Lời Chúa: Cv 3, 13-15.17-19; 1Ga 2, 1-5a; Lc 24, 35-48
MỤC LỤC
(Suy niệm của Huệ Minh)
Những lời mà Chúa hứa nay đã thành sự thật!
Ta bắt gặp tâm trạng buồn rầu của hai môn đệ trên con đường Emmau như thế nào?
Buồn rầu, chán nản vì chỗ dựa vững chắc nhất đời mình là cái ông mang tên Giêsu mà bấy lâu nay mình tin tưởng, mình tín thác, mình đi theo nay đã chết! Chết coi như là hết, coi như là chấm dứt niềm hy vọng và rồi hai ông bỏ về quê sống với cái nghề cũ trước khi đi theo ông Giêsu.
Thế nhưng, ta thấy đang trên đường về làng quê, vào cái lúc trời xế chiều thì lòng buồn thêm. Không thể đi tiếp được nữa vì không có trăng mà cũng chẳng có đèn. Thế là hai ông bèn mời người khách cùng đi với hai ông trên một đoạn đường vào quán trọ!
Ngạc nhiên chưa! Khi vào quán hai ông lại nhìn ra chính người khách bộ hành trên đoạn đường dài đó chính là Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của hai môn đệ quay lại Giêrusalem và đã tường thuật lại cho các bạn của các ông biết về Đấng Phục Sinh mà hai ông đã gặp trên đường.
Đang tám chuyện với nhau thì rồi Đức Giêsu hiện đến giữa họ. Lần này, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các ông: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”. Ta thấy phản ứng tự nhiên của các ông đó là hoảng sợ vì lẽ Thầy đã chết nay đã quá 3 ngày rồi. Thế nhưng, Thầy lại nói với các ông: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”.
Không chỉ nói, để chứng minh là Thầy thật sự đứng giữa các ông nên Thầy đã đưa chân tay của Thầy cho họ xem.
Thật ra mà nói, các môn đệ đã rơi vào tâm trạng chẳng đặng đừng: không tin cũng không được mà tin cũng không xong. Tâm trạng này cũng dễ hiểu bởi lẽ các ông đang sống trong tâm trạng hoang mang bối rối.
Một lần nữa, để chứng minh Thầy đang hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt thật sự thì Thầy xin các ông cho ăn. Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ.
Và sau đó, ta thấy Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại nói thêm để các ôn tin. Không những thế, Chúa Giêsu còn mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Chuyện đã quá rõ không còn phải ngờ vực nữa.
Thật ra những gì Chúa Giêsu cũng như các ngôn sứ loan báo về sự phục sinh của Chúa Giêsu nay trở thành ứng nghiệm. Thế nhưng, do cứng lòng tin hay do không cảm nhận được sự gần gũi, giản đơn của Chúa trong đời thường nên cũng chẳng thể nào trách được lòng cứng tin của các môn đệ.
Ngay như lúc đặt chân vào trần gian này, Chúa Giêsu đã hiện thân nơi một hài nhi bé bỏng. Và rồi Hài Nhi đó lớn lên ở cái làng quê nghèo và có cha mẹ là hai vợ chồng nghèo. Chẳng ai có thể tin được Đấng Cứu Độ trần gian đến trong trần gian này lại như thế!
Và, trong hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng có đôi lần làm điều này làm điều kia làm cho người ta sửng sốt. Thế nhưng lòng chai dạ đá cứng tin ăn sâu vào trong lòng người ta để rồi người ta cứ mãi ngời vực.
Đỉnh điểm của niềm tin vào Đấng Cứu Thế mà được loan báo từ trước đã vụt tắt khi cái anh chàng 33 tuổi mà người ta bỏ mọi sự đi theo đó chịu chết treo nhục nhã trên cây thập giá. Cũng đâu yên với cái anh chàng trộm cướp. Cùng mang bản án tử hình nhưng anh ta đã thách thức con người vô tội cùng chịu chết treo với anh. Nhục nhã vô cùng cho đến giờ phút cuối cùng trên thập tự giá.
Tất cả những người xưa nay từng hưởng ân lộc không ít thì nhiều từ cái con người chịu treo trên thập giá đó cũng đã bỏ đi hết. Họ theo Con Người ấy không phải vì niềm tin vào Con Người ấy, vào quyền năng của Con Người ấy nhưng họ theo vì những lợi lộc mau qua.
Chúa Giêsu đấng chịu chết treo trên thập giá do bàn tay của những con người ác đó ngày ngày vẫn sống giữa họ, vẫn đồng hành với họ nhưng chẳng ai can đảm nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian. Chính vì lẽ đó, khi phục sinh, Đấng Cứu Độ trần gian có hiển hiện giữa họ họ cũng chẳng nhận ra bởi lòng chai dạ đá. May thay có những môn đệ được chính Chúa Giêsu phục sinh cùng đồng hành, cùng hiện diện, cùng ăn, cùng uống với họ và họ đã tin.
Đức Giêsu là như vậy! Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi cũng là một và Ngài là như thế! Ngài đến thế gian, Ngài sống giữa kiếp người khi loan báo Tin Mừng và ngài vẫn sống giữa kiếp người sau khi sống lại từ cõi chết.
Chúa Giêsu Phục Sinh không còn hiện diện bằng xương bằng thịt như xưa nữa nhưng Ngài rất gần và vẫn ở bên đời ta. Chuyện quan trọng là ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời ta hay không mà thôi.
Có khi Giêsu hiện diện nơi trẻ thơ nhỏ bé chưa kịp cất tiếng khóc chào đời.
Có khi Giêsu hiện diện nơi người công nhân quét rác ngay đầu ngõ nhà ta.
Có khi Giêsu hiện diện nơi bác công nhân ngâm mình dưới dòng nước cống đen xì trong ngõ nhà ta để khơi dòng nước thải.
Có khi Giêsu hiện diện nơi người phu xe chở ta đi đây đi đó khi ta cần.
Và, đặc biệt, có khi Giêsu hiện diện ngay trong chính gia đình nhỏ bé của ta nơi người vợ, người chồng, người con. Có khi đó chính là cha mẹ già của ta. Có khi cũng là những người kém may mắn sống bên cạnh ta.
Chúa Giêsu là như vậy đó! Ngài luôn luôn và thích hiện diện nơi những con người nghèo, những người cô thế cô thân ngay bên cạnh ta. Liệu rằng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài hay không mà thôi.
Ta đã mừng bao nhiêu mùa Phục Sinh nhưng ta có cảm nghiệm gì về một Đức Giêsu Phục Sinh ngay bên đời ta hay không đó mới là điều quan trọng.
Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta như mời gọi các môn đệ khi trò chuyện, ăn uống với các ông: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”..
Chứng nhân về Thầy, chứng nhân về Đấng Phục Sinh không chỉ là nơi miệng ta khi ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật hay lễ trọng. Chứng nhân về những điều ấy cần lắm được diễn tả ngay trong đời sống thường nhật của ta. Ta có biết yêu thương, ta có biết chia sẻ, ta có biết quan tâm một Giêsu nhỏ bé nghèo hèn ngay bên cạnh ta không vẫn là lời mời gọi và thách thức niềm tin của ta vào Đấng Phục Sinh.
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn nhận ra Ngài hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh, thời gian và không gian của cuộc đời. Và, hơn thế nữa là chúng ta luôn biết diễn tả tình yêu thật sự nơi những người nhỏ bé quanh ta đó. Chính khi ta sống như thế ta mới trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu về mầu nhiệm Phục Sinh mà chúng ta hằng tuyên tín.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Lc 24: 35-48: Niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống lại đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta.
Có thể nói vấn nạn lớn nhất của người Kitô Hữu đó là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Là con người, ai ai cũng phải giới hạn bởi sự chết. Và đối diện với cái chết, khi con người nhắm mắt xuôi tay rồi, không ai có thể sống lại được. Rõ ràng rằng, trong cuộc đời mỗi người chúng ta, những người đã chết chúng ta thấy chẳng ai sống lại cả. Và ngay cả Lazarô chết, được Đức Kitô cho phục sinh nhưng rồi sau đó Lazarô cũng phải chết.
Thế nhưng rồi, nơi Đức Kitô Ngài đã phục sinh. Ngài đã dùng nhiều cách để bày tỏ cho các môn để biết rằng: Ngài đã sống lại.
Sự kiện mà cái Ngôi Mộ trống đó chưa phải là bằng chứng của Đức Kitô đã phục sinh. Nhưng rồi, sự kiện mà ngôi mộ trống đó đã mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về niềm tin của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra cho Maria Madalena, với 11 môn đệ, và cho đám đông 500 người còn sống.Và như thế, chúng ta không thể nào gọi là ảo giác, bởi vì tất cả những người đó đã thấy được Đức Kitô phục sinh.
Và thánh Luca thuật lại, thì các ông tưởng thầy mình là ma. Chúng ta thấy ma làm gì có xương có thịt. Và đặc biệt, Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho các môn đệ, Ngài đã cho các môn đệ xem thương tích nơi tay chân để chứng tỏ Ngài có xương có thịt, chứ không phải là một Oan Hồn hay là một Vong Hồn.
Và rồi hình như các môn đệ vẫn nghi ngờ và Người lại đề nghị cho họ sờ chân tay để kiểm chứng và thấy họ hoài Chúa Giêsu lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để chứng tỏ cho họ thấy rằng Ngài đã phục sinh. Thật sự nếu mà làm là ma nếu mà là vong hồn thì không thể nào mà nhai, nuốt như vậy! Cách diễn tả như thế để cho chúng ta thấy rằng: một Đức Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ. Đức Kitô Phục Sinh đã khắc niềm tin nơi các ông: Cho xem cạnh sườn luôn! bởi vì cạnh sườn bị dấu đinh đóng là cái kết quả của sự gian ác của con người và rồi chúng ta thấy:
Với Máccô khi nói về các lầm lỗi của các môn đệ thì Ông chẳng che giấu và nói toạc móng heo. Thánh Luca thì luôn luôn bênh vực các môn đệ. Những lỗi lầm của các môn đệ thì Luca luôn tìm cách để che đậy! Ở đây cũng vậy, Luca luôn luôn bao che cho các môn đệ, lý do rằng các ông chưa tin Chúa Giêsu phục sinh là vì các ông mừng quá đấy thôi! chứ không phải các ông yếu tim.
Thế nhưng mà, chúng ta thấy tâm tình quý trọng các môn đệ nơi thánh Luca rất là đặc biệt. Và ngày hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã phục sinh thực sự.
Và lời mời gọi của Chúa Giêsu phục sinh ngày hôm nay rất tuyệt vời cụ thể nơi bài đọc thứ nhất. Thánh Phêrô kể ra một cách cụ thể để mà làm chứng Đức Giêsu phục sinh đó là cái cách chúng ta Sám Hối:
“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng ngôn sứ mà báo trước, Đức Kitô của Người đã chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu anh em được xóa bỏ tội lỗi”
Sự thật rõ ràng là: tôi đã làm chứng. chúng ta đánh mất một đức tin nơi Thiên Chúa, nơi Đức Kitô phục sinh. Vì thế, chính vì tội đã làm cho con người ta không còn tin vào Chúa nữa. Và vì thế cần phải ăn năn sám hối, để chừa bỏ tội lỗi chứ thường thì, những người quen phạm tội thì dần dần mất đức tin, và nếu còn đức tin thì rất yếu ớt khi gặp sóng gió giữa cuộc đời. Do đó Câu hỏi đặt ra lúc đầu về sự nghi ngờ về Đức Kitô phục sinh và sự Phục Sinh Của Đức Kitô không phải là không có lý do vậy Muốn nhìn thấy niềm tin của mình còn vững chắc hay không thì theo Thánh Phêrô xét xem mình có phạm tội hay không và biết ăn năn sám hối hay không?
Sám hối là gì? Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh là Đấng công chính mà tha cho kẻ sát nhân.
Sám hối là chúng ta thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu. Từ đóng đinh, giết chết, treo trên thập giá mà nay chúng ta phải tin Ngài là Đấng Công Chính chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu, thay đổi cái đời sống chúng ta.
Và rồi chúng ta được mời gọi rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, là trước hết chúng ta phải Sám Hối. Bản thân của chúng ta Sám Hối, bản thân của chúng ta thay đổi về cái nhìn của Chúa Giêsu phục sinh.
Cùng với Chúa Giêsu phục sinh chúng ta thay đổi về cái nhìn của giá trị, tận tâm can của chúng ta. Nó thực tế, vì trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: ” Tôi tin xác loại người ngày sau sống lại.” Tuyên xưng như vậy có rất nhiều câu hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Và cái niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta. Và rất, rất khó khăn, bởi vì ngày hôm nay, giữa một cái trào lưu của một thế giới hưởng thụ, văn minh lên cao; con người thích lợi nhuận, thích tìm những việc thực tế, con người ưa thực dụng hơn là suy nghĩ động não, thì Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy làm chứng cho Người.
Chúng ta làm chứng cho Đức Kitô là: chúng ta giới thiệu một Đức Kitô đã sống lại và đang hiện diện với con người, với nhân loại. Và làm chứng rằng cho thế giới biết rằng: Chúa Giêsu phục sinh không đòi hỏi lợi nhuận tiền bạc, nhưng chúng ta sống bằng chính cái đời sống đức tin của chúng ta. Và đặc biệt, đó là sống cái niềm tin của chúng ta bằng đời thường, bằng lòng mến, bằng lòng bác ái của chúng ta.
Thì chúng ta nhìn vào các môn đệ, chính các môn đệ đã chấp nhận đòn roi khổ cực, tù ngục và sẵn sàng chết vì Đức Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta không phải đối diện bằng những cái chết tử đạo, bách hại đạo như các thánh tử đạo ngày xưa, nhưng chúng ta được mời gọi loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh bằng đời sống yêu thương, bằng đời sống tha thứ, bằng những việc làm cụ thể. Đức Cố giáo hoàng Phaolô 6 nói: ngày hôm nay, người ta cần những chứng nhân chứ không cần những thầy dạy nữa!
Mà quả thật những thầy dạy nghiên cứu về thánh kinh về thần học, về triết học về khoa bảng quá nhiều! Ngày hôm nay những người làm chứng về Chúa Kitô phục sinh bằng đời sống của mình rất hiếm. Nhưng mà «hiếm», nhưng mà có! chứ không phải không!
Chúng ta hãy nhìn nơi gương của Mẹ Têrêsa Calcutta, một người phụ nữ tiều tụy ốm yếu, đau khổ, nhưng mẹ đã có một trái tim của Giêsu, mẹ mang trong mình trái tim của Giêsu: một trái tim yêu thương.
Chúng ta nhìn vào gương của một Phanxicô khó khăn, đã chấp nhận, đã từ bỏ tất cả sự giàu có vinh hoa phú quý của gia đình, để sống nghèo, để yêu thương và lo lắng cho người nghèo. Hay đơn giản, chúng ta có thể nở một nụ cười, nở một nụ cười như Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất. Và đặc biệt gương của lòng tha thứ gương của sự vị tha còn đó nơi Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, cái sự tha thứ đã làm nên khuôn mặt của ngài, ngài đã yêu thương đã diễn tả lòng thương xót.
Tất cả những chứng nhân đó tất cả những vị thánh đó làm chứng cho một Đức Kitô Phục Sinh. Thật sự ra, nơi con người của chúng ta vẫn là những con người yếu đuối, chúng ta vẫn mang trong mình cái phận người. Nói yêu thương, nói tha thứ, không phải là chuyện đơn giản. Đó là những cái thách đố của cuộc đời chúng ta.
Thế nhưng, không phải là không làm được! và không bao giờ làm được! Làm được, Nếu có ơn Chúa! Đặc biệt chúng ta biết kết hợp vào với Đức Kitô Phục Sinh, nơi mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta rước Đức Kitô Phục Sinh vào trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Để rồi khi CHÚA ở trong ta, ta ở trong CHÚA. Chúng ta kết hợp với Đức Kitô, thì chính khi ấy Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa.
Nhờ vào ơn Chúa chúng ta sẽ diễn tả cái đời sống Yêu Thương, bác ái đó cho anh chị em chúng ta, nơi những người chúng ta gần gũi.
Có thể chúng ta còn nghèo, có thể chúng ta không có tiền bạc, có thể chúng ta không có tài sản; nhưng mỗi người chúng ta vẫn có một nụ cười. Mỗi người chúng ta vẫn có một lòng vị tha. Mỗi người chúng ta vẫn có ánh mắt nhân từ, để tha thứ cho anh chị em những người làm tổn hại chúng ta, những người sát hại chúng ta và những người gây đau khổ cho chúng ta.
Thế đấy, một Đức Kitô Phục Sinh đã, đang, và đã sống lại, và mời gọi chúng ta hãy lên đường làm chứng về Thầy, làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Là người Môn Đệ của Đức Kitô, chúng ta luôn luôn được mời gọi để sống Tin Mừng Phục Sinh đó, trong cuộc đời của chúng ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để đặc biệt, trước hết, chúng ta sám hối về tội lỗi của chúng ta. Vì chúng ta đã đóng đinh Đức Kitô vào thập giá, và chúng ta lại lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh đã yêu thương chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh yêu thương, và tha thứ cho những người xúc phạm, cho những người giết hại mình, bằng chính đời sống Yêu Thương, phục vụ và tha thứ, là chính lúc chúng ta tuyên bố Đức Kitô Phục Sinh rõ nét nhất trong cuộc đời chúng ta.
Xin Đức Kitô Phục Sinh đến, ở lại với mỗi người chúng ta. Và xin cho chúng ta luôn luôn biết kết hợp với Đức Kitô Phục Sinh để chúng ta diễn tả đời sống của một Đức Kitô Phục Sinh trong lời ăn, tiếng nói, trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển Hán Nôm giải thích: MỤC là con mắt; SỞ là rõ ràng, minh bạch; THỊ là thân cận, gần gũi. Người ta cũng dùng chữ “mục kích” (mục: mắt, kích: đập vào). Cách nói phổ biến là “nhãn tiền”. Chữ “nhãn tiền” (nhãn: mắt, tiền: trước – ý nói “thấy trước”) do câu “quả báo nhãn tiền”, ý nói về điều không tốt, nhưng ngày nay chữ này cũng được dùng khi nói về điều tốt.
Tình yêu thương là hiện thân của Thiên Chúa (1 Ga 4:8 và 16). Tình yêu đó cũng chính là Lòng Thương Xót của Ngài. Lòng Chúa Thương Xót luôn được nhắc đến suốt Năm Phụng Vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh – cách riêng là Chúa Nhật II Phục Sinh. Chẳng phải mới đây mà từ thuở khai thiên lập địa, Kinh Thánh đã nói đến tình yêu thương. Đây là vài câu cụ thể trong sách Sáng Thế:
St 19:19 – “Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!”
St 24:14 – “Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa”, thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ TÌNH THƯƠNG đối với chủ con”.
St 24:27 – “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ TÌNH THƯƠNG và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi”.
St 33:10 – “Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG với tôi”.
Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16) – cách định nghĩa của Thánh Gioan, thế nên Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu Thương. Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một – có thể rút gọn còn một từ YÊU. Phàm ngôn có nhiều cách gọi, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót, đó là cách rút gọn của cách nói “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”. Đôi khi Việt ngữ dễ gây hiểu lầm do cách “rút gọn” văn phạm! Cuộc sống đời thường có nhiều loại thực tế, cuộc sống tâm linh cũng vậy.
THỰC TẾ TỘI LỖI
Có lẽ không thực tế nào buồn và đáng sợ bằng thực tế tội lỗi. Nó không chỉ khiến người ta sa sút về tinh thần, nguy hiểm về phần rỗi, mà còn gây yếu đuối cả về thể lý.
Tội lỗi liên quan ma quỷ, nghĩa là đối lập với Thiên Chúa. Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã CHỐI BỎ ĐẤNG THÁNH và ĐẤNG CÔNG CHÍNH, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết ĐẤNG KHƠI NGUỒN SỰ SỐNG, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”. Tội to lắm!
Và rồi với “kinh nghiệm đau thương” về việc này (tội chối Thầy) nên vị giáo hoàng tiên khởi đã chân thành kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Ông Phêrô đã sám hối và được Thầy Giêsu xót thương. Tấm gương sám hối đáng để chúng ta noi theo mỗi khi sảy bước sa chân.
Từ ngàn xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, bởi vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói chính mình là Con Thiên Chúa. Nếu lúc đó chúng ta nghe được điều đó, chắc chắn chúng ta cũng thấy “chói tai” lắm đấy! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết – bởi vì chúng ta được dạy quá nhiều rồi.
Thế thì làm sao? Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi thì chúng ta phải biết thành tâm sám hối, chân thành trở lại, tin tưởng và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Nên biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngài luôn nghe lời. Có thể chính chúng ta cũng đã bao lần thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Chính trong câu hỏi đó đã mặc nhiên có câu trả lời – nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).
Cầu nguyện là khiêm hạ và hạnh phúc, chính lúc cầu nguyện là lúc chúng ta trở nên vĩ đại, bởi vì được thưa chuyện với Thiên Chúa và được Ngài lắng nghe chúng ta trút mọi nỗi niềm. Có ai như Thiên Chúa của chúng ta? Chắc chắn là không! Đó chính là thực tế về ân sủng.
THỰC TẾ HỒNG PHÚC
Thiên Chúa vô cùng đại lượng và hào phóng, hằng ngày Ngài luôn ban muôn vàn hồng ân cho chúng ta – từng phút, từng giây. Đơn giản nhất mà lại cần thiết nhất chính là KHÔNG KHÍ – vì thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.
Chưa nói được lời tạ ơn thì cũng đừng đối kháng. Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Thật quá tuyệt vời!
Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”. Tha thiết lắm, Thiên Chúa không nỡ làm ngơ đâu!
Một thực tế khác: Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Thực tế thế thôi!
Chiều Chúa Nhật Phục Sinh, sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ vội vã trở lại Giêrusalem và thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó – và ban cho cả chúng ta ngày nay.
Vừa dứt lời, và để các môn đệ thấy thực tế minh nhiên, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, có lẽ một phần vì quá vui mừng, một phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) cũng nói thật chứ không hề “nổ” hoặc “xạo” chút nào. Và cũng là để cho “chắc cú”, Ngài hỏi rất thực tế: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Thế thì trên cả tuyệt vời luôn rồi!
Sau khi ăn khúc cá nướng, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Một thực tế minh nhiên và các môn đệ cũng đã “thực mục sở thị”. Rõ ràng và rạch ròi rồi.
Tất nhiên Chúa-Giêsu-phục-sinh biết rõ chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài cũng luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có được hai điều đó thì LCTX luôn chan hòa trên chúng ta. Và chính Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Bổn phận và trách nhiệm không của riêng bất kỳ ai!
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa hẹn vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta mãi cho tới khi niên tận thế cùng.
Lạy Thiên Chúa chí tôn chí thánh, xin thánh hóa và gia tăng ba đức đối thần cho chúng con, và cũng ban các đức đối nhân để chúng con làm người xứng đáng. Xin Ngài luôn ban Thần Khí để chúng con can đảm làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúng ta vừa mừng Đại lễ Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) vào Chúa Nhật tuần trước – Chúa Nhật II Phục Sinh. LCTX luôn được nhắc đến suốt năm Phụng vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh. Ngay từ thuở hồng hoang, thuở khai thiên lập địa, Kinh thánh đã nói đến lòng yêu thương:
– Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! (St 19:19);
– Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa”, thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình thương đối với chủ con (St 24:14);
– Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi (St 24:27);
– Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương với tôi (St 33:10).
Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu thương, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4::8 & 16). Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một. Cách gọi khác theo ngôn ngữ, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót. Khi chúng ta nói “Lòng Thương Xót Chúa” tức là “Lòng Thương Xót của Chúa”. Thực ra vẫn giống nhau, chỉ vì Việt ngữ không rõ ràng do “rút gọn” văn phạm, và dễ gây hiểu lầm!
TỘI LỖI NHÃN TIỀN
Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”.
Giáo hoàng tiên khởi đã có “kinh nghiệm đau thương” về việc này nên kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19).
Ngày xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói là Con Thiên Chúa, “khó nghe” thật! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết.
Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi nhãn tiền thì chúng ta phải biết sám hối, trở lại, và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Chúng ta phải biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngãi Chúa luôn nghe lời. Biết bao kẻ từng thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Trong câu hỏi đó đạ mặc nhiên có câu trả lời, nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).
HỒNG ÂN NHÃN TIỀN
Chúa luôn ban vô vàn hồng ân hằng ngày. Đơn giản nhất mà lại cần nhất là không khí – thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.
Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Quá tuyệt vời! Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”.
Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ.
Sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó và chúng ta ngày nay.
Nói xong, để các môn đệ thấy nhãn tiền, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, phần vì mừng quá đỗi, phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) nói thật chứ không… “xạo”. Và để cho “chắc cú”, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Trên cả tuyệt vời luôn!
Ăn cá xong, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47).
Ngài biết chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có hai điều đó thì LCTX luôn đổ tràn trên chúng ta. Và Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48).
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin luôn ban Thần Khí Chúa cho chúng con để chúng con can đảm làm chứng về LCTX và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cuộc đời là bến mê lầm. Sai một ly, đi một dặm. Phải luôn cố gắng tỉnh thức để thoát khỏi mọi cạm bẫy. Thoát ly như vậy là tỉnh ngộ – thoát khỏi ngu muội. Điều này vô cùng cần thiết, vì chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38).
Phật giáo dùng từ “giác ngộ” (zh. 覺悟, sa., pi. bodhi). Danh từ này được dịch nghĩa từ chữ “bodhi” (bồ-đề) trong Phạn ngữ. Từ ngữ này chỉ trạng thái tỉnh thức, lúc con người bỗng nhiên trực nhận tính KHÔNG, bản thân nó là “không” như toàn thể vũ trụ cũng là “không” vậy.
Và chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được “thể tính mọi hiện tượng”. Tính “không” ở đây KHÔNG phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên, không thể dùng suy nghĩ hoặc cảm nhận để đo lường, vì điều đó nằm ngoài cặp đối “có – không”. Tính “không” này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận, vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Do đó, giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giãi bày.
Kinh Thánh nhắc lại Người Tôi Tớ Đau Khổ và cũng “chạm” vào ký-ức-buồn của chúng ta, tức là sự ngu muội của chúng ta: “Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3:13-15).
Thánh Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Giêsu Kitô và thông cảm với sự ngu muội của chúng ta: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài chỉ cần chúng ta hối hận thật lòng thì Ngài sẽ tha thứ ngay. Điều này đã được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa rồi: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Và chính tướng cướp Diasmas đã được hưởng lời hứa đó ngay trên Núi Sọ: Theo Chúa Giêsu vào thẳng Thiên Đàng (Lc 23:43), dù “đại ca” này chưa hề biết gì về Chúa Giêsu và chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Thiên Chúa quá đỗi nhân lành, nhất là với những người thành tâm sám hối: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Ngoài Thiên Chúa, chắc chắn chẳng có thần linh nào hoặc phàm nhân nào khả dĩ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc. Hãy cầu nguyện liên lỉ, hãy không ngừng nài xin: “Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7).
Khi có Ngài rồi thì cứ “vô tư” mà sống. Chả lo lắng chi cho già người đi. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã chia sẻ kinh nghiệm thoải mái này: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4:9). Mèn ơi! Thế thì thật là hạnh phúc, sướng ơi là sướng!
Thánh Gioan muốn chúng ta tỉnh ngộ nên đã nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính“” (1 Ga 2:1). Không nên phạm tội, đó là điều chính đáng, nhưng tay lỡ “nhúng chàm” thì lại được Luật Sư uy tín biện hộ cho chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu. Thế thì còn gì sướng hơn nữa chứ?
Thánh Gioan cho biết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Trên cả tuyệt vời, vì chính Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Mọi diễn biến từ Cựu Ước tới Tân Ước đều lô-gích, chính xác, không chút sai lệch. Thật là mầu nhiệm biết bao!
Điều kiện thứ nhất là “đừng phạm tội”, điều kiện thứ hai là “tuân giữ các điều răn” – nhất là điều răn bác ái. Đức ái là một trong ba đức đối thần, nhưng là nhân đức quan trọng nhất. Tại sao? Vì đức mến còn mãi mãi, trên Thiên Đàng chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy (hy vọng).
Thánh Gioan phân tích: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:3-5). Thánh Phaolô cũng nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8-10). Người biết yêu mến là người chu toàn lề luật của Thiên Chúa, đó là người mặc lấy con người mới, sống niềm vui phục sinh, tức là đã tỉnh ngộ.
Sau khi phục sinh, một hôm ở trên đường Emmaus (*), Chúa Giêsu gặp hai môn đệ và giải thích cho họ những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Họ không hề biết đó là Chúa-Giêsu-phục-sinh. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ đã mở ra, tỉnh ngộ, và nhận ra Ngài, thế nhưng Ngài lại biến mất (Lc 24:27-30).
Lần khác, khi các môn đệ còn đang nói, chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Các ông kinh hồn bạt vía, cứ tưởng là thấy ma. Tá hỏa tam tinh. Run sợ thật đấy! Nhưng Ngài cười và bảo: “Này các cậu, sao lại hoảng hốt thế nhỉ? Sao lòng anh em còn ngờ vực chứ? Này, nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-48). Rồi Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ừ nhỉ! Ma đâu có thế này, đúng là thần hồn nhát thần tính. Chán thật!
Các ông còn bán tín bán nghi, chưa dám tin thật, phần vì mừng quá, phần vì ngỡ ngàng. Chúa Giêsu thấy mắc cười lắm, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không nào? Đem ra đây cho Thầy ăn!”. Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt các ông. Mấy ông nhéo nhau, ai cũng la oái, thế thì không phải mơ, tỉnh thật đấy.
Rồi Ngài ôn tồn: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Bấy giờ Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Ngài nhấn mạnh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:46-48).
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở lòng trí chúng con để chúng con đủ sức hiểu rõ lời Kinh Thánh, xin giúp chúng con biết tỉnh ngộ để chúng con chân tín Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ chúng con, đồng thời cũng luôn biết sống yêu thương và can đảm làm chứng về Đấng Phục Sinh. Ngài là Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
—————————–
(*) Emmaus là viết theo tiếng Latin, tiếng Hy Lạp là Ἐμμαούς, tiếng Ả Rập là عِمواس (Imwas), tiếng Do Thái là חמת (Hammat), có nghĩa là “mùa xuân ấm áp”. Emmaus cách Giêrusalem 7 dặm, khoảng 11 km.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi chỉ muốn đưa ra một hình ảnh đẹp, đó là hình anh Chúa Giêsu cùng sánh bước với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Vậy hình ảnh đẹp này đem lại những hậu quả nào cho cuộc sống của chúng ta?
Cựu Ước đã đưa ra một kinh nghiệm, một xác tín, đó là nếu có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ không còn lo lắng sợ hãi, đồng thời sẽ có đủ nghị lực, nếu không thành công rực rỡ, vượt qua những gian nguy thử thách, thì ít nữa cũng biết chịu đựng cho nên. Thánh Vịnh đã viết: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cò xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Hay như một Thánh Vịnh khác cũng đã xác quyết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nể vất vả chỉ là uồng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Niềm xác tín này cũng đã được Chúa Giêsu thực hiện trong Tân Ước. Hẳn chung ta còn nhớ trong tiệc cưới Cana, sự có mặt của Chúa Giêsu đã đem lại phép lạ đầu tiên, khiến nước lã biến thành rượu ngon, để đôi tân hôn không bị bẻ mặt với khách dự tiệc.
Cùng hoạt động với Chúa, chắc chắn sẽ thâu lượm được những thành quả tốt đẹp. Chính các tông đồ đã học được cái kinh nghiệm quý giá ấy. Đêm hôm đó, các ông ra khơi và thả lưới, vật lộn với sóng nước suốt cả một đêm, mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, ban sáng Chúa Giêsu hiện ra với các ông trên bờ biển và truyền cho các ông thả lưới, lập tức các ông đã có được một mẻ lưới lạ lùng. Lần khác, thuyền các ông gặp phong ba bão táp, các ông đã phải đánh thưc Chúa Giêsu dậy, và với Chúa Giêsu lập tức sóng liền yên và biển liền lặng.
Và ngày hôm nay, hai môn đệ đang trên đường về làng Emmaus. Các ông bước đi mà cõi lòng thì ngập tràn một nỗi thất vọng đắng cay. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã hiện ra, đàm đạo với các ông và lòng các ông đã bừng lên ngọn lửa yêu mến và sau cùng, các ông đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh nơi quán trọ. Sau đó, các ông hối hả trở lại Giêrusalem, mừng vui kể lai sự việc cho các tông đồ được biết.
Chúng ta còn có thể kể ra những trường hợp khác nữa, để chứng tỏ rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu sẽ đem lại niềm an ủi và khích lệ, cũng như sẽ đem lại nguồn sức mạnh và can đảm để vượt qua những gian nan thử thách. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì Ngài có dư quyền năng để nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng có dư tình thương, để sẵn sàng ra tay trợ giúp cho chúng ta.
Tóm lại, cùng đi với Chúa, con người chúng ta sẽ không còn đơn côi, bản thân chúng ta sẽ vượt thắng được mọi hiểm nguy và cuộc đời chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ đến độ làm cho con người luôn bất an và lo sợ. Chẳng hạn, thất bại, rủi ro, mất an ninh, nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp hay thất tình… Những nỗi lo sợ này làm ta “ăn không ngon, ngủ không yên” và cũng có thể làm ta tuyệt vọng, thậm chí đánh mất niềm tin nơi bản thân hay tha nhân, thậm chí Thiên Chúa nữa.
Tâm trạng của các tông đồ hôm nay cũng buồn sầu và lo sợ sau cái chết của Thầy Giêsu. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma. Cho nên, điều đầu tiên Chúa phục sinh hiện đến với các ông là chúc bình an cho các ông và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với các ông. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Từ đó, các ông trở thành những chứng nhân về niềm tin bình an của Chúa Phục sinh cho thế giới một cách kiên cường và bất khuất.
Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, sự bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn ở lại trong chúng ta mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ và Rước Mình Thánh Ngài. Như vậy, sự bình an của Chúa luôn ngự trị nơi tâm hồn chúng ta, có nghĩa rằng chúng ta luôn có Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Cho nên, khi ngỏ lời với các tín hữu trong Sứ điệp Phục sinh năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng sức mạnh của người Kitô hữu đến từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và kêu gọi họ trở thành chứng nhân của hoà bình và công lý, nhất là cho những người ngày nay đang phải đau khổ tại những khu vực xảy ra bạo lực và khủng bố khốc liệt. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha kêu gọi hướng đến những người đang đau khổ: “những người thiệt thòi, người bị giam cầm, người nghèo và những người di dân thường bị từ chối, ngược đãi và loại trừ, người bệnh tật và người đau khổ, các trẻ em, đặc biệt những người là nạn nhân của bạo lực”. Ngài kêu gọi họ hãy lắng nghe những lời đầy an ủi của Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy đã sống lại và sẽ luôn ở với anh em”. Và trong sứ điệp, Đức Thánh Cha quả quyết rằng: “Người Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, là những hạt giống của một nhân loại khác, trong đó chúng ta tìm cách sống phục vụ lẫn nhau, không ngạo mạn, nhưng tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Ân sủng ấy là sức mạnh, chứ không phải sự yếu đuối. Nhưng, “những ai mang trong mình quyền năng của Thiên Chúa, tình yêu và công lý của Người thì không cần dùng đến bạo lực; họ nói và làm bằng sức mạnh của chân lý, của vẻ đẹp và tình yêu”.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có sự dữ nhưng hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.
Hôm đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều, nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vưa đến nơi, chưa kịp nói gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình. Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi, Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng có Ngài.
Xưa kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.
Tại Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yeu thương. Rồi trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.
Mục sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa: Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ theo kiểu đo, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.
Hôm nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn khởi và hăng hái.
Thực vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ong bước theo Chúa với tham vọng vật chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa rộng lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ chức vụ này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến Chúa, nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị treo trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản và thất vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.
Như hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.
Trong việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức là những lợi ích trần gian và kết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu nhiên. Nếu để ý quá đến những kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình những đắng cay và thất vọng. Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ chúng ta cũng có đủ lý do để lạc quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế nào cũng có, dù không có ngay hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.
Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con đường tiến tới vinh quang.
Trái tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi. Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.
Ước gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.
10. Niềm tin thắng vượt sợ hãi
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Lc 24: 35-48: Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh.
Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người thiếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn, càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu con thưa với vẻ do dự:
– Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.
Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:
– Với đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu ?
Cậu trả lời: Con thấy rõ tới nữa đường ra cổng.
Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: Từ đó con nhìn tới đâu nữa ?
– Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
– Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa anh chị em,
Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối phục sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50).
Chúng ta có thể đặt hai câu chuyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự phục sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác phục sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ ?” Lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạng thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì)?. Rồi Ngài đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy” rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã phục sinh và đang sống với anh em.
Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây ?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Anh chị em thân mến,
Chúa Phục sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác phục sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các ông luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.
Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này, thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gủi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin ?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai ?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế ? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin ?”…Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: Chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
11. Gặp Chúa giữa lòng đời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hanh với mình là Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu hiện về!
Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại đe nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vậy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
* * *
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người (ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngươi (Mt 25, 40)… [“Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận” (ICr 12, 27);
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15);
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cr 10, 17).
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
– Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
– Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
– Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác.
[Anthony de Mello trong tác phẩm: “Như tiếng chim hót”]
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy… Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chưng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ la một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen.
12. Làm chứng cho biến cố Phục Sinh
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã báo trước, nhưng nhiều nguời còn hoài nghi. Sự kiện ngôi mồ trống chưa thể xác quyết được việc Chúa sống lại từ cõi chết. Ngày thứ nhất trong tuần, chính Đức Giêsu đã hiện ra với bà Maria Madalena từ sáng sớm, với hai môn đệ đi làng Emmau vào buổi chiều và với mười Tông đồ tại nhà Tiệc ly vào buổi tối, để chứng minh là Ngài đã sống lại thật.
Sau khi đã được thấy cả con người Phục sinh của Chúa với những lỗ đinh ở chân tay cùng với cạnh sườn, cũng như thấy Ngài cùng ăn với các ông, lúc đó các ông mới xác tín rằng Chúa đã sống lại. Các ông đã trở nên những chứng nhân trung thành của Chúa phục sinh, và từ đó, các ông đi loan truyền cho mọi người biến cố Phục sinh của Chúa.
Chúng ta không được diễm phúc trông thấy Chúa sống lại như các Tông đồ, nhưng nhờ Thánh kinh, chúng ta tin vững chắc Chúa đã sống lại. Việc Phục sinh của Chúa sẽ là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta. Và từ nền tảng này, chúng ta sẽ loan báo Chúa Phục sinh cho những người chung quanh bằng cuộc sống thường ngày của chúng ta.
+ Bài đọc 1: Cv 3,13-15.17-19
Thánh Phêrô đã làm phép lạ chữa lành người què ở cửa Đền thờ, điều này làm cho nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân dịp này, thánh Phêrô đã giảng cho người Do thái một bài rất hùng hồn. Ngài cho biết rằng phép lạ ngài làm cho người què đi được, không phải do quyền năng hay đạo đức riêng của mình, mà chính do nhân danh Đức Giêsu Kitô mà ông đã chữa lành. Đức Giêsu chính là người mà dân Do thái đã giết đi, nhưng nay Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết.
Sở dĩ người Do thái giết Đức Giêsu là Đấng Messia vì họ không biết. Vì vậy, họ hãy sám hối, từ bỏ tội lỗi và tin nhận Ngài để được ơn cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Ga 2,1-5
Khi hiến mình làm lễ vật hy sinh, Đức Kitô đã trở nên Đấng can thiệp rất thần thế cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha. Nhiều người cho rằng mình đã “biết” Đức Giêsu, nhưng họ đã biết như thế nào? Thánh Gioan Tông đồ giải thích cho chúng ta thế nào là “biết” thật: ”Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình “biết” Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình “biết” Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối”.
+ Bài Tin mừng: Lc 24,35-48
Khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu đã hiện ra trước hết với Maria Madalena, rồi với hai môn đệ đi làng Emmau và với các tông đồ tại nhà Tiệc ly. Những lần hiện ra này là bằng chứng rõ ràng về sự kiện Ngài đã từ cõi chết sống lại. Chính nhóm Mười Một không tin Ngài sống lại, họ còn tưởng Đấng Phục sinh là một hồn ma. Đức Kitô đã phải để cho họ sờ tay chân Ngài và ăn một khúc cá nướng trước mặt họ để họ nhận ra Ngài.
Mối quan tâm đầu tiên của thánh Luca là chứng tỏ rằng Đức Giêsu Phục sinh chính là người mà các Tông đồ đã biết trước, khi Ngài chịu đóng đinh. Thánh nhân nhấn mạnh rằng sự sống lại về mặt thể xác của Đức Giêsu là có thật, nhưng lại giải thích rõ ràng rằng sự sống lại của Ngài không phải là cuộc trở lại với đời sống trần thế. Đức Giêsu đã sống lại với sự sống mới ở bên ngoài cái chết.
Vì thế, tất cả niềm tin của người Kitô hữu dựa trên biến cố Phục sinh này. Các Tông đồ đã chứng kiến tận mắt, nên lời chứng của các ngài rất đáng tin. Đồng thời Chúa cũng trao cho các ông sứ mệnh rao giảng Tin mừng Phục sinh cho muôn dân, để họ sám hối và được ơn tha tội, bởi vì “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24.48).
Làm chứng cho Chúa Phục sinh
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Biến cố này, Gioan cũng thuật lại trong Ga 20,19-23.
Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người: Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với mức độ khác nhau.
Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng mình đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.
Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn Ngài hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất hay linh thiêng, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ vào được.
Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.
Khi các Tông đồ đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi, Chúa mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử:”Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Maisen, các sách tiên tri và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.
Đức Giêsu nói cho các Tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Ngài. Nếu Thánh kinh không ứng nghiệm về Ngài, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Thánh kinh loan báo về Đấng cứu độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4,12). Để thấy rõ như thế, Ngài đã “dẫn giải cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ Thánh kinh”(Lc 24,27). Để có thời gian giải thích, chắc Ngài còn phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là 40 ngày được ghi rõ trong sách Công vụ tông đồ:”Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”(Cv 1,3). Thời gian 40 ngày đã quá đủ để các Tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ khi Ngài sống lại:”Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,47-48).
Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Đức Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Ngài và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử không thấy tội gì. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi đã phạm, họ đã ăn năn sám hối:”Hôm ấy đã có thêm khoảng 3000 người theo đạo”(Cv 2,41).
Trong bài đọc hai, thánh Gioan đã làm chứng về “ Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cho cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.
Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu thế… các Tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực nào hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố:”Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước toà án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khảng khái thưa:”Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chịu chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 Tông đồ, lại có biết bao lớp Tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
III. CHÚNG TA LÀM CHỨNG VỀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH
Đức Kitô đã làm chứng về Ngài đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các Tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Ngài.
Trong sắc lệnh Tông đồ giáo dân của công đồng Vatican II, Hội thánh nhắc nhở cho các tín hữu nhiệm vụ làm tông đồ và làm chứng nhân bởi vì nhiệm vụ này phát xuất từ bí tích Thánh tẩy:
“Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Người. Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa”.
(Sác lệnh tông đồ giáo dân, số 16)
Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh qua hay đã kinh nghiệm. Hay nói cách khác, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã nghe, đã trải qua. Ở toà án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều mắt thấy tai nghe, và phải nói đúng sự thực như mình đã thấy. Chứng nhân càng có uy tín thì lời chứng của mình càng có giá trị, khiến người khác dễ bị thuyết phục. Ngược lại, những người không có uy tín thì khiến những lời nói của mình không có tính thuyết phục, đôi khi lại trở nên phản chứng.
Làm chứng cho Đức Giêsu đâu có phải là chỉ kể lại cho kẻ khác về đời sống của một vĩ nhân đã sống cách đây 2000 năm. Ai cũng có thể làm được điều này. Làm chứng cho Đức Giêsu đâu phải chỉ là xác nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại. Đám lính cánh gác mồ cũng đã làm như thế. Làm chứng cho Đức Giêsu chính là dùng chính cuộc sống của mình để chứng tỏ rằng quyền năng của Đức Giêsu sống lại đã tác động và biến đổi chúng ta một cách lạ lùng nhất, có thể tưởng tượng được. Làm chứng nhân cho Đức Giêsu là để cho Ngài ngỏ lời với tha nhân ngang qua chúng ta, nghĩa là dùng chúng ta để nói với kẻ khác.
Truyện: Làm chứng bằng đời sống.
Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài” Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị phải xử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hoà hợp.
Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu:”Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo chí, phim ảnh, chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình công giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo.
(R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208)
Thánh Phaolô nhận thấy mình có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, nếu không là một điều có lỗi lớn:”Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Nếu muốn rao giảng Lời Chúa thì mỗi người có trách nhiệm phải lắng nghe và thực hành lời Chúa vì không nghe thì làm sao mà biết, không biết thì làm sao có thể rao giảng Lời Chúa bằng cách này hay cách khác cho những người chung quanh. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài bài ngắn, bài hấp dẫn bài buồn ngủ…
Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayern đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau:”Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
“Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự: ”Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn bạn vô cùng”. Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ:”Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng: ”Các con là anh sáng thế gian”. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. (Hạt giống âm thầm, tr 178)
Ta hãy suy nghĩ về đoạn văn trích từ lá thư mục vụ của Giám mục Duval của Pháp:
“Dù có phát biểu khéo léo đến đâu, những tư tưởng trừu tượng cũng khó mà cảm động được lòng người. Nhưng những con người sống động, có khả năng làm cảm động lòng người, những người đó hãy xung phong bước ra. Hãy để cho chân lý trào ra từ cuộc sống của mình, và hãy làm cho quyền năng của mình tương xứng với món quà mà mình trao tặng bằng tình yêu. Lúc đó mọi người sẽ lắng tai nghe, và bình minh của những ngày tươi sáng sẽ bừng lên trên bầu trời của chúng ta”.
Truyện: Gương lành lôi kéo.
Một nhà truyền giáo Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, để nuôi dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau:
– Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời:
– Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
– Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không ai có thể sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hóa tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô hữu.
Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ (Sđd, tr 179).
13. Chúa đã sống lại thật. Alleluia.
Nhưng các ông vẫn còn “nghi” hoài
Việc sống lại từ cõi chết là siêu nghiệm không chứng minh được từ những sự kiện cụ thể (lịch sử). Lúc ban đầu thì quá mới mẻ, xa lạ. Sự kiện mồ trống và vài lần hiện ra chơp nhoáng không chứng minh nổi, nên các tông đồ vẫn hoài nghi. Cho tới khi Chúa lên trới vẫn còn có người hoài nghi.
Ngày nay, sau hơn 20 thế kỷ, sự kiện xem ra còn xa vời hơn. Những cố gắng giải thích cũng vẫn còn để lại “hoài nghi”, vẫn lẩn quẩn trong não trạng tín điều với tiên kiến “Kinh Thánh phải được ứng nghiệm” hay phải được thực hiện, không có cách chứng minh nào thật sự thuyết phục. Phải hiểu đoạn Phúc Âm nầy của Luca thế nào? Trước hết chúng ta xem qua vài điểm chú giải.
– Chúa Giêsu đứng giữa các ông….các ông hoảng hồn tưởng là thấy ma: Cũng như chuyện nghe kể thấy “người chết hay ma hiện về” nên hoảng hốt là tự nhiên.
– Sao hoảng hốt, sao ngờ vực, nhìn chân tay Thầy đây, chính Thầy mà, rờ xem, ma đâu có xương thịt như Thầy đây, rồi người đưa tay chân cho các ông xem: Có lẽ không ai dám rờ. Sợ ma.
– Các ông chưa tin vì vui mừng quá và còn đang ngỡ ngàng: Vui mừng thì tin chứ. Ngỡ ngàng cũng tin chứ. Sao lại chưa tin? Vì tưởng thấy ma mà.
– Người hỏi “anh em có gì ăn không”? Các ông đưa cho người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Nhưng chợt đến chợt đi khi cửa vẫn đóng kín lại giống như ma. Và thật sự sống lại đâu cần ăn.
– Khi còn ở với anh em Thầy đã nói với anh em “Sách Luật Môsê, sách các tiên tri và các Thánhvị nh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”: Đức Giêsu đã thực hiện những gì được tiên báo.
– Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh: Là hoạt động của Đấng Phục Sinh. Đức Giêsu đã nói trước: Nguời sẽ ban Thánh Thần để đưa các môn đệ đến sự thật trọn vẹn, giúp các ông hiểu và nhớ những gì Ngưòi đã dạy. Và Người thực hiện bằng cách nầy.
– Phải nhân danh Người mà rao giảng sự sám hối để được ơn tha tội: Là mục đích chính của sự hiện ra. Nhưng để các ông chịu đi rao giảng và biết rao giảng những gì thì trước hết các ông phải TIN VÀ NHỜ TIN MÀ NHẬN ĐUỢC QUYỀN NĂNG TỪ ĐẤNG PHỤC SINH thì phải làm cho các ông tin Người đã thực sự sống lại.
Điều chủ yếu là tin Chúa đã sống lại thật và vinh quang thì mới đủ thẩm quyền sai đi và quyền năng của Đấng Phục Sinh mới làm cho công việc các ông được sai làm có kết quả mỹ mãn. Các tông đồ có được điều nầy nen ngay lúc bắt đầu đã đạt kết quả lạ lùng. Sự việc đã xảy ra thế nào? Có lẽ cho đến gần đây sự việc mới được nhận biết rõ ràng. Các bằng chứng bên ngoài không bao giờ đủ chứng minh một sự kiện siêu nghiệm quá lơn lao, vượt xa mọi suy luận của lý trí con người. Phúc Âm không thể che dấu sự kiện “các ông vẫn hoài nghi, còn có người hoài nghi, các ông vẫn chưa tin”. Tôma nói khẳng khái “không tin”. Các ông khác thì ấm ớ, không dám nói ra.
Chỉ sự cảm nghiệm bản thân của mỗi người mới làm cho tin và cũng tuỳ sự cảm nghiệm ấy mà tin thế nào. Nó ở trong chính bản thân mình, là chính con người mình. Nó biến đổi con người mình cách lạ lùng thành mới hoàn toàn. Chẳng những chính bản thân nhận biết mà những người nghe rao giảng, được tiếp xúc với cũng nhận ra điều biến đổi ấy một cách thuyết phục “ngày đầu tiên rao giảng có ba ngàn người tin”. Quá ấn tượng. Là công trình của Đấng Phục Sinh. Chỉ những người cảm nghiệm được mới tin và tin theo như đã cảm nghiệm.
Bắt đầu là “lòng chúng ta đã chẳng nóng lên trong ta khi Người giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao”. Hai môn đệ đi về miền quê đã được Luca ghi lại như vậy. Tiếp theo Luca thêm “ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Đó là bắt đầu hoạt dộng của Đấng Phục Sinh nhờ Thánh Thần. Luca cũng cho biết thêm” Người ở lại bốn mươi ngày dạy dỗ các ong đủ mọi điều rồi mới lên trời. Mười ngày sau các ông hợp nhau cầu nguyện và Thánh Thần ngự xuống. Các ông mở cửa, xông ra gặp dân chúng và rao giảng Đức Giêsu mà các ông đã giết treo thập giá đã sống lại vinh quang. Chúng tôi làm chứng. Lời giảng thông minh, mạnh mẽ, can đảm. Mọi người ngạc nhiên và tin các ông vì các ông là bằng chứng
sống động trước mắt mọi người. Hôm đó có ba ngàn người tin và chịu phép rửa. Lòng tin vào Chúa sống lại chỉ được cảm nhận từ bên trong tâm hồn chứ không thể chứng minh từ bên ngoài. Các tông đồ trước hết vì các ông là những người được tuyển chọn, đã ở với Đức Giêsu từ ban đầu, được huấn luyện riêng cách đặc biệt, là chứng nhân nhản tiển mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu, được Đức Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần của Người cho và Thánh Thần đã tác động biến đổi các ông, không đột biến nhưng tiệm tiến trong “40 ngày + 10 ngày”.
Các tông đồ đã làm ra công thức để rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh như sau:”Người vẫn sống, đang hiện diện và đang hoat động bằng THÁNH THẦN”. Không thấy Đấng Phục Sinh (dù có thấy cũng chỉ một thoáng) nhưng thấy hoạt động vô cùng ấn tượng của Thần Khí của Người. Là bằng chứng không thể chối bỏ vì rõ ràng trước mắt và tồn tại kiểm chứng được.
Với con người được biến đổi và cùng với tác động của Thần Khí các ông giải thích những gì Đức Giêsu đã làm và đã dạy và Kinh Thánh với công thức “Đức Giêsu là Tin Mừng, Người làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng và các sách Tân Ước khác cũng là Tin Mừng”. Đức Giêsu là chìa khoá giải thích toàn bộ Kinh Thánh. Người đã thực hiện toàn bộ Kinh Thánh. Công thức thường dùng “để Kinh Thánh được nên trọn hoặc để Kinh Thánh được thực hiện” làm cho nghĩ rằng các thánh sữ lấy những đoạn Kinh Thánh Cựu Ước có liên quan đến Đức Giêsu ráp lại thánh những chuyện về Phục Sinh và cả về Giáng Sinh (không cần có xảy ra hay không). Phải giải thích Kinh Thánh theo những gì Đức Giêsu đã thực hiện. Đức Giêsu là sự giải thích Kinh Thánh.
Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu đã chịu đóng đinh chết thập giá, đã sống lại với niềm tin không gì lay chuyển dù hình khổ hay sự chết và những điều kỳ lạ các ngài làm được nhân danh niềm tin ấy đã tạo ra một cộng đoàn tín hữu ngày càng lớn mạnh rất nhanh dù ngay khi còn trong trứng nước đã bị thế lực hùng hạnh gấp ngàn lần lả Quyền lực của đế quốc Rôma cũng không quật ngả nỗi mà còn ngược lại làm cho lan rộng và tăng số nhanh hơn. Đây còn là dấu lạ lớn làm bằng chứng hùng hồn là CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT. ALLELUIA. Vậy mà ngày nay chúng ta còn chưa tin sao?
14. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ. Lần hiện ra đặc biệt này, Ngài ban cho các ông ơn bình an, soi sáng cho các ông am hiểu Kinh Thánh và ra lệnh cho các ông phải làm chứng nhân về sự chết và sự phục sinh của Ngài.
Sau khi Đức Giêsu bị bắt, các Tông đồ hoang mang lo sợ. Vì thế, hầu hết các ông đều bỏ trốn. Phêrô chối Thầy ba lần. Trên đồi Canvê chỉ còn lại Thánh Gioan, Đức Mẹ và một số phụ nữ. Nỗi hoang mang lo sợ càng gia tăng khi Thầy đã chết và được táng trong mộ. Cụ thể, các ông vào phòng đóng kín cửa lại. Một vài môn đệ thì bỏ về quê. Cũng vì hoang mang lo sợ nên khi thấy Thầy hiện ra thì họ lại tưởng là ma. Đức Kitô Phục Sinh thấu hiểu tình trạng sợ hãi lo lắng của các ông, nên lần hiện ra này Ngài đã ban bình an cho các ông. Ngài nói: “Bình an cho các con.” Được ban ơn bình an của Đức Kitô Phục Sinh, các ông không còn sợ hãi gì nữa. Từ nay các ông mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho Ngài dù phải bắt bớ tù tội và chết chóc.
Ngày hôm nay, Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục ban ơn bình an cho chúng ta. Nhưng để lãnh nhận ơn bình an của Ngài, chúng ta phải giữ mình sạch tội, nhất là tội trọng. Và khi đón nhận bình an của Chúa Phục Sinh, chúng ta phải có trách nhiệm trao ban bình an cho những người xung quanh.
Trong suốt ba năm đi theo Thầy, các Tông đồ đã được Đức Giêsu giảng dạy rất nhiều điều, nhưng hầu như các ông chưa hiểu được bao nhiêu. Có những lần, nghe giảng xong, các ông lại xin Thầy giải thích thêm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu giảng xong dụ ngôn người đi gieo giống, “các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì.” (Lc 8,9). Đức Giêsu đã giải thích cho họ một cách rõ ràng. Khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài, các ông không hiểu nên Thánh Phêrô đã can ngăn Ngài. Vì thế, hôm nay Ngài nhắc lại và mở trí cho các ông hiểu: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh.” Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: “Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại.”(Lc 24, 44-45)
Cũng vậy, khi Đức Giêsu bảo rằng: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Các ông không hiểu lời Ngài nói, nên Người Do Thái mới nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”Nhưng sau này các ông mới hiểu, chính Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói.” (x. Ga 2,19-21)
Ngoài những vấn đề được đề cập trên, còn rất nhiều vấn đề khác, các Tông đồ chỉ hiểu sau khi Đức Kitô Phục Sinh soi lòng mở trí cho họ. Nhờ đó, bốn thánh ký đã ghi lại những lời Đức Giêsu đã nói và những việc Ngài đã làm, đồng thời các ông mạnh dạn giải thích Kinh Thánh cho mọi người.
Sau khi ban bình an và soi sáng cho các Tông đồ hiểu Kinh Thánh, nhất là tin nhận về sự chết và phục sinh của Ngài, Đức Giêsu mời gọi các ông làm chứng về những sự việc đó. Các ông đã vâng nghe lời Đức Giêsu và ra đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Bài đọc I hôm nay cho chúng ta biết, khi thấy dân chúng ngạc nhiên và bàn tán với nhau về phép lạ chữa lành cho người què, Thánh Phêrô giải thích cho họ biết: Phép lạ Ngài làm không phải do quyền năng của mình nhưng là do quyền năng của Đấng Phục Sinh ban cho. Rồi Ngài làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.”(Cv 3,13-15). Sau những lời giảng dạy hùng hồn như thế, Ngài mời gọi dân Do thái: “Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ.”(Cv 3,17-19). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút được khoảng 3000 người trở lại.
Trong bài đọc thứ II, Thánh Gioan cũng làm chứng cho Đức Kitô là Đấng công chính, làm trạng sư cho chúng ta nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta làm chứng cho Ngài bằng cách giữ các giới răn của Người vì “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý.”(1 Ga 2,4)
Mặc dầu các Tông đồ gặp nhiều cấm cách, bắt bớ, tù tội khi đi rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh nhưng các ông luôn luôn can đảm không hề cảm thấy sợ hãi. Chính thánh Phêrô và các Tông đồ khác khẳng định rằng: “phải vâng lời Thiên Chúa còn hơn là vâng lời người đời.” (Cv 5,29). Thực sự như thế, hầu hết các môn đệ đã lấy cái chết của mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Sự can đảm làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh của các Tông đồ cũng là động lực giúp chúng ta chu toàn sứ mạng rao giảng Tin mừng cho mọi người trong thời đại hôm nay.
Chúng ta không được vinh dự gặp Đức Kitô Phục Sinh hiện ra, nhưng qua Kinh Thánh chúng ta tin thật Đức Kitô đã phục sinh. Mặt khác, qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được Đức Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần. Nhờ thế, Chúa Thánh Thần luôn soi sáng cho chúng ta am hiểu Kinh Thánh. Ngoài ra, Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta và sẵn sàng ban ơn Bình an của Ngài cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta cũng có trách nhiệm làm chứng về sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô bằng lời nói và bằng chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin ban bình an cho chúng con, xin soi sáng cho chúng con để chúng con am hiểu Kinh Thánh để từ đó chúng con can đảm làm chứng cho Chúa khắp mọi nơi. Amen.
15. Tình yêu – Tính vững bền và sự đòi hỏi
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu
“Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1 Ga 2,5).
Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư tưởng xem ra có vẻ khá rời rạc. Nội dung gồm chứa những huấn dụ mạnh mẽ, nhưng dường như những tư tưởng đó không được liên kết với nhau chặt chẽ cho lắm. Bài đọc ngắn trong phụng vụ hôm nay cho ta thấy điều này. Nó chất chứa nhiều tư tưởng nhưng đan nối với nhau có vẻ như không được khúc chiết và cũng chẳng mạch lạc. Tư tưởng thứ nhất, thánh tông đồ trình bày: Nếu chúng ta phạm tội, chúng ta có một Đấng Bào Chữa trước mặt Chua Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô – Đấng Công Chính. Sau đó, Thánh Gioan viết tiếp “Những ai không tuân giữ giới răn của Ngài, đó là kẻ nói dối”. Cuối cùng Ngài khẳng quyết “Ai giữ lời Ngài, tình yêu của Thiên Chúa sẽ thực sự nên trọn hảo nơi họ”. Đây là ba tư tưởng xem ra chẳng liên thông gì với nhau cả.
Khi tôi đọc luận văn của các sinh viên và thấy họ viết như thế, tôi sẽ nói các em phải viết lại, diễn nghĩa rõ hơn và nhất là phải nối kết những tư tưởng lại một cách rõ nét hơn.
Nhưng dường như Thánh Gioan tông đồ muốn chúng ta tự làm công việc này cho chính mình. Chúng ta sẽ dễ dàng đan nối các tư tưởng lại thành một hệ thống khi chúng ta nhận ra rằng, chủ đề chính yếu mà thánh Gioan muốn nói tới, chính là Tình yêu. Trong Tin mừng thứ tư, chúng ta thấy rất rõ điều này. Nền tảng thần học căn bản mà Thánh Gioan muốn diễn đạt, nằm trong lời tâm huyết của Đức Giêsu: “ Như thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng phải mến thương nhau” (Ga 13,24). Hãy yêu thương, nhưng phải sao chép lại chính tình yêu của Chúa Giêsu, và đó không phải là một việc giản đơn dễ thực hiện. Tác giả Dostoyevsky trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov cũng đã viết một tư tưởng giống như thế:“Tình yêu được thực hiện bằng hành động là một điều gì rất khó khăn và gian nan, không như tình yêu chỉ có ở trong mơ tưởng”. Tình yêu thực sự phải vươn tới một cấp độ cao hơn, và nó chạm tới chân lý tận sâu thẳm nơi hữu thể con người chúng ta: Bởi vì chúng ta được dựng nên, chính là để yêu thương. Vì lý do này, tình yêu là một huyền nhiệm rất cao đẹp và trong sáng. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể tìm về căn tính và khám phá ra thiện ích đích thực ẩn sâu nơi mỗi người.
Vì vậy, tuân giữ Lời Chúa chính là chúng ta diễn bày tình yêu đối với Chúa, và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa được hiện thực tròn đầy nơi ta. Không tuân giữ giới răn của Chúa, chính là phủ nhận chân lý sâu xa ẩn tàng nơi mình, cũng như phủ nhận sự thật về mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện hữu trong thâm sâu cõi lòng của chính chúng ta.
Trên một bình diện, giới răn của Thiên Chúa được dàn trải qua nhiều dạng thức, từ việc sống ngay thật không gian dối như một nền tảng, đến việc thực hành những điều ngay chính trong cuộc sống đời thường. Nhưng trên một bình diện khác, tình yêu chỉ tóm kết vào một định thức giản đơn duy nhất: “Yêu mến là chu toàn lề luật”(Rm 13,8). Điều này dễ hiểu, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Nơi nào vắng bóng tình yêu, nơi đó không có Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta cho dù bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, nhưng nếu tâm hồn cằn cỗi tình yêu, sự thật sẽ không có nơi chúng ta.
Vì vậy, thực hành tình yêu không phải là một công việc đơn giản. Đó là một mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó chạm tới sâu thẳm hữu thể nơi con người mình. Tình yêu đích thực và tinh ròng không bao giờ là tình yêu nửa vời. Nhìn vào bản thân, chúng ta có thể nghiệm ra rằng trong khi tình yêu của Thiên Chúa rất mực hoàn hảo trong ta, thì nơi con người chúng ta, vẫn còn quá nhiều bất toàn và thiếu xót.
Tuy nhiên, khi chúng ta sa ngã, chúng ta không được tuyệt vọng và buông xuôi, để mặc cho sự dữ tung hoành. Bài đọc hôm nay trấn an và cho chúng ta biết rằng “Chúng ta có một trạng sư bào chữa trước mặt Chúa Cha”. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp, và Ngài sẽ là một luật sư “cãi hộ” cho chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm. Không phải thế đâu. Thánh Gioan muốn nói rằng Đức Giêsu đã tự nguyện hiến tế trên thập giá, và hiến tế đó diễn bày vai trò trạng sư của Ngài. Sự tự hủy ra không nơi Ngài là một quà tặng dâng lên Chúa Cha, thay cho chúng ta. Qùa tặng đó là cách thức diễn bày tình yêu của Chúa, một tình yêu vĩnh cửu và vững bền để cột trói chúng ta với Chúa Cha. Ơn cứu độ ở đây nói lên tính cách trạng sư biện hộ nơi Ngài, để phục vụ cho thiện ích của con người. Hiểu như vậy, chúng ta mới có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện tròn hảo qua hy lễ thập giá. Tình yêu đó được ban trao, và chính Thiên Chúa gọi mời chúng ta đi vào trong quỹ đạo tình yêu của Ngài để sống chân lý sâu xa từ sâu tận trong tâm hồn chúng ta.
Cuộc sống anh hùng không phải là một cuộc sống với những hành động hiển hách được mọi người biết đến và vỗ tay ca ngợi. Song, sự anh hùng thực sự chính là khi chúng ta cho dù sống thầm lặng, nhưng luôn kiên trung trong một tình yêu bền vững.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã tôn phong Ngài tước hiệu tiến sĩ hội thánh. Cuộc sống của Ngài khá dung dị và thầm lặng, nhưng lại rất sâu sa. Ngài đã thuật lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn như sau: “Đây là cách thái mà cuộc sống tôi đã trải qua. Tôi chẳng biết làm những công việc phi thường, những chỉ thực hiện những điều rất bình thường tựa như kết dệt cuộc đời tôi bằng những bông hoa đơn sơ và nhỏ bé. Tôi không bỏ qua bất cứ sự hy sinh bé nhỏ nào mà tôi có thể làm được, tư ánh mắt, từ lời nói, hay cử chỉ. Và tôi luôn thực hiện những hy sinh nhỏ bé ấy bằng một tình yêu lớn lao dành trao cho Chúa.
16. Cho họ xem tay và cạnh sườn
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức Giêsu và về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức Giêsu Kitô.
Theo tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc.24, 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (Lc.24, 40).
Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
Thân phận con người, lúc này biet, lúc khác phân vân nghi ngờ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết lúc khác phân vân nghi ngờ. Vì vậy, Đức Giêsu sống lại, là điều rất mới đối với các tông đồ và con người. Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.
Trong cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi… Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47). Kinh Thánh được một số người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân tộc Do Thái. Đức Giêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Đức Giêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Qua Đức Giêsu, con người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người. Các tạo vật đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó. Những nhân vật đáng kính trong lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, nhưng Đức Giêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu cua Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Kinh Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người. Người ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó. Hôm nay, theo tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Giêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn về Đức Giêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.
III. Thật sư biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài
Niềm tin và cuộc sống phải đi liền với nhau. Niềm tin không chỉ là những điều một người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ. Đức tin không có viec làm là đức tin chết (Gc.2, 17). “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).
Biết Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa, nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người. Cái “biết sống động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác… Tuy vậy trong thực tế, có nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng. Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực sự.
Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ. Các ngài đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã dám chết vì chính đạo. Niềm tin vào Đưc Giêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho Thiên Chúa. Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
17. Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh
Tin Mừng Lc 24:35-48: Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể.
Theo số liệu thống kê của Giáo Hội Công Giáo tính đến cuối năm 2012 số người Công giáo trên toàn thế giới là 1,228 tỷ, Người Công giáo chiếm khoảng 17,5% dân số thế giới, như vậy còn 82,5% chưa nhận biết Chúa Kitô, mặc dầu Giáo Hội đã nỗ lực chu tất sứ vụ loan truyền của mình. Tại sao? Có thể những người Kitô hữu chúng ta chưa loan truyền đúng vè Đức Kitô Phục sinh
Có nhiều người Kitô hữu hiểu rằng, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ được thêm vào, vì thế có người thơ ơ với nhiệm vụ nầy, có người thì coi nhiệm vụ loan báo đơn giản như một việc chỉ đường, hoặc quá khích hơn, người ta coi Tin Mừng như một món hàng đắt giá, để rồi ra sưc quảng cáo với một mục đích là chiêu dụ tín đồ, có người còn giới thiệu Tin Mừng bằng những lời hứa hẹn về một phần thưởng, hay đưa lời ngăm đe bằng những hình phạt… Và vì thế nhiều người khi nghe đến Tin mừng vội vàng quay lưng.
Quả thật, việc loan báo Tin Mừng không là nhiệm vụ được thêm vào nhưng thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu, có nghĩa là, khi được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Kitô qua bí tích Rửa tội, người tín hữu liền được dự phần vào sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó cho Giáo Hội mà không cần bất cứ một sự giao phó nào nữa. Vì thuộc bản chất nên mọi sinh hoạt đời sống của người Kitô hữu đều là lời loan báo Tin Mừng. Nhưng phải loan báo Tin Mừng Phục sinh như thế nào, để mang lại tính khả tín hầu người nghe có thể tin theo?
Tin Mừng Phục sinh đã tường thuật lời của Chúa Giêsu: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Việc loan báo Tin Mừng Phục sinh không là giới thiệu một Đức Kitô viễn vông, mơ hồ, mà ngày nay người ta gọi là “một con người ảo”, nhưng phải là một Đức Kitô phục sinh “có xương, có thịt”. Vâng, trong một thế giới mà sự phát triển khoa học kỹ thuật đang làm mưa làm gió, thì việc sống với thế giới ảo đang là một nhức nhối cho xã hội hôm nay. Có người đã chia sẻ: Tôi có một cô bạn. Cuộc sống trên Facebook của cô ấy cực kỳ hoàn hảo. Cô xinh đẹp, đi du lịch nhiều nơi. Cô share rất nhiều bài viết mang đậm hơi thở chính luận của các nhà báo nổi tiếng. Cô post lên Facebook hàng chục bài phát biểu của các chính trị gia, với caption đều bằng tiếng Anh. Hôm 2/9/2017 , cô được mời đến nhà chồng sắp cưới dùng cơm, nhân tiện bàn luôn chuyện cưới hỏi. Buổi gặp mặt rất được kỳ vọng ấy biến thành cơn ác mộng khi cô phát hiện ra bố mẹ chồng tương lai hóa ra đều là giảng viên của 2 trường đại học rất lớn. Họ trẻ trung, họ đều dùng Facebook và họ đều đọc tất cả những gì cô đưa lên Facebook. Trong lúc trà dư tửu hậu, họ nghĩ rằng cô quan tâm tới lũ lụt, tới nước mắm thạch tín, tới startup, tới những bài phát biểu truyền cảm hứng của ông tổng thống Hoa Kỳ và họ hào hứng kéo cô vào cuộc trao đổi. Nhưng cô không biết gì cả. Đúng nghĩa đen của từ “không biết gì”. Cô chỉ share lên Facebook làm màu. Cô chưa từng nghe ông Tổng thống Hoa kỳ phát biểu. Buổi gặp gỡ ấy kết thúc bằng cái lắc đầu ngán ngẩm của bà mẹ người yêu và cô đủ thông minh để hiểu rằng, sẽ không có thêm buổi gặp gỡ nào nữa. Vâng, sống ảo biến cư dân của nó thành những xác chết biết đi, vô hồn. Vào nhà hàng gọi một món ăn và thay vì mời bố mẹ – những người đang ngồi ngay trước mặt – chúng ta phải chụp ảnh, post Facebook để “mời 500 anh em ăn cùng cho vui”. Thật là nực cười.
Tin mừng Phục sinh cần được loan báo, nhưng sự loan báo không là những thông tin chỉ dẫn trên các phương tiện truyền thông, không dừng lại nơi việc cử hành các nghi thức hoành tráng, trái lại việc loan báo phải được cụ thể hoá qua chứng nhân hiện thực cụ thể. Vâng, Tin mừng Phục sinh không là những lời nói trống rỗng, nhưng phải được trình bày sống động nơi những con người có xương có thịt, qua hoàn cảnh sống “nơi những cha mẹ nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà không bao giờ mất nụ cười của họ” nói như Đức Phanxicô trong tông huấn Gaudete et Exultate.
Vào ngày 23-3-2018 tại cửa tạp hoá Trebes một thị trấn nhỏ ở miền Nam nước Pháp, một tay súng 25 tuổi người Hồi giáo Redouane Lakdim đã giết nhân viên một siêu thị, một dân thường đang mua đồ trong siêu thị và bắt giữ nhiều con tin. Sau khi nhiều con tin được giải cứu duy chỉ còn người phụ nữ bị tay súng giữ lại, và chính Trung tá Arnault Beltrame, một người công giáo, đã đề nghị đổi chỗ làm con tin thay cho người phụ nữ trên, cuối cùng viên sĩ quan đã bi tên khủng bố bắn trọng thương cuối cùng ông qua đời tại bệnh viện. Viên sĩ quan đã ngã xuống, và sự hy sinh của viên sĩ quan là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin vào sự Phục sinh của Đức Kitô. Không có lời loan báo hùng hồn nào về Tin Mừng Phục sinh cho bằng sự hy sinh của viên sĩ quan.
Quả thậy, Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể. Lời loan báo Tin Mừng không chỉ là lời thốt ra từ môi miệng, nhưng được bày tỏ cách trọn vẹn trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, để có thể nói được rằng, niềm hy vọng Phục sinh đã được minh chứng cách cụ thể qua đời sống của nguòi tín hữu. một đời sống được tôi luyện bằng những chiến đấu liên tục, cuộc chiến không chỉ đơn thuần chống lại “thế giới và não trạng thế gian” hay “chống lại các yếu đuối và xu hướng của con người chúng ta… Mà còn là một cuộc chiến đấu liên tục chống lại ma quỷ, hoàng tử của sự ác” (Đức Phanxicô). Chúng ta phải chiến đấu, để công việc loan báo Tin Mừng về sự sống không bao giờ bị dập tắt, trái lại nó được đâm rễ sâu vào trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, một cuộc sống thấm đẫm tình yêu thương được đúc nén từ việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô, Đấng gần gũi với mọi hoàn cảnh của cuộc sống nhân gian, với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói, và như thế người ta sẽ không còn cảm thấy xa lạ khi nghe về Tin Mừng, nhưng hơn hết người ta gặp gỡ được một Đức Giêsu thật gần gũi, thật dễ mến qua những con người cụ thể là chính chúng ta người Kitô hữu. Amen.
18. Sống chứng nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh
Lễ Phục sinh đã qua hai tuần lễ, nhưng chúng ta vẫn còn tiếp tục suy gẫm về sự sống lại của Chúa Giêsu. Chúa nhật 3 Phục Sinh hôm nay, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Kitô sống lại. Trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, Người nói với họ: “Mọi điều viết về Ta trong luật Môisen, tiên tri và thánh vịnh phải được ứng nghiệm”. Người còn nói tiếp: “Có lời chép rằng: Đức Kitô phải đau khổ và đến ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu muốn các môn đệ tuyệt đối chắc chắn là ch1inh Người đã sống lại thật!
Ai trong chúng ta đã không ít một lần sợ ma. Vì thế, có thể nói: Sợ ma không phải là chuyện của trẻ con mà đôi khi ngay cả người lớn cũng sợ ma. Thậm chí ngay cả các Tông đồ ngày xưa cũng sợ ma. Đoạn Phúc âm vừa kể lại, ngay trong buổi tối Phục sinh đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín. Bất chợt Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước kia, đang ở trên thuyền gặp sóng gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một bóng ma đi trên mặt nước. Các ông kêu lên “ma kìa”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc,47-50). Vậy mà Chúa Giêsu Kitô, Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách này đến cách khác để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh hoàng, để giúp cho các ông tin Thầy mình đã sống lại đúng như lời Ngài loan báo. Hiện ra cho các tông đồ lần này, Chúa Giêsu Kitô mời họ nhìn xem và chạm đến tay chân Ngài, để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.
Khi các Tông đồ nhìn thấy Chúa, và các ông tưởng là ma. Có thể chúng ta không thể không thắc mắc vì sao các Tông đồ là những người môn đệ rất thân cận với Chúa, được Chúa Giêsu yêu mến, từng sống ba năm với Chúa Giêsu và hằng ngày đã trò chuyện với Chúa… vậy mà khi thấy Ngài, các ông tưởng là ma. Đáng lẽ ra khi gặp Ngài, các ông phải nhận ra ngay là Thầy mình chứ! Bởi vì các ông đang sống trong tâm trạng thất vọng thật ê chề, thất vọng bởi vì các ông theo Chúa đã hơn ba năm rồi, mà đến nay vẫn còn hai bàn tay trắng, một chút danh dự cũng không có, một chút danh vọng cũng chẳng thấy ở đâu…và rõ ràng trong mấy ngày qua, họ đã tận mắt thấy Chúa bị bắt, rồi bị người ta giết. Thầy mình đã chết và đã được đem chôn rồi. Thế nên giờ đây họ khó mà tin được khi thấy ông Giêsu đó không có chết, mà ông ấy còn sống một cách thật khỏe mạnh nữa, và đang đứng trước mặt các ông đây. Có phải Thầy Giêsu đã sống lại thật? hay ông ấy là ma về nhát mình? Do đó, theo phản ứng tự nhiên, các ông phải buộc miệng kêu lên: Ma kìa! Thế nên, khi hiện ra cho các Tông đo, Chúa Giêsu bảo các ông hãy chạm vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rằng đây không phải ma hay hồn thiên hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có the nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây các tông đồ sẽ là những chứng nhân mắt thấy tai nghe. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Như vậy, Chúa Giêsu Phục sinh hiểu rõ tâm trạng của các Tông đồ, và Ngài đến để gặp gỡ các ông, an ủi các ông, và củng cố đức tin cho các ông nữa. Còn chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày, có khi nào chúng ta bị thử thách về đức tin, hoặc có khi nào chúng ta nghi ngờ về Chúa hay không? Có khi nào chúng ta phải tin một cách miễn cưỡng về những điều chúng ta chưa từng thấy, và rất khó tin như có thiên đàng, có hoả ngục, có đời sau, như có thưởng có phạt. Hay như có Chúa hiện diện trong nhà thờ, hay trong một tấm bánh trắng quá tầm thường quá nhỏ bé như vậy mà chúng ta phải tin là Mình Thánh Chúa? Có lẽ phải có thôi, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, nhiều khi chúng ta đã từng gặp những giai đoạn bảo táp của cuộc đời, khiến đức tin của chúng ta dường như bị khủng hoảng, đôi khi chúng ta cau nguyện tha thiết mà chẳng thấy Chúa nhậm lời, hoặc là khi chúng ta thấy bất mãn về một điều gì đó trong Giáo Hội, trong gia đình chúng ta? Và những bất mãn đó, những thử thách về đức tin đó nhiều khi nó lớn đến nỗi làm cho người đó phải bỏ đạo, phải chống đạo, chống Giáo Hội, phải xa Chúa và họ không còn tin Chúa nữa. Do đó, bài Phúc âm hôm nay giúp chúng ta thấy ý Chúa muốn nhắc nhở chúng ta. Nếu chúng ta muốn tìm lại được Chúa, nếu tôi muốn củng cố lại đức tin của mình, thì chúng ta cũng phải làm theo cách của các môn đệ Chúa Giêsu, đó là phải tìm Chúa trong Lời Chúa, phải siêng năng cùng cộng đoàn cử hành phụng vụ, các bí tích và nhất là Thánh Lễ. Thánh lễ hồi phục, củng cố và giúp chúng ta mạnh mẽ tin yêu Chúa Kitô phục sinh.
Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi lên trời, các môn đệ không còn thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một nga, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các tông đồ luôn được bình an và phấn khởi vui mừng. Phải, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta như là với các môn đệ ngày xưa, có khi gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, đe chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cành của cuộc đời, đẻ với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những người chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Vì thế, mang thân phận là người Kitô hữu, chúng ta hãy sống đạo đích thực, hãy là người mang đầy niềm vui, niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta sẽ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tin Chúa đã Phục Sinh, Ngài đang ở bên chúng con. Chúng con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết can đảm sống và làm chứng cho Chúa giữa lòng đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Phục sinh kêu gọi mọi người sám hối?
Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần hiện ra quan trọng này, chi tiết bên ngoài của biến cố hình như không được các thánh sử quan tâm diễn tả cho lắm; chỉ có tường thuật của Lu-ca là đi vào một số chi tiết để chứng minh nhân vật hiện ra đích thực là Đức Giê-su mà các ông đã từng quen biết. Điều mà các tác giả quan tâm tới nhiều hơn là sứ điệp Chúa Phục Sinh muốn thông đạt cho cả nhóm. Chính Đấng Sống Lại đòi nhóm mười một và toàn thể những ai coi mình là môn đệ của Người phải trở thành ‘chứng nhân về những điều (sư điệp) này’. Không may ngày nay, người ta lại thích nói tới sự kiện phục sinh khải hoàn hơn là đề cập tới sứ điệp của nó, tới độ rất ít khi tín hữu được nhắc nhở hoặc quan tâm tìm hiểu sứ điệp phục sinh thực sự là gì!
Sứ điệp Phục Sinh gồm hai phần chính:
– ‘Kêu gọi sám hối để được ơn tha tội’
– ‘Nhân danh Người rao giảng (điều này) cho muôn dân’
Sám hối để được ơn tha tội: Mát-thêu và Mác-cô đã nói tới nội dung này khi đề cập tới lenh truyền: ‘làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28:19), hay lời giải thích: ‘ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ’ (Mc 16:16). Sứ điệp ‘hãy sám hối’ đã được Gio-an Tẩy Giả từng hô hao từ những ngày đầu, trước cà khi Đức Giê-su xuất hiện công khai, qua nghi thức dìm mình xuống giòng sông Gio-đan. Như vậy, sau ngày sống lại, khi Đức Giê-su Ki-tô long trọng công bố trở lại sứ điệp này thì chắc hẳn nó phai chứa đựng một điều gì hoàn toàn mới lạ và cấp bách. Để có thể hiểu được tầm quan trọng của sứ điệp mà Đức Giê-su đã dày công giảng giải cho các môn đệ hiểu, rằng đó chính là trọng tâm của các sách Ngôn Sứ và Thánh Vịnh… nói tóm lại, của toàn bộ Kinh Thánh, ta cần đi sâu vào nội dung của nó. Đương nhiên sám hối đây không thể được hiểu theo nghĩa ‘cải tà qui chính’ – thuần tính luân lý. Sau biến cố Phục sinh, sám hối càng lộ rõ sứ điệp Tin Mừng của một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, một khám phá và tín thác không ngừng vào Thiên Chúa đầy lòng xót thương “yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một…” Qua biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su mà mười một tông đồ chắc hẳn đã chứng kiến, các ông phải được giải thích cho hiểu ý nghĩa và nội dung của nó. Quả vậy các ông phải tin và trở thành ‘chứng nhân về những điều này’! Phục sinh chính là để hiểu và nắm bắt sâu sắc sứ điệp đã được công bố ngay từ đầu “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nói cách khác, sứ điệp chính yếu và long trọng nhất của Tin Mừng Phục Sinh lại chính là hãy “Sám hối để đươc ơn tha tội”.
Rao giảng cho muôn dân: Bằng các kiểu nói khác nhau (Mát-thêu: ‘Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; Mác-cô: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng; Lu-ca: ‘Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đều từ Giê-ru-sa-lem…’), các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm đều cho thấy phần hai của sứ điệp Phục Sinh là một ‘lệnh lên đường’. Phúc âm Gio-an còn nêu rõ sứ điệp này là chính yếu và quyết liệt hơn hết: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…” Và để chu toàn ‘lệnh lên đường’, đồng thời để có thể ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’, Thánh Thần đã được trao ban cho các môn đệ; ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’ (Ga 20:22), hay ‘Nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống’ (Lc 24:49) theo cách nói của Lu-ca. Nếu Đấng sống lại không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian, thì sứ điệp cứu rỗi của Chua Phục Sinh lại càng không thể bị giới hạn, không những bởi không gian và thời gian, mà còn bởi văn hóa, sắc tộc, truyền thống, thậm chí luân lý, cho dầu có ‘bán khai’ hay ‘man rợ’ tới mấy. Phục Sinh chính là tình yêu cưu độ của Thiên Chúa từ nhân được minh chứng là vô giới hạn, không gì ngăn cản nổi. Lệnh lên đường hay truyền giáo phải dựa trên nhận thức ơn cứu độ phổ quát và tình yêu xót thương của Thiên Chúa vượt xa sự hạn hẹp cua loài người.
Tôi không chỉ ‘mừng’ Chúa Phục Sinh, mà còn phải ‘sống’ Chúa Phục Sinh. Và sống Chúa Phục Sinh trước hết phải là lắng nghe và loan truyền cho mọi người sứ điệp Phục Sinh thật cấp bách của Đức Ki-tô khải hoàn.
Lạy Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh, xin dạy con biết tiếp nhận và sống sứ điệp phục sinh cách ý thức và mạnh mẽ. Trong tư cách là Ki-tô hữu hay linh mục, chính con phải là người đầu tiên sống ‘sám hối’ theo nội dung phục sinh, để có thể trở thành chứng nhân trung thực của sứ điệp cứu rỗi. Cũng xin cho con hiểu được tình yêu cứu độ của Chúa là không biên giới, để con hăng say lên đường gieo rắc tình yêu và lòng thương xót Chúa cho mọi dan nước. Amen.
20. Đời sống chứng nhân – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
***
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh: Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phuc sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói: “Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta”.
Cha Charles de Foucauld quả quyết: “Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động”.
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr. 9, 16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
***
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen.
Anh chị em thân mến.
Nhiều năm trước đây, chắc anh chị em có xem vở kịch của cố soạn giả Lưu Quang Vũ. Vở kịch nói lên tình trậng éo le của một người đã chết, bổng nhiên được sống lại, nhưng không phải với hình hài cũ của mình mà lại với một hình hài được vay mượn cua người khác. Việc phục hồi sự sống của anh đã khiến cho những người thân có những phen vỡ khóc, vỡ cười. Vì thân xác của người nầy, mà tâm trí và phong cách thì của người khác. Chính bản thân anh ta cũng khổ sở vì sự phục sinh của mình. Đó là nội dung của vở kịch:”Hồn Trương Ba, Da hàng thịt.”
Một sự sống mà có lẽ không ai trong chúng ta mong muốn. Sự sống vay mượn của kẻ khác, sống không ra sống, sống mà không thể hiện được hết con người thật của mình. Sự sống chỉ đem lại toàn những đau khổ cho mình và cho người thân.
Các môn đệ Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên bở ngỡ vì sự phục sinh của Thầy mình. Các ông chưa ổn định tinh thần được trước bao nhiêu biến cố dồn dập đến với các ông trong những ngày qua. Niềm vui mừng quá sức, vì sự sống mới của Thầy đã mang đến cho các ông một sức sống mới hoàn toàn. Trước kia, các ông theo Thầy, mặc dù các ông vẫn mang một hình hài thể xác như thế, nhưng tâm hồn các ông hoàn toàn khác. Các ông theo Thầy, nhưng tâm tư mỗi người theo đuổi mục đích riêng tư của mình.
Các ông theo Thầy, nhưng tâm hồn các ông vẫn còn giữ lại cho bản thân mình. Các ông theo Thầy, mặc dù thân xác thì ở kề cận bên Thầy, nhưng tâm hồn thì ở tận mãi nơi đâu, nên những Lời Thầy dạy, chỉ bảo, thông báo trước, các ông nghe mà chẵng hiểu, thấy những việc làm của Thầy, các ông cũng không để tâm suy nghĩ. Chính vì thế. Các ông đã phải trải qua sự thất vọng, vì thần tượng mà các ông tự dựng lên cho mình đã hoàn toàn sụp đổ. Tâm hồn các ông còn bị bao vây bởi những thứ nặng nề khác, nên thân xác mặc dù đã kề cận bên Thầy, nhưng tâm hồn không thể thực hiện được những gì Thầy chỉ bảo. Đó là vì thân xác và tâm hồn không hòa hợp với nhau. Giờ đây các ông mới nhận được sự sống thật, sự sống không còn làm cho các ông phải đau khổ, thất vọng hay sợ sệt nữa.
Đó chính là sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh đã mang lại, nên các ông không thể ngồi yên bất động như con người cũ của bấy lâu nay. Nhưng giờ đây, các ông sống đúng với sự sống mới mà Chúa Kitô đã mang đến, sống đúng với niềm vui mừng mà các ông đang tận hưởng. Tâm hồn và thân xác các ông đã được hòa nhập cùng Một Sức Sống Mới. Chúng ta cũng được sự sống mới từ Chúa Kitô, do các Ngài chuyen đến. Chúng ta cũng có cùng sự sống với Các Ngài, chúng ta cũng có cùng niềm vui mà Các Ngài đã có. Nhưng sự sống của chúng ta có được hoàn toàn đỗi mới như Các Ngài hay không, chúng ta có nhìn thấy được niềm vui mà mình đang hưởng hay không, đó là do mỗi người.
Chúa Kitô đã phục sinh, các Tông đồ đã làm chứng và đã truyền lại. Chúng ta đã nhận được sự sống mới, chúng ta đang sống với sức sống mà các Tông Đồ đã vâng lời, làm chưng và truyền lại. Chúng ta đang tận hưởng niềm vui Phục Sinh. Nhưng sao dường như trong con người chúng ta có hai cách sống hoàn toàn khác biệt nhau: Có những lúc, chúng ta muốn mình là một người tốt, nên cũng cố gắng đỗi mới cuộc sống cho tốt hơn, giúp đỡ những người chung quanh, yêu thương mọi người, thi hành những việc đạo đức…
Nhưng cũng có những lúc, chúng ta sống hoàn toàn trái ngược với những gì mình đã tâm quyết, trái ngược với nhưng điều lương tâm nhắc nhở. Lúc đó, đôi lần chúng ta cũng cảm thấy khó chịu khi có ai dám khuyên bảo.
Như thế, đời sống mới, đời sống của Chúa phục sinh lại phải ỏ nơi một thân xác chưa được đỗi mới. Như thế sự phục sinh, sự sống mới lại phải cư ngụ trong một thân xác như thân xác của các Tông Đồ trước khi Chúa chịu đóng đinh trên Thập Giá sao? Như vậy, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ đã nói tiên tri thật chính xác về bản thân chúng ta rồi đó, và chúng ta thật sự là một con người, nhưng: Hồn thì của anh chàng Trương Ba tài hoa tế nhị, mà thân xác thì lại là một anh Hàng Thịt thô thiển. Như vậy việc Chúa chịu chết và sống lại, ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào, và chúng ta đã làm chứng về sự Phục sinh trong đời sống của mình ra sao.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết đỗi mới đời sống, để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
22. Lời chứng của các Tông Đồ – Anmai, CSsR
Thánh Luca vừa trình bày cho chúng ta trình thuật sau cùng của Ngài. Qua trình thuật này chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi vào trong sự viên mãn của mầu nhiệm Phục Sinh. Trình thuật Chúa Giêsu dẫn đưa các môn đệ như thế nào, chúng ta hãy nhìn đến ý hướng biên soạn của Thánh Luca. Thánh ký kết cấu trình thuật như sau:
– Hiện ra cho các môn đệ (c. 36-43) sau khi đã hiện ra cho Simon (c. 34) cũng như cho hai môn đệ Emmau – (c. 13-35), lần này Chúa Giêsu tỏ hiện cho số môn đệ đông hơn (dĩ nhiên trong đó có nhóm Mười một). Nhấn mạnh cho tất cả thực tại tỏ tường của sự sống lại của Người.
– Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh thánh, trao sứ mệnh làm chứng nhân cho sự Phục sinh của Người, cùng với lời hứa ban “mãnh lực Trên ban” (c. 44-49).
– Thánh Luca kết thúc Tin mừng với bối cảnh Thăng thiên: Đức Chúa Giêsu tỏ lộ vương quyền của Người và các môn đệ nhận biết sự khải hoàn uy nghi đó (C. 50-53).
– Ngoài ra, chúng ta còn ghi nhận rằng: trình thuật sau cùng này rất gần gũi với biên soạn của Thánh Gioan ở chương 20,19-29. Cả hai thánh ký đều có cách trình bày giống nhau về thân xác Phục sinh của Chúa Giêsu, hoặc cả hai sử dụng một nguồn truyền thống chung hoặc Thánh Luca lấy nguồn từ truyền thống Gioan.
Thân xác phục sinh của Chúa Giêsu được miêu tả như là không còn lệ thuộc vào quy luật vật lý bình thường: Người hiện đến khi cửa đóng (x. c. 36) “bỏ họ mà biến mất” (c. 31). Tuy nhiên, đó cũng là một thân xác thực sự của con người: Người tiến lại gần bên họ (c. 15) chuyện trò hỏi thưa (c. 17; 25) cầm bánh bẻ ra (câu 30) hoặc cùng ăn cùng uống với họ (c. 43) v.v… Cách diễn tả như thế chắc chắn chịu ảnh hưởng sâu xa bởi truyền thống Giáo hội sơ khai, trình bày một Chúa Giêsu cùng ăn cùng uống với các môn đệ sau khi Người sống lại (x. Cv 10. 36-43). Nhất là trong bối cảnh gắn liền với văn hóa Do Thái. Đối với người Do Thái, với não trạng thực tế, thì chuyện không có xác thể đó là thứ ma quái: chứ không phải là con người sống động.
Cách trình bày đó dĩ nhiên bao hàm ý hướng biện giáo cho mầu nhiệm phục sinh: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại thực sự. Chính Người là Con Thiên Chúa làm người, đã từ cõi chết sống lại. Và Người đang sống.
Ý hướng biện giáo này càng là một dữ kiện dễ hiểu đối với Tin Mừng Luca nhằm gởi cho độc giả Hy Lạp. Người Hy Lạp chấp nhận sự bất tử của linh hồn song không tin có sự sống lại của thể xác. Chính vì thế Thánh Luca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất tới thực tại thể xác của Chúa Giêsu.
Họ còn đang nói, thì Người đã đứng giữa họ (c. 36-43). Các môn đệ kinh hoàng và khiếp sợ trước sự hiện ra bất ngờ của Chúa Giêsu. Phản ứng này có phù hợp với dữ kiện ở câu 34 không? Ở đó tất cả đều được loan báo rằng: “Thực thế, Chúa đã sống lại và hiện ra cho Simon”. Tại sao bây giờ họ kinh hoàng khiếp đảm?
Họ nghe nói, nhưng điều đó chưa đủ. Cũng như nơi trình thuật Emmau, cần phải có một cử chỉ, hay một lời từ phía Đấng Phục Sinh, trước khi các môn đệ có thể nhận ra Đấng Phục Sinh. Hay nói một cách khác, để chấp nhận mầu nhiệm phục sinh, cần phải có đức tin (cần được ban cho từ Thiên Chúa). Các thứ bằng chứng hay lời thuyết phục, loan báo v.v… chưa đủ. Và “ân huệ” từ Chúa Giêsu được ban cho các môn đệ là: “Hãy coi tay Ta, chân Ta. Chính là Ta đó. Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có xương có thịt như các ngươi thấy Ta có” (c. 39; x. Ga 20,20: tay và cạnh sườn).
Còn họ “vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được” (câu 41). Hạn từ apo tês kharas (= praegaudio, mừng vui quá) diễn tả một hạnh phúc, một niềm vui không ngờ được. “Họ không thể tin mắt họ”. Co thể đây là một cách diễn tả nhằm biện hộ cho sự cứng tin của các môn đệ (x. Lc 22,45).
Với một cử chỉ thân tình quen thuộc của Thầy và trò trong hành trình loan báo Tin mừng cũng như đầy lòng chiếu cố, Chúa Giêsu đã ăn cá nướng trước mặt các môn đệ để minh chứng cho các môn đệ rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Luca cũng có trong ý nghĩ cái ý nghĩa “thánh thể” của “bữa ăn” này (x. Cv 1,4; Lc 24,30). Sự hiệp thông ở đây với Đức Kitô trong khung cảnh một bữa ăn thân tình, sự hiệp thông tronh tình huynh đệ và diễn tả sự gặp gỡ của đức tin nơi Thánh thể.
Một thân xác phục sinh không còn cần thức ăn; nhưng điều đó không muốn nói rằng thân xác vinh quang không thể “thẩm thấu” đồ ăn của uống. Phần trình thuật này của Thánh Luca (cũng như của Thánh Gioan 20,19t) được miêu tả như để minh chứng rằng: sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện vật lý; Đức Kitô phục sinh khong phải là thứ ma quái hay hồn thiêng song là một ngôi vị thực sự.
Không phải thời Chúa Giêsu và các môn đệ, mãi mãi muôn đời có quá nhiều lý luận bài xích cho rằng: các môn đệ lúc đó đã bị lừa gạt bởi những cảm xuc quá mạnh hoặc bởi những tưởng tượng đầy ám ảnh. Trình thuật này của Thánh Luca là câu trả lời cho sự đối kháng đó. Chúng ta vừa nghe Thánh Luca trình bày cho thấy: các môn đệ hoàn toàn không phải là bị ám ảnh, hay la mộng mị như những người không tin thường hay nhạo báng, ngược lại là đúng hơn; và dù có nghi ngờ, họ đã đi đến chỗ xác tín rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Thật ra mà nói thì các môn đệ ngày xưa cũng là con người xác thịt như chúng ta, đâu có dễ dàng gì mà tin một con người đã chết thật mà nay lại sống lại thật với đầy đủ cái thân xác cũng ăn cũng uống như con người. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã sống lại thật và các môn đệ đã tin thật. Vì tin cũng như nhận được ân sủng từ Chúa Thánh Thần do Chúa Giêsu thương ban nên lòng tin của các ông tưởng chừng như tan tành theo mây khói nhưng đã được củng cố một cách mạnh mẽ hơn trước.
Chúng ta nhớ lại hình ảnh của một Phêrô nhát đảm nhưng sau khi chân nhận mầu nhiệm Phục Sinh, Phêrô đã mạnh mẽ lên đường đi rao giảng Tin mừng Phục Sinh ấy. Không chỉ rao giảng, Phêrô còn minh chứng quyền năng Chúa Phục Sinh trong chính hành động chữa người què. Anh què vừa đi vừa nhảy nhót vừa ca tụng Thiên Chúa. Như sách Công vụ tông đồ thuật lại: “Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thơ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh. Anh cứ níu lấy ông Phê-rô và ông Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới các ông tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn” (Cv 3, 9-11).
Hôm nay, Thánh Phêrô, đại diện cho các tông đồ đã minh chứng cho những người Ngài rao giảng về cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Ngài. Ngài minh chứng cho những người ấy cũng chính là Ngài minh chứng cho chúng ta. Ngoài ra, Ngài còn cảnh báo cho chúng ta về những hành vi của chúng ta vì không hiểu biết và Ngài cũng mời gọi chúng ta sám hối và trở lại với Thiên Chúa để chúng ta được Thiên Chúa xoá bỏ tội lỗi.
“Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. “Thưa anh em, giờ đay tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em”. (Cv 3, 13-19).
Không chỉ tông đồ Phêrô mà cả môn đệ Chúa yêu trong thư thứ nhất của Ngài mà chúng ta vừa nghe đay, Ngài cũng đã nhắc nhở và cảnh báo chúng ta.
“Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa”. (1 Ga, 2, 5)
Như vậy, chúng ta thấy lòng tin của các Ngài. Nhiều người phản bác lòng tin vào Chúa Phục sinh. Như chúng ta thấy đó, lính canh đã nhận tiền của các quan để loan báo rằng “môn đệ của ông ấy đến lấy xác ông ấy”. Dẫu phải đối kháng với những người không tin mà còn chà đạp lòng tin nữa nhưng lòng tin của các môn đệ vẫn kiên vững.
Các ngài đã tin, đã minh chứng lòng tin ấy cũng như cảnh báo cho chúng ta về thái độ sống của chúng ta. Chúng ta như thế nào khi đứng trước lời minh chứng ấy. Chúng ta có tiếp tục con đường cũ của những người Do Thái kém tin vào Chúa hay là chúng ta tin Chúa như các môn đệ đã tin.
Chắc chắn lòng tin của chúng ta ngày hôm nay cũng bị thử thách như các môn đệ ngày xưa vậy. Chúng ta vẫn bị giằng co chứ không đơn giản chút nào. Chúng ta thấy các tông đồ ngày xưa loan báo và minh chứng về một Đức Giêsu Phục Sinh không đơn giản vì lẽ các ngài bị chống đối, bị chà đạp. Lòng tin của chúng ta ngày hôm nay cũng bị giằng co, chống đối chà đạp
Nếu trả lời là tin, chúng ta hãy diễn tả lòng tin ấy bằng lối sống thường nhật của mỗi người chúng ta vào Chúa, Chúa thì lại hiện diện nơi chính anh chị em đồng loại.
Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho những con người yếu đuối của chúng ta.
Xin các thánh tông đồ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta để chúng ta ngày mỗi ngày tin vào lời chứng của các môn đệ về Chúa hơn cũng như xin thêm lòng mến để chúng ta diễn tả niềm tin một cách thực tế trong cuộc đời của chúng ta.
23. Danh Chúa Giêsu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã thường sai các sứ thần, sứ giả, các tiên tri và cac tổ phụ cha ông để truyền dạy về mầu nhiệm ơn cứu độ. Khi thời đã mãn, Thiên Chúa sai chính Con Một Ngài là Đức Giêsu xuống thế để mạc khải về Nước Trời. Đức Giêsu là Chúa, qua Ngài muôn loài được tạo thành. Danh thánh Chúa Giêsu là danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu: “Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2,10). Danh Chúa Giêsu có quyền lực biến đổi và chữa lành mọi vết đau thương cả hồn lẫn xác. Trong tất cả các lời cầu nguyện chính thức của Giáo Hội đều kết thúc bằng lời cầu: Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết, các Tông đồ đã chứng kiến, gặp gỡ và cùng ăn uống với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã minh chứng rằng Ngài không phải là ma hay bóng hình, mà là người sống thật. Chúa Giêsu đã chỉ cho các ông thấy dấu đinh nơi tay chân và cạnh sườn bị đâm thủng. Chúa đã cùng đồng hành trên đường, đối thoại với hai môn đệ và bẻ bánh phân chia. Niềm xác tín vững vàng, các tông đồ đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng, cho dù đối diện với muôn vàn trở ngại khó khăn. Các Tông đồ đã nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân. Ông Phêrô nói với dân chúng: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38).
Qua thánh giá, Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù là tội lỗi và ma quỷ. Thánh giá là chìa khoá mở cửa để vào Nước Trời. Triều thiên vinh quang phải đi qua thánh giá. Chúa Giêsu đã giải thích cho các Tông đồ con đường thánh giá phải đi qua để vào Nước Chúa. Ngài trao ban cho các ông quyền lực để thắng vượt tội lỗi và sợ hãi. Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ hãy làm nhân chứng về sự sống lại của Ngài cho mọi người. Chúng ta nghe và đọc nhiều bài tường thuật rất đơn sơ, chân thành về sự kiện Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các bà, các tông đồ, môn đệ và nhiều người khác. Chúa hiện ra với mỗi người qua mỗi hình thức trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Mỗi lần Chúa hiện ra đều có ý minh chứng và củng cố thêm lòng tin của các môn đệ vào sự sống lại.
Các môn đồ sống với tâm hồn rat đơn sơ chất phác. Những thắc mắc, ngờ vực và lo âu của các môn đồ là rất thật. Sau khi Thầy của mình đã bị giết chết và chôn trong mộ đá, các môn đồ sống trong tinh thần hoang mang lo sợ và bỏ đi tản mác. Có những mon đồ chán nản bỏ về quê nhà. Trên đường về làng Emmaus, Chúa Giêsu phục sinh đã xuất hiện như người khách lạ cùng đồng hành với các ông để giải thích Kinh Thánh và mở con đường mới dẫn vào Nước Trời. Thật là nhiệm mầu, Chúa đã sống lại rồi, đâu ai có thể gây hại gì cho Chúa nữa. Đôi khi tôi tự hỏi: Sao Chúa không ra mặt công khai công bố tin vui và quy tụ mọi người về một mối? Chúng ta cũng nhớ rằng sứ mệnh rao truyền Tin Mừng cua Đấng Messia thì âm thầm và ẩn giấu. Tư tưởng và đường lối của Chúa thì không phải của loài người.
Thiên Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ. Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chúa muốn gặp gỡ với từng tâm hồn. Chúa mở lòng cho mỗi người có cơ hội để cảm nhận được tình Chúa. Nước Trời như hạt cải bé nhỏ được gieo trồng, đâm chồi nẩy lộc và phát triển. Lời giống Lời Chúa cứ tiếp tục tung gieo trên khắp cánh đồng. Những tâm hồn vui vẻ đón nhận và chăm nom vun tưới, hạt giống sẽ sinh hoa kết quả. Khởi đầu Giáo Hội, với con số rất khiêm nhường, chỉ có 12 tông đồ, trong đó một vị đã bỏ cuộc và cùng với 72 môn đệ, các bà đạo đức, một số người than thiện cảm tình theo Chúa. Họ là nhóm nòng cốt. Chúa Phục Sinh đã trao quyền cho các vị ra đi làm nhân chứng và rao giảng Tin Mừng thống hối. Hầu hết các môn đồ đã lấy mạng sống mình để minh chứng niềm tin vào Chúa Kito sống lại.
Thánh Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng sự thật: Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi. Và các tông đồ đã làm chứng rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Giờ đây các ông chỉ lấy danh Người mà làm các phép lạ chữa lành. Phêrô cũng thành thật chia sẻ rằng chúng tôi không dùng quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chính mình mà làm các sự lạ. Khi chữa lành cho anh què tàn tật, ông Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Tất cả năng quyền được trao ban cho các ông đều nhờ qua Danh Chúa Giêsu Kitô. Mọi sự đều phải quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Ngài là đầu của Nhiệm Thể.
Chúa Giêsu đã sai các Tông đồ ra đi làm nhân chứng và truyền rao ơn cứu độ. Các Tông đồ đã xả thân mình vì đức tin. Với một sức mạnh thúc đẩy nội tâm, các ông không còn rụt rè, sợ hãi nhưng kiên vững xác tín rao giảng về cuộc đời của Chúa. Chính Chúa là lẽ sống, là đá tảng và sức mạnh. Tất cả mọi quyền lực thế gian, áp đặt của kẻ thù, bắt bớ, tù tội, gươm giáo và chết chóc không làm lung lạc niềm tin. Các tông đồ vững mạnh tuyên bố rằng: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4,10).
Thánh Phaolô, vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn trong Đức Kitô, cũng mạnh dạn tuyên xưng danh Chúa: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này! Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất” (Cv 16,18). Nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh, mọi quyền lực thế gian phải quỳ phục. Hãy tự vấn xem có khi nào chúng ta thực tình dùng Danh Thánh Chúa để chế ngự các nết xấu, xua trừ ma quỷ hay làm một việc gì tốt không? Nhiều lần chúng ta đã chối từ, lẩn tránh và ngại ngùng tuyên xưng danh Chúa. Rất thường chúng ta không dám tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô nơi công cộng. Đôi khi chúng ta không dám làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng mot Chúa Ba Ngôi nơi bàn ăn. Chúng ta giả vờ sống như những người không tin. Hoạ theo những thói tục hư đốn, truỵ lạc, đàm tiếu, gian dối và tỏ ra mình sành chơi, sành điệu không thua kém gì người không biết Chúa.
Nhìn vào cuộc sống của người Kitô hữu, chúng ta phải chân nhận rằng đã có quá nhiều lần chúng ta phân rẽ chi thể mầu nhiệm của Chúa. Chúng ta dựa vào niềm tin để đả phá, ghen ghét và xa tránh nhau. Lời của Thánh Phaolô nhắc nhơ: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1,10). Sống tinh thần của Chúa Kitô Phục Sinh là sống tinh thần yêu thương trong an bình. Nhân danh Chúa Kitô, chúng ta là sứ giả của hoà bình, là nhân chứng của tình yêu và là môn đệ của sự khiêm nhường phục vụ.
Lạy Chúa, xin đoái nhìn đến đoàn con của Chúa. Nhờ Mầu nhiệm Vượt qua, Chúa đã biến đổi tâm hồn và thân xác chúng con. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô sống lại, để mai sau cùng chung hưởng vinh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một thấy cảnh tượng các Tông Đồ tụ họp nhau trong căn phòng với tất cả các cánh cửa đều đóng kín, vì lo sợ, tâm hồn họ đã bị tổn thương kể từ khi Chúa Giêsu bị bắt và chịu chết. Nhưng Chúa Giêsu hiện ra, Ngài ban bình an và thổi một nguồn sống mới cho họ. Chúa Giêsu cũng làm như thế cho cúng ta, chúng ta hãy biết mở lòng ra để đón nhận quà tặng mà Chúa Phục Sinh gởi đến.
Trong bài đọc I, Phêrô đã thể hiện một sự can đảm lạ thường khi ông đối mặt với những người có liên quan đến cái chết của Chúa. Ông tuyên bố một cách xác tín rằng: họ đã được tha vì họ không biết việc họ làm. Ở đây, ông đã khơi gợi để họ nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho cúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Thánh nhân cũng thôi thúc, mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để được tha tội.
Trong Tin Mừng, thánh Luca nhấn mạnh rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông đồ xem thấy cũng chính là Chúa Giêsu ngày xưa đã từng chung sống với họ. Thân xác Ngài đã được Phục Sinh thật sự nhưng không phải trở về với cuộc sống trần thế, Chúa Giêsu Phục Sinh với một cuộc sống mới không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian, đặc biệt là cái chết.
Nhờ liên kết từ những đoạn khác nhau của sách các tiên tri mà người Kitô hữu hiểu và chấp nhận: Đấng Messia chịu đau khổ là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế thánh Luca đã viết, Chúa Phục Sinh đã giải thích Kinh thánh, mở lòng mở trí đe các Tông Đồ hiểu lời Kinh thánh đã tiên báo về Người: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới bước vào vinh quang. Và Ngài cũng trao sứ điệp này cho các tông Đồ hãy đi kêu gọi mọi người sám hối để được tha tội. Và chính các ông làm chứng về Chúa Phục Sinh cho muôn dân.
Qua ba bài đọc trên, chúng ta có thể rút ra một bài học trong tuần 3 PHỤC SINH: Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn mời gọi chúnng ta hãy làm chứng cho Ngài trước mặt thiên hạ trong cuộc sống hôm nay.
Giống như các Tông Đồ, chúng ta cũng lo lắng, sợ hãi nhiều điều. Có lẽ, điều làm cho mỗi người chúng ta sợ nhất trong cuộc sống hôm nay là: sợ hy sinh, sợ thiệt thòi… vì làm chứng cho Chúa thì tôi phải hy sinh, phải quảng đại và phải nhường nhịn người khác. Tại sao tôi phải sống vì người khác trong khi người ta chỉ biết sống cho riêng mình? Cái chết và sự Phục Sinh Chúa Giêsu là câu trả lời xác thực nhất.
Nhưng Chúa ở đâu mà tôi không cảm nhận được? Chúa không ở xa ta, nhưng ngài vẫn luôn bên cạnh dù giác quan ta không cảm thấy Ngài. Vì mắt chúng ta bị che khuất như hai môn đệ trên đường Emau. Nhưng Lời Chúa và Thánh Lễ sẽ mở mắt để chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sông và trong tha nhân.
Nếu chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh thì cuộc đời chúng ta sẽ khác, sẽ thay đổi như các Tông Đồ và các môn đệ. Vì Chúa Phục sinh sẽ ban bình an cho ta và ngài se giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi để chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Nhưng Tin Chúa thì phải giữ Lời Chúa. Như thánh Gioan đã nhắc chúng ta trong bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa đúng nghĩa là tuân giư giới răn của Ngài.
Lạy Chúa! Chúa vẫn luôn hiện diện bên con mọi nơi, mọi lúc. Nhưng vì lòng tin con chưa đủ mạnh để nhận ra Chúa luôn đồng hành với con trong cuộc sống. Xin cho chúng con mỗi lần tham dự Thánh thể hay đọc Lời Chúa là chúng con gặp được Chúa giống như hai môn đệ trên đường Emau ngày xưa.
25. Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Chúng ta có thể gồm tóm các bài Phụng vụ hôm nay vào trong hai chữ: BẺ BÁNH. Bẻ bánh là gì? La cầm bánh bẻ ra và chia cho người khác. Bẻ bánh là chia sẻ.
Trong một cuộc du ngoạn dưới nắng hè, chúng ta tìm một chỗ bóng mát, ngồi lại với nhau, cùng chia sẻ lương thực, thức ăn nước uống, để bồi bổ thể xác. Trong Giáo hội tiên khởi cũng như trong Giáo hội ngày nay, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, chúng ta họp lại với nhau để làm lại việc quan trọng là chia sẻ hay bẻ bánh Lời Chúa. Vì chia sẻ hay bẻ bánh Mình và Máu Thánh Chúa trong phép Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn.
Các bài đọc Phụng vụ hôm nay minh chứng cho chúng ta hai điều đó. Trong bài đọc thứ nhất chúng ta nghe Thánh Phêrô bẻ bánh Lời Chúa cho dân chúng. Bài giảng thật súc tích, ngắn gọn dựa trên các điểm sau đây: Chúa Giêsu Nagiarét chính là Con Thiên Chúa, nhưng anh em đã chối bỏ Đấng Công Chính, Đấng ban sự sống và giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Vậy anh em hãy trở lại để được ơn tha thứ. Đó là bài giảng đầu tiên và là khuôn mẫu cho các bài giảng thuyết.
Trọng tâm các bài giảng là mầu nhiệm Chúa đã chết, “Chính Ngài là của lễ đền tội không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế giới” (Gio 2-5…) và Ngài đã Phục sinh sống lại. Giáo hội, theo Luca cho biết, đã ý thức ngay từ đầu việc Chúa Phục sinh, bằng ba lối dẫn nhập này: một là lời cung chứng của các Tông đồ. Các ông không bao giờ nghĩ tới sự việc sẽ xảy ra như vậy. Họ tỏ ra ngờ vực là khác. Luca nhấn mạnh đến thái độ của họ khi nhìn thấy Chúa hiển linh: “họ ngạc nhiên, bối rối lo sợ, nghi ngờ tưởng là bóng ma”. Nhưng roi họ mới nhận thức đó là sự thật; hai là nhờ sự suy niệm Kinh Thánh, mà Chúa đã dạy cho họ trên đường Emmaus (24, 25-27) cũng như cho tất cả (24, 44-47); ba là nhờ thực hành nghi thức Thánh Thể. Hai môn đệ đã nhận ra Ngai khi bẻ bánh (24,35) và cộng đoàn tiên khởi ân cần tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể (Cv. 2,42 và Icor. 10,46). Ba lối dẫn nhập nhưng cùng đi về một hướng.
Giáo hội có bổn phận “bẻ bánh Lời Chúa” thì chúng ta người tín hữu có bổn phận nhận lãnh Lời Chúa, lắng nghe và thực hành. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ Lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa, qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài, hoặc giảng buồn ngủ. Thánh Vinh Sơn Ferrier giảng 20.000 ngàn bài và mỗi bài không dưới 3 tiếng đồng hồ. Thánh Phaolô xưa cũng giảng dài, vì Ngài tự cho là lỗi bổn phận: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Lời Chúa”. Tại Troy, Ngài giảng từ chiều tối đến nửa đêm. Có anh chàng ngồi trên cưa thành lầu cao, ngủ gật té chết, Ngài làm cho sống lại và tiếp tục giảng cho đến sáng. Anh em cũng hãy thông cảm với người rao giảng Lời Chúa. Thánh Phanxicô Balesiô sau bài giảng đầu tiên đã phải nằm liệt giường vì lo sợ. Nhưng rồi Ngài trông cậy Chúa và Ngài giảng với tất cả tâm hồn; Ngài định nghĩa “nhà giảng thuyết là người lấy tâm hồn mình và ném vào tâm hồn thính giả”. Giáo luật dạy Linh mục phải dọn kỹ càng, trình bày thích hợp với điều kiện thính giả và nhu cầu thời đại (GL 769) và buộc phải giảng lễ trong ngày Chúa nhật (GL. 767-2) thì Giáo dân có trách nhiệm phải lắng nghe và tuân giữ các điều mà chủ chiên tuyên giảng với tư cách là thay dạy đức tin (GL. 212-1).
Việc quan trọng thứ hai mà Phụng vụ gợi ý hôm nay là việc bẻ bánh Thánh và chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ. Ngày Chúa nhật là ngày mà Giáo hội dạy chúng ta đi tham dự Thánh lễ và kêu gọi chúng ta chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa, của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Hai phần ba thế giới đang đói vì thiếu của ăn thì có bao nhiêu người cũng đang đói Chúa. Thánh Lucianô, Giám Mục Nocomedia, bị bắt giam trong tù. Giáo dân lo lót lính canh và mang lễ vật vào thăm. Ngài khuyên họ can đảm giữ vững Đức Tin. giáo dân quây quần xung quanh Ngài và nói: Chúng con đói Chúa. Không có nơi thuận tiện làm lễ, Ngài liền nằm ngửa dưới đất, đặt của lễ trên ngực và làm lễ để cho giáo dân được rước Chúa.
“Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con” (Đáp ca).
(Suy niệm của Lm Phêrô Hồng Phúc)
Trong suốt những lần hiện ra cùng các tông đồ, luôn luôn, những lời chào chúc đầu tiên của Chúa Giêsu là: “Bình an cho các con”. Đây là những gì mà khi trao sứ vụ cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã từng dạy các ông: “Đừng mang bao bị, tiền túi dọc đường nhưng vào làng nào, thành nào, các con hãy chúc bình an cho người ta”.
Dường như, Chúa muốn dạy cho các tông đồ rằng: “Kho tàng của các con duy nhất là sự bình an, trao ban cho những nơi các con đến” và mùa Phục Sinh này, chúng ta được chứng kiến Chúa Giêsu đã trao ban kho tàng ấy cho các ông: “Bình an cho các con”. Bình an vượt trên những sợ hãi, đóng kín cửa trong nhà; bình an để các ông có thể yên tâm ra khơi, cho dẫu cả đêm không bắt được con cá nào; rồi bình an của Chúa đến, sự hiện diện của Chúa sẽ làm cho các ông được đầy thuyền cá lớn. Hơn nữa, sự bình an của Chúa hôm nay còn trao ban cho các ông một sứ mệnh rất lớn lao: “Các con sẽ là chứng nhân những sự kiện đó”. Từ đây, bài học không còn là lý thuyết nhưng là chứng từ của cuộc sống về Chúa Kitô Phục Sinh. Với chứng từ này, các tông đồ tiếp tục trao ban bình an cho thế giới. Sự bình an vượt trên mọi sợ hãi, âu lo, trao ban niềm hy vọng và kiến tạo hạnh phúc cho thế giới. Chứng từ về Chúa Kitô Phục sinh là một chứng từ mạnh mẽ nhất về sự chiến thắng thế gian, chiến thắng tử thần. Chứng từ Phục Sinh mở ra cho chúng ta viễn ảnh về sự sống đời đời mà chúng ta được mời gọi sống trong sự sống ấy. Hay nói một cách cụ thể hơn là sống trong sự sống của chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Yêu thương, hiệp nhất và vĩnh cửu.
Các tông đồ là những người còn phân vân không phải nghi ngờ Chúa, nhưng nghi ngờ về giác quan của mình, về mắt mình có thể nhìn sai, về trí tưởng tưởng của mình có thể vẽ ra những gì là “tự kỷ ám thị”. Chúa Giêsu đã ăn trước mặt các ông để làm chứng cho các ông rằng: “ma đâu có xương thịt như các con thấy thầy có đây”. Chúa Giêsu ăn trước mặt các ông không phải vì nhu cầu đói, không phải vì nhu cầu phải ăn mới sống nhưng ăn để làm chứng sự hiện hữu của Chúa trong con người của Giêsu đã từng bị đóng đinh, đã từng bị giết chết.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các tông đồ rằng: Chúng ta ăn để sống và sống để làm chứng nhân Phục sinh của Chúa Kitô. Đừng coi ăn là mục đích để rồi chỉ sống mà ăn. Chúa Giêsu đã cho các ông thấy một nhãn giới cao hơn trong mục đích của đời sống con người. Như vậy, các ông đã hiểu ra rằng: Cuộc sống ở đời nay là phương tiện để đưa các ông đến với Thầy và làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, là làm chứng về một cuộc sống đời đời và trao ban bình an cho thế giới. Đó là sứ mệnh của các ông.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hieu ra rằng: tất cả mọi sinh hoạt, tất cả cuộc sống trần thế, chúng ta đang có đây là những phương tiện giúp chúng ta đến với một niềm hy vọng. Niềm hy vọng để biến chúng ta thành chứng nhân của Tin Mừng và chứng nhân ay được Giáo hội nhắc lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong thánh lễ mỗi ngày: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xứng Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Xin giúp chúng con ý thức sứ mệnh này để đến lượt chúng con lại tiếp tục ra đi làm chứng nhân Tin Mừng cho Chúa trong thời đại chúng con đang sống. Amen.
Đang khi các tông đồ nghe hai môn đệ từ Emmaus trở về, say sưa kể lại sụ kiện gặp gỡ Đức Kitô phục sinh, thì Ngài bỗng hiện ra và ở giữa họ. Chắc hẳn lúc bấy giờ các ông đã vô cùng sững sờ và ngạc nhiên đến nỗi tưởng như mình đã gặp phải một hồn ma nào đó. Khi ấy Chúa Giêsu mới ân cần làm cho họ nhan biết mình. Ngài nói chuyện với họ, khuyến khích họ sờ vào tay chân Ngài để họ không còn nghi ngờ chi nữa.
Dù vậy các ông vẫn còn e dè sợ sệt. Chúa Giêsu lại phải đưa thêm một bằng chứng khác nữa, đó là Ngài cùng an uống với họ. Hồn ma chỉ có thể tạo ra những ảo giác chứ không thể ăn uống như người thật. Các tông đồ đến lúc đó mới hết ngờ vực. Vả lại nhìn chung quanh các ông thấy ai cũng tin như thế, các ông mới yên lòng, vì nếu ảo tưởng thì chỉ có nơi một vài người lẻ tẻ, chứ không thể nào tất cả bằng ấy người lại cùng có một ảo tưởng.
Họ nhận ra Ngài như Ngài đã nói: Chính Thầy đây. Và họ tin chắc đó là Chúa Giêsu, người mà họ đã bươc theo suốt ba năm dài, đã trở nên tông đồ, đã sống thân mật và gần gũi với Ngài. Ngài đã chịu nạn chịu chết và bây giờ đã sống lại.
Giờ đây, Chúa Giêsu cũng làm lại điều Ngài đã làm cho hai môn đệ tại Emmaus, đó là mở trí cho họ hiểu Kinh thánh. Bấy lâu nay Ngài đã nhiều lần và bằng nhiều cách dạy cho họ hiểu những lời tiên tri, thánh vịnh. Cố ý cho họ biết Ngài là Đấng Messia, sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết. Nhưng nào họ co chịu hiểu cho đâu, lại còn bực bội tức tối về điều đó nữa.
Chúng ta cũng thế. Biết bao nhiêu lần chúng ta vẫn quan niệm Giáo Hội như là một cơ chế quyền lực do Chúa thiết lập. Giáo Hội phải thành công rực rỡ trong mọi lãnh vực. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đòi hỏi cuộc sống thiêng liêng và những hoạt động tông đồ của mình phải gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chúng ta không thể nào chấp nhận được chương trình và cách thức hành động của Thiên Chúa.
Giờ đây Chúa Giêsu mở lòng trí các tông đồ khiến họ phải hiểu qua con đường nào mới tiến đến được vinh quang Nước Trời. Thực tế, con đường của Chúa không đi đôi với vẻ hào nhoáng của những thành công sáng chói ở đời, nhưng đó là con đường nghịch lý mà Chúa Giêsu đã dạy trong tám mối phúc thật. Có thể thỉnh thoảng Chúa cũng ban cho chúng ta một vài thành quả nào đó, tuy nhiên những thành quả ấy phải được sư dụng để làm vinh danh Chúa và mưu cầu lợi ích cho anh em, chứ không phải là để kiếm chác những lợi lộc tư riêng theo kiểu vinh thân phì gia.
Cái định luật bất di bất dịch mà những người tin Chúa phải tuân theo, đó là hãy chấp nhận gian khổ, hãy vác lấy thập giá trên vai nếu như chúng ta muốn trở thành môn đệ Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
Trong bài đọc I(Cv 3,11-26), Phêrô thay mặt cho các tông đồ lớn tiếng làm chứng cho dân chúng tại Giêrusalem về việc Đức Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết và nhất là việc Chúa sống lại.
Không những bằng lời rao giảng lúc thuận tiện, mà chính Phêrô cũng như các tông đồ và nhiều môn đệ khác còn làm chứng cho Đức Kitô bằng chính đời sống của mình dù phải vất vả rao giảng, dù phải đòn vọt, tù ngục và ngay cả hy sinh mạng sống, các ông chấp nhận tất cả để làm chứng cho Đức Kitô.
được mời gọi làm chứng đức tin Kitô giáo bằng cả cuộc sống (x.GLGHCG số 1316). Vậy mọi Kitô hữu được mời gọi làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ qua đời sống tốt đẹp của mình mọi nơi mọi lúc. Làm chứng cho tình yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa qua đơi sống yêu thương tha thứ của mình. Làm chứng cho Đức Kitô phục sinh bằng cách hoán cải, canh tân đời sống như lời Chúa dạy trong đoạn Tin Mừng này, để rồi mai sau được hy vọng cùng phục sinh với Ngài.
Trong bài đọc II, thanh Gioan chỉ rõ cho chúng ta phương cách làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Kitô bằng những việc làm cụ thể: đừng phạm tội, hãy giữ các giới răn của Thiên Chúa, qua đó thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Nhưng đáng mừng thay, bên cạnh đó, qua mọi thời, mọi nơi không thiếu những Kitô hữu sống không hổ thẹn với các bậc tông đồ, họ đã trung thành làm chứng cho Chúa. Đó là những cá nhân, những gia đình, đoàn thể cố gắng sống xứng danh là người Công Giáo, cố gắng góp phần xây dựng Họ Đạo, xây dựng Hội Thánh. Họ thấy được giá trị của Tin Mừng, cho nên đa kiên vững trong thử thách cho dù phải thiệt thòi về quyền lợi, về vật chất… hay hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô.
29. Niềm tin vào sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 24:35-48: Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các môn đệ khó chấp nhận việc Chúa sống lại, cũng như trước đây khi nói về việc lên Giêrusalem, các môn đệ cũng khó chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Chúng ta còn nhớ rõ lắm khi Chúa Giêsu nói Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô đã phản ứng quyết liệt: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
Chúa muốn Phêrô hãy trở lại vị trí của mình là môn đệ của Chúa. Là môn đệ thì phải theo sau sư phụ. Sư phụ đi trước, đệ tử theo sau. Nhưng ở đây Phêrô lại cả gan dẫn dắt Chúa, chứ không để Chúa dẫn dắt mình, nên Chúa đã phải nói: “Phêrô hãy lui về đàng sau Ta…
Phản ứng quyết liệt của Phêrô cho chúng ta thấy Phêrô không muốn chấp nhận cái chết của Chúa. Rồi chúng ta còn thấy gì nữa nơi hai môn đệ trên đường Emmau. Hai ông buồn lắm, bởi vì ba năm theo Chúa, bây giờ công toi. Chán nản thất vọng, trở về quê nhà. Tất cả đều muốn nói với chúng ta là các môn đệ không muốn chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết thê thảm, một cái chết ô nhục. Một cái cái chết làm tiêu tán tất cả mọi hy vọng trong ba năm theo Chúa.
Rồi trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy gì?
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người:
Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông Đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với những mức độ khác nhau.
Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng Chúa đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông Đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến thể lý, từ lịch sử đến việc chứng minh được thực hiện đúng lời đã hứa.
Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông Đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn ma hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ mó được. Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.
Rồi chúng ta còn thấy gì nữa? Tôma nhất định không tin việc Chúa sống lại và Tôma nói rằng “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng có tin. (Ga 20,25)
Tất cả những điều trên muốn nói với chúng ta rằng: thật khó mà chấp nhận sự kiện Chúa Giesu sống lại. Nhưng cuối cùng, các tông đồ đã chấp nhận cái chết và Phục Sinh của Chúa.
Nhìn lại đức tin của các tông đồ và đức tin của chúng ta có một sự khác biệt rất lớn.
Có thể nói chúng ta dễ chấp nhận cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng cái mà chúng ta gọi là đức tin đó chẳng ăn nhằm gì tới cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã nghe, đã đọc rất nhiều lần về cái chết và phục sinh của Chúa, nhưng chúng ta cũng chỉ đọc như đọc một tiểu sử danh nhân nào đó. Chúng ta chỉ có một chút thán phục và sau đó chẳng còn một chút nào dính dáng đến cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta tin, nhưng chúng ta không cảm nhận thấy một cái gì liên hệ đến chúng ta. Ở đây chúng ta thấy rất rõ, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống của các ngài, nên không dễ gì cácngài chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Nếu đã không chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu thì làm sao tin được sự sống lại của Chúa.
Ấy thế mà cuối cùng các tông đồ đã chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, chính vì vậy các tông đồ đã được đi vào vinh quang phục sinh của Ngài.
Còn chúng ta như thế nào?
Nhà thần học Paul Tillich nói: “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin đích thực”.
Ở đây, có thể nói chúng ta chẳng nghi ngờ gì cả. Chính ở điểm này làm chúng ta phải suy nghĩ: một đức tin quá dễ dàng cũng đồng nhĩa với một đức tin hời hợt, một đức tin hời hợt chắc chắn sẽ chẳng có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của chúng ta và như vậy chẳng bao giờ chúng ta được chung hưởng vinh quang phục sinh với Chúa Giêsu. Một cảnh báo vô cùng quan trọng cho mỗi người chúng ta để nhìn lại đức tin của chúng ta.
30. Chứng nhân hiện đại – AM. Trần Bình An
Linh mục Gioan Lee Tae-seok sinh năm 1962, là con thứ 9 trong 10 người con. Cha mẹ ngài là người Công giáo khiêm nhường, sống ở TP Busan, Nam Hàn. Gioan mồ côi cha lúc 9 tuổi, mẹ ngài phải nuôi cả gia đình bằng nghề thơ may. Gioan học rất giỏi, rất ấn tượng với tiểu sử của Albert Schweitzer và ước muốn làm bác sĩ.
Nhưng khi ngài thấy người anh đi tu dòng Phanxicô, ngài cảm thấy có ơn thiên triệu. Tuy nhiên, mẹ ngài muốn ngài học nghề thuốc trước. Một phần vâng lời mẹ, ngài đã làm bác sĩ. Ngài là bác sĩ phẫu thuật trong quân đội Hàn quốc. Nhưng ngài vẫn cảm thấy ơn gọi làm linh mục. Thấy con trai muốn vậy, người mẹ chiều theo ý con. Ngài tu Dòng Salêdieng, sang Sudan phục vụ.
Tại Tonj, ngài xây dựng một bệnh viện điều dưỡng. Mỗi ngày ngài điều trị khoảng 300 bệnh nhân. Ngài có chiếc xe Jeep để có thể tự lái đi đến các bệnh nhân chưa bao giờ đến gặp ngài. Ngài đích thân tìm kiếm các bệnh nhân. LM Gioan lớn lên trong cảnh nghèo khổ và không bao giờ xa cách người nghèo ở Tonj.
ĐGM Choi Duk-ki quyết định đến Tonj để tận mắt chứng kiến LM Gioan bằng xương bằng thịt. Thấy tỏ tường, ĐGM nói LM Gioan “như một vị thánh”. ĐGM nói rằng kinh nghiệm giống như “đồng hành với LM Damian ở Molokai, đồng hành với Chúa Giêsu”. LM Gioan làm cho tình yêu Chúa Kitô là ánh sáng dẫn đường trong mọi nỗ lực của ngài dành cho người phong cùi và cho thấy rõ ràng là “chúng ta phải đối xử với nhau như Chúa Giêsu”.
Tính cách và nụ cười của ngài đã thu hút giới trẻ. Giáo dân đến xưng tội thường gọi ngài bằng biệt danh “Cha Jolly” (Cha Vui vẻ). Ngài xây trường học với sự trợ giúp của các học sinh mà ngài dạy toán và nhạc. Ngài còn lập ban kèn đồng Don Bosco và thấy giới trẻ phấn khởi vì họ sống trong cảnh khốc liệt.
Nhưng có lần ngài đi nghỉ ở Seoul. Ngài có thói quen kiểm tra sức khỏe tổng quát, ngài được chẩn đoán bị ung thư đại tràng và ung thư gan. Đầu tiên ngài được hóa trị, nhưng trong vài tháng cuối đời, bệnh ngài sa sút mau chóng và qua đời ngày 14/1/2010, khi mới 47 tuổi.
Tài liệu của đài truyền hình Hàn quốc về cuộc đời LM Gioan ở Tonj đã được chuyển thành phim “Đừng Thương Tiếc Ngài Sudan” (Don’t Cry For Me Sudan). Chỉ xem phim 10 phút là ai cũng sụt sùi cảm động. (Theo Trầm Thiên Thu, Thánh Nhân của Thế kỷ 21, Catholic Herald.co.uk)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, các Kitô hữu trở nên chứng nhân của Người. LM Gioan Lee Tae-seok đã thực sự vâng theo, trở nên nhân chứng hiện đại va đích thực, đem tình yêu đến sưởi ấm những thân phận đau khổ bất hạnh. Làm chứng là đứng ra chứng thực, xác nhận, việc đã xảy ra theo sự thấy biết. (Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Điển)
Thấy biết có thể không thấy trực tiếp qua ngũ quan, nhưng có thể gián tiếp qua tâm hồn bén nhạy, qua con tim tràn đầy tình yêu. Thánh Gioan Tông Đồ nhận biết Chúa Giêsu sống lại qua tình yêu Chúa nồng nàn, khi chỉ nhìn thấy các băng vải cuộn lai và khăn che đầu không để lẫn, mà xếp riêng ra. Ông đã thấy và đã tin.
Chứng nhân tình yêu
Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm tình yêu vĩ đại, vô song mà Đức Chúa Giêsu, Ngôi Hai Nhập Thể, dành cho nhân loại. Vì quá yêu thương loài người, Thiên Chúa Cha đã hiến tế Con Một, chịu tội thay cho mọi người, để được cứu khỏi cái chết muôn đời.
Cũng vì yêu thương, Đức Giêsu đã tình nguyện hy sinh Máu và Thịt trở nên Thánh Thể, Lương Thực hằng ngày, dưỡng nuôi con người trường sinh. Hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Giêsu, khi Ngài bẻ bánh, đều là những chứng nhân tình yêu cho các môn đệ khác, cũng như cho toàn thể Kitô hữu. “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc trụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 30-31)
Tình yêu Thiên Chúa không chỉ nhắm vào số đông, không chỉ dành cho 99 con chiên ngoan, mà còn dành ưu ái đặc biệt cho một con đi hoang, ngộ nạn, lạc bầy. “Tìm được rồi, ngưới ấy mừng rỡ vác lên vai…Vậy tôi cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối, ăn năn.” (Lc 15, 4-7)
Cũng như Người luôn quan tâm, thương xót đến những thân phận khó khăn, đơn côi, bệnh hoạn, bị xã hội gạt ra bên lề, như người phung, người quỷ ám,.. Chứng nhân tình yêu là sống đức bác ái, là thực hành đức Mến thật sự trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh và mọi lúc.
Chứng nhân phục vụ
Hơn nữa, chính Đức Giêsu còn hóa thân, mặc lấy những thân phận bần hàn. Nên phục vụ những kẻ hẩm hiu, xấu số chính là tận tụy phục vụ Chúa qua tha nhân, vì Người công khai xác nhận: “xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” (Mt 25, 35-36)
Trong bữa Tiệc Ly, bất ngờ Đức Giêsu đã đứng dậy, rời bàn ăn, cới áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, một hành động khiêm nhường, hầu hạ của kẻ tôi tớ phục vụ, như Người đã phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mc 10, 45) Người còn khẳng định: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 27)
Muốn thật sự phục vụ tha nhân thì tiên quyết bỏ mình, thoát khỏi cái tôi hẹp hòi, vị kỷ, mới có thể khiêm tốn, hạ mình, hoàn toàn xả kỷ, vị tha, nhìn đến người khác với những nhu cầu cấp bách, khó khăn, hoạn nạn, bệnh tật, cô đơn, thấp cổ bé họng. Phục vụ tha nhân vì tin chắc chắn rằng, họ chính là Đức Kitô đã bị bỏ rơi trong vườn Giêtsimani đêm khuya và trên núi Canve chiều hoang. Đức tin biến thành hành động cụ thể và hữu hiệu, đức tin mới khỏi xơ cứng chết đi, như Thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên bảo.
Chứng nhân hy vọng
Lời nói gần cuối ở Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu căn dặn: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu goi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 46-48)
Người mong muốn các Tông Đồ trở nên chứng nhân hy vọng. Đồng cảm, Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônica thư thứ nhất giải thích khá cặn kẽ: “Chúng ta thuộc về ban ngày (sự sáng), nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ.”
Hy vọng là hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Phó thác tất cả niềm vui lẫn nỗi khổ đau cho Chúa, để được chia sẻ và an ủi, thêm nghị lực đi về Nước Chúa. Đức Cậy không thế thiếu với bất cứ ai nhận mình là Kitô hữu.
“Con hãy làm cho người Công giáo tin tưởng ở ơn thiên triệu Kitô hữu, ơn thiên triệu gia đình, ơn thiên triệu vợ chồng, ơn thiên triệu nghề nghiệp. Họ sẽ hết chán nản, họ sẽ tràn đầy hy vọng, vì họ ý thức rằng, Đấng đã gọi sẽ đưa họ đi đến cùng đích.” (Đường Hy Vọng, số 969)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, kính xin phục hồi ba nhân đức Tin, Cậy, Mến trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết sám hối, ăn năn trở về, luôn canh tân đổi mới, yệu thương, phục vụ và hy vọng, để thực sự trở nên chứng nhân hiện đại.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ đồng hành với chúng con trên con đường chứng nhân, như xưa Mẹ đã luôn đồng hành cùng Con Mẹ suốt ba năm rao giảng, tới tận chân thập giá trên đồi Canve. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn trung thành sứ vụ chứng nhân của Con Mẹ đến suốt đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sách Tông Đồ Công Vụ được trích đọc, trình bày cho chúng ta thấy Hội Thánh Chúa Kitô đã thiết lập từ những buổi sơ khai cho tới lúc trở thành một Tôn Giáo Quốc Tế, được lan tràn khắp các dân tộc, không phân biệt mầu da tiếng nói… Đó là công trình của Chúa Thánh Thần, “Đấng được sai đến để làm chứng về Chúa Kitô” (Jn 16:26).
Qua bài đọc I chúng ta vừa nghe, tường thuật lại phép lạ người què, vốn ngồi ăn xin của bố thí tại Cửa Đẹp Đền Thờ mà ai cũng biết, nay được chữa lành, khiến mọi người bỡ ngỡ, cảm phục và đổ xô đến với Phêrô và Gioan. Thánh Phêrô đã thẳng thắn tuyên bố với họ: “Tại sao anh chị em ngạc nhiên về việc đó, và tưởng như chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người què này đi được? Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacob đã làm vinh danh Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, Đấng anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha cho tên sát nhân, còn Đấng ban sự sống thì anh chị em lại giết chết. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Chính lòng tin vào Người đã chữa anh què này hoàn toàn được lành mạnh”. Sau khi Thánh Phêrô đã thẳng thắn nói cho người Do Thái biết tội lỗi của họ, ngài đã chữa lỗi cho họ và chân thành khuyên nhủ họ hối cải để lãnh nhận ơn tha thứ: “Hỡi anh chị em, tôi biết anh chị em đã hành động vì không biết. Nhưng Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các Tiên Tri báo trước: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy hãy hối cải, để tội lỗi anh chị em được xóa bỏ” (Act 3:11-26). Hãy làm hòa với Chúa để anh chị em được lãnh ơn thứ tha.
Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ luôn luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi loài người xúc phạm, phản bội Ngài; nếu loài người biết hối lỗi trở về làm hòa với Ngài. Chúa Kitô là Con Một Thiên Chúa, là Thiên Chúa chân thật, đã nhập thể làm Người sống nơi trần gian, cũng là để mặc khải lòng nhân từ, tình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Chính Người đã trở nên Đấng Cứu Chuộc rất nhân từ; suốt cuộc đời Người chỉ biết rộng tay ban phát mọi ơn lành cho nhân loại. Người luôn tha thứ cho những kẻ phản bội, kẻ vô ơn bội nghĩa, kẻ bách hại, bắt bớ, xỉ nhục và treo Người chết trên Thập Giá. Ngay cả lúc Người sắp tắt thở trên Thập Giá, Người còn xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ làm khốn Người: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết việc mình làm” (Lc 23:34).
Trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô đã không ngừng truyền bá giáo lý Tình Thương của Chúa; dạy cho chúng ta biết lấy tình thương làm lẽ sống, làm kim chỉ nam hướng dẫn, điều khiển cuộc sống chúng ta trên trần gian này, để tiêu diệt hận thù, chém giết, chèn ép, bất công; ngõ hầu an bình, hạnh phúc được thống trị trên trần gian, quản trị các dân tộc, điều khiển các quốc gia, xây dựng các gia đình, nhất là làm cho các tâm hồn được hưởng niềm an bình hạnh phúc, thứ an bình hạnh phúc chân thật Chúa chỉ ban cho các con cái ngoan thảo của Chúa. Chính Chúa Kitô đã sống giáo lý tình yêu thương đó và đặt Mình làm gương mẫu cho chúng ta noi theo bắt chước, để chúng ta trở nên khí cụ xứng tiện Chúa dùng, hầu biến đổi trần gian này nên nơi hạnh phúc, nơi được Chúa Tình Thương thống trị.
III. BÌNH AN LÀ ĐIỀU KIỆN HẠNH PHÚC
Bình an là điều kiện để được hạnh phúc. Đó là báu tàng mà mọi người sống trên trần gian đều khao khát ước mơ; thiếu bình an người ta sẽ luôn lo âu, sợ hãi, khắc khoải, dù người ta có nhiều tiền của, lắm chức quyền, sống sang trọng mấy đi nữa… Người ta không thể có cuộc sống hạnh phúc thoải mái nếu không có sự bình an chân thật trong tâm hồn. Chính vì bình an là điều quan trọng và cần thiết như thế, nên sau khi sống lại từ cõi chết, mỗi lần Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ, Người đều chào chúc các ông bằng lời: “Bình an cho các con!”
Vậy làm thế nào để được hưởng sự bình an chân thật? Muốn được hưởng sự bình an chân thật, cần phải có tâm hồn trong sạch, tâm hồn không bị quyền lực tội lỗi thống trị, tâm hồn có ơn nghĩa với Thiên Chúa, tâm hồn luôn biết tin tưởng phú thác nơi tình yêu thương của Người.
Ngày 8.10.1951, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành nhạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cáo cho “Ông Xếp” nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa, chia nhau đi tìm kiếm dọc theo đường xe lửa, suốt 2 tiếng đồng hồ, mới phát giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi, khi được hỏi thì anh ta trả lời ấp úng là không biết gì cả, nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật, nên người ta cũng bỏ qua.
Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu Viện các Cha Dòng Benedictô xin nhập Dòng. Anh được nhận, sau 2 năm thử luyện, thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập Viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập Viện, anh được phép về thăm gia đình 2 tuần lễ. Ngay ngày đầu tiên, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu, anh quì chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết, anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: “Tôi không thể chịu được nữa!” Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra ra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói, là cô ta không biết gì đến anh nữa. Vì thế, anh ta đã nổi cơn điên, nên đã hành động độc ác như thế.
Kết Luận
Cậu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện, cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.
Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước.
Khi nói về Khổng Tử, người ta có kể lại một giai thoại như thế này: Trong thời gian ở nước Tề, thầy trò của Khổng Tử đã gặp phải cảnh đói kém nhọc nhằn. Mỗi ngày một người chỉ ăn được một phần cơm nhất định mà thôi. Một ngày nọ, ông đang nằm đọc sách, chợt nghe có tiếng ai đó đang mở nắp nồi cơm.
Liếc mắt nhìn thì ong nhận ra đó là Nhan Hồi, người học trò thân tín của mình đang vốc từng nắm cơm cho vào miệng. Một lúc sau, khi cơm đã dọn xong, các môn sinh chắp tay mời thầy của mình dùng cơm. Nhưng rồi trước khi ăn, Khổng Tử ngõ ý muon dùng một ít cơm trắng để gọi là dâng cúng cho cha mẹ. Ý kiến này được mọi người tán thành. Riêng cậu học trò Nhan Hồi thì im lặng, dáng vẽ lắng lo nghĩ ngợi. Khổng Tử điềm nhiên hỏi tiếp: “Ta không biết cơm này có sach không?” Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ Nhan Hồi mới lễ phép thưa: “Dạ bẩm Thầy! Nồi cơm này không được sạch. Bởi vì trong lúc thổi cơm, con đã vô tình để bụi rớt vào, và con định xới lớp cơm bẩn đó bỏ đi. Nhưng con nghĩ rằng: cơm nấu thì có giới hạn, nếu bỏ đi số cơm bẩn đó thì sẽ mất một phần ăn. Nên mạn phép Thầy, con đã ăn phần cơm bẩn đó, còn cơm sạch để Thầy và các anh em ăn. Mà nồi cơm đã được ăn trước rồi thì chúng ta không nên cúng nữa Thầy ạ!” Nghe xong điều đó, Khổng Tử ngước mặt lên trời đấm ngực mà than rằng: trên đời này, có những việc chúng ta trông thấy rành rành trước mắt, mà còn hiểu không đúng sự thật, một tí nữa thì Khong Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ rồi.
Thưa anh chị em! Không chỉ riêng gì khổng Tử mà tất cả mọi người chúng ta thường có xu hướng dùng cái biết của mình để phê phán một vấn đề, hay là để đánh giá một sự việc nào đó. Kinh nghiệm cho thấy rằng chúng ta thường mắc phải sai lầm khi làm như thế. Bởi vì cái biết của mình chưa thấu đáo, cái hiểu của mình chưa tường tận, cái suy nghĩ của mình thường mang tính chủ quan.Và nó càng trở nên tối tam lạc lõng khi chúng ta dùng cái biết nhân loại ấy, để suy diễn về các mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhất là mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Chính vì thế mà phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa nhật thứ ba phục sinh này, hướng chúng ta tới một sự nhận biết cách đúng đắn về Đức Kitô phục sinh.
Bài đọc thứ nhất thuật lại rằng: sau khi Phêrô chữa lành cho một người què tại cửa Đền thờ, thì có rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên, bàn tan xì xầm. Nhân cơ hội đó, Phêrô dã nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ngài quả quyết rằng: Sở dĩ người Do thái bắt giết Đức Giêsu là bởi vì họ không biết. Hay nói đúng hơn là họ đã dùng chính cái biết hạn hẹp của mình, để suy diễn về mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Họ đã dùng chính cái biết nông cạn của một tạo vật để dò xét và lượng định tình thương của Đấng Tạo Hóa và cũng là Chúa của mình. Và rồi cuối cùng, họ đã dùng chính cái biết hời hợt đó để đóng đinh Chúa của mình vào thập giá.
Còn nơi bài phúc âm, qua hình ảnh của các môn đệ đang hoang mang lo lắng, nữa tin nữa ngờ về việc Chúa Giêsu sống lại, Thánh Luca cũng cho chúng ta thấy được sự hiểu biết của các môn đệ về Chúa Giêsu, thầy của họ. Với các môn đệ thì Đức Giêsu chính là một vị tiên tri có quyền năng trong lời nói và việc làm. Người có thể làm nhiều phép lạ lớn lao: chuyển núi dời non, cho kẻ chết sống lại, Tóm lại, với các tông đồ thì Đức Giêsu chính là một vị ngôn sứ vĩ đại, là một Đấng mà các ông hoàn toàn có đủ lý do để hy vọng rằng: Người sẽ đứng lên khôi phục lại vương quốc Israel. Và có lẽ chính vì thế mà mới có có chuyện là hai người con của ông Dêbêđê, được mẹ của mình dẫn tới Chúa Giêsu để xin cho một đứa được ngồi bên hữu, một đứa được ngồi bên tả, khi Người được lên làm vua.
Nhưng mãi cho đến giây phút cuối cùng, giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá, họ mới cảm thấy ê chề thất vọng khi nhận ra rằng: đó chỉ là cái tưởng, là cái biết giả, chứ không phải là cái biết thật, mà hai môn đệ trên đường về Emmaus là một bằng chứng cụ thể. Trong lúc hoang mang tủi buồn đó, Đức Giêsu phục sinh có mặt bên họ, và giúp đỡ họ có một sự hiểu biết đúng đắn về Chúa của mình bằng việc bẻ bánh và cắt nghĩa Thánh Kinh. Đành rằng sự kiện nay Thánh Luca chỉ nhắc lại cách ngắn gọn ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc âm mà chúng ta vừ nghe, nhưng cũng đủ để chúng ta hiểu được rằng: Lời Chúa và Bí tích Thánh thể đã giúp cho các môn đệ nhìn ra khuôn mặt đích that của Đấng phục sinh.
Tại sao chúng ta dám quả quyết cách mạnh dạn như thế? Thưa bởi vì chúng ta căn cứ trên sự biến đổi đời sống của các ngài. Rõ ràng là chính hai môn đệ này đã quay ngược trở lại: quay ngược lại trong hướng đi của cuộc hành trình, quay ngược lại trong tâm tình vui mừng của người chiến thắng. Những môn đệ kia thì vui mừng rạng rỡ sau khi được Chúa Giêsu chứng minh rằng Người sống lại là để ứng nghiệm những lời báo trước trong Thánh Kinh.
Ngày hôm nay, mặc dù Chúa phục sinh không hiện ra cho chúng ta giống như cho các môn đệ năm xưa nữa. Thế nhưng Người vẫn làm cho chúng ta những việc làm tương tự như Người đã từng làm cho các tông đồ ngày xưa. Nghĩa là người cũng giải thích Thánh Kinh, Người cũng thực hiện việc bẻ bánh, chỉ có điều là Người thực hiện những công việc đó qua Giáo hội của Người.
Nói khác đi là mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ, là mỗi lần chúng ta được Đấng phục sinh hiện diện qua Giáo hội của Người mà hướng dẫn dạy dỗ, để chúng ta có được một sự hiểu biết về Đấng phục sinh.
Hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cảm thấy lòng mình bừng cháy lên sau khi nghe Chúa giải thích Thánh Kinh, đôi mắt tâm hồn họ mở ra khi nhìn thấy Chúa bẻ bánh. Các môn đệ kia đã vui mừng chăm chú như thế nào khi được Chúa soi sáng cho cuộc đời của họ bằng Thánh Kinh.
Còn chúng ta thì sao? Nếu bây giờ ngồi nhớ lai, có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhớ được rằng mình đã bao nhiêu lần nghe đọc Lời Chúa, bao nhiêu lần tham dự Thánh lễ, nhưmg rồi tâm hồn chúng ta có mở ra được không, tấm lòng chúng ta có bừng cháy len không? Phải chăng là khi nghe Lời Chúa, chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện lịch sữ về Đức Giêsu chứ không nghe với Đức Giêsu như hai môn đệ trên đường Emmaus? Phải chăng là chúng ta đến đây hiệp dâng Thánh lễ như thể là dâng cho Đức Giêsu, chứ không phải là cùng dâng với Đức Giêsu theo như lời tuyên xưng của Giáo hội: “Chính nhờ Người với Người và trong Người “.
Thưa anh chị em! Chúng ta chỉ sống đạo một cách đầy đủ ý nghĩa khi chúng ta có một sự hiểu biết đúng đắn về Đấng phục sinh.Sự hiểu biết đó, chúng ta sẽ có được bằng sự chăm chú lắng nghe Lời Chúa và tích cực tham dự Thánh lễ.
Biết rằng có những lúc Lời Chúa đi ngược lại với những ước mơ và dự định của mình, có nhựng khi việc tham dự Thánh lễ đòi hỏi chúng ta một sự hy sinh rất nhiều. Thế nhưng đó chính là những bài học không bao giờ cũ cho những ai muốn tìm ý nghĩa cho cuộc đời mình; đó là những cơ hoi cần thiết để Chúa ban ơn thánh, vốn là điều rất cần cho đời sống chúng ta. Ngoài ra Thánh Gioan còn có thêm một gợi ý rất quan trọng nhằm giúp chúng ta thể hiện sự hiểu biết của mình về Chúa, đó là chu toàn các giới răn của Người: “Ai nói mình biết Đức Giêsu mà không giữ các giới răn của Người, thì người đó không sống trong sự thật.”
Nguyện xin Đức Kitô phục sinh đồng hành với chúng con luôn mãi. Đồng hành trong mỗi Thánh lễ chúng con cử hành, để chúng con mỗi ngày được hiểu biết về Chúa cách đúng đắn hơn. Đồng hành với chúng con trong suốt cuộc đời này, để chúng con sống niềm tin và làm chứng về niềm tin mà chúng con đang sống cho những người chung quanh chúng con. Amen.
Tin Mừng Lc 24: 35-48: Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng cho biết nhóm Mười Một đang rất hoang mang, họ tụ họp trong cửa nhà đóng kín vì sợ người Do Thái bắt bớ.
Trong cuộc sống của chúng ta, chắc hẳn có rất nhiều nỗi sợ làm chúng ta lo lắng. Từ khi sinh ra đã bị nhát không chịu ăn ngủ thì “ông kẹ” bắt. Lớn lên một chút, tới trường lớp thì sợ thi rớt. Trưởng thành thì sợ không có người yêu. Bước ra đời thì sợ thất nghiệp. Và khi già thì sợ cái chết đến với mình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng cho biết nhóm Mười Một đang rất hoang mang, họ tụ họp trong cửa nhà đóng kín vì sợ người Do Thái bắt bớ.
Và trong nỗi bối rối của các môn đệ Chúa, thánh sử Luca đã tinh tế gom các sự kiện về những dấu chỉ Chúa Phục sinh trình bày vào chung một ngày, “ngày thứ nhất trong tuần” như là một sự củng cố đức tin nơi cộng đoàn. Có thể nói, tác giả Tin mừng thứ ba này đã nêu cao tầm quan trọng của chiều kích Giáo hội. Cụ thể, Luca cho biết rằng sau khi hai môn đệ trên đường Emmaus được Chúa mặc khải về việc Người đã phục sinh, thì liền lúc ấy, họ quay về Giêrusalem, tìm tới nơi các tông đồ đang tụ họp. Hai ông phải có mối liên hệ thân thiết với nhóm Mười Một lắm nên mới biết tìm họ đang lẩn trốn ở đâu. Và dấu chỉ mà hai môn đệ kể lại đã củng cố kinh nghiệm của cộng đoàn về sự kiện Chúa Phục Sinh.
Trong khi các môn đệ vẫn còn hoang mang, Chúa Giêsu cảm thương và bất ngờ hiện ra giữa các ông. Người minh chứng cho họ biết hiện diện trước mặt họ không phải là một ảo ảnh hay vong hồn, nhưng Người đã phục sinh. Chúa phục sinh với một thân thể bằng xương bằng thịt hẳn hoi, như trước kia khi Người sống giữa các môn đệ, cùng ăn uống với họ hàng ngày, và thậm chí còn có cả những dấu đinh nơi tay chân là dấu chứng của việc Người đã chịu khổ nạn. Nhưng thân thể ấy cũng hoàn toàn khác vì đã được biến đổi, nên mới có thể bước vào trong lúc cửa phòng đóng kín. Chúa Giêsu phục sinh vẫn trong mầu nhiệm Ngôi hiệp nhưng giờ đây chỉ được nhận ra nơi những ai được mở lòng trí, được khai sáng, được củng cố đức tin.
Chúa Giêsu từng bước soi lòng mở trí cho các môn đệ quy tụ ở Giêrusalem về những lời trong Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, “cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Người trong luật Môisen, trong sách Tiên tri và Thánh vịnh”. Chúa Giêsu đã dùng mọi hình thức có thể minh chứng về sự phục sinh của Người để giúp các môn đệ tin. Và từ niềm tin ấy, Người biến họ thành những chứng nhân cho Người.
Vâng, người môn đệ chỉ có thể trở thành những chứng nhân, mạnh dạn bước ra khỏi cửa nhà đóng kín, khỏi sự sợ sệt của việc bị bắt bớ khi và chỉ khi họ có được bình an thật sự. Đó là sự bình an đến từ Thiên Chúa, bình an của nỗi vui mừng và niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Và vào ngày 23/3/2018 vừa qua, một sự kiện làm cả thế giới hướng về nước Pháp không phải là cuộc khủng bố cho bằng một hành động anh hùng của viên trung úy cảnh sát Cal Arnaud Beltrame là một người Công Giáo rất ngoan đạo. Hợp cùng các nhà lãnh đạo thế giới chia buồn với nước Pháp, Đức Thánh cha Phanxicô viết trong điện văn gởi đến Đức Giám Mục Jean Planet của Carcassonne và Narbonne: “Tôi ghi nhận đặc biệt hành động quảng đại và anh hùng của Trung úy Beltrame Arnaud, người hiến mạng sống mình vì mong muốn bảo vệ người dân”. Một người tên Redouane Lakdim, tự nhận thuộc phần tử cực đoan, trong phút chốc đã hạ sát nhân viên bán thịt và một khách hàng đang mua sắm trong siêu thị tại Trebes. Tên khủng bố tiếp tục bắt giữ một phụ nữ để làm bia đỡ đạn cho mình. Trong tình huống nguy cấp ấy, trung úy Beltrame 44 tuổi, đề nghị thế chỗ cho người phụ nữ này. Anh mở điện thoại di động của mình và cố ý để lại trên bàn. Nhờ vậy, bên ngoài, cảnh sát có thể nghe thấy những gì đang diễn tiến bên trong. Khi nghe nhiều tiếng súng nổ, cảnh sát lập tức xông vào siêu thị, và phát hiện Beltrame đã bị trọng thương. Anh đã trút hơi thở vài giờ sau đó tại bệnh viện. Khi tổ chức thánh lễ cầu nguyện cho viên sĩ quan, Đức cha Planet đã ví Beltrame với Thánh Maximilian Kolbe, người đã qua đời tại trại tử thần Auschwitz của Đức Quốc xã sau khi tình nguyện chết thế cho một tù nhân khác.
Ngày nay, không thiếu những cách khác nhau để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Bằng chính đời sống Kitô hữu, chúng ta hãy chứng tỏ về đời sống của người “có Chúa Giêsu sống trong tôi”. Và cách hữu hiệu nhất vẫn là bằng cuộc sống tốt lành và đầy nhân ái với anh chị em xung quanh. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta can đảm dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của mình. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Trên đường Emmau, hai môn đệ buồn bã kéo lê bước chân. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Chúa Giêsu đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc 24, 15)
Tại sao mắt họ lại bị ngăn cản? Cũng như chúng ta vẫn thường không nhận ra Chúa, cũng đồng hành với chúng ta từng giây phút.
Ngăn cản vì theo xác thịt.
Làm sao thấy Chúa được, khi còn sợ hãi, khiếp vía, thấy chính Thầy mình phải chịu khổ nạn? Làm sao thấy, khi còn hối hả chạy trốn các quyền lực đen tối? Làm sao thấy, khi còn quý mạng sống của mình trước đe dọa bạo lực? Tính xac thịt chẳng chừa một ai, nếu không áp chế, không dám bỏ mình theo Chúa. Với con mắt xác thịt thì chẳng bao giờ nhìn thấy Chúa hiện diện, mặc dù Người vẫn đang ở ngay bên. “Ai muốn theoTa (hoặc muốn thấy Ta), hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24).
Ngăn cản vì theo thế gian.
Làm sao thấy Chúa được khi cứ hùa theo thế gian, hùa theo đám đông kết án và đòi xử tử Người. Không dám chống lại xu thế vô thần, chống lại chủ nghĩa duy vật, chống lại khuynh hướng loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống, thì làm sao nhận ra Chúa? Bởi vì Nước Chúa đâu thuộc về thế gian này. Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18, 36)
Ngăn cản vì theo cám dỗ ma quỷ.
Làm sao nhận ra Chúa khi còn nặng nợ với cám dỗ giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng, đắm mê theo cám dỗ hưởng lạc, gian tham, dối trá, lừa thầy, phản bạn, hay đố kỵ, ganh ghét, hận thù?
Sau những giờ phút đau buồn, sợ hãi, lẩn trốn vì cái chết thảm thương của Chúa Giêsu, các ông đánh mất hy vọng. Niềm tin lúc này mới có dịp cam go thử thách. Các ông ngộ nhận Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ bình thường nào đó. “Người là một ngôn sư đầy úy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mắt Thiên Chúa và toàn dân.” (Lc 24, 19). Nhưng may mắn thay, Chúa Giêsu đã kịp mở mắt các ông bằng hai thần dược. Đó là Lời Chúa và Thánh Thể.
Thần dược thứ nhất, Chúa Giêsu dùng ngay Kinh Thánh để mở mắt họ ra. “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24, 25-27)
Thần dược thứ nhì, chính là mầu nhiệm Thánh Thể. “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra, và họ nhận ra Người. Nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 30-31)
Như thế nhờ hai thần dược huyền diệu, hai môn đệ mới nhận ra Chúa Giêsu. Bây giờ chúng ta cũng vậy, cần nhờ cậy đến hai thần dược ấy để nhìn thấy Chúa, đang cùng đồng hành trên đường Hy Vọng.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp con hằng ngày tìm thấy Người qua Lời Hằng Sống và Bí Tích Thánh Thể, để con hy vọng được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Sầu Bi, xin nhắc nhủ con hằng tìm đến với Chúa qua Kinh Thánh và Thánh Thể nhiệm mầu, để con có thể xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa. Amen.
35. Những chứng nhân sự phục sinh của Chúa
(Suy niem của Phanxicô Xaviê)
Hai môn đệ, trong số bảy mươi hai vị đã được Chúa sai đi từng đôi một vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến (Lc 10, 1). Nhưng sau khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, họ đã vỡ mộng và tính về vườn. Do vậy, trên đường về làng Emmau cách Giêrusalem chừng một cây số, thì gặp Chúa, họ liền quay trở lại báo tin cho các tông đồ. Theo Thánh Luca, đây là lần đầu tiên Chúa hiện ra với tất cả các môn đệ, nên các ông kinh hồn bạt vía (Lc 24, 37). Thánh Luca ghi nhận sự kiện này trong hướng thu thập các bằng chứng Chúa sống lại thực sự chứ không là sản phẩm tưởng tượng do các môn đệ đặt ra, vì chính các Ngài cũng còn phải sửng sốt.
Chúa cho các ông xem các dấu đinh để kiểm chứng vì ma thì không có xương thịt. Nhưng có lẽ quá vui mừng, các ông vẫn chưa tin ngay và còn đang ngỡ ngàng. Chúa muốn cho các ông thấy thực tại thể lý sự sống lại của Người, nên Chúa đã cầm một khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông. Nhờ vậy các môn đệ thêm tin thực là Chúa như hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Giêsu lúc Ngài bẻ bánh.
Sau khi đã mở trí cho các môn đệ am hieu Kinh Thánh, Chúa Giêsu trao phó sứ mạng cho các ông lên đường rao giảng về cuộc Thương khó và Phục sinh của Người để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối đón nhận ơn cứu độ. Trong môi trường văn hóa Do thái bấy giờ, viec tha tội và Phục sinh phải đi đôi với nhau, vì nếu cái chết được quan niệm như là hình phạt của tội lỗi, thì Phục sinh phải là dấu chỉ tội lỗi đã được xóa bỏ.. Chính vì vậy, những lời Kinh Thánh, các việc loan báo, các sự kiện….về sự Phục sinh của Chúa đã phải làm các tông đồ vững tin, nhưng để kiện toàn hơn về lòng tin này, vì các Ngài sẽ là những chứng nhân, cũng như vì đức tin của các thế hệ mai sau sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ, đặc biệt của Thánh Phêrô, mà Chúa phải hiện ra nhiều lần với các ông, ban cho các ông nhiều bằng chứng về sự sống lại của Ngài. Đó chính là điều mà Thánh Luca muốn diễn tả. Đức tin của Thánh Phêrô là nguon mạch đức tin của người khác, kể cả của các môn đệ mà Chúa Giêsu đòi các Ngài phải là chứng nhân.
Có lần người ta hỏi đại thi hào Danic của Italia rằng: đâu là điều mà ông mong muốn và tìm kiếm trong cuộc sống. Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm đó là sự bình an”. Là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào cũng luôn ghi lời cầu xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong cuộc sống tại thế này, chúng ta sẽ khò tìm được hòa bình và an nghỉ. Thế giới dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút hòa bình thực sự, có chăng chỉ là những khoảnh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.
Trong những phút cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta “Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con”. Đó là sự bình an đích thực trong tâm hồn, Chúa đã mang đến cho các môn đệ qua những lần hiện ra với các ông.. Chính nhờ sự bình an này đã giúp biến đổi các ông từ con người nhát đảm, cứng lòng tin trở thành những con người mạnh mẽ, nhiệt thành loan báo tin mừng Phục sinh của Chúa Giêsu.
Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay chính là lời chứng của các tông đồ về việc Chúa Phục sinh. Các Ngài đã nói với chúng ta không chỉ bằng lời truyền lại trong Kinh Thánh, mà còn bằng chính đời sống mạnh mẽ loan tin ấy và rồi dám chết cho điều mình tin. Suốt hơn 2000 năm lịch sử, các tông đồ, các nhà truyền giáo, những nhà hoạt động xã hội nhân danh Chúa Giêsu đã làm tốt điều ấy. Tin Chúa Phục sinh đã là điều cần, nhưng cần hơn còn phải biết biến niềm tin ấy thành hiện thực trong cuộc sống. Nghĩa là lên đường loan báo những gì mình đã tin. Chúng ta được mời gọi, tùy theo cách thế, hoàn cảnh mà làm chứng việc Chúa sống lại bằng chính cuộc sống của kẻ tin có sự sống lại. Khởi đi từ suy nghĩ, lời ăn tiếng nói tới thái độ cư xử, cách sử dụng tài sản và phục vụ tha nhân của mình.
Lạy Chúa, xin cho con nên nhân chứng sự Phục sinh của Chúa bằng việc góp phần làm sống lại những con người đã chết vì chán nản, thiếu niềm tin để sống. Những nét đẹp phong hóa của tình nghĩa đã chết vì bị quên lãng hay vì tiền bạc, vì lợi nhuận…..Xin cho con biết đón nhận những khó khăn trong cuộc sống với ý thức chúng sẽ đưa tới cuộc hồi sinh của anh em con.
Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc24,36).
Thánh Luca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu phục Sinh, lần này Ngài hiện ra cho các Tông đồ ở Giêrusalem. Mục đích của cuộc hiện ra này là Ngài muốn chứng minh rằng: Ngài vẫn là một con người như trước khi còn sống với các Tông đồ.
Dường như các môn đệ của Chúa thật mâu thuẫn và khó hiểu. khi hai môn đệ trên đường Emau trở lại Giêrusalem và gặp các ông. Các ông hay tin Chúa sống lại và hiện ra, các ông rất vui mừng và kể cho nhau: “Chúa đã chỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông Simon”. Và hai môn đệ trên đường Emau xác nhận vì các ông cũng được Chúa đồng hành. vậy mà khi chính Đức Giêsu hiện ra thật sự, đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em” (Lc 24, 36), thì các ông hầu như chẳng thấy bình an chút nào, lại còn hoảng hốt và tưởng là ma.
Quả thật chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể hiểu được tâm trạng xem ra khá phước tạp và có nhiều mâu thuẫn nơi các Tông đồ. Và chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có đủ kiên nhẫn để hoá giải tận căn những mâu thuẫn trong thâm sâu nơi cõi lòng của các ông.
Do vậy, người Tông đồ đích thực không chỉ cố gắn trao dồi cho mình một so kiến thức và ảo tưởng là đủ. Nhưng người Tông đồ đích thực còn phải hiểu về Chúa cảm nghiệm về Chúa nữa. vì không ai có thể cho cái mà mình không thể có. Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện bên cạnh tôi. Đay không phải là một kiểu nói, không phải chỉ là một niềm tin, mà là một sự thật. chúa đang phục sinh hôm qua cũng như hôm nay, Ngài vẫn là một. tôi cần phải sống triệt để với niềm tin và xác tín ấy.
Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều đau khổ tinh thần nữa. thế nhưng xét bên ngoài, nhiều kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căn hơn, dâm ô hơn một số người không có niềm tin vào Chúa. Nhưng mọi kitô hữu điều biết rằng: Chúa Kitô phục sinh luôn muốn chúng ta sám hối và trở về với Ngài, Người muốn tha thứ tất cả và muốn cho ta được làm môn đệ đích thật của Người.
Lạy Chúa Giêsu Phuc Sinh, xưa Ngài hiện ra cho các Tông đồ nhằm để cũng cố đức tin của các ông và ban sức mạnh cho các ông. Thì nay xin Ngài cũng ban thêm niềm tin cho con, để con vững bước và thoát khỏi sự sợ hãi. biết cam đãm vượt qua moi thử thách trong cuộc đời để được lớn lên và trưởng thành trong vònh tay của Ngài. Amen.
(Suy niệm của Lm John Nguyễn Tươi)
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,23)
Cuộc sống con người ngày nay có quá nhiều nỗi sợ hãi và bất an. Sợ vì bị thất nghiệp, sợ vì chiến tranh, sợ bệnh tật, sợ nợ chồng chất, sợ mất nhà cửa, sợ mất người yêu, sợ bị kẻ thù hãm hại…Từ những sợ hãi đó, con người phải tự vệ, bạo động và đấu tranh để tìm kiếm sự yên ổn và hòa bình.Thế nhưng, đó có phải là cách thế để mang lại cho chúng ta sự bình an và hòa bình đích thực, hay chỉ là một thứ bình an giả tạo chóng qua.?
Câu truyện “Em bé napalm”- Phan Thị Kim Phúc đã làm rung động hàng triệu trái tim, do nhiếp ảnh gia Nick Út ghi lại khoảng khắc đau thương của một bé gái Việt Nam, 9 tuổi, trần truồng đang chạy hoảng loạn sau trận bom đổ xuống tại Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Theo lời chị thuật lại: “Lúc đó là khoảng 2 giờ chiều một ngày tháng 6.1972, làng Trảng Bàng bùng cháy với những đợt bom napalm giội xuống. Tôi cùng những đứa trẻ khác cố chạy thoát, nhưng hai người anh sinh đôi của tôi đã chết tại chỗ… Rất đau lòng. Tôi nghe thấy tiếng bom nổ, rồi đột nhiên lửa bùng lên quanh tôi. Quần áo tôi bị lửa thiêu trụi. Tôi bỏ chạy trên đường và lọt vào ống kính của chú Út. Tôi được chú Út đưa đến một bệnh viện nhi đồng của Mỹ cứu chữa….” Năm 1992, chị và chồng rời Cuba đến định cư ở Canada. Tại đây, tổ ấm của họ đã được vun đắp và chào đón hai cậu con trai.
Khi hỏi chị về ký ức “Em bé năm xưa” và những ngày đau đớn do bị bỏng bom napalm, chị Kim Phúc trải lòng: “Đừng nghĩ rằng cô bé khóc vì đau và sợ hãi mà hãy nghĩ rằng, cô ấy đang khóc vì khát vọng hòa bình. Kim Phúc cho biết thêm, khó khăn nhất đối với chị không phải là vượt qua những đau thương, mà chính là tha thứ cho những người đã bỏ bom ngôi làng và gây ra cho chị nhiều nỗi khổ đau. Chị nói: “Mọi người cũng muốn biết tôi sẽ trách cứ những ai và với những gì đã gây ra cho tôi, nhưng tôi không thể giữ mãi hận thù trong lòng. Cuộc sống đã dạy tôi hiểu rằng, tha thứ còn mạnh hơn bất kỳ vũ khí chiến tranh nào”.
Năm 2008, chị đã có bài phát biểu ấn tượng trên Đài phát thanh quốc gia Canada có tên là ” Đường dài tới sự tha thứ”, chị nói: “Tôi vẫn còn nhiều vết sẹo trên cơ thể và mỗi ngày vẫn đau đớn vô cùng, song trái tim tôi đã được chữa lành. Bom napalm công phá mạnh mẽ, nhưng lòng tin, sự tha thứ và tình yêu còn lớn hơn thế. Chúng ta sẽ chẳng có chiến tranh nếu mọi người đều có thể học cách sống với tình yêu chân thành, hy vọng và sự tha thứ. Tôi luôn biết ơn những người đã cho tôi sự sống, giờ tôi có thể chấp nhận bức ảnh đó, như là một món quà đầy sức mạnh. Tôi có thể làm việc với nó vì hòa bình”.
Từ trải nghiệm đau thương và mất mác của Kim Phúc, chúng ta có thể xác nhận với nhau rằng, bình an đích thức chính là sự tha thứ. Như lời Chúa dạy chúng ta” Các con hãy tha thứ cho những kẻ làm hại mình, hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ anh em” (Mt 5, 44). Bởi lẽ, chúng ta khó có thể tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, vì chúng ta chỉ nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác, để rồi kết án người khác. Hơn nữa, chúng ta thường mắc phải bởi tính tự mãn, tự kiêu, tự tôn và tự cho mình là người công chính và hoàn thiện.
Nếu chúng ta khiêm tốn đặt mình dưới ánh sáng Lời Chúa, thì chúng ta sẽ nhận ra con người thật của mình, nhờ đó ta có thể dễ dàng tha thứ cho người khác. Và trên hết mọi sự, tha thứ đòi hỏi phải có lòng yêu thương, bác ái và muốn người khác trở nên hoàn thiện. Tha thứ là cánh cửa mở ra sự bình an và cho Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn. Chúa Giê-su nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy.” Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta bình an đích thực khi Ngài ban bình an của cho các tông đồ, để có đủ can đảm ra đi trước những sợ hãi lo âu. Đó là lời chúc duy nhất khi Ngài về cùng Thiên Chúa Cha. Ngược lại, ở đâu không có Thiên Chúa là ở đó không có bình an đích thực. Bình an của Chúa không theo kiểu thế gian ban tặng, nhưng bình an đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ biến đổi tâm hồn chúng ta, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tránh chấp…Vì ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.
Như lời cố Đức Giáo hoàng Phao-lô II, vào ngày 22-10-1978, lần đầu tiên khi ngài ra mắt công chúng trước tiền đường Thánh Phê-rô, ngài lập lại lời Chúa Giê-su nói: ” Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ “. (Mt 14:27). Chúng ta chưa có bình an trong tâm hồn vì chúng ta còn bám víu nhiều thứ của cải thế gian. Tâm hồn ta vãn nặng trĩu nỗi lo âu, buồn rầu, vì chúng ta muốn có được nhiều hơn là mất đi, nên đời ta cứ mãi đắm chìm trong đam mê, tìm kiếm bởi của cải, quyền lực và lạc thú giả của thế gian, cho nên bình an của Chúa không có chỗ nơi tâm hồn trống rỗng và đầy thương tích tội lỗi.
Giờ đây, xin Chúa cho mọi người chúng ta biết tìm kiếm nơi Chúa là nguồn bình an đích thực: “Thầy sẽ ban bình an cho anh em”. Nước Trời là sự bình an, vui tươi và hạnh phúc, thì chính giây phút hiện tại khi chúng ta tha thứ và hòa giải cho nhau, đó là Nước Trời, và nơi đó có Thiên Chúa hiện diện và ban bình an cho chúng ta. Amen.
38. Không phải mọi sự chỉ toàn là ánh sáng.
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Những nỗi nghi ngờ của chúng ta.
Nhiều người đã nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ lùng Ngài làm. Có lẽ chính họ đã chứng kiến nữa. Nhưng cũng chính những người đó vẫn không tin nơi Ngài. Họ đã không nhận ra được rằng Ngài là Đấng Cứu Độ. Trái lại, nhiều người đã “chối bỏ, trao nộp và giết” Ngài (Cv 3,13;14;15).
Nhiều lần sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Và khi những biến cố như thế xảy ra, thì không phải tự nhiên các ông vui mừng phấn khởi ngay đâu, nhưng đúng hơn các ông ngạc nhiên, nghi ngờ. Thánh Luca nói với chúng ta rằng: “Họ tưởng trông thấy ma” (24,37). Phải có những cử chỉ đầy thuyết phục để cho các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu: “Hãy xem tay chân Thầy đây. Hãy sờ xem…”. Mà vẫn chưa đủ, Ngài còn phải ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông.
Khi biết được những điều này ta sẽ không ngạc nhiên khi nhiều Kitô hữu thuộc những thời đại và trong những hoàn cảnh khác nhau, đã muốn chối bỏ Chúa Kitô hoặc ít ra là nghi ngờ. “Đức tin của tôi dựa trên cái gì? Tôi có lý mà tin chăng? Tôi có lầm đường chăng?”. Ai mà chẳng có lần tự đặt cho mình những câu hỏi như thế. Có lẽ hiện giờ một số người vẫn còn những thắc mắc kiểu ấy nữa.
Giả như ít ra, vào những giờ phút ấy, chúng ta có được những dấu chỉ cũng rõ rệt như những dấu chỉ mà các môn đệ xưa kia đã có được. Trông thấy Chúa Kitô, sờ vào Ngài, nghe Ngài! Và lúc đó mọi sự sẽ đơn giản hơn nhiều. Nhưng những dấu chỉ ấy không được ban cho chúng ta. Chúng ta đừng chờ đợi vô ích. Nhìn thấy Chúa Giêsu bằng mắt xác thịt, sờ vào Ngài với đôi bàn tay của chúng ta, chính tai chúng ta nghe Ngài, ngồi ăn cùng với Ngài như các chứng nhân đầu tiên về sự Phục Sinh, đó không phải là cơ may của chúng ta.
Những điểm qui chiếu.
Như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bị chìm ngập trong tối tăm và không thể bám víu vào cái gì cả để khơi dậy đức tin nơi mình.
Chúa Giêsu đã nói với Phêrô và những tông đồ khác: “Hãy xem tay chân Thầy”. Nhưng Ngài nói với chúng ta: “Các con hãy nhìn các môn đệ. Hãy lấy kính lúp mà xem họ đã sống những gì. Các con hãy đón nhận chứng tá của họ. Các con hãy tin vào lời họ. Thầy đã làm cho họ trở nên những sứ giả của Thầy”.
Ngài cũng nói với chúng ta: “Hãy nhìn xem các tín đồ xung quanh các con. Hãy nhìn xem Giáo Hội. Hãy nhìn xem những kẻ lớn bé tin vào Thầy. Hãy nhìn xem tất cả những người nam, người nữ gắn bó với Thầy tận đáy lòng. Hãy nhìn xem hành vi của họ. Hãy nói chuyện với họ. Hãy kiểm chứng niềm tin của họ. Hãy yêu cầu họ trả lẽ về niềm hy vọng của họ. Điều đó sẽ giúp ích cho các con. Khi gặp gỡ những tín hữu chân chính, các con sẽ được lôi cuốn trong đức tin, đức tin của họ sẽ củng cố đức tin của các con”.
Lời khuyên khác để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
Thánh Gioan cho chúng ta lời khuyên này khi người khẳng định: “Đây là cách chúng ta có thể biết được chúng ta có biết Ngài không? (chúng ta có tin nơi Ngài không?). Đó là tuân giữ các giới răn của Ngài”.
Chính nhờ sống như Chúa Kitô mà người ta trở thành Kitô hữu và thành người sống đạo. Chính nhờ thực sự cố gắng làm cho cuộc sống của mình am hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng mà ta làm chứng cho sự vững chắc và sự thật của những gì Chúa Giêsu dạy. Chính nhờ cụ thể bước theo con đường Phúc Âm đã vạch ra mà ta gặp được Chúa Kitô. Sống bằng Tin Mừng để tin vào Tin Mừng! Sống như Chúa Kitô để tin nơi Ngai!
Những nghi nan của chúng ta vẫn còn.
Khi bước theo con đường này, chúng ta có tránh được mọi nghi nan không, chúng ta có sống trong ánh sáng chói lòa và trong sự yên tĩnh hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Sự nghi ngờ, những vấn nạn không có câu trả lời rõ ràng và thỏa mãn chúng ta hoàn toàn, cả đến sự cám dỗ chối bỏ Chúa Kitô nữa. Mọi sự đều có thể xảy ra cho chúng ta trên trần thế này. Ánh sáng chan hòa sẽ chỉ có ở thế giơi bên kia. Diện đối diện với Chúa không phải là điều xảy ra nơi trần thế này. Ở đây ta phải luôn luôn chờ đợi những lúc khó khăn và những bước đường cực nhọc.
Tin! Chắc chắn đó là một hồng ân. Nhưng cũng là một cuộc chiến đấu, một sự tìm kiếm mỗi ngày. Người nào tìm kiếm không ngừng, sống một đức tin trong niềm thao thức, một đức tin có thể rất mỏng dòn, người đó sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Và hễ ai tìm kiếm, thì Ngài ban cho ơn được thấy. Và ai gõ cửa, Ngài sẽ mở cho. Ngài là Cha và Ngài chờ đợi chúng ta hết thảy.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)
Cứ mỗi đêm, một câu chuyện được kể, và một mạng người được thoát chết. Nhà vua cứ mãi lắng nghe, từng nhịp, từng nhịp, dòng chảy của thời gian. Cho đến khi không còn ai phải chết. Hai môn đệ trên đường Emmau, quay trở về Giêrusalem và thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và họ đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Như giữa hư và thực, các môn đệ bàng hoàng và ngây ngất, họ như tỉnh như say. Tâm trạng các môn đệ chất chứa đầy những hoang mang. Họ chụm vào nhau và kể cho nhau nghe những lần Chúa Giêsu hiện ra với họ. Đang lúc “tranh tối, tranh sáng” thì chúa Giêsu hiện đến, thế nhưng thay vì nhận ra Chúa thì các ông:” kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”(Lc24, 37). Thật là tội nghiệp cho các ngài, như vừa trải qua cơn ác mộng, sự thất vọng và những nỗi chán chường đã gặm nhấm tâm hồn các Ngài. Làm sao mà có thể “bình chân như vại được”, khi câu chuyện Chúa Giêsu sống lại cứ ngày một lan xa. Thấy các học trò còn e dè, và tham chí còn ngờ vực, Chúa Giêsu phải trấn an các Ngài:” Sao anh em lại hỏang hốt? sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay thầy coi, chính Thầy đây mà! cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”
(Lc 24, 38-39). Chúa Giêsu lại tiếp tục kể cho các Tông đồ nghe, bắt đầu bằng Kinh Thánh: sách luật Mô-sê, các sách ngôn sứ và Thánh vịnh. Tâm hồn các Ngài chợt bừng tỉnh, Chúa Giêsu kéo họ ra khỏi những giấc mộng vàng của kiep phù vân, Ngài sai các tông đồ ra đi và làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Đấng phục sinh còn ăn uống trước mặt họ. Ôi quả thật hạnh phúc, các tông đồ không còn nhát đảm và sợ sệt nữa, Đức Giêsu Phục sinh đã làm cho niềm vui của các ngài òa vỡ, không thể im lặng được, họ cùng nhau đi đến với muôn dân loan tin mừng Chúa đã sống lại. Và phép lạ phục sinh đã xảy ra, người ta sám hối, con người tìm về với Chúa, lương tâm mọi người thưc tỉnh, họ bắt đầu phản tỉnh: “Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cvtđ 2,37).
Câu chuyện phục sinh chẳng bao giờ khép lại, người ta cứ mải mê kể cho nhau nghe,” khi ấy… Đức Giêsu…”, và mọi người thay nhau kể về câu chuyện hai môn đệ trên đường đi Emmau. Ngày hôm nay, cộng động Emmau do cha Henri Groúes sáng lập, nhằm giúp những người không nhà, không cửa tự tay xây dựng đời sống cho chính mình đã có mặt tại năm mươi quốc gia với 250 cộng đòan.
Trong thánh lễ mỗi ngày, linh mục cùng với cộng đòan dân Chúa, tiếp nối sứ mạng đã được Đức Giêsu ủy thác để vẫn mãi kể về câu chuyện Đấng đã Phục sinh Alleluia!
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Lc 24:35-48
Mùa Chay thực sự đã qua rồi. Chúng ta đang đắm chìm ngụp lặn trong Mùa Phục Sinh, mừng Đức Kitô chiến thắng cái chết. Thế mà những bài đọc hôm nay vẫn cứ tập trung vào chủ đề kêu gọi thống hối, hoán cải và xa tránh tội lỗi. Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn nhớ rằng để cùng chia sẻ cuộc sống mới của Đức Kitô Phục Sinh, trước tiên chúng ta phải chung phần cuộc sống của Đức Kitô chịu đóng đinh. Không co con đường tắt dẫn đến sự sống đời đời: nếu không có mão gai sẽ không có vương miện; nếu không có khổ hình thập giá sẽ không có vương quyền vinh hiển. Chết và sống lại phải diễn ra trong con người của chúng ta. Chúng ta phải chết cho chính mình để sống cho Thiên Chúa. Chúng ta phải tránh xa tội lỗi bất cứ giá nào, vì tội lỗi chia cách chúng ta với Thiên Chúa, và ngăn cản chúng ta đến với vinh quang mà Ngài đã dành sẵn cho chúng ta.
Phục Sinh không chỉ giới hạn vào một sự kiện lịch sử, vào một biến cố xảy ra cho Đức Chúa Giêsu cách đây 2000 năm. Mà việc sống lại ấy vẫn còn là một thực tại hiện thời, vẫn còn nóng hổi tính thời sự mà chúng ta có le vẫn còn cảm nghiệm được. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết ý nghĩa sự sống đích thực ấy là gì cho đến khi sống cuộc sống ấy, dấn bước theo từng dấu chân Chúa. Phục Sinh không phải là một việc chúng ta có thể đắc thu được trong một sớm một chiều, mà chính là một tiến trình biến đổi tiệm tiến diễn ra âm thầm trong lòng chúng ta. Đó là những khi chúng ta quay lưng lại với bóng tối mà sống vì Thiên Chúa, cho Thiên Chúa. Dần dà chúng ta sẽ tới chỗ nhìn cuộc đời này không phải bằng đôi mắt trần của chúng ta nữa mà là bằng cái nhìn của Đức Kitô.
Tin Mừng cho chúng ta biết Đức Kitô đã khai lòng mở trí các tông đồ như thế nào để các ông hiểu rõ ý nghĩa của Kinh thánh. Người đã giải thích cặn kẽ tại sao Người phải chịu khổ đau và sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Hơn nữa các ông sẽ ra đi làm chứng cho Đức Kitô trước mọi dân nước, đồng thời rao giảng lòng thống hối để được thứ tha mọi lỗi lầm. Sáng nay chúng ta nguyện cầu Đức Chúa Giêsu đến với cuộc sống chúng ta ngõ hầu tâm trí chúng ta được khai mở thông thoán đón nhận Lời Thiên Chúa. Rồi đến phiên chúng ta ra đi làm chứng cho Tin Mừng và bộc lộ sức sống phục sinh mạnh mẽ của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Những môn đệ đầu tiên đã không ôm giữ khư khư Tin Mừng cho bản thân, nhưng đã hối hả chạy đi chia sẻ niềm vui đầy ắp trong lòng cho bất cứ ai lang nghe. Cũng thế, mối tương quan thân thiết giữa chúng ta với Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải thông truyền tin vui Phục sinh đến với mọi người bằng thái độ, giá trị, và lối sống mình.
Sứ điệp Kitô hữu không bao giờ trở thành của chúng ta nếu chúng ta không chia sẻ nó với chính gia đình chúng ta, với bằng hữu, và những người khác chúng ta gặp gỡ trong đời. Mà nếu chúng ta muốn làm chứng cho tin mừng của Đức Kitô, chúng ta phải ngừng ngay lối sống nửa nạc nửa mỡ và phải mạnh dạn biểu lộ sức sống phục sinh ra cuộc sống chúng ta. Kết hợp với Đức Kitô nghĩa là đồng tâm nhất trí với Đức Kitô và cư xử như Đức Kitô. Đức Kitô phục sinh chỉ có thể tác động anh hưởng vào thế giới này một khi chúng ta biết kết hợp lời nói và hành động chúng ta để bộc lộ quyền năng của Người. Chúng ta được kêu mời dốc sức xả thân phục vụ Đức Kitô mà không giữ lại cho mình điều gì.
41. Làm chứng về Thầy – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Muốn làm chứng đầy đủ về ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật đó từ khi sinh đến khi chết. Về các anh hùng, danh nhân, sử sách thường ghi những chiến công, những thành tích siêu quần bạt chúng: Hưng Đạo với chiến thắng oai hùng Bạch Đằng, Quang Trung với chiến thắng thần tốc Đống Đa.
Đức Giêsu làm chứng mình đã sống lại thật, bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các tông đồ tin, Người đã làm hết mọi cách, từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.
Về tâm lý: Người chúc lành cho các ông: “Chúc anh em được bình an”. Bình an là trạng thái hòa hợp lành mạnh trong tâm trí, trong cơ thể và trong tương giao với người khác. Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Cần thiết Chúa phải ổn định tinh thần các ông, làm cho tâm trí các ông bình tĩnh, lành mạnh, yên hàn, các ông mới sáng suốt nhận định rõ ràng. Khi các ông được bình an, Chúa mới chỉ cho các ông thấy về thể lý bên ngoài.
Về thể lý: Người bảo các ông phải phân biệt rõ ràng Thầy khác với bóng ma hiện về: Người chết hiện về, chỉ là bóng ma không rờ xem xương thịt được. Còn Thầy: Thầy đưa chân tay, xương thịt cho các ông rờ xem. Các ông đã nhìn tận mắt, xỏ tận lỗ đinh chân tay Thầy. Ma không ăn uống như người sống, còn Thầy, Thầy cầm lấy khúc cá nướng do chính các ông đưa và Thầy ăn trước mặt các ông.
Về lịch sử: Khi các ông đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi Thầy mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môisê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.
Đó là những sách người Do thái đọc mỗi ngày Sabbat trong các hội đường. Họ thấy rõ toàn bộ Kinh thánh diễn tả toàn bộ lịch sử dân tộc hướng về Đấng Cứu Thế. Mỗi một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc đều là một điển hình chỉ về Đấng Cứu Thế, như: Noe, Abraham, Giacóp, Giuse, Môisê, Giosuê, David, Salômon … Nhưng không một vĩ nhân nào hội đủ mọi tư cách của Đấng Cứu Thế. Đời sống mỗi vị đó chỉ diễn tả được vài tư cách đặc sắc của Đấng Cứu Thế. Chỉ có Đức Giêsu, Đấng độc nhất, hội đủ moi nhân cách và hoàn thành mọi ưu điểm của Đấng Cứu Thế, vì chính Người là Đấng Cứu Thế. Mỗi một tiên tri cũng chỉ loan báo một vài mầu nhiệm về Đấng Cứu Thế, dù vĩ đại như Êlia, Êlisê, Isaia, Giêrêmia hay Êzêkiel cũng không thực hiện được đầy đủ lời Thiên Chúa mặc khải cho họ. Các vị ấy đều thấy mình bất xứng như tiên tri Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi là người môi miệng nhơ bẩn, ô uế” (Is. 6, 5).
Chỉ mình Đức Giêsu là Đấng thực hiện mọi mầu nhiệm làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Mc. 1, 11).
Đức Giêsu nói cho các tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Người. Nếu Kinh thánh không ứng nghiệm về Người, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Kinh thánh loan báo về Đấng Cứu Độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv. 4, 12). Để thấy rõ như thế Người đã “dẫn giải cho các ông những điều viết ve Ngài trong toàn bộ Kinh thánh” (Lc. 24, 27 theo Nguyễn thế Thuấn dịch). Để có thời gian giải thích, chắc Người phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là bốn mươi ngày được ghi rõ trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” (Cv. 1, 3).
Thời gian bốn mươi ngày đã quá đủ để các tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
Đến lượt các tông đồ được Người trao cho sứ mạng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em làm chứng về những điều này”.
Trong bài đọc một, Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv. 2, 41).
Bài đọc hai, Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.
Đức Kitô đã làm chứng về Người đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Người.
Chúng ta không làm chứng về Đức Kitô, chúng ta là người không có lòng mến Thiên Chúa và biết được mình không ở trong Đức Kitô, thì chúng ta không thể được sống lại vinh quang với Người.
Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho chúng con biết làm chứng về Đức Giêsu Kitô bằng đưa bình an đến cho mọi người, bằng hy sinh chịu thương khó phục vụ mọi người, bằng học hỏi và loan truyền lời Chúa và nhất là thực hiện sống đúng với lời mình nói. Như Chúa Giêsu đã thực hiện đúng với lời Thánh Kinh và lời Người loan báo: “Con Người phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, sẽ từ cõi chết sống lại”.
42. Sự thử thách cho trọng tâm đức tin.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để tránh sự mập mờ khó hiểu của một từ, mà theo ngôn ngữ thông thường ý nghĩa của nó đi từ sự khảo sát dĩ vãng theo con mắt khoa học, đến khái niệm về một truyện tích thần kỳ –ở đây chúng ta không muốn nói đến những “câu chuyện” thuật những lần Chúa hiện ra, mà chỉ bàn đến những đoạn tường thuật trong Phúc Âm. Ký sự của thánh Luca về lần Chúa hiện ra trong phòng Tiệc ly, nhấn mạnh sự việc các môn đệ nhận ra một người đang sống mà các ông tưởng là mãi mãi khuất bóng. Các ông tưởng nghĩ Chúa nằm yên trong mộ. Vậy mà Chúa cho các ông thấy Người đang sống. Chúa khẳng định: Chính là Ta đây. Sự kiện này quá vĩ đại, nên các ông chưa thể trong phút chốc chấp nhận thực tai trước mắt. Vì thế, Chúa đưa ra những bằng chứng về nhân dạng Người: Chúa muốn cho các ông chạm tay vào người Chúa, cho các ông nhìn những vết sẹo ở tay chân Người. Chúa lại dùng bữa trước mặt các ông.
Đoạn Phúc Âm có sức kích thích mạnh, cho thấy các Tông đồ đã sống sự kiện Phục Sinh, coi đó là một biến cố thật sự xảy đến cho Chúa, chứ không như một kinh nghiệm tôn giáo đơn giản. Nếu sự sống lại vì có tính cách phi thường cho nên phần nào ở ngoài vòng kiểm soát của khoa sử học với khả năng hạn hẹp của loài người- thì ở đây ta thấy sự Phục Sinh như là một sự kiện gây nền một niềm xác tín vững mạnh trong tập thể một nhóm người. Các ông xem sư Chúa sống lại như một biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố Thương Khó. Mặc dù vượt quá những khuôn khổ nhân loại của những sự kiện dĩ vãng được khoa sử học, khoa học khảo sát, sự Phục Sinh hiện diện như là một sự kiện được kiểm soát, dựa trên lời chứng của các Tông đồ. Người ta có thể trích dẫn ra đây một câu trong sách Công Vụ. Sau cuộc Thương Khó, Người cho họ thấy mình van sống, với nhiều bằng chứng rành rành (1,3).
Để suy niệm, chúng ta giữ lại 2 điểm
1) Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được, và chỉ kinh ngạc. Chúng ta thích thú mà nhận thấy rằng ngay cả đối với các môn đệ, tin vào sự sống lại không phải là việc dễ. Tâm trí con người hiện đại rất khó chấp nhận sự sống lại của một kẻ chết. Chỉ cần thêm một chút tưởng tượng thôi, thì sự Phục Sinh chỉ là một huyền thoại đối với những người biết suy xét. Điều khó khăn ấy gây trở ngại cho niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta đứng trước sự thử thách về đức tin, vì chính đời sống Kitô hữu xây móng trên niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa. ta hay gạt hết những gì là tưởng tượng khỏi tâm trí ta. Một cách rất đơn sơ, cùng với các Tông đồ, chúng ta đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu từng bị đóng đinh, giờ đây đang sống. Nếp sống của Chúa đã thay đổi, nhưng đích thật Người –một Đấng vừa có thể xác, vừa có thiên tính- đã bằng sự Phục Sinh của Người, đóng dấu ấn lên công cuộc cứu rỗi của Người.
2) Nhân danh Người, phải được rao giảng việc hối cải để được tha thứ tội lỗi. Trong bối cảnh tổng quát của nền tư tưởng Kitô giáo, câu đó rất phong phú.
Sau đây là một quan điểm có một giá trị của nó. Tội lỗi làm cho con người mất quân bình, sinh ra lầm đường lạc lối, cho nên tội lỗi xô đấy con người đến chỗ hoặc làm Thiên thần hoặc làm giống thú. Tại sao? Vì lẽ con người là cơ thể và tâm trí hợp nhất, lẽ thứ hai là tội lỗi đem hỗn loạn vào cơ thể và tâm trí. Thế quân bình hoàn chỉnh giữa cơ thể và tâm trí đươc thực hiện trong Đức Kitô Phục Sinh. Chúa vừa có tính chất siêu nhân loại thần kỳ, vừa mặc một xác phàm cụ thể. Trong Chúa không có tội lỗi mà chỉ có nhân vị thành toàn và bản thể chính trực. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trở nên một thứ men phi thường cho sự thành toàn con người cả hồn lẫn xác. Đó là một sức mạnh thiêng liêng, nó loại bỏ tội lỗi và dẫn đưa con người tới sự thành toàn một số mệnh chung cho xác hồn.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,OP.)
Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sáng sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đáng cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.
Cụ thể như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Diễn tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục Sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục Sinh thế nào?
Làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Hiểu như vậy, các tông đồ là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ơ mầu nhiệm Phục Sinh. Phục Sinh của Chúa Ki-tô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những đieu đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.
Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế…các tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quý vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phao-lô VI đã nói: “Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Ki-tô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: “Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo gặp tôi, họ không thực hiện bác ái Đức Ki-tô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự”. Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân Chúa không?
44. Niềm tin thắng vượt sợ hãi
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu con thường với ve do dự:
– Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình. Nghe con nói như thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:
– Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?
Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.
Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: từ đó con nhìn tới đâu nữa?
– Con nhìn tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
– Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa anh chị em,
Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trươc đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50)
Chúng ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.
Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an tang trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thư thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.
Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, khong gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Co hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
45. Chúa Giêsu là trung tâm lịch sử – Noel Quesson.
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel Angelo đã mất bảy năm để thực hiện bức vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả những chương đầu của sách Khởi nguyên: Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký tên vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối cùng của mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói: Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của vạn vật.
Toàn bộ lịch sử nhân loại được diễn ta trong Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là con người trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài, chuẩn bị tâm hồn người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Cựu ước nói về Chúa và cái chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó cũng nói về những đau khổ Người phải chịu. Người Do Thái đã đọc những lời tiên báo đó trong sách Luật, sách các Ngôn sứ và Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các Tông đồ cũng không hiểu rõ. Vì thế mọi người đã coi cái chết của Chúa Giêsu như một thất bại, và đến lúc nghe Chúa sống lại, ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.
Cho tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa chính là Đấng được tiên báo trong Cựu ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emaus, cũng như với mười một tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho họ những điều Cựu ước noi về Người. Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân huệ Người.
Những cải tổ về phụng vụ của Công đồng Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe, đọc nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt trục xuyên suốt của lịch sử. Muôn dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu rỗi nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu, nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc cải thiện thế giới bắt đầu từ Giêrusalem và moi người chúng ta là những chứng nhân.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban ánh sáng đức tin cho những người chúng con gặp gỡ hôm nay. Chúng con cầu xin Chúa.
46. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc ben. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bai cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau kho để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền cac ông tới bến bình an… Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gap thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những noi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thanh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
47. Suy niệm của ĐGM. Vũ Duy Thống.
CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:
1) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ
Bối cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, that vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.
Mà đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.
Vâng, Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ. Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hanh chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.
2) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN YÊU
Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng. Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.
Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phai. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cư đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.
Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.
3) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA CHO ĐỜI
Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phai là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đang Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hoi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin von đang chao đảo hoang mang của họ.
Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.
Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mau cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.
Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa. Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chu động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.
Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma. Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma. Khi Đức Giêsu phục sinh hien ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.
Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng. Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.
Khi các môn đệ yếu đức tin, họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến. Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài. Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế. Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.
Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì nhưng lý do không đâu. Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.
Chuyện Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, người Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục vụ người nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi…)?
Làm chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hai đều cần?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
Xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
49. Phiền muộn, bối rối, & bình an.
(Suy niệm của Lm Nguyễn Trung Tây)
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loai bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Ngoài thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá va sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đưc Giêsu.
Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đưc Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Ga 20,2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giesu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ cua Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai ngươi môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đa trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười mot cây số.
Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.
Khong trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân loại ngày hom nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhieu hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy. Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của thành phố New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi người trên thế giới đa biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đong kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài:
Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với những sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con lời chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền, nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.
50. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Bài giáo lý II về cuộc sống kitô hữu: nhận biết Đức Giêsu
Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc hành cô đơn phải tự mình giải quyết mọi vấn đề. Nhưng có Chúa cùng đi với chúng ta. Tuy vô hình nhưng Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Lời Ngài soi sáng tâm trí và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe câu nói mà phụng vụ thường nhắc đi nhắc lại: “Chúa ở cùng anh chị em”.
Đức Giêsu đã nói “Bình an cho chúng con”. Nhưng bình an có đang thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng ta và trong môi trường chúng ta sống không?
Đức Giêsu đã nói “Hãy ở trong Thầy”. Nhưng chúng ta có thực sự ở trong Chúa khi cầu nguyện, khi lãnh nhận các bí tích và khi sống trong cộng đoàn Giáo Hội không?
Đức Giêsu đã nói “Chúng con là nhân chứng của Thầy”. Nhưng chúng ta có thực sự làm chứng cho Chúa qua lời nói, việc làm và cách sống không?
III. Lời Chúa
Sau khi Phêrô chữa lành một người què tại cửa Đền thờ, nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân cơ hội này, Phêrô giảng một bài:
– Trong phần đầu bài giảng, Phêrô xác nhận người què này được chữa lành không phải nhờ quyền năng hay đạo đức riêng của ông, mà chính là nhờ Danh Giêsu.
– Qua phần hai, Phêrô nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ông nói người Do Thái đã giết Đức Giêsu vì họ không “biết”. Nay Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Việc này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đang Messia. Vậy họ hãy sám hối và tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng trông cậy phó thác: mặc dù đang ở trong cơn khốn khó, tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình cho nên người tín hữu cảm thấy “thư thái bình an, vừa nằm tôi đã ngủ”.
Đức Giêsu chính là người sống tâm tình này tuyệt hảo nhất: Ngài đã “nằm ngủ” bình an trong tay Thiên Chúa rồi được Thiên Chúa cho “thức dậy” qua cuộc phục sinh.
Hai môn đệ Emmau đã theo Đức Giêsu bấy lâu nay, họ nghĩ rằng họ “biết” Ngài. Theo cái “biết” ấy thì Ngài chỉ là “một tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ” và họ “hy vọng Ngài sẽ cứu Israel”.
Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, họ mới ý thức rằng cái “biết” đó chỉ là cái họ “tưởng” chứ không phải là “biết” thật.
Đức Giêsu giúp họ “biết” thực sự, nhờ việc Ngài giảng giải Lời Sách Thánh và nhờ việc Bẻ bánh.
Khi đã “biết” Đức Giêsu, hai ông vội vã trở lại Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác “biết” nữa.
Chịu ảnh hưởng của thuyết Ngộ đạo, các tín hữu cũng coi trọng sự “biết” và họ tự hào rằng mình đã biết Đức Giêsu.
Thánh Gioan tông đồ giải thích thế nào là “biết” thật: “Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình “biết” Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình “biết” Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối”.
* 1. “Biết” và được cứu độ
Vào khoảng cuối thế kỷ I, có một lạc thuyết nổi lên trong Giáo Hội, đó là thuyết Ngộ đạo. Thuyết này đề cao sư hiểu biết (“ngộ”): ai đã đạt đến trình độ hiểu biết cao sâu về Chúa thì sẽ bảo đảm được cứu độ. Ngày nay, có nhiều người cũng lầm tưởng rằng nếu “biết” giáo lý, “biết” lề luật, “biết” Thánh Kinh thì cũng bảo đảm đươc phần rỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay xóa tan ngộ nhận ấy, cái “biết” có thể mang đến ơn cứu độ là cái “biết” do suy gẫm sách Thánh và kết hợp với Đức Giêsu Thánh thể. Bài trích thư thứ nhất Thánh Gioan cho thấy thêm một đieu kiện nữa: không chỉ biết Chúa mà còn phải tuân giữ các giới răn của Ngài nữa thì mới được cứu độ.
* 2. Những cảm nghiệm Emmau
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Ch. Perrot đã đoán lý do khác ấy là: “Người bạn của Clêôpát không được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mọi tín hữu”. Nghĩa là, theo suy đoán của Ch. Perrot, Thánh Luca cố ý không nêu tên người môn đệ kia vì muốn coi người ấy là đại biểu của mọi tín hữu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể trải qua những cảm nghiệm của người môn đệ ấy.
Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.
a/ Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh: “Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh”. Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó: “Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy len đó sao?”.
b/ Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.
***
Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không “cháy bừng len”, và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không “mở ra”? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài.
Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.
* 3. Cuộc sống mới của các môn đệ
Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết luôn, chết về mặt tinh thần và về luân lý: nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn, Tôma đã bỏ đi do khủng hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng.
Nhưng ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm cho họ sống lại: Ngài chủ động đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài không nói một lời trách móc nhưng lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng cho muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu thương ấy đã giúp cho các môn đệ
– không còn sợ hãi
– không còn nghi ngờ
– không còn mặc cảm tội lỗi
– không còn buồn phiền
– không còn thất vọng
Con người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.
Một người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một nông dân, suốt đời cần cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết đi, lòng người con rất buồn rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất là nhìn đôi bàn tay của cha. Anh nói: “Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy, tôi nhớ lại tất cả những cực nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương tôi”
Khi hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn chân tay Ngài, những chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích. Nhìn không phải chỉ để xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm qua bị đóng đinh, mà còn để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài: “Không có tình thương nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người mình thương”.
Khi hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến các vết thương của Ngài, rồi Ngài nói: “Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 28). Tin gì? Khong chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin vào tình thương của Ngài.
Tình Chúa thương ta là một điều chắc chắn, đã được đóng dấu bằng những vết thương trên thân xác Ngài. Chúng ta hãy tin chắc như thế, không có gì lay chuyển được.
Trong những ngày ấy, có hai người bước trên đường về Emau, một làng cách Giêrusalem vài cây số. Về Emau, có nghĩa là trở về hư vô, về cõi của những niềm hy vọng đã tan vỡ. Họ kiệt lực rồi, họ hết còn mơ mộng, họ cũng đã hết nhiệt tình. Trước đây, họ đã đi theo phong trào Giêsu với tất cả nhiệt huyết, họ cứ chắc mẩm rằng họ sẽ giải phóng thế giới khỏi cái ác, giải phóng dân tộc họ khỏi giới quí tộc Đền thờ và khỏi ách đô hộ La Mã.. Nhưng nay thì hết rồi Thầy đã chết, chết quá dễ dàng không một biểu hiện tự vệ. Các thủ lãnh phong trào Giêsu, những bạn đồng hành thân cận nhất của Thầy, những người mà Thầy tín cẩn, cũng đã lánh mặt vì khiếp nhược, vì thất vọng. Có người thậm chí còn bảo, anh Phêrô nhiệt tình là thế, bao giờ cũng tranh ăn trên nói trước, thế mà người ta bảo anh đã thề độc, đã chứng minh anh không hề quen biết Giêsu.
Thế là hết. Hai anh tưởng đã được tham dự vào một cuộc phiêu lưu độc đáo, khiến cho đời các anh có một ý nghĩa rực sáng, mở ra cho hai anh, mở ra cho mọi người một tương lai chan chứa niềm vui và niềm hy vọng. Vậy mà giờ đây họ chỉ còn những nuối tiếc, hận đời và dằn vật.
Một người khách lạ nhập bọn với hai anh, bảo hai anh kể cho ông ta nghe về những nỗi buồn và niềm bất hạnh của họ. Cái ông khách này là một người hiếm hoi, biết nghe người khác nói. Rồi ông ta giải thích cho hai anh nghe về lịch sử thế giới, bắt đầu bằng kể về ông Môisê và các ngôn sứ. Hai anh thấy lòng ấm dần lên, cởi mở dần ra. Đầu óc của hai anh, chậm hiểu hơn trái tim, chỉ nhận ra Ngài sau khi cùng Ngài chia sẻ bữa tối và sau khi Ngài khuất dạng.
Thế là hai anh quay lại, bước ra khỏi tăm tối và hư vô, trở về Giêrusalem. Những người các anh gặp lại ở Giêrusalem cũng đã từng trải qua những thất vọng não nề… Vậy mà những con người thảm hại ấy bỗng đứng lên, mạnh dạn tuyên bố rằng Đức Kitô đang sống, và bằng chúng thuyết phục nhất là chính họ đã thấy Ngài, thậm chí đã cùng ăn uống với Ngài.
Những điều họ nói, thật ra không phải một bằng chứng bằng chứng thuyết phục nhất là chính họ, những người thấp hèn, nhát gan, ít chữ nghĩa, nay dám đương đầu với mọi hiểm nguy và làm phục sinh lại phong trào Giesu. Đến đâu họ cũng nhắc lại những lời yêu thương và giải phóng, những lời không hẳn được tất cả mọi người nghe theo, nhưng là những lời đã thay đổi lịch sử thế giới.
Vậy thì, trong những ngày ấy, đã có một biến cố xay ra, như một vụ bùng nổ, làm xuất hiện niềm tin và thay đổi cuộc đời những người này. Đối với họ, biến cố đã xảy ra đó là, Đức Giêsu đang sống. Đức Giêsu đã phục sinh, và họ đã loan truyền cái tin ấy đến nỗi dám hy sinh cả mạng sống. Chẳng ai có thể đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ điều đó. Ai cũng có quyền nghi ngờ. Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng thì tôn trọng tự do của con người đến độ đẻ họ nghi ngờ và phủ nhận Ngài… Tuy nhiên, trong những ngày ấy, một biến bố đã xảy ra làm đảo lộn những người đàn ông, những người phụ nữ ấy, và đã làm đảo lộn thế giới.
Jacques Duquesne (Nhà văn Pháp)
Albert Schweitzer là mot cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
***
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh: Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói: “Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta”.
Cha Charles de Foucauld quả quyết: “Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động”.
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr. 9, 16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
*
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và phải làm chứng về Chúa Phục sinh cho muôn dân. Ý thức trách nhiệm đó, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện:
Chủ tế: Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhớ lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô là ăn năn sám hối và dùng tất cả đời sống làm chứng về Người, để chúng con thực sự là môn đệ của Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
– Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Đấng công chính nhưng đã hiến thân làm lễ vật đền tội cho loài người chúng ta. Chính vì công nghiệp của Ngài mà chúng ta dám thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta rằng: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
– Chúc bình an: Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã “ở giữa các môn đệ và nói ‘Bình an cho anh em”. Hôm nay nguyện chúc bình an của Chúa cũng hằng ở cùng anh chị em.
– Trước rước lễ: Đức Giêsu phục sinh đã mời các môn đệ đụng chạm vào thân thể Ngài và hãy tin. Bây giờ Ngài cũng mời chúng ta kết hợp với Mình Máu Thánh Ngài. “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng…”
VII. Giải tán
Anh chị em đa biết rằng Đức Giêsu đã chịu nạn, chịu chết và sống lại để sinh on cứu rỗi cho loài người. Anh chị em phải làm chứng điều đó trước mặt mọi người. Chúc anh chị em về bình an.
51. Chúa hiện ra với các tông đồ – R. Gutzwiller
Trình thuật này gợi lên cho ta 3 ý tưởng:
1) Sự kiện Phục sinh
Chúa bỗng hiện ra đứng giữa các tông đồ. Họ lại khiếp đảm kinh sợ và không thể nào chấp nhận nổi sự kiện, mặc dù họ đã được sứ điệp của các bà, của Simon báo trước, và rồi của hai môn đệ đi thành Emmau nữa. Họ không thể hiểu nổi sự kiện xảy ra đến nỗi Chúa Giêsu phải chính thức nhấn mạnh: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó: Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt xương như anh em thấy Ta đây’. Và hình như họ còn không tin và không dám nhìn thẳng vào thực tế trước mắt, nên Ngài hỏi ‘Ở đây các anh em có gì ăn không?’ Và Ngài đã ăn trước mắt họ. Khi ấy họ không nghi ngờ nữa. Ngài đó, Ngài đứng đó với xác thịt rành rành. Sự Ngài Phục sinh không chỉ là sự sống lại thiêng liêng mà thôi, nhưng còn là sự sống lại thể xác nữa.
Hơn thế nữa, những lời ‘Ngài cho họ nhìn xem tay chân Ngài’ cũng như Ngài nói: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó’ chứng tỏ rõ ràng rằng sau khi sống lại, những dấu của cuộc khổ nạn vẫn còn y nguyên. Vậy Đấng chịu khổ nạn đã sống lại với xác thân của Ngài. Khải huyền thơ nói Chúa biến hình dưới dạng một ‘con chiên bị đem đi sát tế’. Những dấu tích cho thấy rằng thân thể Ngài là thân thể của một tế vật và sự Phục sinh là hoàn tất hy tế đó. Đấy không phải là một biến cố lịch sử đơn giản, xảy ra trong một vài khoảnh khắc, nhưng là một biến cố lâu dài, bền bỉ, để lại kết quả lâu dài qua dòng thời gian.
2) Ý nghĩa Phục sinh
‘Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giang cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết qua riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.
3) Loan báo Phục sinh
‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tao một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân toc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoai bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhòa đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Điều mà con người mong mỏi khao khát nhất, không hẳn là cơm áo gạo tiền mà là sự bình an. Bình an trong tâm hồn. Bình an khỏi mọi sự dữ. Bình an trong công việc được êm xuôi. Sự khao khát bình an biểu lộ nơi mọi người. Nơi kẻ lữ hành mong thương lộ bình an. Nơi kẻ ở nhà cũng mong đừng bị quấy phá. Thế nhưng, cuộc đời đau mấy khi bình yên. Trắc trở khó khăn cứ dồn dập khiến con người luôn bất an lo sợ. Cuộc đời đâu mấy khi được hưởng sự bình an trọn vẹn nơi tâm hồn và cuộc sống.
Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trươc sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin, còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là “Ma”.
Chuyện kể rằng có một người đi uống rượu về ban đêm. Bước tới sân nhà anh thấy một con rắn nằm vắt ngang giữa sân. Sợ hãi anh đã chạy vào bếp lấy một con dao băm con rắn ra thành nhiều mảnh rồi yên tâm vào nhà ngủ. Sáng ra, tỉnh dậy tính thu dọn con rắn ai dè không phải đêm qua chém rắn mà chém nát ống nước tưới cà-phê mà vợ chưa kịp dọn.
Các tông đồ sau khi tin vào Chúa Phục sinh thì các ông không còn cái nhìn sợ hãi. Các ông đã hết sợ nghi nan. Các ông không sợ người Do Thái đến bắt. Các ông không sợ đối diện với công quyền. Các ông chỉ còn lo một việc là nói về sự phục sinh của Chúa cho muôn dân.
Như thế, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Thế nên, gia đình nào có Thiên Chúa thì chắc chắn có bình an. Người ta nói trời có lúc mưa lúc nắng. Đời có lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt. Những thay đổi này càng đúng trong đời sống hôn nhân. Tình yêu thì đòi bền vững nhưng con người lại hay thay đổi. Tình yêu thì đòi hâm nóng mỗi ngày nhưng con người lại hay “che cơm thèm phở”. Có lẽ vì vậy mà gia đình nào cũng có vấn đề, gia đình nào cũng có khó khăn.
Tại tiệc cưới Cana, đám cưới chỉ mới bắt đầu mà đã có vấn đề! Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì mất mặt qúa! Không chừng cô dâu chú rể sẽ lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào… Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương. Vấn đề cua họ là rượu đã hết thì niềm vui chưa trọn vẹn, hay có thể nói là tiệc mất vui.
Rất may cho họ hôm đó đã mời Chúa Giê-su. Có Chúa thì họa biến thành may. Có Chúa thì không có gì mà Ngài không làm được. Có Chúa thì mọi sự sẽ êm xuôi. Thế nên, mỗi gia đình hãy mời Chúa đến trong tiệc cưới và trong từng gia đình mình. Thiếu rượu, tiệc cưới mất vui. Thiếu tình yêu, gia đình không hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa biến đổi nước lã là cuộc sống vô vị, chán ngắt, nặng nề trong gia đình thành rượu tình yêu nồng nàn hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa đong đầy ân sủng bình an vào trong gia đình. Do đó, điều nhất thiết là chúng ta phải mời Chúa đến trong gia đình. Co Chúa gia đình không còn sợ đói, sợ khổ, sợ chia ly. Có Chúa với cánh tay quyền năng Ngài sẽ che chở gia đình được bình an.
Ước gì các đôi hôn phối biết mời Chúa Giê-su đến chúc lành cho ngày vui của mình. Ước gì các gia đình hãy mời Chúa Giê-su vào nhà mình để Chúa đong đầy ân sủng và bình an cho gia đình. Xin Chúa Giêsu phục sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, xin cũng đồng hành với các gia đình chúng ta hôm nay. Amen.
53. Có Thiên Chúa sẽ không còn sợ hãi
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Ma không ai thấy nhưng người ta lại tưởng tượng nó với nhiều hình thù thật đáng sợ nhất. Thế nên mới có tích chuyện xưa kể rằng:
Có người thợ được vua mời vào vẽ tranh cho vua. Vua hỏi: “Vẽ cái gì khó?”
Thưa: “Vẽ chó, vẽ ngựa khó”.
– Vẽ cái gì dễ?
– Vẽ ma, vẽ quỉ dễ.
– Sao lại thế?
– “Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỉ là giống vô hình, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ”.
Điểm chung của con ma thường là không đầu. Chân không chạm đất. Nó không xương không thịt nên có thể xuyên tường, xuyên nhà và tự do đi lại ở khắp nơi. Đôi khi thần hồn nhát thần tính khiến người ta nhìn người ra ma, “nhìn cò ra quạ” đến khiếp nhược rụng rời tay chân.
Các tông đồ cũng chưa bao giờ chứng kiến người chết sống lại. Niềm tin các ông chưa đủ để hiểu những gì đang diễn ra. Thế nên, khi thấy Chúa Giê-su phục sinh các ông vẫn ngỡ là ma, các ông hoài nghi xen lẫn sợ hãi. Chắc là phải sợ hãi lắm nên Chúa mới phải trấn an: Đồ nhát ”Ma làm gì có thịt có xương như Thầy”.
Dù sao đi nữa thì niềm tin người chết sống lại vẫn vượt quá trí tưởng tượng của con người. Các ông chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh của Chúa nên các ông vẫn mơ hồ tưởng Thầy là ma. Chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh nên các ông vẫn sợ những bóng tối che phủ chung quanh. Lòng các ông nặng trĩu lo âu. Tâm trạng hoang mang sợ hãi trước cái chết của Thầy Giê-su.
Hôm nay Chúa Phục sinh đã mang lại bình an cho các tông đồ. Sự sợ hãi đã bị đẩu lùi. Bóng ma không còn nữa chỉ còn Thầy với thân xác phục sinh cùng ăn, cùng uống, cùng đồng hành với các môn sinh. Niềm vui của sự sum vầy dâng cao. Tình thầy trò lại sống lại. Chúa phục sinh đã nối họ lại trong một gia đình để cùng ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của dòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của dòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù dòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
54. Bình an cho các con – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta “ăn không ngon, ngủ không yên”. Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.
Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giêsu. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.
Chúa đã quở trách các ông “sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như vầy!”. Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin. “Sao lòng anh em còn ngờ vưc?”. Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo “Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại”. Thế mà các ông vẫn không tin. Từ không tin dẫn đến sợ hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.
Nỗi sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho tương lai ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của giong đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niem tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xư theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Người ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng. Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm. Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối. Bốn bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:
– Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!
– Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại
– Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.
– Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy cha, ap đầu vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.
Vang, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hay lấy lòng mến để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giêsu phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền – Dành cho các đôi hôn phối Chúa nhật 3 Phục Sinh)
Khi kết hôn với nhau, ai cũng muốn gia đình mình hạnh phúc. Ai cũng mơ tìm được hạnh phúc trong đời sống lứa đôi. Lúc này hai người luôn sẵn sàng hy sinh cho nhau. Họ tìm mọi cách làm vui lòng nhau. Thế nhưng, khi đã thành gia thất, nhiều bạn trẻ đã vỡ mộng, nhiều gia đình đã tan nát không tìm được hạnh phúc gia đình. Cãi nhau, bất hoà, bất tín bất trung. Gia đình trở thành hoả ngục vì thiếu vắng tình yêu. Thay cho những lời nói ngọt ngào là quát tháo, đay nghiến. Thay cho những cử chỉ thân thương là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay.
Có một câu chuyện kể rằng: Lúc chiều, hai vợ chồng cãi nhau bất phân thắng bại. Tối đi ngủ, anh chồng làm lành:
– “Xin lỗi em nhé, anh đã nghĩ lại rồi”.
– Ồ không, em cũng đang định xin lỗi anh.
– Em không có lỗi, có lẽ do anh hơi nóng tính.
– Do em! Mọi chuyện đều do em cả.
– Anh đã bảo là tại anh cơ mà!
– Tại sao anh cố chấp thế nhỉ?
– Cô có câm đi không?
Thế là cuộc cãi vã lại tái phát. Lần này nó còn dữ dội hơn lần trước. Hai vợ chồng chống đối nhau kịch liệt. Không bên nào chịu thua bên nào. Rồi cuối cùng, vì không thể làm lành, không thể chịu nổi nhau nữa, họ đã đi đến quyết định là xin ly dị.
Tất cả chỉ vì gia đình thiếu một chữ nhịn mà phá vỡ hạnh phúc gia đình!
Vâng, trong đời sống vợ chồng, những cãi cọ bất hòa, giận hờn nhỏ nhặt hàng ngày, nếu vợ chồng không khéo chế ngự bản tính tự ái, hẹp hòi của mình và rộng lượng tha thứ cho nhau, sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”.
Như chúng ta đã biết, hôn nhân là sự kết hợp hai người: một nam một nữ để thành vợ chồng của nhau. Từ đó, hai người cùng chia sẻ với nhau một định mệnh, một cuộc sống, một con đường. Noi theo ngôn ngữ của Chúa Giêsu, họ không còn phải là hai nhưng đã thành một. Sự thật này đòi hỏi hai vợ chồng phải luôn biết hòa hợp với nhau để mỗi ngày được trở nên một trong tình yêu và trong cuộc sống. Nhưng, để thực hiện được điều đó, thực tế không luôn dễ, vì khi lấy nhau rồi, mỗi người vẫn còn mang những cá tính khác biệt của mình. Cá tính ấy được hình thành bởi nhiều yếu tố như: bẩm sinh, thiên phú, nền giáo dục, hoàn cảnh sống…. mà mỗi người đã được hấp thụ. Cho nên, sự va chạm bất hòa là lẽ đương nhiên phải xảy ra trong đời sống vợ chồng. Điều quan trọng đặt ra cho hai người là biết đối phó để biến những va chạm bất hòa này như thế nào? Nếu sống với nhau mà cứ xét nét nhau từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ và thái độ, để rồi nhỏ xé ra to. Ít xít ra nhiều. Gia đình sẽ biến thành một hoả ngục thay cho một thiên đường hạnh phúc mà khi quen nhau họ thường mơ ước kiến tạo cho nhau. Nếu sống chung với nhau mà thiếu sự tha thứ thì không có gì để đảm bảo tình yêu của họ sẽ tồn tại mãi mãi cho đến đầu bạc, răng long, mà không chừng chỉ dăm ba tháng là đường ấy ấy đi, đương tớ tớ đi, hay như Tố hữu bảo rằng: đường ta ta cứ đi… thì thật là bất hạnh.
Lời Chúa trong hai tuần vừa qua, cho chúng ta thấy tâm trạng hoang mang lo sợ của các môn đệ sau ngày Chúa Tử nạn và Phục sinh. Các ông sợ vì liên lụy với tử tội Giêsu. Dẫn đến kẻ chối Chúa. Kẻ bán Chúa và nhẹ nhất là chạy trốn để tránh phiền phức “rước họa vào thân”. Rồi nay, họ lại nghe Chúa sống lại. Người đã hiện ra với người này, người nọ. Toàn dân bàn tán xôn xao. Chúa lại còn hẹn sẽ gặp họ tại Galilê. Không biết là lành hay dữ. Vì từ xưa đến giờ các ông chưa bao giờ thấy chuyện người chết sống lại. Phải chăng đây là tin đồn để chụp mũ, để bắt gọn các ong. Và nếu Chúa sống lại thật. Ngài có tha thứ cho tội chối Chúa và bỏ mặc Chúa để người ta hành hạ và đóng đinh trên cây thập tự hay không?
Thế mà, khi Chúa hiện đến giữa các ông. Ngài không hề nhắc tới chuyện đáng tiếc đã xảy ra nơi các ông. Nơi Phêrô, kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy thục mạng nơi vườn Giệtsêmani. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chức minh nhiên, cụ thể. Dường như Chúa đã quen hết chuyện quá khứ. Sự hiện diện của Chúa không để hỏi tội mà là trấn an cho các ông. Bình an cho các con. Ơn bình an là hoa quả của tha thứ. Có tha thứ thì tâm hồn các ông mới có bình an khi đối diện với Chúa.
Với long bao dung, Chúa đã nhìn ra nhu cầu của các tông đồ trong lúc này là sự bình an của ơn tha thứ. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay lấm lét thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam – Eva trong vườn địa đàng năm nao?
Hãy học với Chúa để làm quen với những tiếng nói của im lặng nếu chúng ta muốn có được một đời sống gia đình an vui và hạnh phúc. Thiên Chúa đã không lên án Phê-rô kẻ đã chối Chúa. Thiên Chúa không kết án các môn đệ. Ngài chỉ mong các ông được sống mãi trong tình yêu của Ngài. Ngài đã yêu họ và yêu cho đến cùng.
Thật vậy, không phải là tố cáo và lên án mà chính là sự cảm thông và tha thứ mới có sức mạnh vô biên để mang lại cho con người niềm an vui và hạnh phúc trong tâm hồn. Chính vì lẽ đó mà cha ông ta đã nói:
“Chồng giận thì vợ bớt lời
Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng”.
Thế nên, đôi khi muốn giữ hạnh phúc gia đình thì cần phải:
“Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng “anh giận gì?”
Nguyện xin Chúa Phục sinh hiện diện nâng đỡ các gia đình bằng sự bình an của Chúa. Xin cho các bậc vợ chồng biết sống nhịn nhục và tha thứ cho nhau như Chúa đã làm gương cho chúng ta. Amen.
Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: mỗi khi nhận được một tin vui, chúng ta thường chạy đi nói cho người khác được biết, để cùng chia sẻ niềm vui ấy với chúng ta. Chẳng hạn như khi nhận được tin mình vừa mới thi đỗ, thế là lập tức, chúng ta vội chạy về nhà để loan báo cho những người thân yêu cùng biết. Cũng vậy, trong phạm vi đức tin, việc Chúa sống lại là một tin mừng. Một khi đã đón nhận tin mừng Phục sinh thì chúng ta cũng có bổn phận phải loan báo tin mừng ấy cho những người chung quanh.
Trước hết, đây chính là ý muốn của Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại. Ý muốn này được Ngài nói lên qua những lần hiện ra.
Thực vậy, thiên thần đã nói với những người phụ nữ đi viếng mồ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần rằng: Các bà đừng sợ chi cả, ta đã hiểu. Các bà tìm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Nhưng Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Hãy đến mà xem chỗ Ngài nằm. Vậy hãy về mau báo cho các môn đệ Ngài biết. Ngài đã sống lại, Ngài sẽ đến xứ Galilêa trước các ông. Nơi đây các ông sẽ xem thấy Ngài.
Rồi hôm nay, khi hiện ra với các môn đệ, Ngài cũng bảo: Có lời Kinh Thánh chép rằng Đấng Messia sẽ phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại. Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con sẽ làm chứng về những điều này.
Và sau cùng, trước khi về trời, Ngài cũng đã long trọng truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Cũng trong Phúc âm, chúng ta thấy: những người đã được diễm phúc đón nhận Tin Mừng Phục sinh, đã mau mắn thực hiện lệnh truyền của Chúa, đó là loan báo Tin Mừng ấy cho người khác.
Thực vậy, những người phụ nữ đã trở về loan báo cho các môn đệ hay: Chúa đã sống lại. Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng vậy, sau khi nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh, lập tức các ông đã chổi dậy, trở về Giêrusalem, và loan báo cho các môn đệ khác được hay: Chúa đã sống lại.
Và sau cùng, khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho mọi dân mọi nước. Và các ông sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng ấy. Còn chúng ta thì sao? Chung ta đã làm được những gì để loan báo Tin Mừng Phục sinh cho những người chung quanh. Chúng ta đã làm được những gì để bản thân chúng ta trở thành chứng nhân cho tin mừng tuyệt vời ấy.
Hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, biết dùng lời nói và việc làm, nhất là đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để loan báo tin mừng Phục sinh và trở nên những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Thánh Tôma, còn được gọi là Didymo, đã không hiện diện với các tông đồ khác khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Vì thế, khi các tông đồ khác nói với các ông rằng họ đã thấy Chúa hiện ra với họ, thì ông không tin. Ong Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Thánh Tôma giống như những người đời nay vẫn thường nói: “Khi nào thấy, tôi mới tin”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại hiện đến với các tông đồ một lần nữa ở Giêrusalem. Khi thấy Người, họ kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây”? Như vậy, Chúa Giêsu đang sống. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Người. Đức tin là lòng tin tưởng và phó thác. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã bị kết án tử hình và chịu đóng đinh nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại từ cõi chết.
Lòng tin của tôi vào Chúa Giêsu đa bị thử thách nhiều lần trong suốt mười năm tôi làm linh mục, nhưng cơn thử thách nặng nhất xảy ra khi tôi đã là linh mục được bảy năm.
Tôi thụ phong linh mục năm 1993, tại Maasim, tỉnh Sarangani. Trong bài giảng của lễ truyền chức linh mục cho tôi, Đức giám mục Gutierrez nói với dân chúng rằng trong các lễ truyền chức do ngài chủ phong thì chỉ lễ này là có đông phụ nữ tham dự như vậy. Mọi người nghe thế thì cười ồ lên. Đức Giám mục nói tiếp: “Vậy, những ai không muốn nghi thức truyền chức này được tiếp tục, xin hãy tiến lên đây và cho tôi biết lý do”. Một lần nữa mọi người lại cười ồ lên.
Sau nghi thức truyền chức linh mục, nhiều người vỗ tay chúc mừng tôi, tặng quà cho tôi, hôn bàn tay của tôi. Nhưng tháng 6/ 2000, nghĩa là bảy năm sau ngày chịu chức linh mục, những tiếng vỗ tay đã mờ nhạt đi. Người ta cư xử với tôi rất lạnh nhạt như thể tôi là thứ muối đã mất vị man, mặc dù tôi vẫn sống tốt, làm nhiều điều tốt. Rồi tôi đã đánh mất lòng nhiệt thành ban đầu. Thậm chí, đôi khi tôi đã nghĩ đến chuyện rời bỏ chức vụ linh mục.
Tuy nhiên, sau một cuộc hồi tâm phản tỉnh sâu xa, tôi nhận ra rằng sứ vụ linh mục của tôi không nên dựa vào những tiếng vỗ tay của dân chúng, những lời ca tụng và khen ngợi của họ. Điều cần nhất là phải dựa trên đức tin, lòng phó thác, sự vâng phục và tình yêu của tôi vao Thiên Chúa. Tôi cũng nói điều này với bạn. Nếu bạn muốn phục vụ Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người thì bạn đừng làm vì những tiếng vỗ tay và những lời khen ngợi của dân chúng, nhưng hãy làm vì niềm tin và tình yêu của bạn đối với Chúa và chỉ vì bạn khao khát thực hiện thánh ý của Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết tập trung vào một mình Chúa mà thôi.
Việc Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng đây là một sự kiện lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng mắt: lịch sử đã ghi lại việc Chúa chết thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch sử đã ghi lại ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống rỗng, lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần.
Nếu muốn biết chắc chắn, rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng, đọc kỹ đoạn 28 của thánh Matthêu, đoạn 16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca và đoạn 20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng quả quyết: Chúa đã chết trên thập giá, đã được tháo xác xuống tẩm liệm, đã được táng trong mộ và trước cửa mộ được che bằng một tảng đá lớn, rồi tất cả đều quả quyết: ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.
Quả thực, Chúa Giêsu chết vào chiều Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi đen sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong đó, ai cũng tưởng thi hài Chúa đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế, nhưng chính hôm ấy, Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng sốt và sợ hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại. Nhưng sự thực là như vậy, các ông đã nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay than xác Phục sinh của Chúa, chẳng hạn như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng.
Trong khi các môn đệ còn đang hoang mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín, bàn tán về những chuyện đã xảy ra và đang xảy ra xoay quanh van đề Chúa chết và hiện ra với các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức là sáng sớm Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và chúc bình an cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hai, tưởng là ma. Cảnh Chúa hiện ra này không khác gì cảnh một thủ lãnh trước các đảng viên phản bội và đào ngũ, thế mà không một lời than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một lời bóng gió ám chỉ sự hèn nhát của các ông cũng không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn nữa, Chúa còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài đã sống lại, Ngài đang ở giữa các ông, đó là ba bằng chứng sau:
Trước hết, Chúa thuyết phục các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài còn mang vết đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng trước các ông chứ không phải ai khác, rồi Chúa còn bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho kỹ để thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là do ảo tưởng của các ông. Tiếp đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để thuyết phục các ông. Ngài hỏi các ông có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này, Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài không phải là ma hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một bằng chứng khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc lại cho các ông nhớ Sách Thánh đã báo trước: “Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã nói đều ứng nghiệm nơi Ngài. Sau khi đã đưa ra tat cả những bằng chứng cần thiết chứng minh Ngài đã sống lại thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về tất cả những điều ấy cho mọi người.
Như vậy, các tông đồ, các môn đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc đời cũng như về mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm chứng về những điều ấy, tức là việc làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt các ông phải nối gót Ngài hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết và tin vào Chúa để đạt ơn cứu độ, các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử đã cho thấy các ông đã thực thi vượt mức vai trò chứng nhân ấy.
Từ đó đến nay, luôn có những lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không tin Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô hữu, và một khi chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan báo cho người khác niềm tin đó nữa, đó là mục đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.
Nói rõ hơn, chúng ta phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh than đức tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống qua những việc làm hàng ngày, qua nghề nghiệp, qua các giao tiếp với người khác, và qua cả những lúc vui chơi, giải trí. Nói tóm lại, chúng ta phải làm chứng cho Chúa, cho đao bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin mỗi người hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa và cho đạo không?
Chớ thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồ mới được vinh quang. Đức Kitô đã đi con đường đau khổ để tiến tới vinh quang, đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh. Là môn đệ của Ngài, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ và thập giá, nếu như chúng ta muốn được cứu độ.
Đúng thế, đã là người thì ai cũng phải đau khổ và thập giá không bao giờ thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Người xưa đã nói:
– Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Giáo lý nhà Phật thì diễn tả thân phận con người như một cánh bèo trôi dạt trên bể khổ.
Vậy thì đâu là những nguyên nhân gây nên đau khổ?
Trước hết, đau khổ có thể là bởi thiên nhiên.
Chẳng hạn như lụt lội, bão táp, hạn hán, mất mùa… Bất kỳ ở đâu và bất kỳ thời buổi nào cũng có. Khoa học và kỹ thuật chỉ làm giảm đi phần nào, chứ không thể chặn đứng được tất cả.
Tiếp đến đau khổ có thể do lòng gian tham độc ác của con người.
Đau khổ có thể do bởi người khác, chẳng hạn như bỏ vạ cáo gian, ăn trộm ăn cắp mà gây nên. Đau khổ còn có thể do bởi chính bản thân mình, chẳng hạn vì đam mê cờ bạc, rượu chè chơi bời mà sinh ra nghèo túng bệnh tật, vì bất cẩn trong lời nói và trong việc làm mà sinh ra tai nạn.
Và sau cùng đau khổ cũng có thể do chính Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy vì Ngài muốn thử thách để con người chúng ta được trưởng thành và đem lại những lợi ích siêu nhiên, như tục ngữ cũng đã bảo:
– Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
– Khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng họ những bông hồng, còn Thiên Chúa khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những đau khổ và thử thách.
Đúng theo kiểu:
– Yêu cho roi cho vọt,
Ghét cho ngọt cho bùi.
Hẳn rằng trong chúng ta chẳng ai muốn cho mình bị đau khổ, chính Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng đã cầu nguyện:
– Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.
Tuy nhiên nhiều khi chúng ta đã đề phòng cẩn thận mà vẫn không tránh khỏi tai ương. Trong những trường hợp như thế, chúng ta chỉ còn một cách, đó là cúi đầu chấp nhận. Nhưng làm thế nào để dễ dàng chấp nhận, để tìm được niềm an ủi trong những giờ phút đen tối ấy?
Trước hết hãy nhớ rằng không phải chỉ có một mình chúng ta bị đau khổ. Đang lúc chúng ta bị thử thách thì cũng có biết bao nhiêu người bị đau khổ.
Hãy vào một bệnh viện, giữa những tiếng rên la, chúng ta cảm thấy mình còn được hạnh phúc và may mắn hơn rất nhiều.
Nhất là hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy chính Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Khi phải đối mặt với những đau khổ, nếu chúng ta hậm hực tức tối, thì đau khổ vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích chi cả, nó còn là nguyên nhân gây nên những tội lỗi khác nữa.
Trái lại, nếu chúng ta can đảm chấp nhận và nhất là chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những đau khổ ấy sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta. Biết đâu, nhờ những đau khổ mà chúng ta sẽ ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Thiên Chúa.
Đau khổ là một lưỡi kéo của người thợ, cắt tỉa những cành cây để nhờ đó chúng sẽ được sai trái hơn. Đau khổ là như một nhát búa của người nghệ sĩ đập xuống cuộc đời chúng ta để biến nó trở nên một tác phẩm nghệ thuật.
Đau khổ là như một lưỡi cày, xới tung tâm hồn chúng ta đe nó trở nên màu mỡ và dễ dàng hấp thụ ơn sủng của Thiên Chúa.
Đức Kitô đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh, thì chúng ta cũng vậy, muốn tiến tới vinh quang, chúng ta cũng phải tôi luyện trong đau khổ.
Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mo của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.Cụ thể như câu truyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Dien tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục sinh thế nào? Làm chứng là gì?
Lam chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà chính mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.Hiểu như vậy, các tông đồ là nhưng chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh. Phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chua có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế… các tông đo đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngai thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: “Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái Đức Kitô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự”. Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân cho Chúa không?
Các bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng ta đặt mình vào cương vị của Phêrô và của các tông đồ. Đó là sự can đảm rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, loan truyền giáo lý của Người bất chấp mọi đàn áp.Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tong đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do thái không cho, bắt các ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài và bảo: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem”. Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.
Ôi! Bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực cố ý tiêu diệt, hạn chế gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, đường lối của các tông đồ thật rõ ràng.
Bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những bước chân rao giảng của các ngài. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn thờ Chúa, đươc sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong cong việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị bách hại, người vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.
Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nha mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều sụp đổ tan tành, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm như một vết nhơ bẩn thỉu của nhân loại. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. “Ai giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho người ấy”. Phần Thiên Chúa, Ngài luôn được chúc tụng, được danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn đời.
Bài Phúc Am đem lại cho chúng ta một hy vọng thật to lớn, đó là hy vọng vào quyền năng Phục sinh của Chúa biến đổi tất cả mọi sự, kể cả những việc mà chúng ta cho là tầm thường, để đem lại những kết quả giá trị. Thân xác hay chet của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể làm người đã được biến đổi thành thân xác vinh quang Phục sinh và với quyền phép, Người đã cho các tông đồ một mẻ lưới đầy cá to. Từ một việc tầm thường của người chài lưới, nhưng vì làm theo lời chỉ dạy của Chúa, các tông đồ đã bắt được rất nhiều cá. Hơn nữa, hành động đó còn có một ý nghĩa tiên tri cao quí hơn, đó là các tông đồ sẽ là những kẻ lưới người và công việc của các ngài sẽ được kết quả mỹ mãn, khi các ngài luôn tuân theo thánh ý của Chúa.
Sau cùng, chính thánh Gioan trong bài Phúc Am cho chúng ta một bài học quan trọng là nhìn vào kết quả của việc mình làm, không bao giờ tự hào do sức do tài của mình mà làm nên, nhưng nhận ra ngay sự hiện diện của Chúa. Khi thấy mẻ cá lạ lùng, thánh Gioan hiểu ngay sự hiện diện của Thầy và bảo cho các người khác biết rằng: “Chính Chúa đó!”. Biết được Chúa hiện diện trong đời sống mình và luôn truyền ban sự hiện diện đó cho mỗi người là bổn phận của chúng ta, những người có đức tin, những người môn đệ của Chúa.
Vậy, để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ để ý đến đời sống đức tin của tôi. Tôi sợ Chúa hay tôi sợ người đời? Tôi vâng lời Chúa hay tôi vâng lời người đời? Và tôi hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, của các thánh tử đạo để sống đức tin của tôi mọi ngày trong đời sống, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Trong buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở tầng trên, các cánh cửa đều đóng kín. Trong căn phòng này, tâm hồn cac ông đầy nỗi ám ảnh vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, và đầy những ký ức đắng cay – ngọt ngào về Người. Chính tại nơi đây, Vị Thầy đã rửa chân cho họ, và cử hành bữa Tiệc Ly với họ. Nhưng cũng chính tại nơi đây, họ đã thề hứa trung thành với Người, một sự trung thành mà thậm chí ngay trong đêm hôm đó họ đã vi phạm.
Các tông đồ đều bị thương tích theo tính cách cá nhân – do nỗi sợ hãi, hoài nghi, tội lỗi, đau khổ và thất vọng. Nhưng họ cũng bị thương tích theo tính cách tập thể nữa, bởi vì sự hiệp nhất giữa họ đã bị phá vỡ: có hai người trong số họ vắng mặt, một người bị chết (Giuđa), người kia thì đang bị khủng hoảng đức tin (Tôma). Giống như tất cả những người đang đau khổ, họ đã tạo ra một hàng rào chung quanh họ.
Đức Giêsu không chờ đợi họ đến với Người. Người đã đến với họ, trong khi họ vẫn còn đang sợ hãi và đầy tội lỗi (do sự hèn nhát và phản bội của họ). Bằng một động tác mạnh mẽ, Người đã bẻ gãy hàng rào đó, và đến đứng giữa họ. Người không la rầy, hoặc thậm chí quở trách họ, vì đã không làm tròn phận sự đối với Người. Ở đây không hề có cảnh la rầy, buộc tội. Người biết cảm giác của họ ra sao, do đó, Người không hề đụng chạm vào những vết thương của họ. Thay vào đó, Người đã mang lại cho họ điều mà họ cần một cách tuyệt vọng. Người nói với họ “Bình an cho anh em”. Người nói câu nay không chỉ một lần, mà đến hai lần, để đảm bảo rằng câu nói đó thấm sâu vào tâm hồn họ. Trong khi đón nhận sự bình an của Người, thì họ cũng được đón nhận cả ơn tha thứ nữa.
Đột nhiên, một điều vĩ đại nhất và tuyệt vời của ơn bình an đánh động tâm hồn họ: cái chết, sự dữ và sự phản bội đã bị chế ngự. Lòng tốt, tình yêu, sự sống đã chiến thắng. Đức Giêsu khiêm tốn đã chiến thắng, vượt lên trên tất cả những sức mạnh của sự dữ đã từng dàn hàng chống lại Người. Một cuộc khởi sự tươi mới có thể diễn ra. Kết quả là tâm hồn họ được tràn đầy niềm vui.
Phương pháp của Đức Giêsu thật êm dịu. Nơi Người, không hề có nét khắc nghiệt. Đức Giêsu khiem tốn, Đấng chiến thắng vượt lên trên cái chết, đã ban lòng can đảm cho các tông đồ hiện đang bị nghiền nát của Người, chữa lành những vết thương, đổi mới niềm hy vọng của họ, ban sự sống và sức mạnh cho họ. Từ tình trạng hoàn toàn sụp đổ và thất bại, xuất hiện một nét gì đó mới mẻ một cách và dứt khoát. Kết quả là họ không chỉ tin tưởng nơi Đức Giêsu, mà còn có lòng tự tin nữa. Thật là một niềm vui khi đồng thời vừa được nhận biết, vừa được yêu mến một cách trọn vẹn.
Biến cố Phục sinh không lấy đi nỗi đau khổ, hoặc loại trừ nỗi sợ hãi của chúng ta. Nhưng sự Phục sinh giới thiệu một yếu tố mới cho cuộc sống, đem lại ý nghĩa và soi sáng cho nỗi đau khổ của chúng ta bằng niềm hy vọng. Tất cả đều trở nên khác biệt, bởi vì Đức Giêsu đang sống động và nói những lời nói ban bình an cho chúng ta, giống như Người đã từng nói với các tông đồ. Khi bị sa ngã vì những thử thách và cám dỗ, chúng ta có thể rút ra được lời động viên từ câu chuyện các môn đệ của Đức Giêsu, tất cả họ đều đã từng bị sa ngã trong suốt cuộc khổ nạn của Người.
Do đó, giữa chúng ta có một niềm vui âm thầm và một cảm giác an bình, bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết.
63. Tôi tin – Lm Anphong Trần Đức Phương
Có một thời gian tôi được hân hạnh chung sống với một số vị linh mục, trong đó có một Cha đã từng đi du học ở Rôma và có dịp đi nhiều nơi trên thế giới. Về Việt Nam, Cha đã dạy Thần Học nhiều năm ở các Đại Chủng viện. Lúc đó Cha đã lớn tuổi và về hưu. Qua các câu chuyện hằng ngày, Cha đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm qúy giá về cuộc sống Đức Tin của Cha. Mỗi lần kết thúc câu chuyện, Cha đều chắp tay nói: Tất cả là chữ “Credo!” (Tôi Tin!).
“Tin” là bước khởi đầu khó khăn nhất để nhận ra Thiên Chúa hiện hữu, vừa là Đấng Tạo Hóa, vừa là Cha chúng ta, và để tin Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật, đã chịu chết trên Thánh Giá, đã chịu táng trong mồ, nhưng thực sự đã sống lại và đã về Trời để mở đường về Trời cho chúng ta.
Đức Tin thật sự là một ân huệ Chúa thương ban cho những ai biết sống khiêm tốn và biết lắng nghe tiếng Chúa nói qua lòng mình.
Các Tông Đồ dù đã sống với Chúa, dù đã được Chúa nói trước về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, nhưng vẫn thật khó tin việc một người chết treo trên Thập Giá, đã an táng trong mồ, mà đã sống lại thật.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta thấy “Tôma chỉ tin thật Chúa đã sống lại khi nhìn thấy tận mắt ‘chân tay và cạnh sườn Chúa’ (Gioan 20,24…). Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này (Luca 24, 35-48), chúng ta thấy hai môn đệ chán nản, bỏ cuộc trở về qê hương Emmau; Chúa Phục Sinh đã hiện ra, đi đường và đàm đạo với các ông ‘như một người đồng hành’ mà các ông vẫn không nhận ra, cho đến khi cùng ngồi bàn ăn và thấy cử chỉ ‘người khách đồng hành’ cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng và trao cho các ông!… Bấy giờ mắt các ông mới mở ra và nhận ra là Chúa!… Hai ông quá vui mừng vì đã thấy Chúa sống lại thật, ngay đêm khuya, vội vã trở về Giêrusalem thuật lại câu chuyện cho các Tông đồ khác. Lúc đó, Chúa Phục sinh lại hiện ra với các ông, thế mà các ông “vẫn hoảng sợ, tưởng là ma!”(Luca 24,37).
Vì thế, trong Bài Đọc I (Cv. 3, 13-15, 17-19), Thánh Phêrô đã trưng dẫn tất cả những lời tiên tri căn bản trong Cựu Ước để chứng minh cho dân chúng có thể tin nhận “Chính Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại.” Và trong Bài Đọc II (1 Gioan 2, 1-5), Thánh Gioan đã cũng nhắc nhở chúng ta việc Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại: “Chính Ngài là của lễ đền tội cho chúng ta; mà không phải chỉ nguyên cho chúng ta mà thôi, mà còn đền tội cho cả thế giới!”
Trong Đêm Thánh Vọng Phục Sinh, chúng ta đã chứng kiến nhiều anh chị em (Riêng tại Hoa Kỳ năm nay đã có khỏang 150 ngàn người, kể cả vị Cưu Chủ Tịch Hạ Viện Newt Gingrich – năm ngoái có Cựu thủ TướngAnh Quốc Tony Blair) sau bao ngày tháng tìm hiểu giáo lý đã quyết tâm xin chịu phép Thánh Tẩy và chính thức gia nhập Giáo Hội Chúa. Trong nghi lễ rất cảm động, trước khi được chịu phép Thánh Tẩy, tất cả đã tuyên bố từ bỏ tội lỗi và nếp sống trần tục; sau đó đã long trọng tuyên xưng “TÔI TIN!” sau ba câu hỏi căn bản về Đức Tin: “Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất không?”, “Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha không?”, “Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công Giáo, tin các Thánh Thông Công, tin Phép Tha Tội, tin xác loài người sẽ sống lại, và sự sống đời đời không?”
Tất cả tín hữu chúng ta đã được chịu Phép Thánh Tẩy trong Đức Tin căn bản đó, và mỗi Thánh Lễ cuối tuần, khi chúng ta cùng họp mặt để thờ phượng Chúa, và học hỏi Lời Chúa, chúng ta đều cùng nhau tuyên xưng Đức Tin qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính một Thiên Chua…”
Vậy, mỗi khi chúng ta dự Lễ Thánh Tẩy trẻ em hoặc người lớn, cũng như trong Thánh Lễ cuối tuần, khi tuyên xưng Đức Tin, chúng ta hãy luôn ý thức lời tuyên xưng của chúng ta, và xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống Đức Tin của chúng ta qua việc thực hành Đức Bác Ái trong niềm Trông Cậy vững chắc vào cuộc sống đời đời Chúa đã hứa ban.
Có một người đàn ông rất gắn bó với cha mình, vốn là một người lao công trong suốt ca cuộc đời. Khi người cha qua đời, người con rất đau khổ. Trong lúc anh đứng yên nhìn vào cỗ quan tài mà người cha được đặt nằm tại đó, đôi bàn tay của cha anh làm cho đặc biệt xúc động. Ngay cả những điều thật nhỏ bé cũng có thể bộc lộ được nét chính yếu nơi cuộc đời của một con người. Sau này, anh nói:
“Tôi sẽ không bao giờ quên được đôi bàn tay già nua giãi dầu mưa nắng tuyệt vời đó. Chúng nói lên câu chuyện cuộc đời của một người nông dân, bằng loại ngôn ngữ hùng biện của những nếp nhăn, những mạch máu, những vết sẹo cũ và mới. Đôi bàn tay của cha tôi luôn luôn mang một số vết trầy xước hoặc vết cắt mới, giống như một loại đồ trang trí, do ong vừa mới vác một đống dây thép phế liệu, một ống sắt han rỉ, một bộ rễ cây cồng kềnh. Đến khi chết, đôi bàn tay của cha tôi vẫn không làm ai thất vọng, thậm chí ngay cả đối với những chi tiết nhỏ bé và có ích như vay.
“Không phải chỉ những người con trai mới nhận biết tất cả mọi sự từ cha của họ. Nhưng trong trí nhớ của tôi, tôi đã từng nhìn thấy đôi bàn tay đó cung cấp chứng cứ về những nghĩa vụ mà cha tôi gánh vác, những giọt mo hôi mà ông đổ ra, những việc làm đầy vinh dự mà ông đã thực hiện. Khi nhìn vào đôi bàn tay đó, bạn có thể đọc được một phần nào về tấm lòng của cụ già này”.
Đức Giêsu đã nói với các tông đồ “Hãy nhìn vào tay chan của Thầy… Cứ sờ tay vào Thầy và nhìn đi”. Rồi Người nói với Tôma “Hãy nhìn xem những vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn của Thầy. Đừng cứng lòng nữa, và hãy tin đi”.
Người ta có thể mong ước được nhìn thấy thân thể của Đức Giêsu sống lại trong sự toàn vẹn và không có một vết nhơ nào. Tuy nhiên, không những thân xác của Người vẫn còn dấu vết, mà chính nhờ những dấu vết đó, đã giúp cho các môn đệ nhận ra Người. Những dấu vết đo chính là những vết thương của Người cho các tông đồ. Tại sao lại là những vết thương của Người? Trước hết, những vết thương đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu sống lại cũng chính là Đấng đã chịu đóng đinh. Thứ hai, những vết thương đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Trong suốt cuộc sống của mình, những ai chăm sóc người khác, thì hay bị nhiều vết thương. Có lẽ đó không phải là những vết thương lớn, mà chỉ là một loạt những vết thương nhỏ – những vết trầy xước, vết nhăn, và vết sưng. Tuy nhiên, đó chỉ là những vết thương nhìn thấy được. Thế còn vô số những vết thương vô hình: những nếp nhăn để lại trong tâm trí và tâm hồn, do nỗi đau khổ, lo lắng và băn khoăn khắc khoải thì sao? Rồi còn những vết thương xuyên thấu, ảnh hưởng đến phần nhạy cảm nhất nơi con người chúng ta – trái tim – những vết thương lòng chẳng hạn như những nỗi thất vọng, vô ơn, phản bội. Nỗi đau tình cảm đanh vào tận tâm can bạn, và có thể còn khó giải quyết hơn, so với những vết thương về mặt thể lý. Nhưng những vết thương này không có gì khiến cho chúng ta phải xấu hổ cả. Chúng là bằng chứng về tình yêu của chúng ta. Liệu sẽ có người nào nhìn thấy những vết thương này, và tin tưởng vào tình yêu của chúng ta đối với họ không? Thậm chí nếu không ai nhìn thấy, thì Thiên Chúa nhìn thấy, và Người tự hào về chúng ta, bởi vì Người nhận thấy rằng chúng ta nên giống như Con của Người. Chúng ta không được chỉ nhìn vào thành tích của một người, mà còn phải nhìn vào những vết thương và vết sẹo trong tâm hồn của họ nữa.
Đức Giêsu không hề che giấu những vết thương của Người, bởi vì đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Đó là những vết thương mà Chúa Chiên Lành đã chịu đựng, trong khi bảo vệ đàn chiên khỏi chó sói. Người mời gọi các tông đồ sờ tay vào những vết thương đó. Chính khi đụng chạm vào và được đụng chạm vào, mà họ được chữa lành khỏi bệnh cứng lòng tin của họ. Những vết thương của Người ban cho chúng ta niềm hy vọng trong những vết thương của chúng ta.
Đức Giêsu đã không trở nên cay đắng do những vết thương của Người. Chúng ta cũng nên giống như vậy. Sau khi đã mang lại bình an và chữa lành cho các tông đồ, Đức Giêsu giao phó cho họ sứ vụ ra đi và đem tin vui đến cho những người khác. Đức Giêsu mong muốn chúng ta trở nên những chứng nhân cho sự sống lại của Người. Một con người buồn bã, cay đắng là một chứng nhân nghèo nàn.
Có một tài xế xe lửa, mỗi ngày đều lái xe lửa đi tới đi lui trên cùng một đường ray. Ở cách đường tàu một quãng ngắn, có một ngôi nhà tranh nhỏ bé xinh xắn. Những bức tường màu trắng của ngôi nhà tranh sáng bừng lên dưới ánh sáng mặt trời. Phía trước ngôi nhà tranh, có trồng những cây hoa hồng đẹp tuyệt vời, mà anh chưa bao giờ nhìn thấy. Ngôi nhà tranh này mang một nét gì đó, khiến cho người ta cứ tưởng tượng là chỉ tồn tại trong bức tranh của những tấm bưu thiếp mà thôi. Chẳng bao lâu, người tài xế đó cảm thay yêu mến ngôi nhà tranh này.
Vào một buổi chiều, khi chạy ngang qua đó, anh nhìn thấy một cô bé gái đang chơi phía trước sân cỏ. Khi xe lửa chạy qua, cô bé vẫy tay với anh. Người tài xế đó bóp còi đáp lại. Chiều hôm sau, cũng xảy ra giống như vậy. Từ đó, bắt đầu có một tình bạn trong sáng và đẹp đẽ giữa anh và cô bé. Cứ mỗi buổi chiều, cô bé đều vẫy tay với anh, rồi anh lại bóp còi đáp trả. Đôi khi, còn có mẹ của cô bé cùng đi, va cả hai người cùng vẫy tay chào anh. Điều này khiến cho anh rất vui, và cũng làm cho cuộc hành trình buồn tẻ của anh dường như được rút ngắn lại.
Nhiều năm trôi qua, cô bé lớn lên. Hiện nay chỉ thỉnh thoảng, cô mới có mặt ở đó để vẫy tay với anh. Tuy nhiên, mối quan hệ của họ càng ngày càng thâm sâu thêm theo năm tháng vẫn còn nguyên vẹn, không hề bị sứt mẻ. Thế rồi người đàn ông đó về hưu, và đến sống tại một nơi thật xa. Nhưng ông không hề xua đuổi ra khỏi tâm trí mình hình ảnh của ngôi nhà tranh và hai người bạn của ông. Vì thế, một ngày kia, ông quyết định đến thăm viếng họ.
Khi đến đó, mọi sự đều rất khác biệt, so với những gì mà ông tưởng tương. Nhưng bức tường của ngôi nhà tranh hầu như không có màu trắng như ông nghĩ. Những cây hoa hồng trông không đẹp rực rỡ như ông tưởng. Nhưng khi ông gặp người phụ nữ và cô con gái của bà, thì một nỗi thất vọng thấm thía nhất đến với ông.
Khi ông tự giới thiệu mình, thì họ cư xử rất lịch sự với ông. Họ mời ông đi vào một phòng khách tối tăm, để nói chuyện và uống trà. Nhưng ông cảm thấy không muốn ở đó. Vì thế, ông muốn ra về ngay khi ông có thể làm được điều đó một cách lịch sự. Ông cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng. Thế giới giấc mơ của ông đã bị tan rã. Tình bạn vốn đem lại rất nhiều ý nghĩa cho cuộc đời của ông đã bị phá hủy.
Chúng ta cảm thấy tiếc cho người tài xế xe lửa đó. Tuy nhiên, đó cũng là do lỗi của ông. Ông đã sống trong thế giới của giấc mơ. Ông theo đuổi một ảo tưởng.
Nhiều người theo đuổi ảo tưởng về một Đấng mêsia vinh quang, không thể đau khổ được. Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh, thì ảo tưởng đó bị phơi ra, và thế giới của họ bị sụp đổ. Họ phản ứng bằng cách tự cách ly mình phía sau những cánh cửa đóng kín.
Chỉ đến khi Đức Giêsu hiện ra với họ, và tâm trí của họ đến với một chân lý mới, thì giấc mơ của họ mới được tái sinh. Chân lý mới này là gì vậy? Chính thông qua nỗi đau và cái chết của Người, mà Người mới đi vào vinh quang. Phải mất một thời gian, họ mới thấm nhuần đươc điều này, nhưng sau khi đã thấm nhuần rồi, thì họ biết rằng ngay cả cái chết cũng không thể bẻ gãy được mối dây ràng buộc đã gắn bó giữa Đức Giêsu và họ trong suốt ba năm.
Biến cố Phục sinh mang ý nghĩa rằng Đức Giesu vẫn đang sống, và chúng ta cũng có thể được gặp gỡ Người trong lòng tin. Chúng ta gặp gỡ Người một cách đặc biệt trong “việc bẻ bánh”, nghĩa là trong phép Thánh Thể. Người sẽ không cách ly chúng ta ra khỏi thực tế cuoc sống. Nhưng Người sẽ ở với chúng ta tại chỗ nào chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta biết mang ý nghĩa và nét đẹp đến cho cuộc sống của chúng ta, đặc biệt trong những lúc đau khổ và tối tăm. Và giống như các tông đồ, chung ta cũng được Người giao phó sứ vụ mang Tin Mừng đến cho những người khác.
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đo là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Nhưng đồng thời người kia còn có thể là bat cứ ai trong chúng ta. Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.
“Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài”: Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu Phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.
Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu Phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều: Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh: “Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh”. Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó: “Dọc đương khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao?”. Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không cháy bừng lên, và khi tham dự thánh lễ mắt chúng ta không mở ra? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng thánh lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài. Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu Phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Lc 24:35-48: Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa.
Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi và trở nên chứng nhân loan báo Tin mừng Phục sinh.
Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản, nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao. Thầy sẽ lập quốc, đánh đuổi đế quốc La mã.Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.
Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của Đức Kitô “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.
Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi “Đức Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ.Từ nay, Chúa ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục sinh.
Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Trước khi trở lại, đối với Phaolô,Tin mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền rằng:Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình,đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải,Thiên Chúa đã cho cho sống lại…chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ..
Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng? Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.
Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.
Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ông không còn thấy gì nữa. Ông nghe có tiếng gọi ông: “Saun, Saun, sao ngươi lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Tiếng nói lại âm vang: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại” (Cv 9,5). Saolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thê rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa,Chúa muốn con làm gì?”.Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania. (Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas. Sau ba ngày,có một người Dothái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: “Saolô,người anh em,hãy nhìn thấy lại”.Phép lạ đã xảy ra, Saolô lại thấy được. Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện.Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gal 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin mừng. Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô, đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố: “Không phải tôi sống,nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Col 2,20).
Kể từ lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ông nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô. Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta“ (Rm 8,35-39).
Đọc lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt. Có những thất bại, có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.
Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.
Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.
68. Dấu chân – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: “Dấu Chân”, giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.
ĐK. Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ. Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa. Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi. Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.
Ca khúc được dệt nhạc từ truyện “Footprints”.
Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
– Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
– Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc…Chúa lại đồng hành với con, đi với con…Nhưng khi con thất bại, đau khổ…những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”.
Chúa Giêsu trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.
Câu chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.
Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đa loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T: Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.
Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen va duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44). Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ la lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nươc. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.
Thánh Giêrônimô đã nói: Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh” (MK21).
Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chua mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).
Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban thì hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh The. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thanh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ai, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).
Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.
Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.
Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hanh với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hoi Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chua Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mưng Phục Sinh.
Chúa Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo “bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ”. Chúng ta bước theo Chúa trên hành trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân, cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.
69. Tìm gặp Chúa Giêsu hôm nay – Lm. Mark Link
Chủ đề: “Ngày hôm nay phải tìm gặp Chúa Giêsu trong Hội Thánh Ngài qua nghi thức bẻ bánh.”
Regina Riley có kể một câu chuyện mà nhiều bậc cha mẹ cần lưu tâm tới. Trong nhiều năm trời bà đã từng cầu nguyện cho hai cậu con trai trở về với đức tin… Thế rồi một buổi sáng Chủ Nhật nọ, ngay trong nhà thờ, bà không the nào tin vào mắt mình nổi khi thấy hai đứa con bà bước vào nhà thờ ngồi vào hàng ghế đối diện bà. Sau đó bà liền hỏi hai cậu con rằng điều gì đã thôi thúc chúng trở lại với đức tin. Cậu nhỏ liền kể lại câu chuyện sau đây:
Vào một buổi sáng Chủ Nhật, vào thời gian nghỉ hè tại Colorado, hai cậu lái xe đổ xuống một con đường ở dốc núi, lúc đó trời đang mưa tầm tã. Bỗng nhiên họ gặp một cụ già không dù che, người ướt sũng đang bước đi dáng điệu khập khễnh. Dù mưa to, cụ vẫn hăng hái tiến bước trên đường. Hai anh em liền dừng xe mời cụ lên. Thì ra ông cụ đang trên đường đi lễ tại một nhà thờ ở cuối con đường cách đó ba dặm (quãng 5km). Hai anh em liền lái xe đưa cụ đến đó. vì trời mưa vẫn còn nặng hạt và chẳng bíêt làm gì hay hơn, nên hai anh em quyết định chờ đợi cụ già để mang cụ về lại nhà sau khi lễ tan. Nhưng ngay sau đó hai cậu liền nghĩ nếu thế thì nên vào luôn trong nhà thờ hơn là ngồi đợi ngoài xe, thế là trong khi hai anh em lắng nghe các bài đọc Thánh Kinh và tham dự việc bẻ bánh thì có một điều đã làm họ xúc động sâu xa. Về sau họ chỉ có thể cắt nghĩa với bà mẹ như thế này: “Mẹ ơi! Mẹ biết không, lúc bấy giờ giống như là chúng con trở về nhà sau một chuyến đi dài đằng đẵng đầy mệt mỏi”.
Câu chuyện về hai anh em và việc họ gặp gỡ cụ già xa lạ trên con đường vùng Colorado nêu bật được nét tương đồng sâu sắc chứa đựng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Hai người môn đệ trên đường Emmau, đã từng một thời theo Chúa Giêsu với bao niềm hy vọng và nỗi vui mừng. Họ thực sự tin rằng Ngài được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Vương quốc Thiên Chúa. thế rồi những giờ phút bão tố của thứ sáu tuần thánh đã xảy đến. Mọi niềm hy vọng và mộng mơ của họ tan thành ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ cô quạnh va trở về nếp sống trước kia. Chính trong bối cảnh này, họ đã gặp người khách lạ trên đường đi Emmau vào buổi sáng Phục Sinh. Các môn đệ lắng nghe vị khách ấy, chăm chú nhìn vị này bẻ bánh và một điều gì đó xảy ra đã khiến họ xúc động sâu xa. Vị khách lạ này có xa lạ tí nào đâu mà chính là Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống động trước mắt họ.
Hầu như một chuyện giống y như vậy đã xảy ra cho hai anh em nọ trên đường ở Colorado. Có một thời gian họ đã từng theo Chúa Giêsu mật thiết, từng tin thực Ngài là Con Thiên Chúa, được Chúa phái đến cứu chuộc thế gian. Thế rồi những ngày giông bão của tuổi thanh niên đã đến. Mọi hy vọng và mộng mơ của họ cũng tan thanh ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng, họ bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ hiu quạnh để bước đi theo lối riêng của mình. và chính trong bối cảnh này họ đã gặp cụ già xa lạ trên con đường ở Colorado vào buổi sáng Chủ nhật trời mưa nọ. Cụ già đã nói với hai anh em về Chúa Giêsu không phải bằng lời mà bằng một hành vi gương mẫu đầy anh hùng. Ngay khi hai anh em lắng nghe, tâm hồn họ bắt đầu bừng cháy lên từ bên trong. Thế rồi trong lúc bẻ bánh nơi giáo đường, họ đã khám phá ra Chúa Giêsu mà họ đã đánh mất.
Câu chuyện các môn đệ trên đường Emmau và câu chuyện của hai anh em nọ trên đường Colorado cũng chẳng khác gì câu chuyện riêng của chúng ta. Chúng ta cũng từng gặp những giai đoạn bão táp trong đời khi mà đức tin chúng ta bị tan thành ngàn mảnh vụn. Trong những giai đoạn giông bão này, có lẽ chúng ta đã phạm tội chống lại Hội Thánh, có lẽ chúng ta đã hoàn toàn thất vong đối với Hội Thánh, thậm chí còn đã từ bỏ Hội Thánh. thế nhưng một ngày nọ chúng ta gặp được một kẻ nào đó… Có thể là một khách lạ — và qua người khách lạ này chúng ta tìm lại được Chúa Giêsu giữa lòng Hội Thanh Ngài trong nghi thức bẻ bánh.
Và như thế bài Phúc âm hôm nay chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta ngày nay — đặc biệt đối với những người đang tìm kiếm hoặc những người đã đánh mất Chúa Giêsu.
Thỉnh thoang chúng ta nghe có người nói: “Tôi tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu, nhưng tôi không tin vào Giáo hội”. bất cứ lúc nào nghe lời nói này, chúng ta hãy nhớ lại vị khách bộ hành khác đang cùng đồng hành với chúng ta trên đường. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp thánh Phaolô trên đường đi Damas. Sách Công vụ tông đồ ghi lại: “Bỗng nhiên một tia sáng từ trời loé lên quanh ông. Ông liền té xuống đất và nghe có tiếng nói: “Saolô, Saole, tại sao người bắt bớ Ta?”. Phaolô liền hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng nói liền đáp lại: “Ta là Giêsu mà ngươi đang truy nã” (Cv 9: 3-5). Phaolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thế rồi Phaolô chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài là một. Cái này ở đâu thì cái kia ở đó giống như đầu và thân mình. chia cắt Chúa Giêsu khỏi Hội Thánh Ngài, tức cộng đồng các môn đệ Ngài, thì cũng giống như tách rời chiếc đầu ra khỏi thân mình vậy.
Nhiều năm sau, Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm này trong thư gởi tín hữu Côlôsê như sau: “Chúa Giêsu là đầu thân thể Ngài, tức Hội Thánh, Ngài là nguồn sống cho thân thể” (Cl 1: 18). Ngày hôm nay, nếu chúng ta muốn tìm gặp Chúa Giêsu Phục Sinh thì chúng ta phải tìm Ngài theo lối các môn đệ đã tìm được gặp Ngài trên đường Damas, theo lối hai anh em nọ tìm được Ngài trên con đường Colorado tức là tìm gặp Ngài giữa lòng Hội Thánh, tìm gặp Ngài trong nghi thức bẻ bánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin nhân từ nhìn đến những kẻ đã bỏ Ngài chết mặc nơi nấm mồ hiu quạnh.
Xin đến với họ như Ngài đã đến với các môn đệ trên đường Emmau.
Xin cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ lần nữa,
Xin khơi dậy ngọn lửa đức tin vẫn còn leo lét trong tim họ.
Xin ngồi xuống đồng bàn với họ,
Xin biểu lộ Ngài ra cho họ lần nữa, giữa lòng Hội Thánh Ngài, và trong nghi thức bẻ bánh.
70. Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông kinh ngạc, sợ hãi và không dám tin vào mắt mình nữa. Nhưng Đức Giêsu trấn an các ông và chứng tỏ Ngài hiện diện thật sự, bằng thân xác cụ thể chứ không phải bằng hình bóng theo kiểu một bóng ma. Ngài chứng tỏ điều ấy bằng cách cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông. – Hiện nay, Đức Giêsu đang thật sự hiện diện và hoạt động ngay trong bản thân chúng ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta – cũng giống như các tông đồ xưa – không dám tin vào điều ấy. Nếu có tin thì cũng chỉ tin rằng Ngài hiện diện một cách tượng trưng, bằng hình bóng của Ngài thôi. Nhưng hãy nghe Ngài nói: «Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?» – Ngài mời gọi chúng ta cảm nghiệm sư hiện diện đích thực của Ngài bên trong chúng ta. Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong để thấy Ngài nói và hoạt động trong bản thân chúng ta.
Trước khi chịu kho nạn và tử hình thập giá, Đức Giêsu đã sống giữa các tông đồ, để dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, thêm sức cho các ông, một cách rất cụ thể, hữu hình hữu tướng, bằng thể chất. Nhưng sau khi sống lại, Ngài không còn hiện hữu theo kiểu cũ, không thường xuyên ở bên cạnh các ông một cách hữu hình nữa. Thân xác của Ngài là một thân xác vinh quang, thoạt hiện thoạt biến, chỉ ở bên cạnh các ông một cách hữu hình trong giây lát. Phải chăng cách hiện hữu này khiến Đức Giêsu và các ông xa cách nhau hơn? Có phải sau khi về trời, Ngài không còn ở cùng các ông nữa không?
Không phải vậy. Trước khi về trời, nghĩa là trước khi thân xác Ngài vĩnh viễn rời khỏi các môn đệ, Ngài nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt 28,20). Trong bối cảnh thầy trò sắp chia tay nhau như thế mà Ngài lại nói vậy thì thật là mâu thuẫn và nghịch lý! Đáng lẽ Ngài phải nói: «Thầy phai ra đi và không còn ở với anh em nữa cho đến tận thế. Hẹn gặp lại anh em vào ngày tận thế!» Có phải Ngài nói lộn, hay các thánh sử ghi sai lời Ngài?
Chắc chắn không phải như vậy! Tuy Ngài không hiện hữu bằng thân xác của Ngài, nhưng Ngài vẫn hiện hữu một cách thiêng liêng, bằng thần khí của Ngài, bên cạnh và bên trong chúng ta. Với cách hiện hữu này, Ngài có thể thân mật với chúng ta hơn, và chúng ta có thể gặp Ngài bất cứ lúc nao chúng ta muốn, một cách hết sức dễ dàng. Và Ngài vẫn có thể dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, ban bình an và sức mạnh cho chúng ta, miễn là chúng ta tin vững chắc sự hiện diện của Ngài bên trong chúng ta, thường xuyên ý thức và cảm nghiệm sự hiện diện ấy, đồng thời lắng nghe Ngài nói trong đáy lòng mình. Đây là một ý thức và khả năng mà bất kỳ người Kitô hữu nào cũng cần tập luyện. Và đây cũng là một bí quyết để có được bình an, sưc mạnh và thăng tiến trong đời sống tâm linh.
Đức Giêsu hứa với chúng ta: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “(Mt 28,20). Ngài cũng nói với Chúa Cha: «Con ở trong họ và Cha ở trong con » (Ga 17,23). Thánh Phaolô nhắc lại sự hiện diện ấy: «Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người » (Cl 3,11); «Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em » (Gl 4,6). Như vay, theo lời Ngài đã hứa thì Ngài vẫn ở với và ở trong chúng ta. Nhưng sao chúng ta chẳng thấy Ngài hoạt động hay ảnh hưởng gì trên chúng ta, giống như xưa các tông đồ đã thấy Ngài hoạt động và ảnh hưởng trên các ông? – Sự hiện diện của Ngài trong chúng ta có tính hoạt động và có khả năng biến đổi ta hay không, điều đó còn tùy thuộc vào ý thức và sự tự do cộng tác của ta nữa. Nếu chúng ta không tin hoặc không ý thức sự hiện diện cua Ngài trong chúng ta, thì sự hiện diện ấy chỉ giống như sự hiện diện của xác Ngài trong nấm mồ: một thân xác vô hồn, bất động, không có khả năng gì cả. Chính ý thức sống động của ta về sự hiện diện của Ngài trong ban thân ta làm cho Ngài «sống lại» trong ta và hoạt động hữu hiệu. Nếu ta không ý thức sự hiện diện ấy thì hãy coi chừng: ta chưa thật sự sống trong đức tin. Thánh Phaolô yêu cầu ta kiểm điểm lại đức tin của mình: «Anh em hay tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem. Anh em chẳng nhận thấy có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?» (2Cr 13,5).
Vì thế, để lời hứa của Ngài – là ở với chúng ta – trở nên hiện thực, chúng ta phải tập luyện ý thức thường xuyên sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình. Ngài hiện diện trong chúng ta bằng thần khí của Ngài, chứ không phải bằng thể chất. Hiện diện dù bằng thần khí hay bằng thể chất, đều là hiện diện thật sự. Và sự hiện diện ấy là một hiện diện hoạt động chứ không bất động. Nếu ta để Ngài tự do hoạt động trong chúng ta, nghĩa là không để hoạt động của Ngài bị hạn chế bởi ý riêng của ta, lúc đó, ta sẽ nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi» (Gl 2,20). Nói cụ thể hơn là: bất kỳ điều gì tôi làm (suy nghĩ, ăn, nói, làm việc, đối xử, ngủ, nghỉ…) đeu không còn phải là bản thân tôi làm nữa, mà chính là Đức Giêsu làm trong tôi. Ý thức thường xuyên về sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình chính là tâm trạng cầu nguyện, là tình trạng kết hợp liên lỉ với Đức Giêsu. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những bậc hiến thân sống đời tu trì, đều được mời gọi tập luyện sự ý thức thường xuyên này.
Khi chúng ta đã thường xuyên ý thức sự hiện diện hoạt động của Đức Giêsu trong bản thân ta, ta sẽ dần dần cảm nghiệm thấy «tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm» ngay trong bản thân chúng ta. Câu này cần được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm của tâm linh. Nghĩa là tất cả những lời hứa trực tiếp của Thiên Chúa với các tổ phụ, với Môsê (đất hứa, sự sung túc, con cháu đầy đàn), những lời hứa của Ngài đối với Dân Ngài qua các ngôn sứ, qua các lời Thánh Vịnh (sự thái bình, thịnh vượng…) đều được thực hiện tại thế ngay trong tâm hồn ta. Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được thế nào là bình an và hạnh phúc siêu nhiên, một thứ bình an hạnh phúc không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài, nên «không ai lấy mất được» (Ga 16,22). Lúc ấy Bát Phúc trong bài giảng trên núi của Đức Giêsu sẽ trở nên hiện thực và cụ thể trong tâm hồn ta. Đây là tình trạng hạnh phúc của tâm hồn mà những vị thánh thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa luôn luôn cảm nghiệm được. Chính nhờ cảm nghiệm được thứ hạnh phúc này, mà các ngài luôn luôn vui tươi khi gặp gian lao thử thách. Hạnh phúc mà các ngài cảm nghiệm được này đã bù đắp cho các ngài tất cả những hy sinh mất mát mà các ngài tự nguyện chịu. Hạnh phúc ấy, bất kỳ Kitô hữu nào ý thức được sự hiện diện của Đức Giêsu trong tâm hồn mình, và hoàn toàn sống với ý thức ấy đều có thể cảm nghiệm được.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu vẫn sống ở trong con, nhưng tâm trí của con không hề nghĩ đến Ngài, vì bận mải mê tìm kiếm những thứ ở bên ngoài. Điều đó đã làm cho sự hiện diện của Đức Giêsu trong con trở thành bất động, Ngài chẳng có thể làm được gì ích lợi cho con. Xin giúp con ý thức lại sự hiện diện của Ngài trong con, và thường xuyên sống với ý thưc ấy, để làm cho Đức Giêsu trở thành sống động trong con, biến con trở nên một tâm hồn tốt đẹp và hạnh phúc. Amen.
71. Giải mã Thánh Kinh – Lm. Phạm Quốc Hưng
Nói rằng Thánh Kinh là Lời Chúa là đúng, vì Thánh Kinh là bộ sách được viết ra dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhưng hiểu Lời Chúa chỉ được chứa đựng trong Thánh Kinh mà thôi là một quan niệm thiếu sót, hẹp hòi. Vì Lời Chúa chính là Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, và một khi đã nhập thể làm người để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại Lời Chúa đã mang một tên gọi là Giêsu Kitô. Do đó, nơi chính con người, cuộc sống và giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô mà cao điểm là Cuộc Kho Nạn và Phục Sinh của Người, Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu độ chúng ta và dạy chúng ta mọi sự. Đó là một trong những chủ đề được gặp thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Thánh Kinh Cựu Ước bao gồm mọi điều Thiên Chúa mạc khải cho Dân Do thái qua các tổ phụ và các tiên tri để giúp họ chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Qua cuộc sống được kết thúc bằng Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người, Đức Giêsu Kitô đã hoàn tat những gì Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ và các tiên tri nơi Thánh Kinh Cựu Ước. Đó là nội dung lời chứng của Thánh Phêrô trong Tông Đồ Công Vụ nơi bài đọc một trong Phụng Vụ hôm nay, nhất là nơi câu: “Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình” (Cv 3:18).
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệsau khi ăn cá nướng và mật ong trước mắt họ, Chúa Giêsu đã vừa cho thấy sự xác thực của mọi lời Người từng nói với các ông vừa xác định Người chính là Đấng Kitô –Đấng Mêsia-là trung tâm của lịch sử ơn cứu độ mà Thánh Kinh Cựu Ước đã báo trước, vừa là Đấng giúp các môn đệ am hiểu Thánh Kinh. Thánh Sử Luca viết: “Đoạn Người phán: Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách các tiên tri và thánh vịnh. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:44-45).
Ngày nay, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích Thánh Kinh cho chúng ta qua Huấn Quyền của Hội Thánh luôn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Việc ghi nhớ và hiểu biết đầy đủ giáo lý với các tín điều Hội Thánh dạy thật quan hệ trong việc giúp chúng ta hiểu đúng Thánh Kinh. Đức Thánh Cha Bênêđictô từng dạy rằng: “Các tín điều chính là lời giải thích Thánh Kinh chính thức của Hội Thánh”. Không có cùng trí ý với Hội Thánh, người ta không thể hiểu đúng Thánh Kinh.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua-Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh-của Người chiếm vị thế trung tâm trong chương trình cứu độ. Như thế, toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước cũng như Tân Ước-phải được đọc và giải thích dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Đồng thời, Hội Thánh bao gồm các môn đệ đích thưc của Chúa Kitô sẽ tiếp tục sứ mạng của Người khi rao giảng nhân danh Người và làm chứng về Người, mời gọi mọi người sám hối để lãnh ơn tha tội. Người phán: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngay thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24:46-48). Điều này cũng đã được Chúa Giêsu nói với hai môn đệ truớc đây, khi Người hiện ra và đồng hành với họ trên đường Emmau (Lc. 24:13-35).
Vì vậy, muốn hiểu đúng Thánh Kinh, chúng ta phải đón nhận sự khôn ngoan của mầu nhiệm Thánh Giá, phải chấp nhận bước đi trên Đường Thánh Giá, con đường của hy sinh từ bỏ, con đường của tình yêu xả kỷ vị tha, con đường chính Chúa Giêsu đã đi qua. Tác giả sách Gương Chúa Giêsu ngay ở chương đầu đã nhận xét: “Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa” (Q. I, Ch. 1). Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng kể rằng: “Bài giảng đầu tiên con nghe và hiểu được là bài giảng về Thánh Giá. Và từ đó, con nghe và hiểu được mọi bài giảng”.
Trong bài đọc hai trích thư thứ nhất của Thánh Gioan, chúng ta lai học biết rằng mục đích của Thánh Kinh chính là giúp chúng ta khỏi phạm tội; mà nếu chúng ta đã phạm tội thì sẽ được đón nhận ơn tha tội nhờ sám hối và tin vào Chúa Kitô là của lễ đền tội cho toàn thể nhân loại. Tren hết, Thánh Kinh hay Lời Chúa hoặc Luật Chúa là phương thế tuyệt hảo giúp chúng ta buớc vào và sống trọn liên hệ yêu thương với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa. Hơn nữa, việc nghe và giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.
Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn của Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ các giới răn của Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (1Ga 2:1-5a).
Câu nói thời danh của Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Jerome dường như chỉ là một lời lập lại và tóm lược những lời trên của Thánh Gioan: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Các học giả Thánh Kinh còn đưa ra nhận xét độc đáo này: “Thánh Kinh được viết bởi những người tin, được viết cho những người tin, được viết để xây dựng và rao truyền đức tin”. Vì vậy, tin vào Chúa Kitô và Hội Thánh là cach chắc chắn nhất để học biết Thánh Kinh một cách đúng đắn.
Thật là thích đáng khi Hội Thánh dùng lời tung hô Alleluia trong Phụng Vụ hôm nay để dâng lên Chúa Giêsu lời nguyện chí thiết này: “Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con”.
Nếu Chúa Nhật tuần trước được dành để suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, thì Chúa Nhật hôm nay có thể được dành để suy tôn Lời Chúa, suy tôn Thánh Kinh.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ để say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa, dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong niềm hiệp thông vâng phục trọn vẹn với Hội Thánh. Amen.
72. Từ người bỏ cuộc trở nên Sứ giả Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tin Mừng Chúa nhật III Phục sinh tập trung vào hai môn đệ rời Giêrusalem mang theo sự buồn sầu thất vọng về làng Emmaus. Quả thật, chính tại Giêrusalem hai ông đã chứng kiến các biến cố dẫn đến cái chết của Chúa Kitô như lời hai ông kể cho vị khách (Không Hay Biết): “Có một người tên là Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi” (Lc 24, 19 – 21). Đúng là mấy phụ nữ rằng thuật lại rằng Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng đó là một tin lạ lùng không thể tin được, các bà chẳng những không củng cố được lòng tin cho các ông mà còn làm các ông “khiếp sợ” (x. Lc 24, 22), sợ đến nỗi bỏ cuộc, rời Giêrusalem, nơi mà “giấc mơ” của họ bị vỡ tan vì Thập Giá.
Và dĩ nhiên, dưới dáng dấp của người đồng hành, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng đi với họ. Trên đường, với hai ông, Chúa chỉ là Vị Khách lạ, “người không hay biết”. Nhưng chính “người không hay biết” ấy đã làm cho các ông vơi đi nỗi buồn. Sự thất vọng mà họ có không cho phép họ tin rằng Thập Giá của Chúa Kitô là chìa khóa để mở cửa bước vào nhà Cha.
Với sự thẳng thắn và yêu thương, “người không hay biết” than: “Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người” (Lc 24, 25-27).
Vị Khách đã mở lòng mở trí cho hai ông, hai ông lắng nghe và cảm thấy có một sức thu hút ngoại thường khiến các ông cất lơi: “Mời ông ở lại với chúng tôi”, lý do “vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29). Với lời mời thịnh tình ấy, Chúa Giêsu đáp lại bằng một cử chỉ chia sẻ khi đồng bàn với họ: “Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông” (Lc 24, 30). Cử chỉ Thánh Thể này giúp cho “hai kẻ bỏ cuộc” nhận ra Chúa.
“Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào” (Lc 24, 13-35). Câu này kết thúc trình thuật kinh nghiệm phục sinh của hai môn đên trên đường Emmaus, tổng hợp cách kỳ diệu ý nghĩa về sự hiện hữu Kitô của người môn đệ Chúa Kitô. Đâu là tính mới lạ của Kitô giáo nếu không phải là sống cái chuẩn mực của đời sống, với niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và thất vọng? Cuộc hành trình của hai môn đệ trên đường Emmaus với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống của họ cũng như chúng ta: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” (Lc 24, 32)
Trên con đường đến Emmaus, chúng ta có thể nhận ra con đường đức tin của chính mình, thay vì quán trọ, thì có Giáo Hội. Thánh Lễ cung cấp cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể, những yếu tố không thể thiếu cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Nếu chúng ta ra khỏi nhà với những khó khăn, lo toan, với tinh thần của hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta hay đến nhà thờ, ít là Chúa nhật, nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, nơi mà Lời Chúa được giải thích ban cho chúng ta sự an ủi, Bánh Hằng Sống được trao ban để phục hồi, chữa lành, chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta niềm vui.
Con đường của hai môn đệ của Emmaus là con đường của tất cả chúng ta. Nếu trên đường đi, lòng chúng ta không còn bị khép kín vì buồn bã, chúng ta có thể gặp Đấng Phục Sinh trong Ngôi Lời làm cho lòng chúng ta nóng lên, và trong Bánh Thánh làm cho mắt chúng ta sáng lên. Trong Lời Chúa và Thánh Thể, chính chúng ta đang đi từ cõi chết đến cõi sống và chúng ta nhận ra sự thật về điều mà các nhân chứng đầu tiên đã truyền cho chúng ta: chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại vì chúng ta cũng đã gặp Người. Chúng ta được sống lại với cuộc sống mới trong tình yêu.
Chúa Kitô loan báo Tin Mừng về sự sống lại của Người cho chúng ta trên đường đi, như các môn đệ. Người nói với chúng ta về câu chuyện tình của Thiên Chúa với dân Ngài, Người nhắc nhở chúng ta về sự trung tín không ngừng của Thiên Chúa, Đấng đã ký kết giao ước đời đời với chúng ta. Chúa Kitô nói với chúng ta và mở lòng chúng ta hiểu Kinh Thánh. Như thế, Người mạc khải cho chúng ta sự sâu thẳm của Trái Tim đầy yêu thương, Người “phải” chịu đau phiền và phải chết. Người không thể làm gì khác ngoài yêu chúng ta cách tuyệt đối và vô hạn vượt qua mọi rào cản của cái chết và thân xác.
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống, khiến họ đang là kẻ bỏ cuộc trở nên người loan báo Tin Mừng về Đức Kitô tử nạn và phục sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về “làng Emmaus”, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và khẩn cầu Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, ngõ hầu trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng Chúa sống lại cho mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
73. Chúa giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sự kiện Chúa Giêsu phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê (x. Lc 24, 1-12), các bà về thuật lại cho các Tông Đồ ở Galilêa, hai môn đệ làng Emmaus trong nhóm các bà chẳng những chưa tin mà còn lo sợ (x. Lc 24). Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục hiện ra dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai ông, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp long họ sốt sáng lên và làm cho mắt họ sáng ra để nhận ra Người (x. Lc 24, 13 – 35).
Trở lại Giêrusalem, hai ông thuật lại cho các Tông Đồ trong khung cảnh cửa đóng then cài. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giêsu hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ “bối rối tưởng mình thấy ma” (Lc 24, 37).
“Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ” (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ “vẫn còn chưa tin” (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môisen, lời các tiên tri và Thánh Vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng: “Chính Thầy đây” (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4).
Lời Chúa sưởi ấm con tim
Giả bộ khách đồng hành, tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của hai môn đệ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện, nghe họ bộcbạch về đau khổ và thất vọng cũng như đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngóm. Thấy họ buồn sầu như thế, Chúa nói chuyện với hai ông và “giải thích”Kinh Thánh, “bắt đầu từ Môsê và các tiên tri”, giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Đấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh (x. Lc 24, 27). Như thế, Chúa đốt cháy lên trong con tim họ một ngọn lửa hy vọng. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời Người ở lại với họ chiều hôm đó: “Mời ông ở lại với chúng tôi”, lý do”vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn ” (Lc 24, 29).
Thánh Thể mở mắt đức tin
“Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”(Lc 24, 29). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Chúa Giêsu chấp nhận và cùng họ vào nhà và khi ngồi vào bàn Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi ” bẻ bánh ” đơn giản (Lc 24, 35). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ ” chỗi dậy trở về Giêrusalem “(Lc 24, 33) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho ” mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp ” (Lc 24, 33).
Lời Chúa và Thánh Thể trong đời sống người tín hữu
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Đức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường ma họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về “làng Emmaus”, quay lưng lại với chương trình của Thiên Chua, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus, sau khi đã “nhận ra” Chúa trong việc bẻ bánh, thì mau mắn trở lại Giêrusalem lòng tràn đầy niềm vui, kể cho anh em mình tất cả những gì đã xảy ra. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh,niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Đó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta: ” Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến” (1 Cr 11, 26). Như thế, chúng ta phai nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Hãy để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt đức tin của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái, để chúng ta có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với ho.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
74. Suy Niệm của Lm. Trần Bình Trọng.
Có Chúa trong cuộc đời là có Bình An
Lời chào đầu tiên mà Chúa thốt ra với các tông đồ sau khi Người sống lại từ cõi chết là lời chào bình an: Bình an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Chúa liền trấn an các ông bằng cách chứng minh cái căn tính của Chúa là có xương có thịt, chứ không phải ma. Tuy nhiên các ông vẫn chưa tin vì vui mưng mà bỡ ngỡ (Lc 24:41).
Mặc dầu Chúa đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Chúa. Mặc dầu sau khi sống lại Chúa đã hiện ra với Mađale-na và truyền cho bà đi loan báo tin mừng phục sinh cho các tông đồ, các ông vẫn cho rằng đó là chuyện tưởng tượng của đàn bà. Mặc dầu hai môn đệ thành Emmau vưà loan tin cho các ông là Chúa đã sống lại và hiện ra với các ông, các ông vẫn còn hồ nghi. Lý do là vì cái biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hy vọng của các ông, như hi vọng Chúa sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, hi vọng được một địa vị trong vương quốc của nước Chúa. Cái chet của Thày mình trên thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Vì thế hôm nay Chúa hiện ra lần nữa để củng cố đức tin của các ông.
Phải chăng chúng ta cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, và sợ hãi khác nhau. Chúng ta sợ mất công ăn, việc làm, sợ phải mang bệnh tật, sợ mất sức khoẻ. Chúng ta sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì chiến tranh. Hôm nay Chúa bảo ta: Thày đây, đừng sợ. Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là cái gì ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ nữa. Từ đó mới tìm đến Chúa.
Qua các môn đệ, Chúa cũng gửi đến ta lời chào bình an. Cái lời chào bình an của Chúa mang một ý nghĩa đặc biệt cho những người đặt tin tưởng vào Chúa. Ngày nay ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do Thái và gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đường giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do Thái khát vọng hoà bình như thế nào. Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa tự điển Webster có nghĩa là cái tình trạng, hay cái thời kỳ hoà hoãn, cái thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa là gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo tự điển Webster, hoà bình có nghĩa là cái trạng thái tĩnh, nghĩa là không động, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, một sự hoà hợp trong những mối tương quan và liên hệ của mỗi ngưòi.
Hoà bình theo nghĩa Thánh kinh là một ân huệ Chúa ban. Do đó hoà bình phải phát xuất từ tâm hồn mỗi người, phải được an rễ và phát triển trong tâm hồn. Hoà bình sẽ ngự trị trong tâm hồn ta, và xung quanh ta, nếu ta có bình an trong tâm hồn. Vì thế không thể nào có hoà bình thực sự trong thế giới loài người, nếu loài người không có bình an nội tâm.
Để có được sự bình an nội tâm, người ta cần làm hoà với Chúa qua Bí tích Cáo giải. Để có được sự bình an trong tâm hồn người ta cần sống theo đường lối của Chúa và tuân giữ giới răn Chúa.
75. Làm chứng nhân – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). Những điều này là những điều gì đây? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).
Phải nhìn nhận rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô la một chủ đề chính của lời rao giảng của các tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục sinh nên thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh Nhà thờ, thế mà Hội Thánh vẫn không chuan nhận. Theo luật hiện hành thì phải chưng ảnh tượng Chúa chịu nạn (Crucifix), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh chính là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lai thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất.
Cả hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh luôn song hành với nhau, không thể tách rời. Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc khải cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yeu (x.Ga 15,13). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hũu chúng ta mọi thời cần phải làm chứng rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn.
Đấng tử nạn đã phục sinh: Khi tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo. Nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục của chúng ta. Khong chỉ chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã phục sinh như là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh Phaolô chúng ta tuyên xưng: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người…” (Col 1,16).
Sự suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể hiện bằng việc gắn bó với Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán dạy. Thánh Gioan khẳng định qua bài đọc thứ hai:“Can cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…”(1 Ga 2, 4). Các Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước mặt quan quyền rằng: Phải vâng lơi Chúa hơn là vâng lời phàm nhân (x.Cvtđ 4,19).
Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban chính Con Một (x.Ga 3,16). “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đa đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Col 1,19-20).
Tuyên xưng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con người, của chính mỗi người chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu khổ hình thập giá. Như thế lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải ăn năn để được ơn tha tội. Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua cái chết của Đức Kitô. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng chúng ta có nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Nói như thánh Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn chính là một cách thế căn bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.
Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa vẫn còn vọng vang đến những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân, anh chị em khác đạo không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà còn nhìn thấy các Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối ăn năn, thay đổi đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng việc dứt bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quang đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, không chỉ hôm nay ma cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn thích nghe theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã từng cảm nghiệm rằng: “lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.
76. Các con là chứng nhân của Thầy
(Suy niệm của Lm. Khiêm Cung, CRM)
Câu chuyện “Cái tách đựng trà” của Lã Phụng Tiên sau đây nói lên ý nghĩa Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay:
Một hôm có hai ông bà sang trọng bước vào một cửa tiệm bán đồ sành đồ sứ. Bà đến bên quầy hàng bày đầy những ly tách, bà cầm một cái tách uống trà lên và thỏ thẻ với ông: “Ông này, coi cái tách uống nước dễ thương quá!” Ông cầm lấy ngắm nghía một hồi rồi nói: “Đúng, bà nói đúng. Đây là cái tách đựng trà dễ thương nhất mà tôi đã thấy”. Tách trà liền nói: “Cám ơn ông bà khen tặng, nhưng cháu không phải luôn đẹp như vậy đâu”. Bà hỏi lại: “Sao cháu lại khiêm nhường thế? Lúc nào cháu cũng đẹp!” Tách đựng trà trả lời: “Trước kia cháu chỉ là cục đất sét xấu xa, thế nhưng, một ngày kia có người bàn tay ướt át ôm cháu bỏ lên bánh xe lăn. Sau đó ông quay cháu như chong chóng đến choáng váng. Cháu phát khóc mà ông cũng không tha. Bị xoay vần quá lâu, cháu đau mình mẩy đến muốn chết được. Sau cùng ông cho cháu ngừng, nhưng lại tệ hơn, ông bỏ cháu vào một cái lò nung nóng đến 500 độ. Cháu toát cả mồ hôi ra, da dẻ cháy khét, đen thui… Ông mới chịu cho cháu ra khỏi lò. Nhưng cô thư ký của ông quét lên mình cháu một lớp sơn khét lẹt, vẽ rồng rắn vào mình cháu rồi cô đặt cháu vào một chiếc lò nung còn tệ hơn lần trước, khiến da dẻ cháu xém lại, cứng nhắc như mot cái vẩy bằng sành. Sau cùng, cô để cháu ở ngoài cho nguội, rồi để lên kệ này bên cạnh chiếc gương to lớn. Cháu không thể tin được mình đẹp như thế. Cháu đã nhận thức ra rằng: Những đau đớn cháu chịu thật đáng giá va mang lại cho cháu một vẻ mỹ miều vẫn còn tồn tại.”
Câu chuyện “Cái tách đựng trà” cũng mang một sứ điệp giống như bài Tin Mừng hôm nay. Trước khi Chúa Giêsu sống lại vinh quang, Ngài đã chịu khổ hình và đã chết đi trong đau khổ mà Thánh Phêrô đã tường trình rằng: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại để “hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình”.
Thánh Luca cũng thuật lơi Chúa Kitô nhắc lại lời tiên tri: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại… Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24:).
Muốn làm chứng cho Chúa Kitô thì chúng ta cũng phải khóc, phải khổ như chiếc tách đựng trà và giống như Chúa Kitô đã chịu khổ đau trước khi phục sinh vinh hiển. Nếu muốn nên người hữu dụng và đẹp lòng Chúa, chúng ta cũng phải sẵn sang đón nhận những đau khổ như Ngài.
77. Bình an cho sứ vụ mới – Lm Joseph Long
Việc đầu tiên khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ là Ngài trao ban bình an cho họ. Cũng dễ hiểu thôi bởi lẽ các môn đệ đang cần lắm sự bình an sau những chấn động do cuộc khổ nạn của Thầy mình. Dư chấn cuộc thương khó đang làm cho lòng các ông tan nát. Loạt tin tức về việc Chúa mất xác, Chúa sống lại, Chúa hiện ra… làm cho tâm hồn các ông rối bời như canh he.
Ngay cả sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra cũng cố đức tin và kiện cường niềm hy vọng, các ông cũng đang cần lắm bình an của Chúa để khởi đầu cho một sứ vụ mới, sứ vụ làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Sứ vụ mới nay bắt đầu chính thức. Nhưng trước hết các ông cần có cái tâm an bình đã, vốn là hoa trái của đức tin. Có cái tâm an bình thì mới có thể đem tin bình an đến cho người khác được.
Tuy nhiên sự bình an mà Chúa Kitô muốn trao là sự bình an nào? Chắc chắn không phải là bình an theo kiểu của thế gian, như lời Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy ban cho anh em sự bình an không như thế gian ban tặng”. Bình an của thế gian theo nghĩa là không có chiến tranh, không co tai ương hay xáo trộn. Đặc tính dễ thấy nơi bình an thế gian là giả tạo, chóng qua. Vì bình an thế gian thường đến từ các “ngôn sứ giả” như thời Cựu Ước; bình an đến từ tiền bạc, danh vọng, quyền lực và những tiện nghi vật chất.
Thế bình an mà Chúa để lại cho các môn đệ là gì? Thưa đó là bình an có Chúa luôn ở cùng, bình an có Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nói cách khác đây là chính là bình an ơn cứu độ. Bình an đó còn là gì nữa? Đó còn là chính Chúa Thánh Thần và các ân huệ của Người được Đức Kitô ban xuống trong tâm hồn các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Đây là thứ di sản bền vững mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ; không như di sản trần thế: tiền bạc của cải, cổ phần cổ phiếu… là những thứ rất bấp bênh, nay còn mai mất, nay được giá mai mất giá….
Các môn đệ có được bình an vì đức tin của các ngài đã có đường vững chắc để đi, đức cậy của các ngài đã có lối rõ ràng để về. Bởi vậy sau này các ngài không còn lo âu xao xuyến sợ hãi nữa, dẫu cho bên ngoài có còn nhiều sóng gió thử thách.
Cuộc sống con người ngày hom nay đang cần lắm sự bình an của Chúa. Bản thân cần sự bình an. Gia đình cần sự bình an. Cộng đoàn cần sự bình an. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết mở lòng ra đón nhận sự bình an của Chúa Kitô. Đồng thời biết trở nên như khí cụ bình an của Chúa, nghĩa là biết đem sự bình an của Chúa cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Ngày Con Thiên Chúa giáng sinh, các thiên thần hân hoan reo ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14).
Và hôm nay, Con Thiên Chúa phục sinh, niềm bình an đến trên nhân loại, không còn do thiên thần báo tin nữa, nhưng đã trở nen lớn lao và quan trọng: Chính Đấng Phục sinh trực tiếp trao ban. Trong các lần hiện ra cùng các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa Giêsu Phục Sinh luôn luôn là lời chúc bình an.
Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng: Trong khi các môn đệ còn bán tín, bán nghi về những lần những người trong nhóm họ nói là đã thấy Chúa Phục sinh, thì chính Người, Đấng Phục Sinh ấy, bỗng dưng xuất hiện giữa họ. Lại một lần nữa, Chúa lên tiếng trớc hết: “Bình anh cho các con”.
Bình an, điều mà trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã từng rao giảng – Bằng chứng là trong Tám mối Phúc thật, thì Phúc thứ Bảy nói đến hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Hay ở một chỗ khác: “Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban KHÔNG NHƯ THẾ GIAN ban tặng” (Ga 14, 27). Và còn nhiều những lần như thế.
Bình an có tầm mức quan trọng là thế. Không phải chỉ chờ đến lúc Chúa Giêsu nói, ta mới biết. Nhưng trong kinh nghiệm cuộc sống của từng người, ai mà không cảm nhận sự cần thiết vô cùng của sự bình an.
Vậy mà có lần Chúa lại nói những điều xem ra rất khó nghe, rất chướng tai: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an cho trái đất. Ta đến không phải để đem bình an nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10, 34).
Hóa ra, Chúa Giêsu tự mình mâu thuẫn với chính mình? Hay ở một khía cạnh khác, mang tầm mức xã hội hơn, bởi “đem gươm giáo”, rõ ràng Chúa Giêsu là một người hiếu chiến? Và nếu thế thì Chúa Giêsu là tay thực dân, là tên xâm lược, giống như thời nay vẫn xảy ra? Đúng như thế hay ta còn phải hiểu thế nào về Lời của Chúa?
Từ cuộc sống của chính Chúa Giêsu, ta dám khẳng định một điều: Người không hề có bất cứ một mảy may mâu thuẫn nào dù là lời nói hay hành động! Trong đời giảng dạy – ba năm trường – Chúa Giêsu không dùng gươm giáo, không kêu gọi lật đổ chính quyền thực dân lúc đó. Người cũng không xâm chiếm lãnh thổ của ai, không cướp đất dành ranh giới của người nào.
Nói cho cùng: Chúa Giêsu là người mang lại phúc cho đời, trước sau gì bản thân Ngươi cũng vẫn là Phúc thật lớn nhất của nhân loại.
Chẳng những không mâu thuẫn, dù lời của Chúa Giêsu có lẽ gay gắt, nhưng rất đúng: Vì chính Tin Mừng “bình an” này, chính mối Phúc thật thứ Bảy này gây nhiều xáo trộn, nhiều chia rẽ.
Có ai sống Lời Chúa mà không thoát khỏi những lúc phải từ bỏ chính bản thân, hay phải chết đi cho những đam mê, cho khoái lạc, dục vọng thấp hèn… Và khi vượt qua để chiến thắng những gì là chưa tốt như thế, cũng có nghĩa là ta đã sống Lời Chúa. Chính lúc ấy, hơn ai hết, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận bình an, cảm nhận niềm vui chan chứa trong tâm hồn và trong từng ngày sống của ta.
Từ ngàn xưa, Sách tiên tri Giêremia đã cho ta những bài học quí giá về một cuộc sống thiếu bình an khi phải sống Lời Chúa, khi phải giữ trọn lề luật của Người. Ta hãy nghe Giêrêmia tâm sự:
“Kẻ gian ác nói: ‘Hãy đến đây, ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giêrêmia. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Đến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó’” (Gr 18, 18).
Vì phải sống và loan báo Lời Chúa, nhà tiên tri bị người đời ghét bỏ, chống đối, và thù hận đến mức có những lúc ông đau khổ một cách tuyện vọng, chỉ còn biết than thân trách phận:
“Thật đáng nguyền rủa ngày tôi được sinh ra. Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không đáng được chúc lành. Tại sao tôi lại không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thay cuộc đời qua đi trong tủi hổ” (Gr 21, 14. 17 – 18).
Đó là số phận của những người ngay lành, những người chỉ biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống cho mình. Đúng như Chúa đã nói: “Ta đến không phải đem bình an, nhưng đem gươm giáo”.
Bởi thế bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban chỉ có thể là bình an của những người biết phó thác cuộc đời mình cho Chúa. Chỉ có phó thác, chỉ có đặt tất cả cuộc đời, tất cả lòng tin và sự sống trong tay Chúa, ta mới có bình an thật trong tâm hồn của mình, dẫu trên thân xác ta đầy vết tích, cuộc đời ta đầy thử thách, đường đời ta đi đầy chông gai.
Chúa Kitô đã chẳng phải như thế sao, khi chính Người đã bị cuộc đời vùi giập? Dẫu là đau đớn đen cùng cực, dẫu là cái chết bầm da, xé thịt, hay mọi đắng cay nhục nhã và ê chề đến đâu đi nữa, Chúa Giêsu vẫn một lòng phó thác chính bản thân Người cho thánh ý Chúa Cha, cho tình yêu của Chúa Cha.
Lúc mà trên thân thể hằn lên nỗi đau bao nhiêu là chính lúc nhờ sự phó thác, Chúa Giêsu lại càng có được bình an tận tâm hồn bấy nhiêu.
Ta hãy xin Chúa ban bình an cho ta, không phải thứ bình an trên thân xác, càng không phải bình an do của cải, quyền thế, danh giá… mang lại, nhưng là bình an của tâm hồn để trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh của đời người, ơn bình an ấy sẽ giúp ta càng thánh thiện, càng trung thành với Chúa hơn, dẫu là lúc ta vui hay buồn, sướng hay khổ, dẫu là hoàng cảnh nào đi nữa.
79. Tin và làm chứng cho Chúa – Lm Đan Vinh
Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:
“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa đời thường… Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác tài xế:
– Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới thiệu?
– Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!
Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:
+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).
+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại.. Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo (x. Cv 2,41).
+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các “Chứng nhân đức tin”. Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”.
HÃY TIN VÀ LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Hãy Tin và làm chứng về mầu nhiệm Phục Sinh.
Bài Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra có lẽ là lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp phải ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mạng cho các ông là phải đi rao giảng sự ăn năn để được tha tội, và làm chứng nhân về các điều ấy.
2) CHÚ THÍCH:
– Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,35-36):
+ Còn hai ông: Đây là hai số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giêsu (x.Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). Sau khi Đức Giêsu bị người Do Thái giết hại trên thập giá, hai ông đã vỡ mộng và quyết định trở về quê cũ là làng Emmau. Trên đường về làng, hai ông đã gặp được Đức Giêsu Phục Sinh như một khách bộ hành. Trong cuộc trao đổi nói chuyện dọc đường, Người đã giải thích những lời Kinh Thánh về cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Kết quả là các ông đang từ tâm trạng buồn chán thất vọng (x. Lc 24,17.20), đã lấy lại được niềm tin và đã nhận biết Người (x. Lc 24,25-27.31).
+ Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giêsu đã làm khi nhân bánh ra nhiều 2 lần 9x. Mt 14,19; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể 9x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ kia nhận ra người khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã chết và giờ đây sống lại.
+ “Bình an cho anh em”: Đây là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người hứa là ban sự bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).
– Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,37-39):
+ Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng la thấy ma: Đây là thái độ thường tình của con người khi gặp một cuộc thần hiện. Trước đây, có lần vào lúc canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các môn đệ. Bấy giờ các ông cũng sợ hãi kêu la lớn tiếng: “Ma kìa!”. Và Đức Giêsu đã phải trấn an các ông: “Cứ yên tân, chính Thầy đây, đừng sợ!” (x. Mt 14,25-27).
+ Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!: Chân tay Đức Giêsu có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh tên cây thập tự (x. Lc 23,33).
+ Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?: Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Khi một người xắp chết, họ sẽ thơ hắt ra và sẽ chết hẳn khi thân xác ngừng thở (x. St 35,18). Khi thân xác thở lại là dấu họ sống lại (1 V 17,21). Linh hồn người chết hiện về được gọi là hồn ma. Ở đây, Đức Giêsu Phục Sinh chứng tỏ Người không phải la hồn ma, khi chứng minh cho các môn đệ thấy Người có xương thịt như một người bình thường.
– Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông (Lc 24,40-43):
+ Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin mừng Gioan (x Ga 20,22), Đức Giêsu Phục Sinh đã đưa ra những dấu hiệu chứng tỏ người là Đấng bị đóng đinh, đã chết trên cây thập giá, mà nay sống lại và hiện đang ở trước mặt các ông.
+ Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàng: Luca hay thêm vào các câu bào chữa khuyết điểm của các môn đệ. Chẳng hạn: Khi Đức Giêsu bị bắt, Luca viết: “ Người thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền” (Lc 22,45). Ở đây, Luca viết “ Vì mừng quá” và “còn đang ngỡ ngàng” để bào chữa cho sự cứng lòng chưa tin của các ông.
+ Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu đã sống lại, nên Người đã cho họ thêm một bằng chứng là Người thật chứ không phải hồn ma, bằng cách Người đã cầm lấy khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông.
– Rồi Người bảo: “ Khi còn ở với các anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24,44-45):
+ Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đưc Giêsu cho các môn đệ thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời tiên báo mà giờ đây đã ứng nghiệm.
+ Sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Trước đó, khi thuật lai việc Đức Giêsu Phục Sinh giảng cho hai môn đệ làng Emmau, Luca viết: “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả các Sách Thánh” (Lc 24,27). Ở đây, Luca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh.
* Sách Luật Môsê: Năm cuốn đầu của Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm 5 cuốn là: sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lêvi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Người Do Thái gọi Ngũ Thư là Luật Môsê (Tôra), vì đây là nền tảng đời sống đức tin của Dân Chúa. Truyền thống Do Thái vẫn coi tác giả của Ngũ Thư là ông Môsê. Nhưng thực ra, viec biên soạn bốn cuốn đầu chủ yếu do các tư tế thuộc triều đại vua Đavít và Salomon. Riêng sách Đệ nhị luật: Gọi là “Luật thứ hai” vì Luật của Giao Ước Môsê đã được ghi trong ba cuốn Xuất hành, Lêvi, Dân số trước đó. Còn Đệ nhị luật là do các môn đệ của các Ngôn sứ và các Tư Tế biên soạn vào thời dân Do Thái đi lưu đầy ở Babylon và còn tiếp tục hoàn chỉnh sau thời lưu đầy. Nội dung sách này nhằm nhắn nhủ dân Chúa hồi tâm sám hối toi lỗi, trở về tôn thờ Một Thiên Chúa độc nhất và trung thành tuân giữ Giao Ước Xinai.
* Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến để thay Chúa mà nói với dân Người. Sứ mạng của các ngôn sứ là giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ trở về với Giao Ước, khuyên bảo, loan báo hình phạt. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mêsia (hay Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ Sách Ngôn Sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn Sứ lớn như Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và Đanien, và 12 Ngôn Sứ nhỏ như Hôsê, Giôen, Amốt, Ovađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi. Phân biệt Ngôn sứ lớn hay nhỏ là do độ dày của cuốn sách của các ngài.
* Thánh Vịnh: Là bộ sưu tập các bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời Đavít đến thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh. Hội Thánh Công Giáo sử dụng các Thánh vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ và trong Phụng Vụ Lời Chúa.
– Và Người bảo: “Có Lời Kinh Thánh chép rằng:Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này (Lc 24,46-48):
+ Các câu 46-48: Trình bày tất cả các chủ đề về Đức Giêsu đã được tông đồ Phêrô và các tông đồ rao giảng trong Công Vụ Tông Đồ: Trưng dẫn Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, rao giảng sự sám hối và ơn tha tội, Nhóm Mười Hai được trao sứ mạng làm chứng nhân cho Đức Giêsu (x. Cv 2,14-41; 3,12-26; 13,16-43).
+ Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”: Khi Đức Giêsu giảng cho hai môn đệ trên đường Emmau, Luca cũng viết: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,25-27).
+ Rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem: Hoạt động truyền giáo của các tông đồ vừa theo một tiến trình ưu tiên nhất định là bắt đầu từ dân Do Thái, vưa có tính phổ quát. Từ đây, Giêrusalem trở thành điểm xuất phát để loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi cho mọi dân tộc.
+ Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: Sám hối (tiếng Hy lạp là Me-ta-noe-ô), nói chung nghĩa là đổi ý, thay đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Theo ngôn sứ Giêrêmia, sám hối là thay đổi hướng đi, quay về với Thiên Chúa của Giao Ước, dấn thân bước vào đời sống mới. Sám hối là điều kiện để được ơn tha tội hay được hương ơn cứu độ.
+ Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là rao giảng Tin Mừng, là chứng thực về tất cả những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, từ khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông phải sẳn sàng chịu chết để làm chứng những điều mình rao giảng là trung thực.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) Chính anh em là chứng nhân của những điều này:
– Câu chuyện: Một chứng nhân sống động:
Trong quyển sách “Tôi tin” của tác giả Găng Típ (Grant Teaff), có thuật lại một câu chuyện về một cựu lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới tên là Biăng Tonbéc (Brian Sternberg) đã trở nên chứng nhân sống động của Đức Giêsu như thế nào.
Vào năm 1963, Biăng (Brian) lúc đó đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Washington. Anh vừa là lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới, lại vừa đoạt chức quán quân về nhào lộn của Mỹ châu. Tác giả đã kể chuyện về nhà vô địch Biăng như sau: “Khắp trường đua, ai cũng biết Biăng là một lực sĩ trẻ đầy tài năng, nhưng phong cách của anh ta vừa có tính tự mãn lại vừa ích kỷ. Trong ngày đạt thành tích phá kỷ lục thế giới, khi tiến ra lãnh huy chương vàng, anh ta tỏ thái độ ngạo mạn khi cố ra vẻ nghiêm nghị và không thèm mỉm cười đáp lễ nhiều người đang hoan hô anh. Nhưng ngày hôm sau, báo chí đã đăng hàng tít lớn: “Nhà vô địch nhảy sào Biăng đã bị chấn thương!”. Số là hôm ấy, đang lúc một mình tập nhào lộn ba nhịp trên sàn tập, Biăng đã bị mất phương hướng để cho mình rơi ngay vào khung căng. Cổ anh bị va vào bờ khung căng làm cây gỗ khung căng bị gãy và Biăng té văng ra ngoài đệm mút, bị tê liệt hoàn toàn do chấn thương sọ não. Thân thể anh bây giờ chỉ có đôi mắt và cái miệng là còn cử động được thôi. Từ ngày đó, Biăng trở nên một phế nhân. Anh không thể tự mình làm điều gì, ngay cả những việc riêng cá nhân như ăn uống vệ sinh cũng phải nhờ người giúp đỡ. Anh cảm thấy chán nản và đau khổ. Từ đó, người ta không còn nhắc đến Biăng nữa. Năm năm sau, tác giả có cơ hội gặp Biăng trong một hội nghị gồm các huấn luyện viên và lực sĩ đã đạt huy chương vàng, tại hội trường lớn của nhà thi đấu trong tiểu bang Côlôrađô.Hôm ấy, trước khi khai mạc hội nghị, đột nhiên hội trường bị tắt điện tối thui, rồi máy đèn chiếu lên màn ảnh một đoạn phim trong đó người ta thấy lực sĩ Biăng đang chạy trên đường băng và thực hiện cú nhảy sào phá kỷ lục thế giới. Rồi trên sân khấu ánh đèn tròn lại chiếu sáng tap trung vào một người cao lớn đang từ hậu trường bước ra sân khấu. Đó là cầu thủ bóng đá nổi tiếng Uet Uynmơ (Wes Wilmer). Anh ta đang cõng theo một hình nhân gầy đét với đôi tay rũ rượi và đôi chân dài, đu đưa hai bên sườn của Uynmơ. Hình nhân này không ai khác hơn là anh chàng cựu vô địch nhảy sào Biăng, cao 1,9 mét, nhưng chỉ nặng không tới 38 kilô. Sau đó, Uynmơ đặt anh chàng hình nhân ngồi trên ghế. Rồi hình nhân Biăng bắt đầu phát biểu vơi cử tọa như sau:
“Thưa các bạn, hôm nay tôi vui mừng được mời đến đây tham dự hội nghị các huấn luyện viên và các nhà vô địch. Ôi! Tôi cầu xin Chúa để những gì xảy đến cho tôi sẽ không bao giờ xảy đến cho bất cứ người nào trong các bạn. Tôi cầu xin để các bạn không bao giờ phải nếm mùi nhục nhã hổ thẹn vì không thể tự làm lấy các việc của một người bình thường như ăn uống, vệ sinh, đi lại…Ôi! Tôi cầu xin Chúa để các bạn sẽ không bao giờ phải nếm mùi thương đau mà tôi đang phải chịu đựng từng ngày. Trừ phi, đó là điều cần thiết để giúp các bạn chấp nhận Thiên Chúa là trọng tâm cuộc đời của các bạn giống như hoàn cảnh của tôi hôm nay”.
Những lời của Biăng đã gây chấn động mạnh nơi cử tọa đang hiện diện trong hội trường. Ai nấy đều xúc động và cảm thông với một tài năng đã sớm lụi tàn. Nhưng đồng thời cũng khâm phục về một con người tuy tàn nhưng không phe. Anh đã dành những hơi sức còn lại để làm chứng cho tình yêu của mình vào Đức Kitô.
– Suy nghĩ: Phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?
+ Làm chứng cho Đức Kitô trước hết là thuật lại cho người khác biết về cuộc đời va lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này ai cũng có thể làm được!
+ Làm chứng cho Đức Giêsu là khẳng định rằng Đức Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết như Maria Mácđala và một số phụ nữ viếng mồ Người đã làm. Nhưng thực tế cho thấy lời chứng ấy đã không đem lại kết quả bao nhiêu (x. Lc 24,8-11).
+ Làm chứng cho Đức Giêsu là dùng chính cuộc sống đã được đổi mới của mình để chứng tỏ quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh đã tác động và bien đổi chúng ta nên mới cách lạ lùng. Đó là điều mà Biăng đã làm trong câu chuyện trên.
+ Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người ngỏ lời với tha nhân qua con người đã được đổi mới của chúng ta. Là làm chứng rằng Đức Giêsu vẫn đang sống và hiện diện cụ thể nơi bản thân mình, và ta phải chia sẻ sự xác tín, niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được tông đồ Phêrô và nhóm mười một tông đồ áp dụng. Nhờ được Thánh Thần biến đổi nên Phêrô đã rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của Phêrô đã có kết quả là 3 ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,1-41).
+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giêsu là sẵn sàng chịu chết vì đức tin, chứ không chịu bỏ đạo bước qua thập giá để được thả. Do đó, các vị tử đạo được gọi là các chứng nhân Đức Giêsu. Téc-tuy-li-a-nô nói: “Máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh ra các Kitô hữu”.
Vậy mỗi tín hữu chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?
2) Hãy đi rao giảng Tin Mừng:
– Câu chuyện: Bác tài xế Tắc xi làm tông đồ:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một tài xế tắc xi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón tắc xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy hàng chữ như sau: “Bạn có thể tìm thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy độ một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân công giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường như the nào…
Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế, cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:
– Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
– Ồ có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn cầm mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc các sách do bác giới thiệu?
– Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn Thượng Lộ Bình An”.
– Suy nghĩ và quyết tâm: Bạn nhận xét thế nào về phương cách tặng sách truyện tranh ảnh Kinh Thánh, truyện của các thánh và những truyện sống đức tin trong đời thường của bác tài xế tắc xi trong câu chuyện trên? Bạn sẽ chọn cách truyền giảng Tin Mừng nào đối với bạn học cùng trường hay cùng làm trong một cơ quan xí nghiệp hay nhà máy?
HIEP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Hầu như trong mọi lần hiện ra, Chúa cũng đều dùng Kinh Thánh để giúp các môn đệ hiểu biết Thánh Ý Chúa Cha, giải thích cho các ông về mầu nhiệm “vào vinh quang ngang qua đau khổ”. Đồng thời cũng chứng minh Chúa đã thực sự sống lại đúng như các ngôn sứ đã tiên báo. Xin Chúa giúp chúng con hiểu biết giá trị của Kinh Thánh, hầu trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, chúng con biết tìm ra Thánh Ý Chúa. Xin cho chúng con siêng năng hiệp sống Lời Chúa, cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, chúng con sẽ ngày một sống tử tế tốt lành hơn và làm đẹp lòng Chúa hơn.
2) Lạy Mẹ Maria. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh, ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại đòi họ phải làm chứng nhân cho Người. Xin Mẹ giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa, bằng việc sám hối và xa lánh dịp tội, làm nhiều việc lành như chia sẻ cơm áo tiền bạc cho nhưng người nghèo, thăm viếng những người đau liệt…để chúng con nên nhân chứng tình thương của Chúa Giêsu.
81. Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ
(Chú giải của Lm. FX. Vu Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chương 24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn:
– Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất song song với Mc và Mt;
– Các môn đệ Emmau (cc. 13-35);
– Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một (các ông nhận ra Chúa: cc. 36-43; Người ban sứ điệp Phục Sinh: cc. 44-49);
* Một kết luận ngắn với câu truyện Lên Trời và việc các môn đệ tạ ơn trong Đền Thờ, từ đó Tin Mừng đã khởi sự.
Toàn khối này là một đơn vị văn chương chắc chắn, do hành động, nơi chốn và thời gian.
Trong TM Lc, Đức Giêsu chỉ hiện ra tại Giêrusalem, và Nhóm Mười Một không ra khỏi Thành (c. 48). Điều này trái ngược với ba Tin Mừng kia (Mt 26,32; 28,7.16-20; Mc 16,7; Ga 21). Tác giả Lc có biết truyền thống nói về việc Đức Giêsu hiện ra tại Galilê (24,6; x. Mt 28,7; Mc 16,7), nhưng dường như ngài đã chọn cách lờ đi để duy trì cấu trúc đơn giản của hai quyển sách của ngài: quyển Tin Mừng là một chuyến đi lên Giêrusalem, còn quyển Công vụ là sự lan tỏa của sứ điệp khởi đi từ Giêrusalem (Cv 1,8).
Nhờ lược đồ này, tác phẩm Lc (TM+Cv) có một sự đối xứng rất khéo và nêu bật được tính duy nhất của biến cố Phục Sinh.
Cũng do mục tiêu ấy, tác giả đã làm cho chương 24 có tính duy nhất hoàn toàn giả tạo về thời gian: Mọi biến cố nối đuôi nhau xảy ra trong vòng một ngày (mồ trống; Emmau; Hiện ra; Lên trời). Viễn tượng của Lc mang tính thần học hơn là thời gian. Tác giả muốn trình bày trong một cảnh (“xen”) duy nhất toàn bộ mạc khải về Phục Sinh: thực tại không thể phủ nhận là thân xác của Đấng Phục Sinh; mạc khải về tư cách Đức Chúa của Người (vì thế có truyện Lên trời); sứ mạng truyền giáo. Ngày này là ngày Phục Sinh, đỉnh điểm của Tin Mừng, đích điểm của thời gian Đức Giêsu sống ở trần gian.
Ngày này cũng mở ra một giai đoạn mới, và Lc đặc biệt nhấn mạnh điểm này. Có lẽ tat cả các tác giả Tin Mừng đều biết rằng cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu là khởi điểm cho hoạt động truyền giáo (Mt 28,19-20; Mc 16,15-20; Ga 20,21.23), nhưng chỉ có Lc mới dành cả một quyển sách để viết về hoạt động này. Và khi tách quyển này với quyển Tin Mừng, tác giả cho thấy sự tách biệt giữa thời gian của Đức Giêsu và thời gian của Giáo Hội. Ngài cũng làm điều ấy bằng hai lần nhắc tới Lên trời: ở cuối quyển TM III, biến cố Lên trời biểu lộ cuộc tôn vinh Đức Giêsu bên hữu Chúa Cha và kết thúc mạc khải Đức Giêsu là Đức Chúa; ở đầu sách Công vụ, biến cố Lên trời mời gọi các tông đồ bắt tay vào sứ mạng truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (24,35-43);
2) Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (24,44-48).
3.- Vài điểm chú giải
– Bình an (36): Khi kéo theo việc mất niềm tin, sự chia ly chỉ tạo ra buồn sầu và hoang mang (cc. 17.38). Nếu cách biệt mà vẫn sống trong đức tin, thì sẽ có niềm vui (c. 52) và bình an (c. 36). Đây không chỉ đơn giản là lời chào shalôm, mà là việc ban tặng “sự bình an thiên sai” đã được các ngôn sứ loan báo và Đức Giêsu hứa ban trước khi chịu chết (x. Ga 14,27). Đây là sự bình an đạt được với giá là cái chết của Người trên thập giá; đây là việc giao hòa nhân loại với Thiên Chúa trong máu Đức Kitô (x. Rm 5,1.10; 2 Cr 5,18-19;…).
– Các ông kinh hồn bạt vía (37): Khi đọc Mc (16,9-20), ta thấy Nhóm Mười Một không tin (x. Mc 16,10.13). Còn ở trong Lc, hai môn đệ Emmau trở về chưa kịp làm chứng thì Nhóm Mười Một cùng với các bạn đã tuyên xưng đức tin rồi (24,33)! Thế nhưng khi Đức Giêsu hiện ra sau đó, các ông lại kinh hồn bạt vía và ngờ vực (cc. 36-38). Tác giả Lc đã chấp nhận tình trạng thiếu mạch lạc đó vì một ý hướng thần học: trong số các tông đồ, Phêrô rõ ràng có một vị trí riêng biệt. Ông có một vai trò phải đóng sau tấn bi kịch Thương Khó (Lc 22,31-32). Nay để cho thấy lời của Đức Kitô đã đến lúc ứng nghiệm, Lc nhắc đến việc Đức Giêsu hiện ra với Phêrô trước khi hiện ra tại nhà Tiệc Ly, và ghi một câu cho thấy lòng tin của Phêrô là nguồn mạch cho đức tin của những người khác (c. 34). Bài học là đức tin của mọi thế hệ tương lai sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ và, đặc biệt, của Phêrô.
– sao còn ngờ vực (38): Trong thời gian hoạt động, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu lòng tin, chẳng hạn khi gặp bão trên hồ (x. Mt 8,23tt). Mối nguy hiểm đã gặp cũng như quyền năng đã chứng kiến của Đức Giêsu lẽ ra phải giúp họ học được bài học: cũng như xưa kia Người đã ngủ trong thuyền, thì nay cũng thế, ở trên thập giá, Người đã chỉ “ngủ” đi vài giờ; trong mồ, Người chỉ “nghỉ” thôi (x. Lc 23,46; 8,52; Ga 11,11), nhưng Người đã “trỗi dậy” (Lc 24,6: động từ egeirô có nghĩa là “thức dậy”, “sống lại”). Không phải là Thiên Chúa đã che mắt họ, nhưng chính lòng kém tin đã khiến họ không nhận ra Đức Giêsu. Chính cái chết mà nhờ đó Đức Giêsu cứu chuộc thế gian, lại bị các mon đệ coi như một thất bại không thể cứu chữa. Và kể từ khi Đức Giêsu được an táng, các môn đệ không tin nữa! Họ từ chối tin khi các phụ nữ đến mang tin nói rằng ngôi mộ trống và các thiên thần đã hiện ra nói rằng Người đang sống (c. 23). Chỉ có Phêrô (và người môn đệ Đức Giêsu thương mến, theo Ga 20,2tt) có vẻ hơi bị lung lay, nên đã chạy đến mộ để xem hư thực thế nào. Ông nhận thấy rằng thi hài Đức Giêsu không còn ở đó nữa; chỉ còn các dây băng. Nhưng không phải vì đó mà Phêrô đã được thuyết phục (c. 12). Do đó, mộ trống không phải là một bằng chứng rõ ràng về sự phục sinh, mà chỉ là một dấu chỉ thôi.
– nhìn chân tay (39): Các dấu chỉ không phải là vô ích; chúng có có một vai trò quyết định trong việc phát sinh đức tin. Các dấu chỉ dường như còn cần thiết nữa để người ta nhận ra được Đức Giêsu sau khi Người sống lại. Nhưng tùy tình trạng nội tâm của mỗi người mà các dấu chỉ nên rõ nhiều hay ít. Đối với người phụ nữ tội lỗi đang yêu, chỉ cần Đức Giêsu gọi đúng tên bà: “Maria” (Ga 20,16). Đối với người môn đệ Đức Giêsu thương mến, chỉ cần ngôi mộ trống (Ga 20,8) hoặc mẻ cá lạ lùng (Ga 21,4-7). Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc bẻ bánh (Lc 24,30-35). Đối với các tông đồ, cần phải có những dấu chỉ rõ ràng hơn: thấy các vết thương, chạm đến thân thể Người, và cả con cá mà Người ăn trước mặt họ (24,39-43). Với “khúc cá nướng”, tác giả Lc muốn cho thấy thực tại thể lý của Đấng Phục sinh, bởi vì đây là khó khăn lớn đối với các độc giả hy-lạp (x. Cv 17,32).
– Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin (41): Tác giả Lc tìm ra một lời bào chữa cho sự cứng tin của Nhóm Mười Một.
– Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh (44): Có khi Đức Giêsu đã trách các môn đệ là đã không tin vào những lần Người hiện ra, nhưng những dịp này không loại bo tính cần thiết của các dấu chỉ, nên theo một nghĩa nào đó, các dấu chỉ có vẻ cốt yếu hơn là các cuộc hiện ra (x. chuyện Tôma: Ga 20,29).
Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không ngừng trách các môn đệ cũng như người Do Thái khi ho yêu cầu các dấu lạ. TM Lc đã nhắc đi nhắc lại: lẽ ra chứng tá của Kinh Thánh đã đủ rồi! Kể từ lâu rồi, “Luật Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh” (= Kinh Thánh) đã loan báo tất cả những gì vừa được thực hiện (x. Lc 24,27.32).
Ý tưởng Môsê đã làm chứng cho Đức Kitô thuộc về truyền thống Nhất Lãm như ta thấy trong hoạt cảnh Hiển Dung. Tuy nhiên, trong khi Mt và Mc chỉ ghi nhận rằng Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Đức Giêsu, Lc lại xác định: “Hai vị nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”, tức gợi ý rõ ràng đến mầu nhiệm Vượt Qua (Lc 9,31; so sánh với 24,14.20). Tác giả Lc cũng là người duy nhất đã ghi giữ một lời Đức Giêsu nói nhằm khẳng định rằng chứng tá của Môsê và các Ngôn sứ đã đủ thuyết phục như chứng tá của một người chết sống lại (x. Lc 16,27-31). TM IV cũng nhấn mạnh không kém đến tầm quan trọng của chứng tá của Môsê về Đức Giêsu (Ga 5,46-47). Tuy nhiên, chỉ có Lc mới trở lại với đề tài này trong bài tường thuật về Phục Sinh.
Tự hỏi Đức Giêsu đã trích những bản văn Kinh Thánh nào khi Người hiện ra, thì mất công vô ích. Tác giả Lc đã chỉ ghi lại những quy chiếu tổng quát về toàn bộ Cựu Ước theo các phần lớn được phân biệt trong các bài đọc ở hội đường (24,44): Luật Môsê (bản séder), các ngôn sứ (bản haftara) và các Thánh vịnh (bản mizmor). Dĩ nhiên, tác giả đã có thể nghĩ đến những bản văn rõ rệt. Khi ghi lại các bài giảng của các tông đồ, sách Cv đã ghi một loạt những đoạn văn quy chiếu: Tv 16,8-11 (Cv 2,24-28; 13,34-37); Tv 2,7 và Is 55,3 (Cv 13,32-34); Tv 118,22 (Cv 4,11)…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (35-43)
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra giữa các ông và chào chúc: “Bình an cho anh em!”. Sự bình an của Người là ân huệ phục sinh của Người. Người không ban cho các môn đệ bất cứ đảm bảo nào là các ông sẽ sống yên ổn suốt đời, các ông sẽ có một cuộc sống luôn luôn huy hoàng, không phải thiếu thốn, đau khổ hay lo lắng gì. Chính Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh, đã không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù nghịch, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng Đấng Chịu đóng đinh đây cũng chính là Đấng Phục Sinh. Đã có lúc Người bị điệu đi đến cái chết, run rẩy khiếp sợ, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng Vẫn Sống, Đấng đã vượt thắng cái chết và nay không thể chết nữa. Như thế, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy rằng họ không sợ rơi vào nguy cơ là bị hủy diệt hoàn toàn. Ngay cái chết cũng khong thể làm hại chúng ta vĩnh viễn, phương chi các thiếu thốn khác làm gì có thể gây hại bao nhiêu cho đời sống chúng ta! Ân huệ phục sinh của Đức Giêsu không phải là sự bình an của một cuọc sống không bị xáo trộn, nhưng là sự bình an được sống trong tình trạng yên hàn, bảo đảm và che chở phát xuất từ quyền lực và tình yêu của Thiên Chúa. Nền tảng và bảo đảm cho lời chào và ân huệ ấy là chính Đấng Phục Sinh trong sự sống mới của Ngươi, một sự sống đã thắng được cái chết.
* Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (44-48)
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, va Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x. Cv 1,21t).
+ Kết luận
Đức Giêsu đã thuyết phục các môn đệ tin vào thực tại của đời sống mới của Người. Người đưa các ông đến chỗ hiểu Kinh Thánh và hành trình Người theo lâu nay. Người chỉ cho các ông thấy nội dung của việc loan báo và nhiệm vụ truyền giáo. Người củng cố các ông trong tư cách chứng nhân, bằng cách hứa là các ông sẽ nhận được quyền năng từ trên cao (Lc 24,49). Tất cả những điểm này đang đưa chúng ta đến chỗ kết của TM III, và chuyển chúng ta sang phần thứ hai của tác phẩm Luca, đó là sách Cv. Thánh Thần sẽ được Chúa Cha ban xuống trên Họi Thánh phôi thai (Cv 2,1) để làm cho các thành viên trở thành những chứng nhân minh mẫn và can đảm, quảng đại và kiên trì dấn thân làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
82. Chú giải của Noel Quesson.
Hôm nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”.
Theo Tin Mừng của ông, năm biến cố đã xảy ra trong ngày Phục sinh:
– Các phụ nữ đến viếng mộ vào buoi sáng và việc báo tin Chúa Phục sinh (24, 1-10).
– Phêrô cũng đến thăm mộ và thái độ bối rối của ông (24, 11-12).
– Chúa hiện ra với hai môn đệ làng Emmau (24, 13-35).
– Chúa hiện ra với mười một môn đệ, cùng buổi chiều hôm đó (24, 36-49).
– Đức Giêsu thăng thiên và việc Người được tôn dương trên trời (24, 50-53).
Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và chuyện mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói thì Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông.
Từ ba ngày qua, biết bao là biến cố bi thảm đã xảy ra cho con người đáng thương này? Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu vào tối thứ năm, cuộc vây bắt tại vườn Ghétsemani, mọi người đều bỏ trốn, Phêrô chối Chúa, việc xét xử bêu nhục Chúa như kẻ phản đạo và phạm thượng, cái chết của Chúa trên thập giá ngoài cửa thành, việc treo cổ tự sát của Giuđa, một bạn hữu của họ. Nhóm Mươi Hai trở thành nhóm Mười Một, do một người trong họ bỏ cuộc và đã chết!
Chính trong bối cảnh này mà cuộc “Phục sinh” xảy đến một cách bất ngờ và làm cho mọi người bàng hoàng sửng sốt.
Người nói với các ông: “Chúc anh em được bình an”
Đó là lời chào hỏi thông thường của Người Do Thái: “Shalom!” có nghĩa là “Bình an”.
Nhưng ta có thể nghĩ rằng, chiều hôm đó, lời chào chúc cổ truyền đó hẳn phải mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt: chính vào lúc vô cùng tuyệt vọng thì Chúa hiện đến trấn an các ông: “Anh em đừng sợ”, “Hãy an tâm”. Theo Thánh Gioan, trước khi bước vào cõi chết, hôm thứ năm vừa qua, Đức Giêsu đã hứa các tông đồ sẽ được bình an sau một ‘thời gian khủng hoảng đớn đau’: “Thầy để lại sự bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy” (Ga 14,27). “Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô đơn”. “Thầy nói với anh em những điều ấy để nhơ kết hợp với Thầy, anh em được bình an” “Anh em can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi” (Ga 16,32-33). Hôm nay vào chiều tối Phục sinh, lời hứa đã được thực hiện.
Các ông sợ hết hồn hết vía, tưởng là thấy ma.
Rõ ràng, như các trình thuật khác đều đã nói cho ta. Nhóm “Mười Một” bắt đầu run sợ và nghi ngờ. Một lát nữa, Luca sẽ nhấn mạnh giúp ta lưu ý tới sự kiện Đức Giêsu phải “mở trí lòng” họ: họ còn không hiểu gì cả. Chỉ ngắm nhìn thì chưa đủ còn phải “mở trí lòng” tới mầu nhiệm.
Nhưng Người nói: “Việc gì mà hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy đây?”
Trong trình thuật tương song của Gioan, Đức Giêsu đã cho các tông đồ xem “tay và cạnh sườn” Người (Ga 20,20). Còn ở đây Luca lại ghi, Người cho họ xem “chân tay” Người? Ta biết rằng, đối với Thánh Gioan “cạnh sườn” rộng mở tượng trưng cho nguon nước vọt ra từ đền thờ mới, theo lời tiên báo của ngôn sứ Êdêkien.
Những điểm cốt yếu của trình thuật vẫn là chung, đó nhằm minh chứng rằng chính Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại. Đối với những người Sêmít, này, là những người không có ý niệm phân biệt linh hồn và thể xác theo triết thuyết của Platon và Descartes, thì nếu Đức Giêsu đang sống động, chỉ có thể hiểu Người sống động với toàn diện con người mình. Đức Giêsu muốn quả quyết, Người không phải là một bóng ma như thế, Người phải có một thân xác, sự sống lại không thể giản lược vào nguyên một tình trạng “linh hồn bất tử”. Do đó, mọi chi tiết trên đây đều diễn tả cách cụ thể: “Cứ rờ vào Thầy. Hãy xem chân tay Thầy. Hãy cho Thầy ăn”.
Tuy nhiên, chúng ta không nên ảo tưởng. Cần phải vượt qua vẻ vật chất của ngôn từ diễn tả, để hiểu ý nghĩa sâu xa của công cuộc Phục sinh. Nhằm đề cao chân lý đó, chính Thánh Phaolô sau này sẽ xác quyết: “Chúa là thần khí”(2Cr 3,17-18). Ngài cũng nói về thân xác Phục sinh như một “thân-thể-thuộc-linh” (1Cr 15,44).
Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Ngươi hỏi: “Ở đây anh em có ăn gì không” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Việc ám chỉ tới một bữa ăn như trên, gợi lại cử chỉ của Chúa tại làng Emmau, sau này Phêrô cũng tuyên bố: chính chúng tôi đã được cùng ăn, “cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10,41). Trong trình thuật của Luca trên đây, không có gì ám chỉ cách công khai tới Thánh Thể nhưng bầu không khí vẫn la khung cảnh của những “bữa tiệc thánh”, mà ở đó các môn đệ sẽ nhận ra một sự hiện diện mới của Đấng Phục sinh.
Rồi Người bảo: “Anh em hãy nhớ lại những lời Thầy đã nói, khi Thầy còn ở với anh em”
Công cuộc Phục sinh không thể dược hiểu như một thứ hiện tượng cách biệt, một thứ hành động ma thuật. Đức Giêsu cố gắng giúp cho người ta “hiểu” và dồn “tâm trí” vào sự kiện đó. Và bước đường đầu tiên mà Người gợi lên cho các tông đồ đi tới hiểu biết, đó là vận dụng “ký ức” Người đã báo trước cái chết và sự phục sinh của Người. Người mong muốn chúng ta khám phá ra sự liên tục giữa Đức Giêsu trước Phục sinh ‘và’ Đức Giêsu sau Phục sinh, Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu vượt qua lịch sử, Đức Giêsu cụ thể và Đức Giêsu của lòng tin.
Về vấn đề này, chúng ta nên ghi nhận kiểu nói kỳ lạ của Đức Giêsu: khi Thầy còn ở với anh em ‘thuộc về quá khứ’ Nhưng, lạy Chúa Giêsu, lúc này Chúa đang hiện diện với chúng con mà! Các môn đệ đã có thể đáp lại với Chúa như thế. Đúng vậy, nhưng Người đâu có hiện diện cũng một cách thức như trước nữa: Vẫn chính là Người, nhưng không phải y như trước. Đay luôn là mầu nhiệm đức tin.
Tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh.
Các Sách Thánh loại nào? Đó là toàn bộ Cựu ước: Luật, Ngôn sứ và Thánh Vịnh. Đúng ra, Đức Giêsu là một người rất quen thuộc với Kinh thánh. Người đã đọc đi đọc lại cho riêng mình một số đoạn để ứng dụng vào số phận đời Người. “Kinh thánh đã nói về đời tôi!”. Các bạn hãy đọc lại và sẽ thấy. Và chúng ta hình dung ra như Đức Giêsu, đang dạy một lớp giáo lý Kinh thánh, chú giải Kinh thánh. Công cuộc Canh tân Phụng vụ theo ý Công đồng Vatican II lại tạo điều kien cho chúng ta đọc nhiều đoạn Kinh thánh hơn: mỗi Chúa nhật sẽ đọc ba bài đọc thay hai như cũ và được phân bổ trong ba năm để cung cấp cho ta một toàn bộ các văn bản đầy đủ hơn. Ta cũng có thể nhận thấy, công việc đó đa đi đúng hướng biết bao, như ý Đức Giêsu mong muốn. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Kitô hữu, biết đói khát Kinh thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ “trễ muộn”, bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh lễ, thời gian mà “Chúa mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh”.
Người bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ bỏ cõi chết chỗi dậy”.
Ôi! nếu như chúng ta có mặt ở đó thì thích biết bao, lúc mà Đức Giêsu bình luận lời ngôn sứ Isaia, sách Khôn ngoan và các Thánh Vịnh! Nhờ sách Công vụ Tông đồ, ta biết được những bản văn đặc biệt mà trong đó, Đức Giêsu “tự nhận ra mình” và nhơ đó Người mới quả quyết người ta đã nói về mình là những bản văn nào. Đó là những bản văn được trích dẫn Đệ Nhị Luật 18, 16-19 và 21,23; Hôsê 6,1, Isaia 52,13, Thánh Vịnh 2,22. Cựu ước hướng về Đức Giêsu. Mọi chương trình của Thiên Chúa, mọi công cuộc chuẩn bị đều nhằm đến “việc hoàn tất” này: đó là sự hy sinh vinh quang của Đức Giêsu vì tình yêu cứu độ. Những bài thơ về Người Tôi Tớ và nhiều Thánh vịnh đặc biệt đã minh chứng rằng, “đau khổ của người công chính, không phải là uổng công vô ích, nhưng luôn đạt tới một sự phong phú phi thường”. Thực vậy người ta phải vượt qua giai đoạn đau khổ mới tới giây phút tạ ơn và thời gian loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa cho mọi dân tộc, “sứ vụ” truyền giáo cho khắp hoàn vũ như đã hiện diện trong các bản văn đó (Is 49,50).
Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Vâng, mối quan tâm truyền giáo đã tràn ngập tâm hồn Đức Giêsu. Người nhìn thấy trước hàng tỉ người nam nữ sẽ theo Người, sẽ yêu mến Người. Người nhìn thấy hàng tỉ tội nhân sẽ được tắm trong “nước tha thứ tội lỗi”, sẽ được ghìm ngập trong tình yêu xót thương của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy trong Thánh Thần, Đấng tha thứ và “ban sự sống”. Thiên Chúa là tình yêu! ở đây chúng ta gặp lại điều mà Thánh Gioan đã nói trong Chúa nhật vừa qua: “Đức Giêsu thổi hơi để tha thứ tội lỗi!”.
Và chúng ta đón nhận sứ điệp “Phục sinh” đó. Chúng ta có thể nói, Phục sinh làm gì? Để loan báo sự thay đổi, cuộc hoán cải, một “métanoia”: Hãy đổi đời. Hãy phục sinh. Hãy sống động và cứ tiếp tục như thế. Phục sinh là một động lực sống! Nó luôn vận hành.
Phải rao giảng cho muôn dân, bắt đâu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối. Chính anh em làm chứng ve những điều này.
“Sứ vụ của Giáo Hội” khởi sự từ công cuộc Phục sinh. Trong sức sống sinh động Phục sinh, cùng với “Đức Giêsu hằng sống” giữa các nhân chứng của Người, từ một điểm trung tâm của hành tinh chúng ta: đó là Giêrusalem! Thực vậy, đó là nơi có một không hai, mà người ta đã đào lỗ dưới đất để dựng cây thập giá lên, và từ đó đã trở nên trục của thế giới. Thành phố duy nhất này, nơi mà nhờ đó hành tinh đáng thương của chúng ta, thay vì là nghĩa địa mênh mông chứa chôn kẻ chết, đã trở thành nơi có “ngôi mộ trống”, nơi của sự sống hiển thắng.
Lạy Chúa, xin ban cho con “sức mạnh” từ trời ban xuống đó (Lc 24,49) để con trở nên nhân chứng cho Chúa: Veni Creator Spiritus. Lạy Thần khí Tác sinh, xin hãy ngự đến.
83. Chú giải của Fiches Dominicales.
CHÚA GIÊSU HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Cũng như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ III này tường thuật Đấng Phục sinh hiện ra.
Câu chuyện bắt đầu từ sau chuyến hai môn đệ Emmau trở về Họ vừa kể cho 11 tông đồ và cho các môn đệ những gì đã xảy ra trên đường và họ đã nhặn ra Người thế nào khi Người bẻ bánh thì Đức Giêsu lại một lần nữa hiện đến với các môn đệ.
Ở đây ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức Giêsu có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình ra; 3- Người uỷ thác cho họ một sứ mệnh.
Tin Mừng kể: “Khi ông còn đang nói thì Người đã đến giữa họ”. Người ban cho họ ơn bình an, một ơn của triều đại Cứu Thế. “Bình an cho các con”.
Cuộc hiện ra bất ngờ và lời chào của Người khiến họ “kinh ngạc và sợ hãi, vì họ tưởng là thây ma hiện hình”. Họ đã phải sống giây phút khó khăn của cuộc quá độ từ bất tín đến chân nhận.
Thoạt tiên Đức Giêsu mở lời. Kèm theo lại là một cử chỉ. Rồi Người ăn trước mặt họ. Sau đó Người khai lòng mở trí để họ am hiểu Thánh Kinh.
Trước hết, Người cho họ xem “tay”, “chân” và nói: “Tại sao các con sợ hãi? Hãy chạm vào Thầy: ma đâu có xương thịt như Thầy”.
Họ hoàn toàn không phải là nạn nhân của một ảo tưởng tập thể. Cũng vẫn là người ấy, Đấng chịu đóng đinh, nhưng đến gặp họ trong một điều kiện khác, điều kiện của Đấng Phục sinh “chính là Thầy đây!”.
Roland Meynet chú giải: “Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một cái chết hiện hình, cũng không phải là hồn ma bóng quế. Đó chính là Đức Giêsu, Người đã từng ăn uống với họ, tay Ngài đa từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình. Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh. Họ có thể thấy Người, đụng chạm đến Người cơ mà, đúng là Người.
Nhưng cơ thể Đức Giêsu không còn là cơ thể trước ngày vào cuộc khổ nạn. Người có cho họ xem tay, chân cũng chỉ vì tay chân còn hằn dấu đinh. Dấu hiệu ấy cốt để họ xác minh mà vững lòng tin tưởng; Phục sinh không xoá hết dấu vết khổ nạn. Đức Kitô mãi mãi vẫn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh (‘Tin Mừng thánh Luca’, Phân tích từ ngữ, chú giải, Cerf, trang 238).
– Vì các môn đệ “trong niềm vui tột đỉnh, vẫn chưa dám tin, vẫn còn sững người kinh ngạc”, Đức Giêsu bèn hỏi xin họ “cho ăn”. Người ăn “một miếng cá nướng”. Người không ăn với họ, nhưng trước mặt họ. Theo phong tục Đông phương, người khách được trọng vọng sẽ ăn một mình trước mặt những kẻ cung nghinh hầu cận.
Khi đưa ra chi tiết Đức Giêsu ăn trước mặt môn đệ, tác giả Tin Mừng muốn minh họa thực tại của biến cố phục sinh. Tuy nhiên, sáng kiến này của Đức Giêsu dường như không “ép phê” bằng lần trước: các môn đệ chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Sau cùng, Đức Gtêsu giúp các môn đệ đang hội hop ở đó đọc lại cuộc Khổ Nạn-Phục Sinh của Người dưới ánh sáng Thánh Kinh, như Người đã làm với hai môn đệ trên đường đi Emmau: “Cần phải ứng nghiệm tất cả những gì đã chép về Thầy trong sách Lề Luật của Môsê; các sach Ngôn Sứ và Thánh vịnh. Và Người soi lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh”.
R.Meynet bình giải: “Kinh Thánh, trọn bộ Kinh Thánh, đều nói về Đức Giêsu. Kinh Thánh loan báo những việc Người sẽ làm và những việc các môn đệ sẽ làm nhân danh Người. Đức Giêsu chẳng nói gì ngoài những điều Kinh Thánh đã nói, nhưng Người không chỉ lặp lại và chú giải Kinh Thánh như các luật sĩ thường làm. Người hành xử Kinh Thánh, người thực hiện Kinh Thánh, Ngươi hoàn tất Kinh Thánh. Chính vì Người hoàn tất Kinh Thánh mà Người có thể giải thích Kinh Thánh cho người ta hiểu. Rồi đến phiên các môn đệ, họ sẽ phải công bố rằng Đức Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh Thánh. Các môn đệ công bố điều này khi chính bản thân các ông hoàn tất lời Kinh Thánh và khi các ông làm cho Kinh Thánh được hoàn tất nơi những người mà các ông được sai đến, cho đến tận cùng trái đất” (Sđd, trang 238).
Một lần nữa, cuộc gỡ không kết thúc ở thái độ chân nhận, nhưng vươn tới một sứ mệnh.
Sứ mệnh mà Đức Giêsu ký thác cho các môn đệ, trước khi chuẩn bị họ (câu 51), sứ mệnh mà nhờ đó họ được ban một “sức mạnh từ trên cao” (câu 49), tóm kết trong câu nói sẽ trở thành cốt lõi cho lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai (xem bài giảng của Phêrô trong Công Vụ các tông đồ: đặc biệt bài đọc I ngày lễ Phục sinh và Chúa nhat III (Phục sinh):
Đúng như lời Kinh Thánh đã loan báo về:
+ Những đau khổ của Đức Mêsia, việc Người phục sinh từ trong cõi chết vào ngày thứ 3.
+ Công bố sự hoán cải nhân danh Người để được tha thứ tội lỗi cho mọi dân toc, khởi đi từ Giêrusalem.
+ Chính các con là chứng nhân cho những điều đó”.
Như thế việc Đức Giêsu phục sinh đã kết thúc bằng mặc khải mầu nhiệm của Người: Người là Đức Kitô được các ngôn sứ loan báo, được tôn vinh trên cái chết, từ nay hiện diện trong Giáo Hội, nơi Người hứa ban ơn tha tội cho mọi người. Lời rao giảng ơn hoán cải và sự tha thứ tội khiên đã được Gioan Tẩy Giả bắt đầu cho nhà Israel, từ nay lan toả đến “mọi dân tộc”. Sư mệnh phổ quát ấy, sự hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa ấy, nay được ký thác cho cộng đoàn các môn đệ.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Những kinh nghiệm đầu tiên giúp các Kitô hữu hiểu những kinh nghiệm họ phải sống hôm nay”.
(L.Monloubou, trong “Tin Mừng theo thánh Luca, Salvator, trang 286-287).
Câu đầu tiên (35) nhắc ra nhớ chính vào lúc “bẻ bánh” mà các lữ khách làng Emmau ‘nhận ra Đức Giêsu’, chắc hẳn trong tâm tưởng thánh Luca muốn qui chiếu viec bẻ bánh về bí tích Thánh Thể, nơi các Kitô hữu “nhận ra” Đức Giêsu phục sinh và hằng sống. Xa hơn nữa, bản văn nói về việc “khai mở lòng trí” mà Đức Giêsu thông truyền cho các môn đệ. Người cũng trình bày cho họ một lối “hiểu Kinh Thánh” mới.
Ta thấy rất rõ cuộc khám phá mà cộng đoàn thực hiện tỷ lệ thuận với việc đào sâu niềm tin phục sinh: cộng đoàn đạt tới một mức độ thấu hiểu sự vật, khiến sự vật hiện ra trong một chuỗi những liên kết rất mạch lạc, hiển nhiên; thoạt tiên Kinh Thánh hiện ra dưới một nhãn quan khác: Lề Luật của Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh xem ra chứa đựng một ý nghĩa mà từ trước đến giờ chưa được hiểu cho thấu đáo. Ý nghĩa ấy nối kết Kinh Thánh thành một chuỗi mạch lạc khiến đức tin tìm được điểm tựa. Sau cùng bản văn kết thúc bằng cách đề ra một kinh nghiệm truyền giáo: nhân danh Đức Giêsu phục sinh, hằng sống, phải rao giảng cho ‘mọi dân tộc’, ‘bắt đầu từ Giêrusalem’, sự ăn năn thống hối để được thứ tha tội lỗi”. Ba điểm: kinh nghiệm Thánh Thể, giải thích Kinh Thánh mang mầu sắc Kitô học và sự rao giảng phổ quát, được trình bày ở đây như những nối tiếp khẩn thiết của cảm nghiệm phục sinh. Đối với các bạn đồng hành của Luca, đó là những thực tại đã được ghi nhận cách sâu sắc, đã được sống và đã cảm nghiệm.
Sự kiện này quan trọng; nó cho biết nơi chốn các Kitô hữu nói về cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Không phải trong một khoá học về lịch sử Đức Giêsu, dù lịch sử là nền tảng của suy tư; nhưng là trong lúc suy niệm về đời sống hiện tại của Giáo Hội. Giáo Hội ấy quây quần đọc Kinh Thánh: Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh, để tưởng nhớ những lời nói của Đức Giêsu: đó là những lời mà Thầy đã nói với anh em để cử hành việc bẻ bánh; và để đảm nhận những nhiệm vụ truyền giáo, Giáo Hội ấy đã ý thức về việc sống một kinh nghiệm: Đức Giêsu đích thân đứng giữa họ, Người đang sống. Cộng đoàn ấy vẫn còn có nghi ngờ, nhưng đức tin của cộng đoàn là sâu sắc.
Cảm nghiệm đó là gì mà đem đến cho mọi người niềm vui khôn tả như thế? Đó là cảm nghiệm về Đấng Phục sinh mà các môn đệ là những người đầu tiên đã cảm. Bản thân các ngài đã tham dự vào lời bữa ăn của Đức Giêsu, đã thiết lập được mối liên hệ giữa Kinh Thánh với những gì đã xảy ra tại Giêrusalem, những gì đã xảy đến với Đức Giêsu, người Nagiarét, và các ngài đã khám phá ra tầm mức phổ quát của sự Phục Sinh mà các ngài phải loan báo cho thế giới. Chính các ngài, đoàn Mười Một đã trải qua những kinh nghiệm đầu tiên, nhờ đó các Kitô hữu thấu hiểu kinh nghiệm mà họ phải sống hôm nay”.
2) Người khai mở lòng trí cho họ am hiểu Kinh Thánh
(H.Vulliez, trong “Thiên Chúa đã gần đến”. Năm B, DDB trang 57-58).
Bạn có chú ý không? Trong cả 3 trình thuật của thánh Luca về việc Đức Kitô Phục sinh hiện ra, thì hai bài, bài các môn đệ Emmau và bài hôm nay đều kết thúc bằng việc đọc Kinh Thánh mà Đức Giêsu chú giải. Dường như, trong cả hai trường hợp, cuộc hiện hình không đủ đưa đến đức tin. Dường như tác giả muốn tránh nguy cơ chỉ dừng lại và chỉ gắn bó vào những gì lạ thường.
Dường như chỉ có thể tin vào Đức Giêsu vẫn đang sống sau khi chết nhờ đặt Người ra ngoài vòng lịch sử nhân loại. Ta có tin rằng sự hiểu biết Kinh Thánh cách nghiêm túc là rất cần thiết để tin, không phải vào một Đức Giêsu ta tưởng tượng ra, nhưng vào Đấng mà Tin Mừng mặc khải cho ta, Đấng mà Chúa Cha đã sai đến với con người để trở thành Người-Chúa với họ vĩnh viễn không?”.
84. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHÚA GIÊSU HIỆN RA CHO CÁC SỨ ĐỒ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Họ còn đang nói: phần cuối nay của Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu làm thế nào để giúp nhóm Mười Một hiểu được hoàn toàn sứ điệp Phục sinh: Nơi cc. 36-43, Chúa Giêsu chiến thắng sự cứng lòng tin của nhóm Mười Một bằng cách ban cho họ nhiều dấu chỉ ve thực tại của việc Người Phục Sinh (x. Cv 1,3); nơi cc. 44-49, người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (x. cc. 25-27) và xác định bổn phận của họ là làm chứng nhân về việc sống lại của Người; nơi cc. 50-53, Luca kết thúc cuốn sách của ông bằng cách trình bày việc Chúa Giêsu tỏ uy quyền Chúa và được các môn đồ nhìn nhận.
Bình an cho các ngươi: Những chữ này được rất nhiều thủ bản sao xác nhận là có, tuy nhiên lại thiếu nơi một vài chính bản giá trị. Nhiều nhà phê bình cho rằng chúng được mượn từ Ga 20, 19.
Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được: Luca tìm được một lời bào chữa cho sự cứng lòng tin của Nhóm mười một. “Họ dâng cho Người một miếng cá nướng”: ở đay cũng như trong Cv 10,40, Đấng Phục sinh ăn uống. Viết như vậy, Luca muốn cho thấy thực tại thể lý của sự Phục sinh, nhưng điều này lại gây khó khăn cho độc giả Hy lạp của ông (x Cv 17,32; 1Cr 15,12).
Môisen, các Ngôn sứ cung Thánh vịnh: Việc gọi tên Thánh Kinh như thế này thật là độc đáo vì dành một chỗ cho các Thánh Vịnh (so sánh 24,27). Truyền thống Tin mừng đã nhiều lần sử dụng các Thánh Vịnh như những lời loan báo về cuộc Khổ nạn, và trong Công Vụ, Luca sẽ thường xuyên trích dẫn Thánh Vịnh như những lời tiên tri về Mầu nhiệm Chúa Kitô.
Rồi Người nói với họ (c.46): Các câu 46-48 trình bày hết mọi chủ đề của lời rao giảng sứ đồ như thấy xuất hiện trong sách Cv: việc sử dụng Thánh Kinh (Cv 2,23-32; 4,10-11; 13,28.29.33.37; 26,22-23), rao giảng sự hối cải và ơn tha thứ (2, 38; 3,19; 5,31; 10,43; 15,38-39; 26,18); vai trò chứng nhân được trao cho nhóm Mười hai (1,8; 2,32; 3,15; 5,32; 10,41; 13,31).
KẾT LUẬN
Niềm tin vào Chúa Giêsu chính là công trình của Đấng Sống lại; việc hiểu Thánh Kinh cũng thế. Thánh Kinh Cựu ước chỉ dẫn đến chỗ nhận ra Chúa Giêsu, nhận ra Cứu Chúa của Israel và của thế giới, nếu được hiểu trong ánh sáng Phục sinh. Sau cuộc Phục sinh, không biết Thánh Kinh là có lỗi (Cv 3,17-26). Đối với người Do thái cứng tin, Kinh Thánh sẽ là một lời buộc tội; đối với Giáo hội, kẻ giải thích Thánh Kinh trong đức tin vao sự Phục sinh, thì Thánh Kinh là ơn cứu thoát.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Kitô chết trên thập giá đã sống lại thật, trong xương thịt đàng hoàng. Các sứ đồ đã tưởng là ma (điều này, một cách nào đó có lợi cho chúng ta): thành thử họ phải biết rõ thực hư về việc hiện ra này. Việc họ lúc đầu không tin là một bảo đảm cho sự vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin này không dựa trên chứng từ của những kẻ dễ tin, dễ bị ảnh hưởng bởi ngoại tại, nhưng dựa trên đức tin của những con người thực tế, tầm thường biết đòi hỏi các dấu chỉ và bằng chứng. Do đó, chứng từ của họ càng trở nên mạnh mẽ hơn, vì đây không phải là chứng từ của mê tín, mà của lòng cứng tin biết phê bình nhưng đã được thắng vượt.
2) Nhiều người thời nay phải chăng không giản lược Chúa Kitô phục sinh vào một loại ma quái, một vật nào đó hơn là một cứu người, một huyền thoại hơn là một Ngôi vị đang sống? Theo họ, cùng lắm thì Chúa Kitô là một kiểu mẫu cho cả cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một học thuyết nữa những tấm gương đáng khen, nhưng Người không còn sống nữa, không “ngồi bên hữu Chúa Cha” trên trời, cung chẳng hiện diện trong bánh rượu thánh hiến.
3) Chung chung, ở đây không phải là vấn đề cảm giác hay kinh nghiệm chủ quan cá nhân, nhưng là vấn đề đức tin, tin hết mọi điều Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta, trên điểm nay cũng như trên các điểm khác, qua Thánh Kinh và truyền thống sứ đồ, tin điều Giáo hội đã, đang và sẽ dạy khắp nơi, trong niềm tin vào Đấng sống lại. Cũng không có vấn đề những gì các nhà thông thái suy tưởng và phát minh ra, vì đây không phải là những suy luận thuần túy tự nhiên, nhưng là một nhận thức, là một sự chắc chắn thuộc một trật tự cao siêu, quý giá hơn mọi cái trên đời hiện hữu. Tin vào Đấng Phục sinh, chinh là đón nhận chứng từ của một nhóm sứ đồ và môn đồ của Chúa Giêsu, những kẻ đã lấy máu mình quả quyết trước thế gian và cho rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá rồi Phục Sinh trong một thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của thời gian và không gian.
4) Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều khổ đau tinh thần nữa: như xét bên ngoài, nhiều Kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căng hơn, dâm ô hơn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng mọi Kitô hữu đều biết rằng Chúa Kitô phục sinh muốn họ hối cải: Người muốn tha thứ tất cả và làm cho họ trở nên những sứ đồ của người theo chân các sứ đồ tiên khởi: “Chính các con là những chứng nhân về những điều đó”. Đức tin bắt buộc chúng ta dấn thân cho Chúa Giêsu Kitô như chứng nhân của Người trước mặt thế gian.