Các bài suy niệm Lễ Đức Mẹ Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời

Cùng với Đức Maria chúng ta hát bài Magnificat mà cảm tạ Thiên Chúa về mọi Ơn Lành, phần hồn phần xác, nhất là Ơn Đức Tin, mà Người đã ban cho mỗi người/gia đình/cộng đoàn chúng ta.

Bài 1. THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
GM GB. Bùi Tuần

Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.

Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1, 18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời:“Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem…cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).

Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.

Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.

Làm chứng cho Chúa

Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).

Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.

Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần

Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1, 8).

Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.

Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.

Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.

Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.

Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.

Nhờ Mẹ Maria cầu bầu

Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19, 26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.

Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.

Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.

Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10, 21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.

Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.

Bài 2. MẸ LÊN TRỜI

Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: ”Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.

1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”

Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.

1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn

Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11, 27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.

Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8, 2). Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).

1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.

2. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”

Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.

2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội

Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.

2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh

Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.

Kết luận

Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2, 9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.

Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.

Bài 3. TRẬN CHIẾN CHỐNG LẠI SỰ DỮ

Ngày Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).

Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.

Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.

Mặc dù “người phụ nữ” chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).

Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.

Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian ; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.

Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.

Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.

Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.

Bài 4. ĐỨC MARIA ĐỒNG TRINH, HỒN XÁC LÊN TRỜI

Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19, 27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1, 11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2, 51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1, 8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.

Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).

Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:

Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:

“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không?”

Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.

Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:

– Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.

– Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.

– Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8, 29-30; 2Cr 5, 2-5) .

“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2, 14) (Marialis Cultus).

Bài 5. PHẬN HÈN CAO TRỌNG
Trầm Thiên Thu

Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.

Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.

Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.

Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!

MẶC KHẢI

Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12, 2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.

Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12, 3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12, 5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người”(Kh 12, 5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12, 6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài”(Kh 12, 10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.

Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45), 10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45), 11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45), 12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác:“Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45), 16].

ỨNG NGHIỆM

Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15, 20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1Cr 15, 21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1Cr 15, 22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1Cr 15, 25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15, 28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!

Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 43-45).

Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!

Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1, 46-55):

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).

Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1, 56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.

Bài 6. Tình Mẹ còn mãi
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:

“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…”

(nhạc Phạm Duy)

Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!

Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.

Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:

Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.

Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:

“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi 2 tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.

Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.

Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.

Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.

Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:

Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?”
– Biết gì? “Biết là, biết là con thương Mẹ không?”

Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen./.

Bài 7. ĐỨC MARIA: ĐỊA CHỈ TRÊN CAO
GM Giuse Vũ Duy Thống

Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.

Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.

1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin

Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.

Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.

Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.

Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.

2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu

Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?

Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.

Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.

Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.

3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời

Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.

Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.

Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.

Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.

Bài 14. Chúa nâng cao những kẻ khiêm nhường
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Một bài học quan trọng liên quan đến việc đối nhân xử thế mà Chúa Giêsu thường nhắc nhở chúng ta, đó là đừng tự cao tự đại, đừng kiêu căng tự phụ nhưng phải biết sống khiêm tốn với mọi người. Bài học đó được Chúa Giêsu tóm gọn như sau: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14, 11. 18, 14. Mt 23, 12. 20.26)

Bài học nầy lại càng sáng tỏ hơn qua lời tán tụng của Mẹ dâng lên Thiên Chúa khi Mẹ đến thăm Bà Êlisabéth.

Đây là bài “Ngợi Khen” (Magnificat) nhằm tôn vinh Thiên Chúa với nội dung được tóm gọn trong câu: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Trước hết, bài ca diễn tả ý tưởng: “ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống” qua những câu sau đây:

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế…” (Lc 1, 51-52).

Tiếp theo, bài ca nói về việc “ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”:

Chúa nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1, 48.52-53).

Và Mẹ Maria đã đem chính bản thân mình như một bằng chứng hùng hồn và cụ thể để minh chứng cho mọi người thấy chính Thiên Chúa đã đoái thương thân phận tôi tớ thấp hèn của Mẹ và đã nâng Mẹ lên cao:

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc”.

Quy luật cuộc đời là thế: Tháp cao thì dễ nghiêng, cây cao thì dễ ngả, người tự cao thì dễ bị hạ xuống chỗ thấp hèn.

Trong khu rừng có hàng triệu cây lớn nhỏ, non già đủ cỡ; thế nhưng cây càng cao thì càng bị gió lay, càng dễ bị sét đánh, càng dễ bị bão tố làm gãy cành hay bật gốc. Trong khi đó, những cây nhỏ bé mềm mại thường được an toàn trước phong ba bão táp.

Trong xã hội con người cũng thế, những người kiêu căng ngạo mạn thì hay bị người đời chê ghét và tìm cách hạ bệ; còn những người khiêm tốn thì dễ được người đời mến thương.

Trong một giờ huấn đức cách đây đã lâu, có lần Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận nói với anh em trong lớp chúng tôi rằng: “Khi người ta thấy mình đứng ở địa vị cao thì họ muốn hạ bệ mình xuống; khi người ta thấy mình nằm xuống sát đất thì họ muốn nâng mình đứng lên”.

Thế nên, để tránh cho những cây cao không đổ ngả, người ta phải liệu cho chúng đâm rễ thật sâu hay phải chặt bớt ngọn; muốn cho những toà nhà cao tầng không nghiêng, đổ…người ta phải liệu xây dựng phần móng thật sâu. Tương tự như thế, người có địa vị hay tài năng trổi vượt người khác, cần phải “đâm rễ sâu” bằng nếp sống khiêm nhường. Có như thế mới được tồn tại lâu bền.

Cuộc đời của Mẹ Maria là bằng chứng đầy thuyết phục cho quy luật nầy: Mẹ sống khiêm tốn nên Mẹ được Thiên Chúa tôn lên:

“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến, từ nay hết mọi thời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn”.

Hôm nay, bài “Ngợi Khen” của Mẹ Maria đề ra cho chúng ta hai chọn lựa:

Thứ nhất:

Muốn được Thiên Chúa và mọi người thương mến, thì hãy làm như người trồng cây kinh nghiệm, chặt bớt những ngọn cây cao, kích thích cho chúng đâm rễ sâu vào lòng đất; hoặc làm như người thợ xây lành nghề, khi thi công những ngôi nhà cao tầng, biết đóng móng thật sâu vào lòng đất…Nói chung, là biết sống khiêm tốn với mọi người.

Thứ hai:

Muốn bị người đời ghét bỏ và xa lánh, thì cứ việc sống như cây cao không đâm rễ sâu, như nhà cao tầng mà chẳng có móng sâu, nghĩa là cứ tự cao tự đại mà chẳng biết khiêm tốn hạ mình.

Lạy Chúa Giêsu,

Cuộc đời khiêm hạ của Chúa và Mẹ Maria là hai mẫu gương khiêm nhường rất đáng khâm phục. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Chúa và Mẹ sống thật khiêm nhường để được hạnh phúc đời nầy và được hưởng vinh phúc với Chúa và Mẹ trên quê trời mai sau. Amen.

Bài 15. ĐỂ CÙNG MẸ LÊN TRỜI
Lm Trịnh Ngọc Danh

Giáo Hội đã phong tặng cho Mẹ nhiều tước hiệu: Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Mẹ loài người, Mẹ Đồng Trinh, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội,…và qua sự can thiệp của Mẹ đối với con cái trần gian, Mẹ đã được khen tặng qua nhiều danh hiệu khác: Nữ Vuơng Hoà Bình, Nữ Vương Ban sự Bình An…

Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là để tôn vinh Mẹ là nữ tỳ đã được Thiên Chúa ưu ái ban cho một trong những ân huệ cao vời. Mẹ đã được cả hồn lẫn xác lên trời, đang hiện diện bên cạnh Ngôi Hai Thiên Chúa là Con Mẹ; đó là một tín điều.

Vai trò của Mẹ bên Thiên Chúa là gì đối với chúng ta? Và chúng ta noi gương Mẹ sống đức tin như thế nào?

Các nhà thần học đã chú giải cuộc hành trình đức tin của Mẹ Maria từ biến cố truyền tin cho đến giây phút cuối cùng trên Núi Sọ, đồi Canvê.

Chúng ta không đi theo thứ tự ấy để nói về cuộc hành trình đức tin của Mẹ, nhưng chúng ta đi ngược dòng thời gian của cuộc đời Mẹ, qua những biến cố nổi bật: từ những giây phút chết lặng bên xác con trên đồi Canvê trở về biến cố truyền tin, và qua những lời Mẹ đã nói để áp dụng vào cuộc sống đức tin của chúng ta.

Trong suốt cuộc đời của Mẹ bên Giêsu Con Mẹ, Phúc Âm chỉ ghi lại được sáu lời nói của Mẹ từ lúc sứ thần Chúa báo tin vui cho Mẹ cho đến lúc ẵm xác Con dưới chân Thánh Gía: Ba lời nói có tính cách riêng tư liên quan đến việc truyền tin cho Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa; hai lời nói với Thiên Chúa, Con Mẹ: một, khi tìm lại được con trong Đền Thờ và một,trong tiệc cưới Cana, và cũng trong tiệc cưới ấy, chỉ một câu nói duy nhất đối với con người: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”; ngoài ra, Mẹ còn có những lời ngợi khen Thiên Chúa được đặt tên là bài ca Ngợi Khen (Magnificat). Áp dụng những lời nói của Mẹ vào cuộc sống đức tin của mình, chúng ta cũng gián tiếp học được gương sống đức tin của Mẹ khi so chiếu với cuộc sống đức tin của chúng ta.

– Trên đồi Canvê, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đã trối lại cho Mẹ những gì?

“Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Chúa Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19: 26- 27).

Lời trối trăn ấy cũng là di chúc cho Giáo Hội trong tương lai. Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Giáo Hội và Mẹ chúng ta từ đây. Mẹ đã trở thành một người Mẹ phổ quát.

– Tại tiệc cưới Cana, thấy hoàn cảnh khó xử của chủ tiệc cưới, mẹ đã động lòng trắc ẩn; Mẹ đã can thiệp với Con mình, người mà mẹ biết rõ là ai; Mẹ đã làm đổi ngược chương trình hành động của Con Mẹ trong chương trình cứu chuộc con người:

“Khi thấy thiếu rượu, Thân mẫu Đức Giêsu nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi!” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến.” Nghe nói thế, nhưng mẹ vẫn tin là con mẹ sẽ không từ chối lời xin của Mẹ và Mẹ đã bảo với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 1-8).

Trong cuộc sống của mỗi người, có những lúc chúng ta gặp phải cảnh “hết rượu” khi đời sống đức tin của chúng ta đến lúc cạn kiệt, khi niềm tin vào Thiên Chúa bị vẫn đục bằng những khát vọng đam mê trần thế. Đó là những giây phút chúng ta “hết rượu rồi”. Sao chúng ta quên đi một Đấng có thể làm cho bình rượu chúng ta lại đầy tràn? Hãy chạy đến cùng Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ cũng nói với chúng ta như đã nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Hãy lắng nghe, thực hành những gì Ngài bảo. Đó là “làm theo” Tin Mừng.

Chúng ta biết rằng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy xin Mẹ cầu bàu và can thiệp với Thiên Chúa cho tất cả chúng ta. Mẹ đã can thiệp với Con Mẹ và chính Con Mẹ lại can thiệp với Chúa Cha để chúng ta đi hết con đường dương thế này.

– Lạc mất con: Xong Kỳ lễ Vượt Qua, hai ông bà trở về nhà, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ không hay biết. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm con. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ. Khi thấy con, Mẹ Ngài nói với Ngài: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Đó là lời tâm tình của Mẹ nói với Con mình, nhưng cũng là lời tâm tình Mẹ nói với chúng ta một khi chúng ta để lạc mất Thiên Chúa.

Sau Truyền tin, Mẹ đã phải tiếp tục cuộc hành trình đức tin của mình mỗi ngày trong im lặng của Thiên Chúa và qua những biến cố đôi khi làm cho Mẹ lạc hướng. Chúng ta hãy noi gương Mẹ. Mẹ sẽ giúp chúng ta sống đức tin qua những biến cố hằng ngày của cuộc sống, những khó khăn trong gia đình, nơi làm việc, ở khu phố và qua tất cả những vấn đề của thế giới hôm nay.

Như người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, như người cha mong mõi đứa con hoang trở về, Thiên Chúa và Mẹ vẫn mong mõi chúng ta trở về mỗi khi chúng ta đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa. Lời trách yêu của Mẹ là lời nhắn nhủ chúng ta tìm về lòng thương xót và nhân hậu của Thiên Chúa.

– Truyền tin: Thiên Chúa sai sứ thần Gabrien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần liền nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào ấy có ý nghiã gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa…

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng!”

Với Mẹ, câu hỏi ấy được nêu lên chỉ để muốn sứ thần giải thích về lời loan báo, chứ không phải để hoài nghi, không tin vào lời sứ thần loan báo, thế nhưng đối với chúng ta, đã rất nhiều lần chúng ta cũng thắc mắc như thế, nhưng không phải để củng cố niềm tin, nhưng là để hoài nghi về Thiên Chúa, về sự hiện diện của Ngài nơi trần thế với con người. Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa, băn khoăn thắc mắc về những gì Thiên Chúa mặc khải, và đánh mất niềm tin vào Ngài, và đã hoài nghi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào?”, vì khoa học không thể chứng minh, vì những gì Thiên Chúa truyền dạy không thể giải thích được với suy luận của con người.

Sau khi nghe sứ thần giải thích, bà Maria đã thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” ( Lc 1, 26-38).

Con người có khuynh hướng trốn chạy Thiên Chúa, khi Ngài đến gõ cửa nhà mình, khi phải thực hành Tin Mừng Ngài đã truyền dạy.

Tin Mừng cứu độ cũng là những lời truyền tin mà Thiên Chhúa muốn gửi đến cho con người. Như Mẹ đã sẵn sàng đón nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó trong đức tin và khiêm nhường, chúng ta cũng học lấy cách nói tiếng “xin vâng” của Mẹ để thực thi thánh ý của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần đã nói”.

“Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Đó là điềm lạ về Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và Mẹ chúng ta!

Những đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ: sự viên mãn về ân sủng, sự thánh thiện trọn hảo đã có ngay từ giây phút ban đầu, sự thụ thai đồng trinh với tư cách làm Mẹ Thiên Chúa, sự cộng tác của Mẹ vào toàn bộ công cuộc cứu chuộc và vào sự hy sinh trên thập giá, mầu nhiệm hồn xác lên trời với việc thực hiện tư cách làm Mẹ phổ quát trong sự phát triển đời sống của Giáo Hội, không tách biệt Mẹ với cuộc sống của chúng ta, nhưng ngược lại, là một tấm gương về đời sống đức tin.

Những lúc rượu đức tin cạn kiệt, hãy chạy đến với Mẹ và nhớ lại lời Mẹ đã bảo: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Những lúc chúng ta xa rời Thiên Chúa, đánh mất Ngài trong cuộc sống, hãy cùng Mẹ lên Giêrusalem để tìm gặp Chúa.

Và những lúc đam mê dục vọng cuốn hút, những lúc kiêu căng tự mãn làm cho chúng ta chối từ Thiên Chúa , thì hãy khiêm tốn nhận ra lời giải thích của Thiên Chúa qua vũ trụ để cùng Mẹ: xin vâng và cùng Mẹ hát bài ca Ngợi Khen:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng,
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh, chí tôn!…
Từ đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Bài 16. HÃY NGỢI KHEN CHÚC TỤNG THIÊN CHÚA!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Điều quan trọng nhất đối với mỗi người trong thế giới này, nhất là đối với các tín hữu Kitô là cảm nghiệm được Tình Yêu bao la của Thiên Chúa dành cho mình mà cất tiếng ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa. Đức Maria, một thiếu nữ đơn sơ, mộc mạc nhưng thánh thiện của làng Nazarét xưa là khuôn mẫu và mô hình lý tưởng của lời ngợi khen và chúc tụng ấy. Trong tường thuật Đức Maria đi thăm người chị họ Êlisabéth của Phúc Âm Luca hôm nay, chúng ta khám phá ra tâm hồn tràn đầy lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa của hai người phụ nữ một già một trẻ nhưng đều đang mang thai.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Kh 11, 19a; 12,1-6.10):

Có một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng. 12/19aTôi là Gioan, tôi thấy Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ.

12/1Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. 2Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. 3Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. 4Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. 5Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. 6Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

10Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài.

2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (1Cr 15, 20-27):

Mở đường là Đức Kitô, rồi đến lượt những kẻ thuộc về Người. 

20Thưa anh em, Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. 21Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. 22Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. 23Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. 24Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.

25Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. 26Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, 27vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài, thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.

2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Lc 1, 39-56): Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao diều cao cả. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

39Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabéth. 41Bà Êlisabéth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

46Bấy giờ bà Maria nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
49Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
50Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
55như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời”.
56Bà Maria ở lại với bà Êlisabéth độ ba tháng, rồi trở về nhà.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân dung Thiên Chúa trong 3 bài Thánh Kinh

3.1.1 Bài đọc 1 (Kh 11, 19a; 12, 1-6.10) là tường thuật của Sách Khải Huyền của Tông Đồ Gioan về Người Phụ Nữ trong kế hoạch của Thiên Chúa. Người Phụ Nữ ấy “mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” Người mang thai Đấng Cứu Thế. Các thế lực trần gian (được tượng trưng bằng Con Mãng Xà) đe dọa và tìm mọi cách ám hại cả Mẹ lẫn Con, nhưng Thiên Chúa che chở bảo vệ Người Phụ Nữ có sứ mạng đặc biệt này.

Qua đoạn Sách Khải Huyền trên chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng có cách riêng của mình trong khi thực hiện kế hoạch cứu độ loài người. Thiên Chúa đã dùng cái “yếu” để thắng cái “mạnh” đã dùng cái “khiêm hạ” để thắng cái “kiêu căng”. Cái “yếu”, cái “khiêm hạ” là một thiếu nữ Paléttin. Cái “mạnh”, cái “kiêu căng” là các thế lực phàm trần và ma quỷ.

3.1.2 Bài đọc 2 (1Cr 15, 20-27) là một đoạn Thư của Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Côrintô. Ngài nói về vai trò quan trọng của Chúa Giêsu Kitô là Đấng dẫn đầu một đoàn người đông đảo tiến vào Vương Quốc Sự Sống và Sự Phục Sinh. Trong Vương Quốc ấy Thiên Chúa Cha sẽ đặt Người làm Chúa Tể muôn vật muôn loài và toàn thể vũ trụ.

Trong đoạn thư gửi tín hữu Côrintô của Thánh Phaolô trên chúng ta khám phá mối quah hệ chặt chẽ giữa Chúa Giêsu Kitô và các tín hữu là chúng ta. Người đi trước vào sự chết để chúng ta bước theo Người. Người tiến vào Thiên Cung trước chúng ta để chúng ta tiến vào đó sau Người và nhờ Người.

3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 1, 39-56) là tường thuật của Luca vể câu truyện Đức Maria lên đường đi thăm người chị em họ là Bà Êlisabéth. Cà hai người phụ nữ đều đang mang thai. Đức Maria mang thai Con Một Thiên Chúa là Đấng sẽ Cứu Độ nhân loại tội lỗi. Bà Êlisabéth sắp cho chào đời người có sứ mạng dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu gặp Gioan vị tiền hô của Người. Gio-an gặp Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ mình và muôn dân muôn người. Nhưng cả hai còn ở trong bụng mẹ!

Qua Bài Phúc Âm Lc 1, 39-56 chúng ta được chứng kiến một quang cảnh tuyệt vời của Kế Hoạch hay Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa. Hai người phụ nữ và hai con trẻ gặp nhau gần như trong thinh lặng vì chỉ có rất ít lời mà lại là những lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Đấng đã thiết kế mọi kỳ công cho loài người.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là hãy cất tiếng chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa với Đức Maria và Chúa Giêsu, với Thánh Nữ Êlisabéth và Thánh Gioan, về công trình cứu độ Ítraen và nhân loại.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ Ítraen và toàn thể nhân loại và là Đấng đoái thương nhìn tới thân phận con người; Đấng đã làm biết bao điều cao cả; Đấng hằng thương xót những ai kính sợ Người; Đấng giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng và hạ bệ những ai quyền thế; Đấng nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, ban của đầy dư cho kẻ đói nghèo; Đấng nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa

Cùng với Đức Maria chúng ta hát bài Magnificat mà cảm tạ Thiên Chúa về mọi Ơn Lành, phần hồn phần xác, nhất là Ơn Đức Tin, mà Người đã ban cho mỗi người/gia đình/cộng đoàn chúng ta.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho loài người trong thế giới ngày nay biết dâng lời ngợi khen và chúc tụng lên Thiên Chúa là Đấng đã vì thương yêu mà tạo dựng nên vũ trụ vạn vật và loài người.

Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế và cho hết mọi Kitô hữu được ơn nhận ra những ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho họ mà không ngừng chúc tụng ngợi khen Người.

5.3 “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư!” Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho giáo dân nam nữ, già trẻ trẻ, lớn bé trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết sống đơn sơ, khó nghèo và siêu thoát.

5.4 “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người có chức có quyền trong đạo cũng như ngoài đời, biết sống khiêm nhu đẹp lòng Thiên Chúa.

Sưu tầm

 

 

bài liên quan mới nhất

Ngày 28/4: Thánh Phêrô Channe – Linh mục, tử đạo (1803-1841)

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng