm tin lẫn nhau, chẳng thể giao tế gì với nhau được nữa. Do đó, mỗi người phải tạo uy tín cho mình nơi người khác dựa trên sự thật.
Tin mừng về “Đức Kitô đã bị giết đi và Thiên Chúa đã cho Người sống lại” (x. Cv 2,23-24) không phải là tin đồn nhảm. Đây cũng không phải là chuyện bịa đặt lừa dối thiên hạ. Chính các Tông đồ đã thấy và đã làm chứng. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại biến cố Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ, cho các ông tận mắt xem thấy thân xác sống lại của Người và sai các ông đi loan báo cho mọi người, để mọi người “nhờ tin mà được sống nhờ danh Người” (Gn 20,31).
Đức Giêsu không bao giờ lừa dối chúng ta. Hơn nữa, việc nầy chẳng mang lại cho Người ích lợi gì. Nhưng vì phần rỗi của chúng ta, Người đã hiện ra với các Tông đồ, những người bảo tồn và loan báo niềm tin Phục Sinh. Như vậy, niềm tin của chúng ta không đơn độc, không mù quáng. Chưa có một bằng chứng nào cho thấy tin vào Đức Kitô Phục Sinh là chuyện hoang đường, phù phiếm. Có hay chăng chỉ là những suy nghĩ thiếu đức tin mà thôi. Thử hỏi những kẻ chối bỏ niềm tin Phục Sinh giờ ở đâu? Tất cả đã qua đi với thời gian. Đức Kitô Phục Sinh vẫn ngời sáng từ lúc bước ra khỏi huyệt mộ cho đến ngày nay. Điều đó được minh chứng bằng Tin Mừng Phục Sinh của Người, Tin mừng ấy đã – đang và sẽ vang mãi cho đến tận cùng thời gian.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Gn 20,25). Sự cứng lòng của Tôma phản ánh lại thử thách đức tin mà mỗi người chúng ta thường gặp phải. Rất nhiều lúc chúng ta rơi vào tình cảnh của Tôma, “không thấy, không tin”, một đòi hỏi về tính chắc chắn. Nhưng nếu đã thấy rồi thì chỉ chấp nhận sự thật thôi, khi đó không cần đến lòng tin nữa. Như thế, tin là chấp nhận những điều mình không thấy; và tin như thế mới thật là có phúc (x. Gn 20,29).
“Vì đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gn 20,29). Lời phê bình nhắm vào sự bướng bỉnh của Tôma, lại là lời khích lệ đối với chúng ta, là những người được đòi hỏi phải tin vào Đức Kitô Phục Sinh, mặc dù không có khả năng nhìn thấy hoặc đụng chạm vào Người. Người ta nói: “Muốn xem thấy cầu vồng, phải biết chịu đựng cơn mưa”. Thiên Chúa để chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin là vì yêu ta và để ta chứng tỏ tình yêu dành cho Ngài. Giữa những thử thách mà ta vẫn giữ được lòng tin của mình thì ta càng xứng đáng hơn với tình yêu Chua dành cho ta.
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm, tháp nhập vào Thánh Tâm Chúa – suối nguồn ơn cứu độ – nơi này chúng ta múc lấy tình yêu vĩnh cửu. Với tâm tình cảm tạ lòng lân tuất vô bờ bến của Chúa, chúng ta cũng không quên thể hiện lòng cảm mến sâu xa đến Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, người đã công bố thánh lễ mừng kính Lòng Chúa Thương Xót qua chứng tá của Thánh nữ Maria Faustina.
Nhìn ngắm Thánh Tâm, cảm nghiệm lòng Chúa xót thương, chúng ta nguyện luôn luôn chúc tụng, hát khen “tình thương của Chúa con sẽ hát ca, con sẽ hát hoài, con sẽ ca ngợi suốt đời” (Tv 89). Đồng thời, qua đó, chúng ta biết nhìn lại con người yếu đuối, tội lỗi của ta, để rồi chúng ta luôn biết sống sao cho phải đạo, cho xứng đáng là người con của Chúa ‘nhân từ, chậm bất bình và rất mực khoan dung’. Chắc hẳn quý ông bà và anh chị em ít nhiều cũng cảm nghiệm, được ơn ích mỗi lần kính lòng thương xót Chúa! Một điều chúng ta xác tín là: lòng Chúa thương xót vô vàn, không bờ bến, trải qua muôn ngàn thế hệ, lớn lao hơn tội lỗi, sự yếu hèn của con người chúng ta. Qua các bài đọc Phụng vụ hôm nay, chúng ta càng được thấy rõ điều này.
‘Lòng Chúa thương xót’ quy tụ dân Chúa, cộng đoàn tín hữu đầu tiên sống trong niềm thành tín, yêu thương và hiệp nhất với nhau (x. Cv 4, 32-35). Mỗi người một vẻ, nhưng tất cả đều đồng tâm nhất trí với nhau qua việc kinh nguyện và nghi thức bẻ bánh (Thánh lễ). Và quan trọng hơn, khi họ tiếp xúc với Lời Chúa, với chính Sự sống của Chúa, cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã ‘ra đi’ loan truyền lòng xót thương của Chúa mà họ đã được trải nghiệm bằng việc chia cơm sẻ áo, trợ giúp lẫn nhau, yêu thương tha nhân. Lòng Chúa thương xót thúc giục mỗi chúng ta hãy mạnh dạn ra khỏi tính ương hèn, lười biếng, nếp sống bàng quang, do dự, hờ hửng, dửng dưng, v.v… của bản thân, để đưa chân tiến bước chia san sau khi miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tâm hồn được chan chứa nguồn vui. Lòng Chúa thương xót mời gọi chúng ta sống cho nhau, chứ không chỉ biết ‘co cụm’, ‘quanh quẩn’ những nơi làm thoả mãn tính ích kỷ của ta, những chốn xa hoa, phố phường, những ‘ngôi biệt thự không hồn’ của cộng đoàn, của chúng ta.
Hơn nữa, Lòng Chúa Thương Xót giúp chúng ta thắng hết sự yếu hèn, thú vui, đam mê, tật xấu thế gian (x.1Ga 5, 1-6) Con người chúng ta thường có xu hướng lên án, kết tội anh chị em qua những toà án di dộng. Mỗi khi chúng ta ngồi lê đôi mách, chúng ta thường kể tội của anh chị em, những người không hiện diện, và vô hình dung chúng ta xét xử anh chị em với sự tham gia của vị thẩm phán đó là chúng ta, vị luật sư bào chữa là chúng ta, và nhân chứng cũng là chúng ta. ‘Toà án di động’ này chẳng đem lại cho chúng ta nguồn vui, niềm thảnh thơi nào, ngoài sự áy náy, nuối tiếc trong tâm tư của chúng ta! Nếu chúng ta thực sự tôn sùng, kính yêu lòng Chúa Thương Xót, chúng ta hãy đón nhận suối nguồn lân tuất, biết tha thứ, biết chiến thắng những thói quen không lành mạnh, những gì là trái ngược với lòng Chúa xót thương mà Ngài luôn luôn trao ban cho chúng ta. Và qua sự chia san, tương thân, tương ái, ‘người ta sẽ nhận biết anh em chính là môn đệ của Thầy’ (x. Ga 13, 35), là ‘môn đệ của lòng vị tha, bác ái, bao dung’.
Sau cùng, Lòng Chúa Thương Xót vượt trên tính kiêu ngạo, lòng nghi ngờ, sự yếu đuối của con người có lòng tin yếu hèn (x. Ga 20, 19-21). Chẳng có gì mà đáng lo ngại, tội lỗi cho bằng ‘nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta’ (Thánh Gio-an Maria Viên-nê). Giữa xã hội thực dụng này, mọi điều đều quy ra vật chất, quy ra những gì mà ‘sờ, đụng, cân, đo, đong, đếm’ được. Kể cả lòng tin, giá trị, văn hoá, v.v… cũng bị mặc cả, ra giá như món đồ thông thương. Nhưng nhờ lòng Ch&uac