Lời Chúa: Is 52, 13-53,12; Dt 4, 14-16;5,7-9; Ga 18, 1-19,42
1. Thế Là Đã Hoàn Tất – Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.
Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài: “Các anh tìm ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9).
Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn,
vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11).
Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn,
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6).
Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xêda” mà ông đang nắm giữ (19, 12).
Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37),
một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên.
“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14)
và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do thái” (19, 19).
Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13),
tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16).
Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
2. Người Phải Mang Thương Tích, Để Chúng Ta Được Chữa Lành – Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Khi nghe lời hát: “Thập giá Đức Kitô – niềm vinh dự của chúng ta” không ít người thắc mắc rằng: Tại sao thập giá, vốn được coi là một hình khổ, lại trở nên “niềm vinh dự” của người tín hữu Kitô? Rồi chính những người có đạo cũng thường thắc mắc rằng: Tại sao Chúa Giêsu – Con Thiên Chúa đầy quyền năng mà lại phải chịu chết một cách tức tưởi như một phạm nhân như vậy? Thiên Chúa có muôn ngàn cách thế để cứu độ con người cơ mà!
Để tìm được câu trả lời, trước tiên, chúng ta hãy cùng đọc lại Bài ca thứ tư của ngôn sứ Isaia về người Tôi Tớ Giavê.
Chúng ta biết rằng, người tôi tớ Giavê là một người được Thiên Chúa sủng ái: “Người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” (Is 52,13). Mặc dù vậy, cuộc đời của ông lại không được như người ta mong đợi: “Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53,2-3). Còn đau khổ nào hơn, khi bị người ta khinh khi, ruồng rẫy. Có kẻ còn ác ý cho rằng: ông bị như vậy là đáng đời, vì theo quan niệm của họ, không ai vô tội mà lại bị Thiên Chúa giáng họa như thế !
Thế nhưng ngôn sứ Isaia cho chúng ta biết rằng: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53, 4-5).
***
Hình ảnh người tôi trung của Giavê hôm nay lại tái hiện lại nơi con người và cuộc đời của Đức Giêsu Kitô.
Mặc dù là Đấng vô tội, nhưng Người cũng phải chịu muôn cực hình cả tinh thần lẫn thể xác. Bên ngoài, người bị người ta đánh đập không nương tay, không biết bao nhiêu roi đòn phải hứng chịu. Về mặt tinh thần, Người bị người ta phỉ nhổ, nhục mạ, mắng nhiếc… Người cũng bị phản bội, vu khống… có những người còn thách thức rằng: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi, để chúng tôi thấy mà tin nào?
Chúng ta đừng nghĩ rằng, Đức Giêsu làm tất cả những điều đó một cách dễ dàng. Trong thân phận con người, Người cũng phải lao đao vất vả mà lần mò từng bước để tìm biết thánh ý Thiên Chúa. Tác giả thứ Dothái diễn tả rằng: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết… Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,7-8).
Vậy đâu là động lực để Đức Giêsu có thể can đảm đón nhận Thập giá một cách can trường như vậy? Câu trả lời là: Chỉ vì Tình yêu.
Chính vì tình yêu, Đức Giêsu đã biến cây thập giá, vốn vẫn được coi là một nhục hình mà con người dựng nên đã hành hạ nhau, trở nên phương tiện để cứu độ con người. Con Thiên Chúa đã đón nhận thập giá để chung chia khổ đau với nhân loại, để chuộc lại lỗi lầm của con người, để nên phương dược chữa lành cho chúng ta. Và hơn hết, Đức Giêsu đã dùng thập giá để nối lại con đường giữa trời và đất. Phương thế ấy đã mở ra cho con người một ý nghĩa, một niềm hy vọng cho cuộc sống đời này.
Với cái chết của Đức Giêsu, kể từ đây, cây thánh giá không còn là một nhục hình nữa, nhưng là một biểu tượng của tình yêu.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã khẳng định rằng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta !” (Gl 6,14).
Cũng chính vì niềm tin sắt son này, mà các thánh Tử Đạo Việt Nam – cha ông chúng ta, trong đó có thánh tổ Giuse Nguyễn Duy Khang, đã không ngần ngại hy sinh mạng sống của mình chứ nhất quyết không chịu bước qua thập giá.
***
Khi tôn vinh thập giá Đức Kitô, Giáo Hội không hề có ý tôn vinh sự đau khổ, hay những nhục hình, nhưng là tôn vinh Đấng đã chịu treo trên cây Thánh Giá. Đó là một minh chứng hùng hồn cho lời Người rao giảng cho các môn đệ: “Không có tình yêu nào lớn hơn, tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta ít ai muốn đề cập đến thập giá. Vì nói đến thập giá, là nói đến đau khổ, nhưng đó lại là điều cần thiết cho cuộc sống này. Bởi vì: “Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì sẽ sinh được nhiều bông hạt” (Ga 12,24).
Sẽ không có một vụ mùa bội thu, nếu không có những vất vả chăm bón của người nông dân. Sẽ không có việc đỗ đạt, nếu người học trò không miệt mài đèn sách. Sẽ không có một tình bạn trong sáng, nếu hai bên không biết bỏ qua những sai sót của nhau. Sẽ không có gia đình hạnh phúc, nếu như mỗi thành viên trong gia đình không biết sống cho nhau và vì nhau…
***
Thập Giá Đức Kitô mãi vẫn là một lời mời gọi đầy yêu thương cho tất cả chúng ta. Thập giá cũng nhắc nhở chúng ta ý thức hơn khi gặp phải những thử thách trên đường đời. Để chúng ta biết khiêm tốn đón nhận thập giá như phương tiện nên ơn cứu độ cho chúng ta. Nhờ đó, chúng ta cũng biết cảm thông hơn với nỗi đau khổ của anh chị em đồng loại.
Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài. Xin cho con cùng chết với Ngài. Để được sống với Ngài vinh quang. Amen.
3. Tình Yêu Và Thập Giá – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn ngắm Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình bị treo trên thập giá, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, khi Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu khi ngài chết trên Thánh Giá, và Giáo hội mời gọi chúng ta tưởng nhớ tình yêu dâng trào ấy.
Chúa Đã Chết Vì Yêu
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : « Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta » (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thờ Lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Người đã chiến thắng ma quỉ bằng phương cách do chính ma quỉ dùng để chiến thắng thế gian. Chúng ta thấy : Một người nữ, cây gỗ, sự chết, là những phương tiện và khí cụ làm con người thất bại. Người nữ ấy là Evà đã không còn biết đến Adam; cây trái cấm, và bản án tử hình đối với người đầu tiên. Một người nữ, cây gỗ, sự chết, là những phương tiện và khí cụ làm chúng ta thất bại đã trở nên phương tiện và khí cụ giúp chúng ta chiến thắng. Đức Maria đã thay thế Evà; gỗ thánh giá, gỗ của cây biết lành biết dữ ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô, cái chết của Adam. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại quỉ ma. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người.
Nhờ những ân huệ và kỳ công từ cây Thập Giá, chúng ta đã từ cái chết đến cõi trường sinh. Thập Giá đã mang lại chiến thắng cho chúng ta; chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Từ đó chiến thắng là của chúng ta, hãy để niềm vui dâng trào như những người lính, hát bài ca chiến thắng để ngợi khen Thiên Chúa: “Sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu? “( 1Cr 15, 54-55).
Đây là những lợi ích mà chúng ta có được từ cây Thập Giá; Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới.
Thật vậy, để xua tan bóng tối của một ngôi nhà tăm tối, chúng ta thắp một ngọn nến hay nâng cao ngọn đuốc ; chính Chúa Giêsu Kitô đã thắp sáng và nâng cao cây thánh giá như một ngọn đuốc để xua tan bóng tối nhân gian. Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
4. Chúa Cô Đơn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Có những khi ta cảm thấy bơ vơ giữa cuộc đời. Một mình lang thang. Một mình ngồi nơi góc khuất. Một mình chìm trong nỗi cô đơn thất vọng. Giữa bao người nhưng chẳng ai cùng nhịp với mình, chẳng ai hiểu mình và cũng chẳng ai yêu mình. Ở giữa bao người, họ vẫn cười, vẫn nói nhưng chẳng để ý tới sự hiện diện của ta. Giữa những đau khổ, bất hạnh mà chẳng ai quan tâm, nâng đỡ, cảm thông với chúng ta. Đó là nỗi cô đơn mà trong đời ai cũng có thể trải qua. Đó là nỗi quặn đau thấu vào tới con tim, vào tâm hồn của chúng ta. Nỗi đau ấy chẳng biết diễn tả thế nào cho đủ như ai đó đã nói:
“Ta lấy thời gian đo nỗi nhớ
Lấy biển khơi đo độ rộng tâm hồn
Lấy cuộc đời đo tình yêu dang dở
Nhưng biết lấy gì để đo nỗi cô đơn?”
Chúa Giê-su cũng đã từng đi qua nỗi đau của cô đơn tột cùng. Bị người đời nguyền rủa, khinh chê mà chẳng được ai an ủi cảm thông. Bị người đời khước từ, tẩy chay, hành hạ mà chẳng được ai ra tay bênh đỡ. Họ vẫn vui chơi. Họ vẫn nô đùa mặc cho nỗi đau dằng xé nát tâm can. Chúa Giê-su vẫn một mình đơn côi trải qua tuần thương khó.
Trong chuyến hành hương Giê-ru-sa-lem, chúng tôi có dịp đi qua 14 nơi thương khó. Chúng tôi tôn kính từng nơi. Quỳ gối, bái thờ. Chúng tôi đi lại tuần thương khó giữa một thế giới ồn ào, tấp nập buôn bán, cười nói và xem ra chẳng ai quan tâm đến bước đường chúng tôi đi. Họ vẫn nói cười. Họ vẫn buôn bán mặc cho chúng tôi quỳ lạy, tôn kính trước những bước đường Chúa đã đi qua. Qua đó, chúng tôi càng hiểu rõ hơn về sự cô đơn, lạc lõng của Chúa khi vác thánh giá quanh thành Giê-ru-sa-lem. Chúa vác thập giá đi qua những dửng dưng, thờ ơ của dân thành Giê-ru-sa-lem. Sự cô đơn của Chúa càng tột cùng khi chính những người đồ đệ thân thích vẫn bỏ rơi, mặc Thầy chịu biết bao khốn khó, mặc Thầy chịu những đòn roi.
Cuộc đời chúng ta ai cũng sợ cô đơn. Vì cô đơn làm cho chúng ta hụt hẫng giữa biển người bao la mà chẳng tìm được ai yêu thương, cảm thông với chúng ta. Sự cô đơn đưa chúng ta đến ngõ cụt cuộc đời, đến ngõ vắng đơn côi khiến chúng ta thất vọng, buông xuôi. Những lúc như thế chúng ta cần lắm một bàn tay chìa ra nâng đỡ chúng ta. Cần lắm một lời an ủi, động viên của đồng loại. Cần lắm sự quan tâm khích lệ từ những người thân trong gia đình.
Cảm nhận sự cô đơn làm tê tái cõi lòng để chúng ta đồng cảm với Chúa Giê-su trong tuần thương khó. Đồng cảm với Ngài trong sự cô đơn bị bỏ rơi, bị khước từ của đồng loại. Chúa Giê-su đã trải qua những cay đắng tủi nhục khi bị người đời bỏ rơi. Ngài cô đơn giữa biển người, vì dường như ai cũng quay lưng lại với Ngài.
Hôm nay Chúa Giê-su vẫn có thể cô đơn khi chúng ta sống thiếu hiệp thông với Ngài bởi tội lỗi, bởi đam mê. Chúng ta vẫn đẩy Ngài ra khỏi cuộc đời bởi tranh dành danh lợi thú trần gian. Chúng ta vẫn có thể gào thét đóng đinh Chúa khi chúng ta không dành cho Ngài quyền tối thượng được tôn thờ trên hết mọi sự.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào những ngày thánh này trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ đẩy anh em mình vào đường cùng của sự cô đơn khước từ. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ Chúa yêu đi bên cạnh Chúa trên đường thương khó khi vì Chúa mà từ khước những phù vân tội lỗi. Amen
5. Bảy Lời Sau Cùng Của Chúa Giêsu Trên Thập Giá – LM Thái Nguyên
1/ “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ” (Lc 23, 34).
Câu nói đầu tiên của Chúa Giêsu trên thập giá là lời tha thứ, lời của một trái tim chan chứa yêu thương. Chúa chịu chết để mong xóa đi mọi tội lỗi của ta, để ta được nên tinh tuyền và thánh thiện nhờ tình thương của Ngài (Ep 1, 4). Dù tội lỗi của chúng ta có lớn lao đến mức độ nào chăng nữa thì cũng nằm trong tình yêu thương tha thứ của Ngài.
Trái tim biết tha thứ là trái tim của TC : một trái tim chấp nhận rỉ máu vì yêu thương để làm nên một cuộc sống mới.
Chúa tha thứ cho chúng ta cũng là mong chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau (Lc 6, 37; Mt 6, 14-15). Không có gì là không thể tha thứ được với một tâm hồn muốn sống trong hạnh phúc yêu thương, như Chúa đã yêu thương ta.
2/ “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Chúa chết đi là để trao ban Thiên đàng cho người tội lỗi biết thật lòng ăn năn sám hối. Chúa mong muốn cứu rỗi ta còn hơn chính ta mong muốn. Hãy nói lên tiếng nói đón nhận Ngài từ chính con tim mình, để Ngài có thể trao ban cho ta tất cả.
Dù đang phải khốn khổ, nhưng người trộm lành vẫn biết hướng đến nỗi khốn khổ của người bên cạnh. Tấm lòng nhân ái đó đã giúp ông nhận ra Chúa Giêsu, Đấng biến nỗi đau thương của ông thành vinh phúc ngàn đời.
Một cách nào đó Chúa cũng đang chịu đau thương cùng với chúng ta, bên cạnh chúng ta. Đừng quay quắt với những nỗi đau của mình, nhưng hãy bước ra khỏi chính mình để nhìn xuống với tâm tình cảm thông với anh em, và nhìn lên với tấm lòng cậy trông vào Chúa.
Điều quan trọng không phải là những lỗi lầm, nhưng sự nhận thức và thái độ phía sau những lỗi lầm mới là đáng kể. Mọi sự đều tùy thuộc vào tấm lòng. Giữa những đau thương ta cần có được tấm lòng chân thật và khiêm tốn như người trộm lành.
3/ “Thưa Bà, đây là con của Bà”.(Ga 19, 26).
Qua Thánh Gioan, Chúa trối phú ta làm con Đức Maria, một người nữ tuyệt vời có một không hai trong nhân loại. Mẹ là kho tàng thiêng liêng vô giá mà TC đã làm nên cho con người, là tình yêu thẳm sâu và cao quí nhất của Chúa Giêsu mà Ngài trao lại cho ta. Hãy đón nhận ân ban bao la này với lòng cảm mến chan chứa suốt cuộc đời ta.
Qua Chúa Giêsu tử nạn, Mẹ sinh ra ta bằng máu lệ trong đau đớn nhục nhằn, trong trái tim bị đâm thâu tan vỡ, để cho ta một đời sống mới trong vòng tay yêu thương của Mẹ. Hãy phó thác tất cả cuộc sống cho Mẹ với lòng tin tưởng và tha thiết mến yêu.
Từ nay, trên con đường bước đi theo Chúa với những vui buồn có Mẹ có con, sướng khổ Mẹ con chia sớt. Có Mẹ là có tất cả những gì con mơ ước. Với Mẹ mọi sự đều có thể. Nơi Mẹ mọi cái nơi con sẽ được tinh luyện trong sáng. Vì Mẹ con vui bước dấn thân sống cho mọi người. Trong Mẹ con tiến vào cõi hạnh phúc ngàn thu cùng với Chúa Giêsu.
4/ “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).
“Eli! Eli! Lamma sabacthani?”. Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện : Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là TC nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn : bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như bị TC từ bỏ. Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi sáng ở không trung, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che kín sự hiện diện của Ngài. Dù còn những người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần nào sự cảm nhận trống vắng TC trong tâm hồn. Điều đó cho hiểu rằng, khi con người đánh mất TC là niềm ủi an duy nhất của đời mình thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào.
Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp Chúa Giêsu đã đền tội cho 3 hạng người : hạng người từ chối TC; hạng người nghi ngờ sự hiện diện của TC; hạng người lãnh đạm với TC. Cả 3 hạng người này đều hiển hiện một cách nào đó trong lối sống của mỗi người, và hậu quả bi thảm của nó mang tính cách nền tảng nhân sinh :
– Khi từ chối TC, đời sống của con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời đáng nôn mửa” (Jean Paul Sartre).
– Khi nghi ngờ sự hiện diện của TC, con người trở nên nghi ngờ chính mình; không thể thiết lập tương quan với TC thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.
– Khi đã lãnh đạm với TC thì cuộc sống và mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể thành hình. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình. Chính vì thế mà tiếng kêu than của Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người.
5/ “Tôi khát” (Ga 19, 28)
Trong đau đớn và tủi nhục, trong sầu thương và cô đơn tận cùng, Chúa Giêsu khao khát tình yêu. Chúa muốn nhận chịu tất cả vì tình yêu. Dù biết rằng yêu là chấp nhận tang thương, đổ máu, Chúa cũng vẫn tha thiết yêu cho tới cùng, vì con người là chóp đỉnh công trình tình yêu của Ngài : “Vì Ngài mà muôn vật được tạo thành”.
Mỗi người chúng ta nằm trong cơn khát của Chúa Giêsu. Tình yêu Ngài đã trút cạn cho ta, nên Ngài khao khát chính ta. Ngài đang chờ trái tim ta mở rộng cho nỗi khao khát của tình yêu Ngài. Lạ lùng thay ! một Thiên Chúa lại khát khao con người. Đó là điều không thể tưởng, nhưng có thật, cũng giống như mầu nhiệm Chúa làm người.
Thiên Chúa là Tình Yêu, mà Tình Yêu là cơn khát khôn nguôi, là dòng chảy khôn xiết, là sức mạnh khôn lường, là sự da diết khôn tả. Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô là như thế trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Có điều trớ trêu thay, nhiều khi chúng ta không dám tin là như vậy, nhưng thực sự mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa là như thế. Hãy tin ! hãy cảm thụ cơn khát của Chúa Giêsu trên thập giá từ chính trái tim mình, để ta không còn sống bâng quơ và hững hờ trước ngọn lửa tình yêu đang bốc cao như thiêu đốt chính Ngài trong cơn khát vô cùng.
6/ “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19, 30)
Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.
Con người và thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn là thập giá còn. Con người không thể coi thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh theo cách thức của TC.
Chúa Giêsu đã rời khỏi thập giá để cho ta bước lên, không phải thập giá của hận thù nhưng là thập giá của tình yêu, không phải thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn nhưng là thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của TC. Đó là thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của chiến thắng và vinh quang, vì được hiến thân cho người mình yêu. Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu không có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ chẳng bao giờ có Chúa nhật phục sinh; không có tủi nhục thì không có vinh quang; không có chiến đấu thì không có chiến thắng; không có khao khát thì không có no thỏa; không dám chết thì không thể sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi mình đang được yêu.
7/ “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc, 23, 46)
Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình. Rồi “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19, 30).
Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày khôn sánh, đẹp quá tình nghĩa Cha Con thật thắm thiết đậm đà. Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình yêu của TC Ba Ngôi muốn kết hiệp mọi người nên một trong sự sống Thần Linh Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.
Nhờ Chúa Giêsu, con xin phó thác cuộc đời con vào lòng thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin yêu, thờ lạy và cảm tạ đến muôn đời. Amen.
6. Sức Mạnh Nơi Khổ Đau – Lm. Dđh.
Sức mạnh đồng tiền làm điên đảo nhiều tâm hồn, sức mạnh quyền lực có thể làm thay trắng đổi đen, sức mạnh khổ đau khiến người ta bật khóc hoặc nuôi dưỡng họ thêm ý chí quyết tâm đứng lên sau lần vấp té. Đau khổ là gì ? tại sao có vấp ngã, sai lầm ? Có thể ai cũng bị thuyết phục bởi tình yêu, vì tình yêu không thể thiếu nơi cuộc sống này, nhưng chắc chắn chỉ Kitô giáo chúng ta mới nói tới sức mạnh của tình yêu nơi thập giá. Được sinh ra làm người, ai cũng có hai bậc sống để chọn lựa: đi tu hay lập gia đình, tuy nhiên chẳng thời đại nào cho ta hai gia đình: hạnh phúc hay đau khổ để chọn lựa.
Tu là cõi phúc, tình là giây oan, quan niệm đó nhiều người cho rằng không phù hợp nữa, vì đau khổ vẫn tràn lan vào cả đời tu lẫn đời sống gia đình. Chiều hôm nay, nghe đọc bài thương khó, các em thiếu nhi đơn sơ sẽ nói bài đọc dài thế ? Người trẻ lại có cảm nghĩ xã hội Do-thái thời Chúa Giêsu bất công quá, ác độc quá ! Các ông bà đạo đức thì thường than thở, nhân loại tội lỗi, phản bội Chúa, lại còn cả gan đóng đinh giết Chúa ! Cũng có một số người thiện cảm với “bậc tù trì” nói rằng, Chúa mà người ta còn đóng đinh, huống chi các giám mục, linh mục, tu sĩ, ngày nay chúng không đóng đinh, làm khổ đó mới là chuyện lạ!
Mầu nhiệm đau khổ thập giá nơi Đức Giêsu, chẳng ai đọc thấy sự ốm đau bệnh tật trong đó, nhưng người ta dễ nhận ra sự bất trung, phản bội, ngay trong hàng ngũ các tông đồ. Trong số đó có cả đám đông dân chúng đã từng chịu ơn Đức Giêsu, họ cũng hò la đòi đóng đinh giết Chúa. Sức nặng thập giá làm con người khiếp sợ, muốn tìm lối thoát thân, dẫn đến việc từ chối con đường theo Chúa, nhưng tội lỗi mới là nguyên nhân khiến con người phải chết đời đời. Chúa Giêsu không thuyết phục các môn đệ hãy mạnh dạn cùng chết với Thầy, Ngài còn lệnh cho Phêrô: “hãy xỏ gươm vào bao, vì chén Cha trao ban lẽ nào Thầy không uống ?” Câu trả lời hay nhất cho Phêrô và cho những tâm hồn tội lỗi, chắc chắn Phêrô và chúng ta đã biết là tự tình yêu và lòng sám hối của ta.
Chúa Giêsu chiến thắng thập giá nhờ sức mạnh của tình yêu hiệp nhất với Chúa Cha, nhờ ý chí quyết tâm cứu nhân loại tội lỗi khỏi chết đời đời. Ngày hôm nay người đời vẫn cho rằng đau khổ thập giá là những đau khổ về vật chất tiền của, về áp lực việc bổn phận, có khi là những áp bức bóc lột giữa người địa vị với dân đen ít học. Đức Giêsu mang vác thập giá để cứu nhân loại tội lỗi, vì vậy mà sức mạnh thập giá vẫn đang cần thiết để biến đổi tâm hồn chúng ta nên thánh thiện, nên giống Chúa. Sức mạnh thập giá không phải là vật chất, quyền lực, mà là tình yêu kết hiệp với Đấng chịu đau khổ, Đấng đã chết đi cho tội lỗi của chúng ta.
Lầm đường lạc lối, yếu đuối vấp té thì ai cũng có kinh nghiệm, nhưng để quay lại vạch xuất phát, phải trở lại với cõi lòng mình, nhất định phải có ý chí, tức là phải có đủ sức mạnh tình yêu Chúa. Như thế nào là sống đúng, sống có ý nghĩa, có thể rõ nhất là con cháu, những người thân quen, nhưng bình an, hài lòng về lời nói việc làm của một tâm hồn, Chúa mới thấu tỏ. Thành công về mặt tri thức, thành công về đời sống tâm linh, cũng chỉ là một khái niệm tương đối, biết tin theo Chúa, biết khiêm tốn đấm ngực mình để đừng xa cách Chúa, điều đó thực tế hơn cả.
Trên cây khổ giá là minh chứng tột cùng Chúa Giêsu yêu nhân loại, dù còn chút hơi sức, Chúa vẫn hứa thiên đàng cho người trộm có lòng ăn năn hối cải, Chúa cũng không kết án anh trộm bên tả, có chăng là chúng ta kết tội anh ta thôi. Phêrô chối Thầy, Giuđa bán Chúa, chúng ta vẫn gọi là trọng tội, nhưng cơ hội cho tất cả những tội nhân đều như nhau: sám hối, cậy nhờ sức mạnh nơi thập giá, chúng ta sẽ thấy thế nào là tình yêu. Chúa Giêsu ghét tội, nhưng Chúa không kỳ thị, không từ chối lòng sám hối của bất kỳ tội nhân nào, dù còn lăn tăn hay ngờ vực thì “mầu nhiệm thập giá” của Chúa Kitô mới là câu trả lời đúng nhất. Xin Đức Kitô chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng con, xin ban ơn khôn ngoan đừng để chúng con bỏ lỡ cơ hội trong ngày thánh này. Amen.
7. Người Chết Vì Yêu – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Con người sống phải yêu. Yêu là hơi thở, là lý do sống của con người. Có tình yêu thì cuộc đời mới đáng sống, cho dẫu phải trải qua đau thương, tan nát, sầu phiền. . . Vì yêu mà con người sẵn lòng nếm trải những đắng cay muộn phiền. Thế nên, có ai đó nói rằng:
“Yêu là một loại cảm nhận, dù có thống khổ vẫn cảm thấy hạnh phúc.
Yêu là một loại nhận thức, dù có tan nát cõi lòng nhưng vẫn cảm thấy ngọt.
Yêu là sự từng trải, dù có bị nghiền nát vẫn cảm thấy tươi đẹp.”
Có một cô gái đã kể với tôi như sau:
“Bạn con, 25 tuổi lấy chồng. 27 tuổi sinh đứa con đầu lòng. 31 tuổi xây nhà.
Cuộc đời cô ấy diễn ra luôn được hoạch định trước. Năm nay làm gì, sang năm mua gì. Mọi thứ đều nằm trong kế hoạch được lên sẵn.
Nhưng cuộc đời đâu mãi là màu hồng. 3 tháng trước, cô ấy đi khám thai lại phát hiện mình bị ung thư. May mắn là bệnh mới ở giai đoạn đầu, nghĩa là cô ấy có khả năng kéo dài sự sống. Điều lạ là con đến thăm cô ấy luôn lạc quan yêu đời và còn đùa rằng: “Thế là tao tránh được nỗi lo tuổi già rồi. Không sợ xấu, sợ nhăn nữa…. Bệnh tật, vốn không nằm trong toan tính của đời người. Nhưng tao vẫn yêu, vẫn vui để bé ra đời trong hạnh phúc ngay từ trong trứng nước”.
Tình yêu đã chiến thắng khổ đau. Tình yêu còn mang dáng dấp của sự bất tử. Cô gái trên đang mang trong mình hoa trái của tình yêu, điều đó đã khiến cô luôn vui tươi lạc quan ngay trong đau khổ bệnh tật. Tình yêu giúp cô tận hiến cả bản thân đến nỗi quên đi cái đau của bệnh tật để sống vì mầm sống tương lai.
Cuộc đời không bao giờ theo ý ta mong đợi. Đôi khi cái xui, cái khổ, cái đắng cay cứ theo nhau chồng chất lên cuộc đời ta. Điều quan yếu là ta phải sống có mục đích, có lý tưởng, có tình yêu để vượt thắng tất cả hầu đạt được mục đích của mình.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm hành trình cuộc thương khó của Chúa Giê-su như là mẫu gương cho cuộc đời chúng ta. Ngài đã đi vào cuộc thương khó trong chén đắng với lời xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Mục đích của Ngài đến trần gian là để cứu độ nhân gian. Lý tưởng của Ngài là trở nên mọi sự cho mọi người. Tình yêu của Ngài dành trọn vẹn cho Thiên Chúa Cha. Thế nên, cuộc thương khó là “Giờ” của tình yêu mà Ngài sẽ tỏ bày với Chúa Cha. Ngài vẫn hằng mong mỏi Giờ này để tôn vinh Chúa Cha. Ngài từng nói vì “Giờ” này mà tôi đã đến thế gian.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người đều chọn sống cho tình yêu và vì tình yêu. Cách sống vì tình yêu sẽ mang lại cho người mình yêu niềm vui và hạnh phúc. Cách sống cho tình yêu sẽ mang lại cho đời những nghĩa cử cao đẹp khi cống hiến cho người mình yêu.
Xin cám ơn tình yêu cao vởi của Thầy Giê-su mà nhân loại được giao hòa với Chúa Cha và được trở nên con cái Ngài.
Xin cám ơn tình yêu hy sinh một nắng hai sương của cha mẹ mà con cái được no đầy hạnh phúc yêu thương.
Cám ơn tình yêu của những đôi vợ chồng son sắt thủy chung luôn chia sẻ ngọt bùi với nhau trong mọi thăng trầm cuộc đời.
Xin cám ơn tình yêu của những tông đồ nhiệt thành đang phục vụ giáo xứ, phục vụ cộng đoàn mà chẳng cần đền đáp.
Tất cả những tình yêu hy sinh ấy đã tô đẹp cho cuộc đời. Tất cả những tình yêu hy sinh ấy đã mang lại cho đời hương thơm của hạnh phúc để làm vơi đi nhứng gánh nặng khổ đau.
Xin Chúa là tình yêu giúp chúng ta biết sống theo gương Chúa luôn sống cho tình yêu và dâng hiến cho tình yêu. Xin cho chúng ta biết chết đi cái tôi của mình để sống cho người mình yêu. Amen
8. Tôn Thờ Thánh Giá Khám Phá Tình Yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết“.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta” (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu“.
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
9. Thập Giá Tình Yêu – Jb. Lê Đình Nam
Tâm điểm của Tuần Thánh chính là Thập giá, nơi Đức Kitô bị đóng đinh, chịu treo và chết vì tội lỗi của mỗi người chúng ta.
Hình ảnh thập giá luôn cho ta một trải nghiệm đau đớn, một cảm giác ghê rợn và một cái nhìn về sự thất bại. Nhưng không! Thập giá Đức Kitô thì hoàn toàn khác. Đó là đỉnh cao của tình yêu mà Thiên Chúa biểu lộ cho con người.
Chính nơi Thập giá ấy, Chúa Giêsu đã đưa ta trở lại ơn gọi làm con Chúa. Mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người được nối lại, tình người và tình Chúa được hòa quyện.
Chính nơi Thập giá ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa với con người. Nơi đó, tình yêu đã chiến thắng tội lỗi, sự tha thứ đã chiến thắng hận thù và phận hèn mọn của con người được nâng lên.
Và cũng chính nơi Thập giá ấy, Máu Thánh của Chúa Giêsu đã tuôn trào để đem lại cho chúng ta một cuộc sống mới và một trang sử mới của nhân loại được bắt đầu.
Chiêm ngắm Thập giá Đức Kitô chính là nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và giúp ta sống tình yêu đó giữa dòng đời lắm đau khổ và nhiều u buồn của ngày hôm nay. Tình yêu là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Tình yêu là nền tảng cho một cuộc sống hướng đến niềm vui và bình an.
Ngắm nhìn Thập giá Đức Kitô để ta ý thức lại tương quan của mình với Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đã đáp lại tình yêu của Ngài như thế nào? Hay chính chúng ta lại xúc phạm đến tình yêu đó bằng một đời sống đạo khô khan, tẻ nhạt; hay bằng những việc làm vô luân đi ngược với những giới răn của Ngài.
Nhìn lên Thập giá Đức Kitô để chúng ta học sống tình yêu mỗi một ngày trong đời. Là Kitô hữu, ta được mời gọi sống yêu thương, san sẻ để đốt cháy những băng giá vô cảm, vô tâm nơi xã hội. Là con Thiên Chúa, ta được mời gọi sống bao dung tha thứ để xóa tan những tranh chấp, hận thù đang xảy ra trên khắp thế giới và ngay trong con người chúng ta. Là con người với nhau, ta được mời gọi sẻ chia và giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh xung quanh mình.
Thập giá Đức Kitô chính là tâm điểm cho hành trình Đức tin, là biểu tượng niềm tin cho mỗi một người Kitô hữu. Thật vậy, nó không chỉ dừng lại ở hình ảnh của sự thất vọng nhưng là dấu chỉ của niềm hy vọng. Nó không chỉ dừng lại ở sự đau khổ và tội lỗi nhưng là bằng chứng sống động về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Và nó không chỉ dừng lại ở cái chết khốn khổ ấy nhưng sẽ hướng đến sự Phục sinh viên mãn.
Thứ Sáu Tuần Thánh một lần nữa mời gọi chúng ta ngước nhìn Thập giá Đức Kitô – Thập giá tình yêu, để nơi đó chúng ta có một niềm cậy trông, một viễn cảnh hy vọng và một bài học lớn lao về tình yêu.
Hãy chiêm ngắm Thập giá Đức Kitô, tin tưởng nơi Thập giá, hy vọng vào Thập giá và sống tình yêu Thập giá mỗi giây phút trong đời!
10. Đỉnh Đồi Thương Xót – Trầm Thiên Thu
Nắng vàng nhuộm cả hoàng hôn
Biệt ly mẫu tử, đoạn trường ai gây?
Đỉnh đồi thương xót là đây
Giêsu chịu chết cứu loài tội nhân
Không gì sầu thảm hơn cuộc chia ly, nhất là cuộc chia ly đó là khoảng cách sinh tử của Mẫu Tử tình thâm, ở đây còn có sự chia ly của tình nghĩa Thầy Trò. Nỗi buồn thật khôn tả!
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày phủ màu tím rịm, ngày u buồn của những người mang danh Kitô hữu. Tuy nhiên, trong nỗi buồn “đậm đặc” ấy lại chứa đầy ắp niềm hy vọng để bước qua cửa ải sự chết và hân hoan tiến vào Miền Vĩnh Sinh trong tiếng ca vang Alleluia. Và điều này hoàn toàn chắc chắn!
Cách nói “Thứ Sáu Tuần Thánh” của Việt ngữ không lột tả được thâm ý như Anh ngữ: Good Friday – Thứ Sáu Tốt Lành. Nhưng người Đức gọi Thứ Sáu Tuần Thánh là Karfreitag, nghĩa là “ngày đau buồn” (tiếp đầu ngữ Kar nghĩa là than khóc, sầu khổ). Thứ Sáu là “ngày chết chóc”, ngày xui xẻo, ảm đạm và thê thảm, thế mà lại được coi là Ngày Tốt Lành, thật là kỳ diệu biết bao!
Đã đành và minh nhiên là chúng ta cũng đã và đang góp phần bán đứng Đức Kitô, nhẫn tâm đóng đinh giết chết Chúa Giêsu nhiều lần qua việc những lần phạm tội, hằng ngày chúng ta còn nỡ lòng đóng đinh nhau bằng nhiều loại đinh: Chỉ trích, gièm pha, khích bác, phe cánh, ghen ghét, đố kỵ, áp bức, bóc lột,… Trong các loại “đinh” đó, có đinh gỉ sét, có đinh sắc bén, có đinh dài thoòng, có đinh xoắn,… với rất nhiều kích cỡ khác nhau.
Quả Thật Là Không Hề Dễ Dàng Nhổ Ra Các Loại Đinh Đó Một Khi Chúng Được “Đóng” Vào Ai Đó! Có Lẽ Vì Vậy Mà Khi Thấy Các Phụ Nữ Giê-Ru-Sa-Lem Khóc Thương Ngài, Chúa Giêsu Dừng Lại Với Cây Thập Giá Trên Vai Và Nói Thật Lòng Với Họ: “Hỡi Chị Em Thành Giê-Ru-Sa-Lem, Đừng Khóc Thương Tôi Làm Gì. Có Khóc Thì Khóc Cho Phận Mình Và Cho Con Cháu” (Lc 23:28). Và Đó Cũng Chính Là Lời Chúa Giêsu Nhắn Nhủ Mỗi Chúng Ta Hôm Nay. Thật Vậy, Đừng Tổ Chức Đám Tang Cho Chúa Giêsu Mà Hãy Làm Đám Tang Cho Chính Mình, Đừng Lo Phô Trương Vẻ Đạo Đức Bình Dân Bề Ngoài Mà Coi Thường Phần Nội Tâm Chính Yếu!
Trước đó, Chúa Giêsu đã từng xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Chính điều này đã được Ngài chứng minh bằng cái chết bi hùng vào chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chính xác giờ thọ hình là 3 giờ chiều trên Đồi Sọ vào ngày 3 tháng 4 năm 33 (sau công nguyên). Thời điểm và ngày tháng Chúa Giêsu chịu chết đã được Tạp chí Địa Chất Quốc tế thực hiện cuộc nghiên cứu để xác định “ngày giỗ” của Chúa Giêsu. Cuộc nghiên cứu này dựa vào nền tảng Phúc Âm, đồng thời kết hợp với các tài liệu về địa chất và thiên văn học, các nhà nghiên cứu đã đủ cơ sở để xác định như vậy.
Yêu thương và thương xót có mức độc chăng? Và thế nào là mức độ yêu thương? Mức độ yêu là YÊU VÔ HẠN, yêu như điên, yêu phát khùng, yêu cuồng nhiệt, yêu đến nỗi bị coi là dại dột, đó là si tình. Chuyện đời có mối tình của Romeo va Juliet của văn hào Shakespeare (1582-1616, Anh quốc), Việt Nam có mối tình Lan và Điệp, còn văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp quốc) yêu say đắm cô hàng xóm Adele Foucher nhưng bị mẹ cấm, sau khi mẹ mất, ông đã kết hôn với Adele. Tuy có vợ rồi nhưng ông lại “phải lòng” cô Juliette Drouet, và Juliette Drouet đã viết cho ông khoảng 1.700 lá thư tình. Ở đây chỉ muốn nói tới khối tình si của những trái tim yêu hết mình mà thôi. Dày dạn kinh nghiệm tình trường, Victor Hugo đã kết luận: “Chết cho tình yêu là sống cho tình yêu”.
Chúa Giêsu cũng là người si tình thứ thiệt, độc nhất vô nhị, một người điên dại vì yêu, và Ngài mệnh danh là Người Tôi Trung mà ngôn sứ Isaia đã đề cập: “Này đây, Người Tôi Trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy Tôi Trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa, cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ” (Is 52:13-15). Người Tôi Trung có những động thái trái ngược rất lạ lùng, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Người ta có si mê thì cũng si mê người đẹp, người khôn, người ngoan, người tài, người giỏi, đằng này Chúa Giêsu lại si mê kẻ không ra gì – tức là chính tội nhân xấu xa, kẻ đó là mỗi chúng ta!
Thật lạ lùng là chính Người Tôi Trung ấy lại “lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn, chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Is 53:1-2). Không chỉ vậy, Người Tôi Trung ấy còn “bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật, như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:3). Đâu ai ngờ sự thật là “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Đây là “điểm nóng” để chúng ta phải tự chấn chỉnh cách nhìn của mình đã và đang dành cho tha nhân.
Cuộc đời của Người Tôi Trung là Bản Trường Ca Đau Khổ, là Liên Khúc Bi Tráng Ca. Thật vậy, họa vô đơn chí, đau khổ cứ chồng chất lên đau khổ, theo cách nhìn phàm tục thì đúng là cuộc chiến bại ê chề, thê thảm.
Chính Người Tôi Trung “đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trong tình trạng Người Tôi Trung bị coi là te tua tơi tả như vậy thì “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả, nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người mọi tội lỗi của tất cả chúng ta”, để rồi Người Tôi Trung tiếp tục “bị ngược đãi, cam chịu nhục, nhưng chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53:6-7).
Mặc dù bị nhục nhã ê chề đến vậy mà Người Tôi Trung vẫn chưa yên thân: “Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:8-9). Tột cùng đau khổ. Quả thật, kinh hãi quá, phàm nhân chúng ta không thể tưởng tượng nổi và không thể đủ sức chịu đựng như vậy!
Nhưng đó là Thánh Ý Thiên Chúa: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:10-11). Ý Chúa đã vậy, đáng khâm phục là đức vâng lời của Người Tôi Trung. Đúng là “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9).
Cả một bài đọc dài với đủ dạng đau khổ như thế mà không thấy câu chữ nào vô nghĩa, người nghe cũng không cảm thấy nhàm chán. Kỳ diệu quá sức! Nhưng câu cuối cùng thấy có màu “sáng” nhất: “Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Và đó là hệ lụy tất yếu cho những người-tôi-trung-ngay-khi-gian-khổ.
Người Tôi Trung luôn một lòng tin tưởng Thiên Chúa, dù gặp bao trắc trở nhưng vẫn trung tín và kiên tâm cầu nguyện, như Thánh Vịnh gia thổ lộ: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con” (Tv 31:2). Ngay cả cái chết cũng không tách Người Tôi Trung khỏi lòng mến yêu Chúa: “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:6).
Được biết rõ ràng là mình chỉ “nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích đều kinh hãi, tránh xa, bị lãng quên như kẻ chết không người tưởng nhớ, hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13), nhưng Người Tôi Trung “vẫn tin tưởng nơi Chúa, vẫn can đảm thân thưa thưa: ‘Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ’ ” (Tv 31:15-17). Và như Người Tôi Trung, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi mỗi chúng ta: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!”(Tv 31:25). Hôm nay là dịp thuận tiện, là ngày tốt, là thời điểm hợp lý để chúng ta thể hiện điều đó.
Thánh Phaolô giải thích và chia sẻ kinh nghiệm tâm linh: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:14-16). Qua đó, chúng ta thấy Đức Giêsu đã mặc xác phàm yếu đuối như chúng ta để đồng lao cộng khổ với chúng ta, đặc biệt là để động viên chúng ta vượt qua mọi “ngưỡng” đau khổ, nhất là vượt qua cửa ải sự chết.
Tiếp tục phân tích, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Bài học quá đắt giá, nhưng cái gì càng đắt giá thì càng giá trị cao!
Hôm nay, Bài Thương Khó là đoạn Phúc Âm buồn thảm nhất trong Kinh Thánh. Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu là nhân vật độc nhất vô nhị, nổi tiếng nhất trong lịch sử xưa nay và đến mãi tận thế. Càng ngày người ta càng phải công nhận, bằng cách này hay cách khác, ngay cả những người cố ý tỏ ra không công nhận nhưng thực ra trong thâm tâm họ vẫn công nhận.
Trình thuật Phúc Âm Ga 19:1-42 cho chúng ta biết về “chuyến đau khổ” của Chúa Giêsu bắt đầu từ Vườn Dầu, tức là Ghết-sê-ma-ni.
Sau Bữa Tiệc Ly, Ngài đi ra cùng với các môn đệ sang bên kia suối Kít-rôn, vào một thửa vườn. Giu-đa cũng biết nơi này, vì lâu nay Thầy trò thường quy tụ ở đó.
Ngay đêm Thứ Năm, Giu-đa tới đó và dẫn một toán quân với đám thuộc hạ của các thượng tế cùng nhóm Pha-ri-sêu. Họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: họ tìm ai. Họ nói ngay là tìm Giêsu Na-da-rét. Ngài nhận ngay: “Chính tôi đây”. Mới nghe vậy, họ liền lùi lại và ngã xuống đất. Ngài hỏi lại, họ vẫn nói là tìm Giêsu Na-da-rét. Ngài vẫn nhận mình là người họ tìm, chấp nhận cho họ bắt Ngài nhưng Ngài yêu cầu không bắt bất cứ ai đi với Ngài. Điều này ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai”.
Ông Phêrô có sẵn thanh gươm liền tuốt ra và chém đứt tai phải của Man-khô, đầy tớ của vị thượng tế. Ngài bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao, và giải thích rằng Ngài sẵn sàng uống chén mà Chúa Cha đã trao. Họ bắt Ngài và dẫn Ngài đến ông Kha-nan, nhạc phụ của thượng tế Cai-pha. Chính Cai-pha đã đề nghị với người Do-thái là “nên để một người chết thay cho dân thì hơn”. Một lời đề nghị ích kỷ và bất công vô cùng!
Mặc dù bị chất vấn và tra khảo, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói thẳng và nói thật chứ không run sợ trước thế lực của họ, có người vả vào mặt Ngài, nhưng Ngài vẫn hỏi vặn lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Tất nhiên họ chẳng nói lại được gì, mà chỉ “cả vú lấp miệng em”. Rồi ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha trong khi Ngài vẫn bị trói.
Trong khi đó, ở ngoài sân, ông Phêrô bị người ta phát hiện thuộc nhóm của Chúa Giêsu nên ông sợ và chối thẳng thừng, không chỉ một mà tới ba lần. May có tiếng gà gáy sáng, và ông đã ăn năn.
Người Do-thái lại điệu Chúa Giêsu từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn Phi-la-tô khi trời vừa mới sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Bề trong không lo mà chỉ lo bề ngoài, thật là tồi tệ!
Ông Phi-la-tô hỏi đủ điều nhưng Ngài chỉ im lặng. Ông Phi-la-tô cũng nhận thấy Ngài không có tội gì và có ý phóng thích Ngài, nhưng ông ta vẫn không dám làm theo tiếng nói lương tâm vì ngại với đám đông, sợ mất chiếc ghế chức tước và quyền lực. Nghe Chúa Giêsu nói về sự thật, ông ta còn “giả nai” hỏi lại: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Bà vợ bảo ông ta đừng nhúng tay vào vụ án xử Chúa Giêsu, ông ta đi lấy nước rửa tay, ý ông ta muốn chứng tỏ mình vô can.
Chắc hẳn chúng ta cho rằng ông Phi-la-tô đúng là một kẻ hèn nhát, coi thường công lý và làm ngơ nỗi khổ của người khác, thế nhưng chính chúng ta cũng đã từng có những lần hèn nhát y như ông ta, đó là khi chúng ta im lặng trước bất công của tha nhân. Ai sao thì sao, tôi bình an là được. Động thái của ông Phi-la-tô là lời cảnh báo đối với mỗi chúng ta là phải cảnh giác trong mỗi động thái của mình, nhất là đối với những gì liên quan sự thật và công lý.
Vào mỗi dịp lễ Vượt Qua, và theo tục lệ của người Do-thái, người ta thường tha một phạm nhân nào đó. Người ta hùa nhau xin tha cho tướng cướp khét tiếng Ba-ra-ba, nhưng lại xin giết chết Đức Giêsu. Trước đó không lâu, người ta mới tung hô “vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến” ở Thành Giê-ru-sa-lem, thế mà giờ đây lại quyết xin đóng đinh người mà họ đã tôn vinh.
Không biết xử trí ra sao, ông Phi-la-tô liền truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Ngài. Họ hành hạ Ngài với những kiểu dã man nhất. Sau đó, ông Phi-la-tô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài cho người ta thấy Ngài thê thảm thế nào với vòng gai trên đầu mà thôi kết án Ngài. Thế nhưng họ vẫn không chút mủi lòng, cho rằng Ngài lộng ngôn khi nhận mình là Con Thiên Chúa. Họ càng thấy Ngài bị hành hạ tơi tả thì họ càng vui sướng: “Đóng đinh nó vào thập giá!”.
Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. Sơ gì? Sợ mất chức, mất chức thì mất bổng lộc và mất quyền. Ông ta bảo ông có quyền tha và có quyền đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Nhưng Đức Giêsu nói ngay: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn”. Ông Phi-la-tô tìm cách tha Ngài nhưng vẫn không dám thực hiện vì bị áp lực của đám đông.
Họ bắt Ngài tự vác lấy thập giá đi đến Đồi Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha. Cùng chung hình phạt đóng đinh vào thập giá với Ngài là hai tên gian phi khét tiếng. Phía trên thập giá có ghi: “Giêsu Na-da-rét, Vua dân Do-thái” (*). Vô tình mà họ đã phải công nhận Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái. Bảng đó được ghi bằng đa ngữ: Tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. Các thượng tế của người Do-thái muốn ghi kiểu khác, nhưng ông Phi-la-tô không chiều theo ý họ. Đó là ý Chúa vậy!
Từ trên Thập Giá, Đức Giêsu trao phó Đức Mẹ cho ông Gioan chăm sóc, và xin Đức Mẹ nhận chàng trai Gioan làm con. Nghe những lời trăn trối như vậy thì hẳn ai cũng phải động lòng. Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Ngài kêu: “Tôi khát!”. Nghe vậy mà người ta lại nhẫn tâm lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất! – Tetelestai!”. Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Lời kêu khát của Chúa Giêsu nhắc chúng ta về niềm khát khao của Ngài dành cho chúng ta là chúng ta phải cố gắng NÊN THÁNH, nhắc nhở chúng ta yêu mến THÁNH THỂ, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta đừng làm ngơ trước những nỗi khát khao của tha nhân – nhất là đối với những CON NGƯỜI HÈN MỌN luôn ở bên chúng ta hằng ngày.
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày đại lễ sa-bát. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh cho họ mau chết để rồi lấy xác xuống cho kịp trước khi đêm xuống. Họ đánh giập ống chân hai người cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ không đánh giập ống chân Ngài. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài, tức thì, MÁU cùng NƯỚC chảy ra. Tứ đó, Nguồn Suối Lòng Thương Xót tuôn chảy mãi cho đến tận thế để ai nhìn lên Ngài và thành tâm tín thác thì sẽ được hưởng Ơn Cứu Độ.
Sau đó, Đức Giêsu được hạ xác xuống khỏi Thập Giá, được đưa đi an táng theo tục lệ chôn cất của người Do-thái tại một thửa vườn. Nỗi buồn “dừng lại” nhưng vẫn âm ỉ trong lòng mọi người. Tuy nhiên, Ngày Thứ Sáu Buồn Thảm này lại chính là Ngày Thứ Sáu Tốt Lành, ngày hướng về Cõi Trường Sinh. Chúa Giêsu chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu thua cuộc để chúng ta chiến thắng, Ngài chịu chết để chúng ta được sống. Chúng ta tưởng niệm cái chết của Ngài nhưng không phải là để thương xót Ngài mà là thương xót chính số phận của chúng ta, nhờ đó mà cố vượt qua chính mình hằng ngày.
Quả thật là niềm hạnh phúc vô tận đối với chúng ta – những tội nhân khốn nạn, bởi vì Thánh Phaolô đã xác định: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa” (2 Cr 5:19). Thứ Sáu Tuần Thánh là “cột mốc” đánh dấu lời hứa đó, như Thánh Vịnh gia đặt vấn đề: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Một câu nghi vấn nhưng là một cách xác định. Thật là đại phúc cho chúng ta. Tạ ơn Chúa, Deo Gratias!
Tuy nhiên, chúng ta không được “dừng chân” ở đó, mà phải cố gắng lên tới Đỉnh Đồi Thương Xót cùng với Đức Giêsu Kitô, tức là phải chết vì yêu thương và vì thương xót. Như vậy mới khả dĩ giải nghĩa hết chữ yêu.
Lạy Thiên Chúa Cha, xin thương xót và tha thứ tội nhân con. Lạy Thiên Tử Giêsu, Đấng Cứu Thế, con cảm tạ Ngài đã chịu chết để cứu chuộc nhân loại, xin giúp con nhổ bật những chiếc đinh gỉ sét mà chính con đóng vào chân tay Ngài và đóng vào cuộc đời tha nhân. Xin Chúa ban ơn dồi dào để mọi người luôn sống đúng bổn phận của mình, và xin Ngài đặc biệt thương xót Việt Nam bé nhỏ này. Con chân thành và tha thiết cầu xin nhân danh Người Tôi Trung Đau Khổ là Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô. Amen.
(*) INRI: Iēsus Nazarēnus, Rēx Iūdaeōrum (Tiếng Latin), Ο Ιησούς Από Τη Ναζαρέτ, Ο Βασιλιάς Των Εβραίων (Tiếng Hy Lạp – INBI), תשוועמנצרת, מלךהיהודים (Tiếng Do Thái), Jesus The Nazarene, King Of The Jews (Tiếng Anh), Jésus Le Nazaréen, Le Roi Des Juifs (Tiếng Pháp).
11. Bạc Như Vôi! – P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng , kính thưa quý vị, “ Tình đời bạc trắng như vôi “, vốn lẽ thường, hay tình đời thay trằng đổi đen, vốn bản chất “tự có ” của nhân thế là vậy sao ?!
Vâng, sự bạc bẽo của thế nhân chính là những ”triết lý” mà các nhạc sĩ đã sử dụng để viết lên những ca khúc đi vào lòng người. theo đó, dường như nhân loại thật vô tình, thật thờ ơ, vô cảm dẫn đến “bạc như vôi”. Tình đời thật bạc, dường như xảy ra từng giây, từng phút trong cuộc đời.
Cũng chính vì như vậy, sự bạc bẽo của thế nhân dường như là quá quen hóa nhàm, nhưng, kỳ thực nó rất nguy hiểm, nó chính là mầm mống của “tội ác”. Sự bạc bẽo đối với cha mẹ, thầy cô, bạn bè, anh em, vợ chồng, nó chính là cái “tôi” khủng khiếp, đề tài muôn thuở, mầm mống của tội ác.
Thật vậy, hơn hai ngàn năn qua, một “Bản án bất công”, hay một “Bi kịch” đau thương vô lý của một “Con Người “ Tên là Giêsu , Nazaret , Đấng Cứu Thế làm Người, đã mang lấy.
Thứ Sáu Tuần Thánh Không Phải Là Dịp Để Nhắc Lại Sự ”Thù Hận“ Mà Là Để “Tha Thứ”. Tại Sao Vậy, Thưa Quý Vị? Thưa , Bởi Vì Là Trong Chính Chúng Ta, Kể Cả Môn Đệ Thân Tín, Kể Cả Bạn Hữu Của Thầy Chí Thánh Giêsu Là Chính Chúng Ta Đã, Đang Và Sẽ Đóng Vai Trò “Lên Án “ Và Giết Chúa Giêsu. Vì Mỗi Lần Chúng Ta Lên Án , Muốn Hại Ai, Là Mỗi Lần Chúng Ta Lên Án , Hãm Hại Chính Chúa Giêsu. Vì, Người Chịu Bản Án Bất Công Nhất Trong Tư Cách Của Một Người “Yếu Thế” Cô Độc. Rõ Ràng, Chúa Giêsu Đã Nói : “Nước Tôi Không Thuộc Thế Gian Nầy. Nếu Nước Tôi Thuộc Về Thế Gian Nầy, Thuộc Hạ Của Tôi Sẽ Chiến Đấu…” (Ga 19, 36).
Như vậy, Chúa Giêsu bị kết án bất công trong lúc yếu thế, đơn độc. Họ bày ra một tuồng kịch, nhưng, ơn Cứu Độ là một Mầu Nhiệm được hoàn tất.
Như vậy, ơn Cứu Độ là một chân lý, hay là để biểu thị chân lý từ Thiên Chúa, một chân lý tuyệt hảo chỉ được thể hiện qua ơn Cứu Độ, ơn Cứu Độ lại được biểu thị qua cuộc Tử Nạn của Người vô tội. Rõ ràng, Ơn Cứu Độ càng hiển nhiên, càng minh bạch, càng có giá trị tuyệt đối. Bởi vì, tình yêu đáp trả tình yêu. Nhưng, tình yêu đáp lại hận thù, thì giá trị cao siêu biết mấy !
Điều nầy không dễ chu toàn, nhưng, chính Đức Kitô đã thực thi. Trên Núi Sọ, cảnh Thập giá có ba , nhưng cái chết của Chúa Giêsu cho thế giới loài người biết rằng: Thiên Chúa đã minh chứng Lời của Người, Thiên Chúa đã thể hiện sự “có mặt” nơi trần gian nầy. Thiên Chúa cứu chuộc cách nhãn tiền, chứ không phải là “ẩn mặt”.
Đấng là hiện thân của “sự thật” lại thua tên cướp khét tiếng là Barabar sao ?! Đại diện công lý trần gian lại thua những người “xảo trá” sao ?! Công lý thế trần, môn đệ thân tín, bạn hữu của Người đâu rồi?! phải chăng một sự cô độc “duy nhất” có một không hai, mà Chúa Giêsu đã vác lấy đó sao ?! Nó còn nặng trĩu và đau đớn hơn cây Thập giá và vòng gai Người chịu.
Bạc như vôi vốn dĩ tình đời, Thiên Chúa biếtt rõ , nhưng, Người đã cam tâm vác lấy. Người đời khi vui thì vỗ tay vào, khi “chẳng có lợi” thì chùi tay ra. Cùng thì “ bàn tay”, nhưng, lại ném đá, đánh đập, vả vào mặt, trói vào cột đá, đóng đinh, xé áo, đâm vào cạnh sườn. Thay vào đó, cũng bàn tay , ban ơn cứu độ, chữa lành người mù, người què được đi, kẻ bất toại lành mạnh, kẻ chết sống lại. Bàn tay bẻ bánh phân phát, trao cho môn đệ trong ngày Tiệc Ly. Cũng bàn tay ấy chữa lành đứt tai của kẻ quân dữ.
Như vậy, “Bàn Tay” Thiên Chúa và bàn tay thế nhân khác xa, một “bàn tay cứu chữa” và một “ bàn tay nhuốm máu”. Chúng ta thấy, tội lỗi nhân loại không thể dùng để xử lý bàn tay nhân loại tội lỗi, vì bàn tay tội lỗi không thể xử lý người vô tội được. Thiên Chúa không cho phép điều ấy xảy ra, bởi vì Người là chân lý. Chân lý hiện sinh ấy, Người đã trả giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh bi thương.
Chúng ta cảm nghiệm như vậy, và đặt trọn niềm tin như thế vào Đấng Cứu Độ Giêsu – Kitô.
Suy niệm Thập Gía là suy niệm cuộc khổ hình của Đức Kitô, trong đó sự cô độc, sự chịu sỉ vả, sự chịu đánh đòn, sự chịu thẩm vấn bất công, bị điệu ra trước tòa Philato, cịu sự cáo gian, chịu sự khinh miệt, chịu môn đệ bán rẻ, và chối từ, chịu đội mão gai, chịu vác thập giá, chịu đóng đinh, chịu treo lên chịu khát khao, chịu uống mật đắng, cuối cùng chịu đâm thủng cạnh sườn, để minh chứng sự sống vĩnh hằng tồn tại muôn thuở.
Chúa Giêsu “Khát” sự thật được tỏ bày, được thực thi, “Khát “ tình yêu được thể hiện , được ban tặng, ơn Cứ độ được đón nhận khắp nơi, chân lý được lan truyền và được đón nhận, qua cuộc Tử Nạn của Người. Chúa Giêsu “khát khao” ơn cứu độ của Người không uổng phí, không giới hạn. Vì, ai khát khao chân lý, thì nghe tiếng Người. Nếu không như thế, tình đời vẫn bạc như vôi, và Ơn Cứu Độ không có tác dụng gì với thế nhân.
Chúng ta suy niệm Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong ngày THƯƠNG KHÓ, là chúng ta soi mình vào những gương phản bội, hay chối từ, gương đánh đòn Chúa, hay gương sỉ vả Người, gương đóng đinh, hay gương đâm thủng cạnh sườn Người. Chắc chắn chúng ta không dám, hay không được phép, nhưng, chúng ta không thể không làm những hành động trên đối với Chúa Giêsu VÌ TỘI LỖI CỦA CHÚNG TA.
Bằng sự suy niệm nầy, chúng ta thật tình hết lòng ăn năn sám hối, xin Chúa thứ tha qua cuộc Thương Khó của Người, một cách sâu sắc, hầu chúng ta xứng đáng bước vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người, nếu không chúng ta cũng bạc như vôi ./. Amen.
12. Trao Hiến Vì Yêu Thương – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phụng vụ luôn dành trình thuật thương khó của Gio-an cho ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vì bài này có một số chi tiết khác với các Phúc âm Nhất lãm. Tuy nhiên sự khác biệt lớn hơn hết có lẽ chính là giọng văn và tình cảm của một nhân chứng đã tận mắt chứng kiến biến cố trọng đại này. Chính tác giả Gio-an đã công khai tuyên bố: “Người đã xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin”.
Tất cả các chi tiết Gio-an mô tả trong bài thương khó của ông đều rất cụ thể và sống động, chẳng hạn như chi tiết “Tôi khát!” Được chính mình trải nghiệm trong giờ hấp hối, tôi thấy điều này thật cụ thể: cơn khát của một người sắp chết thật khủng khiếp. Nói gì thì nói, trong cơn khát cháy họng, hầu như cả mạng sống của một con người lệ thuộc vào vài giọt nước mát… Cụ thể và xác thực biết bao!
Nhưng trong số các chi tiết ông ghi nhận về cuộc thương khó, Gio-an đặc biệt quan tâm tới: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra”. Gio-an khảng định chính mắt mình đã chứng kiến cảnh tượng này, vì đó là biến cố hầu như đã thay đổi sâu xa lối suy nghĩ, và có lẽ chính cuộc sống của ông. Đó cũng là cốt lõi của sứ điệp mà ông đã dành trọn phần còn lại của đời mình để loan truyền cho mọi người: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa.” (1Ga 1,1.3) “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” (1Ga 4,14)
Để trả lời cho vấn nạn: ‘sự cứu độ đó là như thế nào?’ Gio-an đã khảng định: thưa, đó là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn, yêu tới giọt máu cuối cùng, yêu bằng cả mạng sống mình. Và đối tượng của tình yêu đó là ai? Là một người đáng yêu, người tốt lành, cao thượng chăng? Thưa, không! Gioan tiếp tục: “Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1Ga 4,8-10) Nếu Gio-an đã từng được mệnh danh là Tông Đồ tình yêu, thì là vì ông đã được tận mắt chứng kiến cảnh tình yêu đó được biểu lộ cách huy hoàng và triệt để nhất trên thập giá, trên đó Giê-su đã đổ tới giọt máu cùng nước cuối cùng.
Phao-lô, tuy không có dịp được chiêm ngắm thập giá trực tiếp như Gio-an, nhưng tất cả những gì ông biết được về Đức Ki-tô Giê-su lại chính là ‘Đức Ki-tô Thập Giá’, mà ông luôn miệng khảng định: ‘tôi không biết một Đức Ki-tô nào khác’. Nhìn lên thập giá, Phao-lô đã nhận ra: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8) Riêng với bản thân, Phao-lô đã cảm nghiệm cách thâm sâu: “tôi đặt niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng yêu thương tôi và phó nộp mình cho tôi, ngay cả khi tôi phảm nghịch cùng Người”.
Nếu thế thì chính tôi, trong tư cách một linh mục, tôi nhận thấy điều gì nơi Thập giá? Hơn cả Gio-an chỉ đứng nhìn, hàng ngày tôi cử hành Thánh Lễ. Mỗi khi uống cạn chén Máu Thánh, được trực tiếp chạm vào máu và nước từ cạnh sườn Đức Giê-su chảy ra, tôi có nhận ra tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho một tội nhân như tôi? Đối với tôi thập giá mang ý nghĩa sống còn, hay chỉ là một biểu tượng chung chung? Tôi có còn mơ ước hay khâm phục một Giê-su nào khác, một Giê-su làm phép lạ, một Giê-su ban ân huệ này nọ, một Giê-su thông thái giảng dạy, một Giê-su uy nghi đến trong vinh quang để xét xử… hơn là một Giê-su chịu đóng đinh vì yêu thương tôi? Tôi sẽ chưa phải là linh mục của Đức Ki-tô, nếu tôi chưa chịu đóng đinh, chịu hiến mình… tới giọt máu cuối cùng. Được gọi là Linh Mục của Đức Ki-tô, và hàng ngày cử hành Thánh Lễ, thực tế tôi đang là gì và làm gì?
Lạy Đấng chịu đóng đinh và phó nộp cả mạng sống mình cho con, xin làm cho con được, như Gio-an, tựa đầu vào lồng ngực đầy yêu thương, để rồi nhận ra trong đó đang thoi thóp một quả tim đã cạn kiệt tới giọt máu cuối cùng vì yêu thương con. Con cảm tạ Chúa vì hồng ân linh mục con đã được trao ban, trước hết là vì lợi ích của chính con: được diễm phúc cử hành hiến tế Thập Giá mỗi ngày. Xin cho con có cắp mắt vả cõi lòng của Gio-an. Xin soi sáng và củng cố con để có được niềm xác tín và nhận thức của Phao-lô, nhờ thế Thập giá, phải, chính thập giá chứ không gì khác, sẽ trở nên gia sản và vinh quang lớn nhất của đời con. Amen.
13. Sống Cao Đẹp Chết Không Cùng – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đời người, ai cũng chết, nghĩa là ai cũng sẽ một lần nhắm mắt xuôi tay. Từ giã bạn bè, người thân ra đi biền biệt. Cái chết là phận số của con người. Không ai mà không chết. Điều quan yếu là chết cách nào? Chết để người đời thương nhớ, lưu danh hay chết là niềm vui của xã hội vì đã loại được một người ăn bám xã hội và hại người.
Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận nhưng xem ra vẫn chưa tận. Vì sau cái chết vẫn còn những lời xì xầm bình loạn của thế gian. Lắm khi cái ác mà người chết gây ra quá lớn thì dẫu chết cũng chưa tận, trong nỗi đau đã khoét sâu trong lòng người sống, khiến số đông không cam lòng. Và, chỉ có thể là “tận nghĩa” giữa cuộc tiễn đưa vắng bóng người, thậm chí không có nước mắt tiếc thương.
Có lẽ nhiều người cũng sợ cái chết của mình chưa tận với miệng lưỡi thế gian, nên trang mạng Facebook đang lan truyền ứng dụng Sát Thủ- chết bất hủ. Sát thủ – chết bất hủ là một ứng dụng dự đoán vui về kết thúc cuối đời của người tham gia. Những lý do chết mà ứng dụng tiên đoán đều khiến người xem bật cười ngay lần đọc đầu tiên. Kiểu như Chết cháy vì táy máy vào ổ điện, Ngủm vì ngửi phải mùi thum thủm, Chết vì nghĩa tình đã hết, Ra đi vì vợ nghi cặp bồ, Thăng vì rụng hết răng không ăn được, Nghẻo vì trèo cây cao, Thăng vì quá lăng nhăng. . .
Thực ra chết cách nào không quan trọng mà là sống thế nào để khi chết vẫn còn có người thương nhớ. Người chết không “tận” nơi người sống mà họ vẫn ở lại trong trái tim người sống về những hình ảnh yêu thương phục vụ của người ra đi. Họ đã sống đẹp cho đời thì hình ảnh đẹp ấy vẫn được người đời muôn đời ca tụng.
Con người và cuộc đời Chúa Giê-su dường như không kết thúc. Ngài vẫn sống trong lòng nhân loại dầu Ngài đã hiến tế cuộc đời trên đồi Golgotha cách đây hơn 2000 năm. Ngài vẫn ở lại trong trái tim từng người vì Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì loài người chúng ta.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su chúng ta chỉ thấy hai chữ hy sinh. Ngài hy sinh nên nhập thể làm người. Ngài hy sinh nên dong ruổi suốt dọc dài đất nước Palestine để thi ân, để cúi xuống phục vụ mọi mảnh đời khổ đau. Sự hy sinh của Ngài nên tới đỉnh điểm là chết cho người mình yêu. Ngài có thể tháo lui trước nhục hình. Ngài có thể từ chối uống chén đắng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã dùng cái chết để mở ra cho nhân loại một con đường về với trời cao. Ngài chết để minh chứng về Chúa Cha, và vì vâng phục Chúa Cha mà Ngài bằng lòng chịu chết. Sự chết của Ngài đã giao hòa con người với Thiên Chúa Cha, để từ nay nhờ hiến tế của Con Thiên Chúa mà con người được trở về nhà Cha.
Hôm nay chúng ta suy tôn thánh giá Chúa. Suy tôn tình yêu tự hiến hy sinh của Chúa. Nhờ hiến tế trên đồi Calve mà con người được sống trong ân nghĩa cùng Chúa Cha. Trong Phúc âm ghi lại: “Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua” (Ga 19,37). Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy tình yêu hiến dâng đến quên cả tính mạng cho người mình yêu. Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy mình cũng có trách nhiệm trong cuộc thương khó của Chúa, trong nỗi đau của anh chị em mình. Ngắm nhìn Đấng đã bị đâm thâu để biết sống bù đắp những lỗi lầm của mình đã và đang gây đau khổ cho anh chị em mình.
Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh giúp chúng con mỗi lần ngắm nhìn Chúa biết giục lòng ăn năn thống hối và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho cuộc đời chúng ta sẽ mãi không “tận” trong lòng anh em, mà sống mãi trong mọi người nhờ những hy sinh đóng góp của chúng ta. Amen.
14. Nhìn Ngắm Thánh Giá Khám Phá Tình Yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu Chuyện Tình Yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03.2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết“.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta” (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu“.
Thờ Lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
15. Tiếng Nói Của Tình Yêu Thương – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Nếu như người ta vẫn nói trái tim có lý lẽ của nó, thì chúng ta cũng có thể nói : Tình yêu cũng có ngôn ngữ riêng của nó. Ngôn ngữ của tình yêu không chỉ là những lời lẽ ngọt ngào, mà còn là những ngôn ngữ không lời, những dấu chỉ không thành tiếng. Ngôn ngữ của tình yêu, không chỉ được nghe bằng tai, mà còn bằng sự cảm nhận của trái tim, ngắm nhìn bằng con mắt và tiếp xúc bằng các giác quan.
Có thể nói bầu khí phụng vụ của ngày Thứ sáu Tuần thánh mang những màu sắc và cung điệu trầm buồn, nhưng trong sự trầm lắng này, chúng ta như có thể nghe được tiếng nói và đụng chạm được đến tình yêu của Thiên Chúa qua cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu.
Có những người cho rằng, phải chăng cái ác và sự bất công luôn thắng thế ? Phải chăng Thiên Chúa cũng chịu thua trước sức mạnh của ma quỷ và sự dữ ? Tại sao một Thiên Chúa vô tội lại phải chịu một bản án bất công như vậy ? Chúng ta sẽ không thể trả lời được bằng những lý lẽ thông thường, mà chỉ có thể trả lời rằng : Thiên Chúa có cách riêng của Ngài để bày tỏ tình yêu thương đối với con người.
Tiên tri Isai đã thấy trước và đã nói về Chúa Giêsu trong hình ảnh của một người tôi tớ chịu đau khổ. Người tôi tớ này một mực trung thành với Thiên Chúa. Nhìn dáng vẻ bề ngoài, người ta chỉ có thể thấy một gương mặt tan nát, một thân xác tả tơi vì bị hành hạ. Ngài hoàn toàn im lặng đón nhận tất cả sự xỉ nhục, hành hạ của kẻ dữ mà không buông một lời oán trách. Ngài đón nhận tất cả tội vạ của muôn dân, gánh chịu muôn nhục hình do tội nhân loại. Bị ngược đãi, Ngài không mở miệng phản kháng, giống như chiên cừu khi bị xén lông. Tiên tri Isai cho thấy, Người Tôi tớ của Thiên Chúa chịu tất cả những hành hạ ấy, chỉ vì một lòng hiếu trung với Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa được vinh danh và để đem lại sự sống và ơn tha thứ cho nhân loại.
Hình ảnh Người Tôi Trung đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu và được thánh Gioan thuật lại trong bài thương khó hôm nay. Có người đặt vấn đề : Chúa Giêsu có thể tránh cuộc khổ nạn và dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại không ? Chắc chắn Chúa có thể dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại, nhưng Chúa đã không tìm cách tránh né. Ngài đối diện và đón nhận thập giá với lòng yêu mến, vâng phục tuyệt đối dành cho Thiên Chúa Cha và tình yêu vô hạn dành cho con người, là những kẻ được Chúa yêu thương.
Trong cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đau khổ thể xác bởi sự hành hạ dã man của những tên lính, thánh Gioan còn cho thấy, Chúa Giêsu vô cùng đau khổ trong tâm hồn bởi những người Ngài thương yêu đã gây tổn thương cho Ngài. Ngay từ bữa tiệc ly tối hôm qua, Chúa đã thể hiện tình yêu đến cùng dành cho các môn đệ, qua việc trao ban chính con người và mạng sống để làm của ăn của uống cho nhân loại. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để thể hiện tình yêu thương và dạy các ông bài học phục vụ. Trong lúc đó, các tông đồ dường như không quan tâm, họ tỏ ra dửng dưng trước hành động của Chúa Giêsu và quay sang bàn với nhau về chuyện khác.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đau đớn với tâm trạng bị phản bội bởi kẻ Ngài yêu thương là Giuđa. Ngài đã tin tưởng anh, đã yêu thương anh như những môn đệ khác, vậy mà giờ đây, chính anh lại đưa các thượng tế và quân lính đến bắt Thầy mình. Anh đã trở thành kẻ chỉ điểm để người ta bắt Thầy, anh đã lấy cái hôn làm dấu chỉ để phản bội Thầy. Người ta chỉ hôn nhau khi thể hiện tình yêu thương, nhưng Giuđa lại dùng cái hôn để làm dấu chỉ phản bội. Cái hôn ấy chẳng khác gì cái tát vào mặt Chúa Giêsu.
Không chỉ sự phản bội của Giuđa gây đau khổ trong tâm hồn Chúa Giêsu, các tông đồ khác cũng không khá hơn. Các ông trước đây có người từng thề sống thề chết với Thầy, thì giờ đây, chỉ một chút sợ hãi, các ông đã bỏ trốn hết. Simon Phêrô là người được Chúa tin tưởng đặt làm đầu trong anh em, ông chỉ dám đi theo Chúa xa xa vì sợ liên lụy. Khi thử thách đến, Phêrô đã không ngại ngần từ chối mối liên hệ của mình với Thầy Giêsu, Đấng đã yêu thương ông.
Một đau khổ khác mà Chúa Giêsu phải chịu, đó là sự vô ơn và vô cảm của đám đông. Trong những người la hét đòi đóng đinh Chúa, không thiếu những kẻ mới mấy ngày trước họ hoan hô, vỗ tay reo mừng khi Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là con vua Đavít. Thế mà trước dinh Philatô, họ đã trở mặt và tuyên bố : Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesare.
Trong lúc chịu đau khổ cùng cực trong tâm hồn và thể xác, chúng ta nhận thấy lòng thương xót của Chúa Giêsu vẫn tuôn trào qua hành động đón nhận tất cả những cực hình và qua ánh mắt yêu thương, tha thứ của Chúa. Trong lúc quân dữ đang hùng hổ tìm bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức ôn tồn, bình tĩnh bước ra gặp chúng và hỏi : Các anh tìm ai ? Nó đáp : Tìm Giêsu Nazareth. Ngài đáp : Chính tôi đây. Một lời nói với đầy sức mạnh và uy quyền đã khiến chúng bật ngã ra đàng sau. Lúc chúng ra tay bắt Chúa, Đức Giêsu đã không nghĩ đến mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với chúng : Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để những người này đi.
Lúc dân chúng tố cáo Chúa Giêsu trước mặt các Thượng tế về các bài giảng của Ngài, Chúa Giêsu đã không lên tiếng biện hộ cho mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với những kẻ tra hỏi Người : Tôi giảng dạy công khai trong đền thờ, tôi không nói gì lén lút cả, xin các ông cứ hỏi những người đã nghe tôi, chính họ biết tôi đã nói gì. Thánh Gioan đã tinh tế cho thấy : Trong khi trong dinh thượng tế, Chúa Giêsu vẫn hết lòng tin tưởng và yêu mến những kẻ Ngài đã tuyển chọn, thì bên ngoài, Phêrô, kẻ được Ngài tuyển chọn, lại công khai từ chối Chúa tới ba lần trước mặt một đứa đầy tớ gái. Lúc này, tình yêu thương của Thiên Chúa đã thể hiện qua cái nhìn của Chúa Giêsu. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã gặp được ánh mắt sợ hãi, phản bội của Phêrô, khiến cho Phêrô cảm thấy ân hận suốt đời trước một tình yêu quá lớn lao.
Trước dinh Philatô, Chúa Giêsu cảm nhận sâu xa và đau đớn vô cùng bởi sự bội bạc, vô ơn của đám dân chúng. Họ đã chọn đứng về phía sự ác và sự dữ khi đòi tha Baraba và giết Giêsu. Họ công khai từ chối thẩm quyền của Thiên Chúa để quy phục quyền bính của một ông vua đang đô hộ họ. Những người Do Thái đã rắp tâm loại trừ Chúa Giêsu và họ đã tìm mọi cách gây áp lực để đạt được ý đồ gian ác của họ. Khi Chúa Giêsu phải vác thập giá trên vai, bước đi những bước nhọc nhằn, thì quân lính và dân chúng hả hê, thỏa mãn vì đã đạt được mưu đồ của họ là vùi dập một con người cho đến chết. Cái ác dường như thắng thế, công lý dường như bất lực, Thiên Chúa dường như cũng im lặng trước khổ đau của Chúa Giêsu. Nhưng trong khung cảnh tối tăm của sự ác ấy, ánh sáng của tình yêu vẫn không hề bị dập tắt.
Thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu, đã cảm nhận được sự đau khổ và tình yêu của Chúa qua hành trình thập giá. Mỗi bước đi, mỗi chặng dừng, từ dinh Thượng tế Anna đến Caipha, từ dinh Philatô đến dinh Herode và từ dinh Philatô đến cái chết thảm thương trên thập giá đồi Calvariô, là một chặng đường dài của lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nếu chỉ nghe hoặc xem lại cuộc thương khó của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy một cuộc hành hình bất công, đầy hung ác, tàn bạo và máu me. Nhưng nếu chúng ta nghe bài thương khó này bằng trái tim và bằng sự cảm nhận của tâm hồn, chúng ta sẽ được đụng chạm đến tình thương của Thiên Chúa. Và, nếu chúng ta lắng nghe cuộc thương khó của Chúa trong thinh lặng, để cho trái tim mở ra, chúng ta sẽ nhận ra hình ảnh và trách nhiệm của mình có liên quan trong cuộc hành hình này.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta suy niệm chiều nay là cách thức Thiên Chúa nói với con người về một tình yêu bao la, về lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người. Với tiếng nói tình yêu này, chúng ta không chỉ nghe bằng tai, nhưng xin cho trái tim của chúng ta cũng biết lắng nghe, biết mở ra để cho lòng thương xót của Chúa đổ tràn trong chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ biến mình trở thành kẻ dửng dưng vô tình trước tình yêu của Chúa và cũng đừng bao giờ đóng cửa trái tim trước nỗi khổ đau của anh chị em. Amen.
16. Nghịch Lý Của Thánh Giá – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Buổi chiều hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Buổi chiều hôm nay là “giờ” của Thiên Chúa Cha đã định, và cũng là “giờ” của Đức Giêsu hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại; “giờ” của người Tôi Trung mà tiên tri Isaia đã loan báo. “Giờ” đó được hoàn tất trên Thánh Giá. Vì thế, phụng vụ chiều hôm nay đều quy chiếu về Thánh Giá Đức Kitô như một sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến cuối.
1/ Nghịch lý của Thánh Giá
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8); và Ngài đã chết theo như lời Thánh Kinh (x. 1Cr 15,3).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã là nguyên nhân để nhiều người được cứu độ, nhưng cũng không thiếu những kẻ cứng lòng, cố chấp và trai lỳ trong ích kỷ, kiêu ngạo. Những người như thế, họ coi đó như là hình phạt mà Đức Giêsu là người đáng phải chịu do tội mình gây nên.
Thật vậy, khi thập giá được dựng lên, và khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, đã không biết bao người tin theo và suy tôn. Tuy nhiên, cũng không thiếu những lời chê bai dè bửu và khinh thường. Họ coi thập giá như là thứ đồ tể đáng sợ để trừng phạt những tử tội oái oăm, khét tiếng và nguy hiểm… Suy nghĩ như thế, thì cái chết của Đức Giêsu không có công trạng gì, mà chỉ như là một hình phạt đích đáng được dành cho một kẻ đã từng bị kết án vì tội “sách động dân chúng; tìm cách lật đổ chế độ và nói lời phạm thượng”. Và, những người theo Đức Giêsu phải chăng họ là bọn người cuồng tín khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một kẻ bị treo trên cây gỗ như một tử tội!
Thật vậy, thập giá của Đức Giêsu hôm nay được tôn vinh, đã làm không ít người cảm thấy ngỡ ngàng, bởi vì xét theo người đời, thì đây chính là sự ô nhục, hận thù, đáng ghét… là biểu tượng của sự chết chóc và thập giá vẫn chỉ là dụng cụ ghê rợn được dùng để sử tử tội nhân mà thôi.
Nhưng đối với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan khôn dò thấu của Người. Thánh Phaolô đã nói: “Con Thiên Chúa chết trên thập giá là một trong những đường lối khôn ngoan sâu thẳm mà không một ai dò thấu” (x. Rm 11,33). Bởi vì Thiên Chúa đã dùng thập giá như một sự nghịch lý để cứu độ con người.
Thực ra thập giá luôn mang tính nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ.
Nhưng với những người tin, hẳn sự cảm nghiệm, suy nghĩ và thái độ hoàn toàn ngược lại. Những người đó sẽ coi thập giá trở thành Thánh Giá và Thánh Giá lúc này trở thành phương dược, để qua đó Đức Giêsu chuộc tội thay con người và cứu độ nhân loại.
Nếu xưa kia trong vườn Địa Đàng, Ađam đã ngã gục trước Cây Trái Cấm, và gieo rắc tội lỗi cho nhân loại, thì giờ đây, trên cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì mà Ađam đã đánh mất và để lại hậu quả cho nhân loại.
Như vậy, từ Cây Trái Cấm, sự chết đã tiêu diệt thế gian, và Trái Cấm là rào cản lớn đến độ con người không thể vượt qua, thì giờ đây, từ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì đã mất do Nguyên Tổ gây nên và mặc cho nó thành cây Sự Sống, quả Phúc Trường Sinh.
Chính Đức Giêsu đã khẳng định rõ điều này khi nói: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên xưng niềm tin và ơn cứu chuộc của mình nơi Thánh Giá, ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa […] Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (nhưng) cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (x. 1Cr 1,18-25).
Vì thế, “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
2/ Đón nhận Thánh Giá như nguồn ơn cứu rỗi
Cuộc đời của người Kitô hữu, tức là cuộc đời của những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người luôn nghe thấy lời mời gọi của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? “ (Mc 8,34-36); và: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).
Lời mời gọi đó đã được gióng lên ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội cũng như suốt cuộc đời của mỗi người chúng ta. Như vậy, Thánh Giá trở nên cứu cánh và việc vác Thánh Giá trở thành điều kiện cần của chúng ta trên hành trình dõi bước theo Đức Giêsu.
Thánh Giá mà mỗi chúng ta phải vác ở đây chính là bổn phận phải chu toàn; là từ bỏ những thứ không cần thiết trên hành trình tin Chúa; là từ bỏ ý riêng… và phục vụ trong yêu thương.
Làm được như thế, ấy là chúng ta sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Giêsu. Đặt bước chân của ta vào dấu chân của Chúa, để sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng.
Như vậy, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy khi tuyên xưng: “ Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào thập giá […] (Và) tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi ” (Gl 2,19-20).
Mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, người kitô hữu chúng ta sẽ từ bỏ con đường tội lỗi, để được hiệp thông cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn của Ngài, và như một định luật đối với những người tin và theo Đức Giêsu là: qua đau khổ thì mới được vào vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng chịu treo trên Thánh Giá, xin thương xót và cứu chuộc chúng con. Amen.
17. Suy Niệm Thứ Sáu Tuần Thánh – Lm. Giuse Trực
Con là ai trong hành trình thương khó của Chúa?
Con có phải là những Thượng tế, những biệt phái và Pharisêu muốn tiêu diệt Chúa để đừng làm phiền, đừng ai nhắc nhở những sai trái của con không?
Con có phải là dân chúng bàng quang, hoặc có tâm lý hùa theo đám đông mà không dám nói lên chính kiến của mình, để sẵn sàng làm ngơ hoặc hùa theo để kết án người khác?
Con có phải là những tên lính đã đánh đòn, đóng đinh, hành hạ Chúa cho hả cơn giận của con, mặc dù con biết Chúa không có tội gì. Có những bực bội, bức bối gì, về nhà con đổ trên đầu những người thân mà con có vẻ “trên cơ” họ?
Con có phải là những người phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương chỉ vì tội nghiệp Chúa chứ chưa biết phải làm sao để cho Chúa hết đau?
Con có phải là tên trộm oán trách cuộc đời và thách thức Chúa: “Ông là con Thiên Chúa thì tự cứu mình và cứu chúng tôi với”?
…
Hay con là Simon sẵn sàng vác lấy thánh giá Chúa bằng cách san sẻ nỗi đau với người khác?
Hay con là Đức Mẹ, mạnh dạn, can trường bước theo con đường đau khổ của Chúa, không một vẻ yếu nhược, không một lời than thở, không một chút kêu than?
Hay con là Gioan đón lấy sứ mạng của Chúa để sẵn sàng hiến thân mình cho những chương trình, hoạch định của Chúa?
…
Có lẽ, lạy Chúa, xin cho con giống như viên đại đội trưởng: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 23, 47). Đã biết bao lần con ngước nhìn lên Chúa bị đóng đinh, nhưng con đã xác tín niềm tin vào Chúa chưa? Câu hỏi này tiếp tục vang vọng trong tâm hồn con. Vang mãi, vang mãi cho đến chết.
18. Giờ Thương Xót – Trầm Thiên Thu
Bửu Huyết Giêsu tươi màu Cứu Độ
Oan khiên thế giới hóa sắc trong ngần
Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang của Kitô giáo – nói riêng, và của cả nhân loại – nói chung. Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Không có Lòng Chúa Thương Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!
Cuộc chia ly nào cũng bịn rịn, lưu luyến, đau khổ và đãm đầy nước mắt, nhất là cảnh biệt ly khi người thân về bên kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly thường là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát, nhưng lại nặng nề trôi… ngỡ như thăm thẳm! Và giây phút cuối đời cũng là lúc người ta nói thật nhất.
Chúa Giêsu có hai bản tính: Thần Tính và Nhân Tính (1). Về nhân tính, Ngài cũng rất đau đớn vì đã kiệt sức do đòn roi suốt đêm, vác Thập Giá lên đồi cao theo con đường gập ghềnh, ngoằn ngoèo, Ngài té lên té xuống nhiều lần, trong khi phải chịu đói chịu khát vì mất máu nhiều, Ngài còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo lại bị đinh ghim chặt chân tay, và cuối cùng bị lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn. Rất nhức buốt. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Thân xác Ngài tàn tạ, tiều tụy, tơi tả, đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng cũng chảy ra hết vì thương xót nhân loại. Chúng ta chỉ bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên rồi!
Con Chiên Hàm Oan
Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho “tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14). Nhưng mọi người đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15). Người tôi trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).
Chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên vẫn thấy… bình thường, và cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Kinh Thánh cũng đã nói: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1). Thật khó tin, nhưng lại hoàn toàn là sự thật!
Ngôn sứ Isaia mô tả chi tiết: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!
Bảng đối chiếu liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài bịnghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trí óc loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”. Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”, nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí “Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và “vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy chịu đủ thứ khổ hình vì các tội nhân là chúng ta, chứ Người Ấy chỉ bị hàm oan, vì Người Ấy hoàn toàn vô tội.
Cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”(Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có rất nhiều tội lỗi của mỗi chúng ta!
Thánh Vịnh đã nói lời cuối của Người Ấy – một người trong cơn hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).
Người Ấy chấp nhận mọi thiệt thòi và luôn vững tin cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18). Người Ấy là ai? Là Đức Kitô, là Thầy Giêsu, là Chúa của chúng ta.
Thánh Phaolô minh định: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vìNgài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.
Khi Còn Sống Kiếp Phàm Nhân, Và Theo Nhân Tính, Đức Giêsu Cũng Đã Từng Lớn Tiếng Kêu Van Khóc Lóc Mà Dâng Lời Khẩn Nguyện Nài Xin Lên Đấng Có Quyền Năng Cứu Ngài Khỏi Chết. Ngài Đã Được Nhậm Lời Vì Có Lòng Tôn Kính. Vâng Phục Không Là Điều Dễ, Vì Phàm Nhân Chúng Ta Đầy Tự Ái Và Kiêu Sa, Ngay Cả Con Thiên Chúa Cũng Đã “Phải Trải Qua Nhiều Đau Khổ Mới Học Được Thế Nào Là Vâng Phục” (Dt 5:7). Thật Không Hề Đơn Giản Chút Nào! Nhưng Chính Lúc Đó Là Lúc Bản Thân Đạt Tới Mức Thập Toàn Để Rồi “Ngài Trở Nên Nguồn Ơn Cứu Độ Vĩnh Cửu Cho Tất Cả Những Ai Tùng Phục Ngài” (Dt 5:9). Trước Khi Vinh Quang Và Được Coi Là Công Trạng Thì Luôn Phải Trải Qua Chặng Đường Gian Khổ. Đức Kitô Cũng Đã Trải Qua “Chặng Đàng Thánh Giá” Và Cái Chết Mới Tới Sự Phục Sinh Vinh Quang.
Đón Nhận Đau Khổ
Phúc Âm hôm nay là bài trường ca đau khổ, là tấn bi kịch trầm hùng, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ diệu biết bao!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong mười hai đệ tử “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo – không đáng bao nhiêu so với bình dầu cam tùng mà cô Maria (Ga 12:1-8; x. Ga 11:1-2) đã xức chân Thầy Giêsu tại Bê-ta-ni-a.
Người ta đã tìm mọi cách gài bẫy, lục soát, và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “chiếc ghế quyền lực”, thế nên họ làm mọi cách hạ nhục Ngài đủ mưu đủ chước. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Khi Ngài điềm nhiên hỏi họ tìm ai, họ ngang nhiên đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói “chính tôi đây”, họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Ấy thế mà họ vẫn cố chấp, cố ý nhắm mắt chứ không chịu mở mắt. Có lẽ lúc này Giuđa là người đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài – tức là bọn thủ ác bị mắc lừa. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu nổi!
Họ lồm cồm bò dậy. Ngài lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ vẫn cương quyết như đinh đóng cột: “Tìm Giêsu Nadarét”. Họ vẫn không hề tởn chút nào. Gan cóc tía. Lì thật! Và rồi Đức Giêsu thản nhiên nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9). Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén màChúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11). Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.
Họ bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14). Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!
Nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay!
Mặc dù Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói gì, không nửa lời tự biện minh cho mình là đúng, không một lời kêu oan nào!
Đến khi bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22). Hỗn láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá!
Sau Đó, Ông Kha-Nan Cho Giải Ngài Đến Thượng Tế Cai-Pha, Ngài Vẫn Bị Trói. Lúc Đó Trời Vừa Sáng. Họ Không Vào Dinh Vì Sợ Bị Nhiễm Uế Mà Không Ăn Lễ Vượt Qua Được. Họ Chỉ Lo Giữ Bề Ngoài Mà Không Chú Trọng Bề Trong. Đó Là Một Dạng Động Thái Giả Hình. Tổng Trấn Philatô Ra Ngoài Gặp Họ Và Hỏi Xem Họ Tố Cáo Chúa Giêsu Về Tội Gì, Nhưng Họ Đáp: “Nếu Ông Này Không Làm Điều Ác, Thì Chúng Tôi Đãchẳng Đem Nộp Cho Quan” (Ga 18:30). Họ Cố Chấp Và Cố Tình Không Thèm Nhận Những Hành Động Tốt Của Chúa Giêsu. Trước Áp Lực Của Dân, Ông Philatô Hỏi Chúa Giêsu: “Ông Có Phải Là Vua Dân Do Thái Không?”. Đức Giêsu Không Nhận Và Nói: “Nước Tôi Không Thuộc Về Thế Gian Này. Nếu Nước Tôi Thuộc Về Thế Gian Này, Thuộc Hạ Của Tôi Đã Chiến Đấu Không Để Tôi Bị Nộp Cho Người Do Thái. Nhưng Thật Ra Nước Tôi Không Thuộc Chốn Này” (Ga 18:36). Vậy Mà Ông Philatô Vẫn Không Hiểu Nên Hỏi: “Vậy Ông Là Vua Sao?”. Đức Giêsu Đáp: “Chính Ngài Nói Rằng Tôi Là Vua. Tôi Đã Sinh Ra Và Đã Đến Thế Gian Nhằm Mục Đích Là Làm Chứng Cho Sự Thật. Ai Đứng Về Phía Sự Thật Thì Nghe Tiếng Tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô “Dốt Đặc Cán Mai” Nên Ngớ Ngẩn Hỏi: “Sự Thật Là Gì?” (Ga 18:38).
Theo Tục Lệ Của Người Do Thái, Vào Mỗi Dịp Lễ Vượt Qua, Họ Thường Phóng Thích Cho Một Tội Nhân. Ông Philatô Hỏi Họ Muốn Tha Chúa Giêsu Hay Không, Họ La To: “Đừng Tha Nó, Nhưng Xin Tha Baraba!” (Ga 18:40). Baraba Là Một Tên Cướp Khét Tiếng, Vậy Mà Họ Còn Thương Mến Và Yêu Quý Hơn Là Chúa Giêsu. Lạy Chúa Tôi!
Thế Là Tổng Trấn Philatô Truyền Đem Đức Giêsu Đi Mà Đánh Đòn. Họ Chụp Lên Đầu Ngài Một Vòng Gai Và Khoác Cho Người Một Áo Choàng Đỏ, Rồi Mỉa Mai: “Kính Chào Vua Dân Do Thái!”, Và Vả Vào Mặt Ngài. Như Vậy, Nhân Vị Của Ngài Đã Bị Khinh Miệt, Nhân Phẩm Của Ngài Bị Chà Đạp, Và Nhân Quyền Của Ngài Cũng Bị Tước Đoạt. Ông Philatô Dẫn Chúa Giêsu Ra Ngoài Để Đám Đông Thấy Ngài Không Còn Hình Tượng Một Con Người Mà Thương. Nhưng Vừa Thấy Ngài, Các Thượng Tế Cùng Các Thuộc Hạ Liền Kêu Lên Rằng: “Đóng Đinh Nó Vào Thập Giá!” (Ga 19:6). Một Lần Nữa, Ông Philatô Lại Khiếp Nhược Nên Bảo Họ: “Các Người Cứ Đem Ông Này Đi Mà Đóng Đinh Vào Thập Giá, Vì Phần Ta, Ta Không Tìm Thấy Lý Do Để Kết Tội Ông Ấy” (Ga 19:6).
Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, người đó quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói ngả, nói nghiêng, nói xuôi, nói ngược, nói tới, nói lui, và họ có nói gì thì Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt! Và Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô cũng đành cho thi hành án tử đối với “tử tội công chính” là Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập Giá lên đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp (2). Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí.
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế, Giáo hội không cử hành thánh lễ mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh Giá và rước lễ.
Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”, nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).
Một điểm khác chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”. Ui da! Thật là nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó!
Giờ Thương Xót đã điểm. Người được lãnh Hồng Ân Thương Xót đầu tiên là tướng cướp Dismas, tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu: “Hôm nay, anh sẽ được ởvới tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Diễm phúc biết bao!
Hôm nay, khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội cầu nguyện cho mọi tầng lớp trong xã hội, ước gì chúng ta cũng quyết tâm thực hành lời Thánh Vịnh: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82:3-4). Đó là sống lòng thương xót. Chúng ta đã được Chúa Giêsu thương xót, chúng ta không thể không thương xót người khác!
Ơn Cứu Độ thật tuyệt vời: Máu Chúa đỏ tươi đã tẩy rửa tội nhân chúng ta nên trắng ngần. Xin trọn đời tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, chúng con đã a dua và đồng lõa với cái ác màcứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Chúng con chân thành thú nhận mọi lỗi lầm, thành tâm xin lỗi Chúa và xin lỗi tha nhân. Xin thương xót chúng con và ban cho chúng con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của chúng con. Amen.
(1) Thần Tính và Nhân Tính (8+8=16) của Chúa Giêsu:
(2) Híp-ri: יסוע נצריא מלכא דיהודיא; Latin: Iēsus Nazarēnus, Rēx Iūdaeōrum; Hy Lạp: Ιησουσ Ο Ναζωρεοσ Ο Βασιλευσ Των Ιουδαιων.
19. Chiến Thắng Đau Khổ – Lm. Jos. Dđh
Vui thì cười, buồn thì khóc, có sinh ắt có tử, đó là quy luật; trong cuộc sống có đau khổ, buồn chán, thất vọng, nhưng phía sau đó có bình an, có được vinh quang hạnh phúc, còn tùy mỗi người. Các bậc làm cha mẹ kể về thành tích cho con cháu nghe, bao giờ cũng dễ hơn là kể về thất bại của họ. Người đời cho rằng : con hư tại mẹ cháu hư tại bà, ngụ ý là con cái hư hỏng, bất hiếu là vì cha mẹ thiếu quan tâm chăm sóc giáo dục. Cũng không ít người lại đổ lỗi cho môi trường xã hội, là nguyên nhân làm thay đổi tâm tính con người : nhân chi sơ tính bổn thiện. (Mạnh Tử).
Chiều hôm nay phụng vụ mời gọi chúng ta suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, nhằm hướng lòng chúng ta có cái nhìn lạc quan hơn về thiện ác. Trước hết, Chúa Giêsu chịu đau khổ thập giá, chịu chết, hầu cứu con người khỏi án chết, đó không phải là hận thù, cũng chẳng phải là quy luật. Cuộc thương khó nhắc nhớ con người về Đấng đến trần gian thực hiện ơn cứu độ, Thiên Chúa yêu con người đến cùng tận. Mang bản tính con người giới hạn, khi gặp đau khổ, im lặng đã là khó rồi, nói chi đủ bình tĩnh để nói đến yêu thương tha thứ.
Xung quanh chúng ta, hàng ngày biết bao người vĩnh viễn ra đi vì già lão bệnh tật, đôi khi vì tai nạn nghề nghiệp, vì giao thông…. Có những cái chết thật đau thương như câu ca dao : lá vàng đeo đẳng trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời. Cuộc thương khó chúng ta đang suy niệm cho thấy có sự kỳ lạ, ba người bị treo trên thập giá, trong đó có hai trường hợp bị kết tội trộm cướp, Chúa Giêsu thì có bản án ghi trên đầu : “Giêsu Nagiarét, vua dân Do-thái”. Dân chúng đóng đinh vua nhất định phải là phản loạn, con cái lên án cha mẹ thì gọi là bất hiếu, con người tội lỗi mà xử án chết Thiên Chúa thì gọi là gì ?
Nhiều người vẫn thắc mắc, sao Đức Giêsu không xuống khỏi thập giá để trị tội những kẻ tội lỗi dám xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin thưa là bài thương khó cũng có nói rất nhiều người ở dưới cây thập giá lúc đó, cả anh trộm dữ treo bên tả Chúa cũng xỉ vả như vậy ! Thật ra, Kitô giáo chúng ta gọi là mầu nhiệm đau khổ, mầu nhiệm thập giá hoàn toàn chính xác. Nếu không phải là vì yêu, hẳn Đức Giêsu đã xuống khỏi thập giá để trị tội những kẻ gian ác rồi.
Với niềm tin Kitô giáo chúng ta, Đức Giêsu vô tội mà chịu đau khổ, chịu chết cho con người, nhất định phải là một minh chứng tình yêu mà họ đang mong chờ. Khi Đức Giêsu bị xét xử, số người âm thầm tin tưởng vào Ngài thì quá khiêm tốn, họ là người dân bình thường, nhưng lại trung thành theo Chúa Giêsu đến cùng. Dù sao số người tin yêu Chúa cũng là chút an ủi bé nhỏ con người danh cho Thiên Chúa, ngôn ngữ bình dân gọi là có còn hơn không.
Dưới mắt trần xác thịt, Đức Giêsu chịu bản án chết là thất bại hoàn toàn, nhưng người tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài thực sự đã vượt qua được đau khổ thập giá để đến vinh quang. Thập giá cuộc đời của mỗi người hôm nay, vẫn có đau khổ, sợ hãi, có cám dỗ bỏ cuộc, chỉ khi mắt tâm hồn ta rộng mở, ta mới thấy thập giá luôn có Chúa Giêsu hiện diện nâng đỡ.
Đức Giêsu trên thập giá thật sự đã dang tay yêu thương, chờ đón con người. Ngay từ đầu, Ngài có thể từ chối đau khổ thập giá, hoặc có thể loại trừ các học trò hư hỏng, hèn nhát bỏ Thầy bán Chúa. Ngài không xử như thế, Thiên Chúa là tình yêu, và yêu đến cùng tận, là yêu đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu là thế ! Nếu người trộm lành năm xưa thấy được Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương, lẽ nào chúng ta hôm nay lại không nhận ra Ngài đang chờ đợi mỗi người hay hành động sám hối như anh trộm lành. Xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hướng dẫn từng người chúng ta biết đi sâu vào trong mầu nhiệm tình yêu hiệp thông của Ngài. Amen.
20. Tình Yêu Cao Vời – Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su phán: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống cho bạn hữu mình” (Ga 9,13).
Đúng vậy, Ngôi Hai Thiên Chúa đã dâng hiến mạng sống Ngài cho loài người tội lỗi để cứu họ khỏi hư mất đời đời. Vì thế, tình yêu của Ngài thật cao vời khôn ví.
Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi hư mất đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng cùng với Chúa Cha tạo dựng nên vũ trụ càn khôn, tạo dựng nên mọi người trên thế gian này, đã hạ mình xuống thế làm người phàm yếu đuối, mang lấy tội lỗi của nhân loại vào thân và vì thế, phải chịu khổ nạn đau thương để đền tội thay, chết thay cho chúng ta.
Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa là Vua muôn vua, là Chúa muôn loài, đã để cho con người hèn hạ lùng bắt Ngài giữa đêm đen, buộc trói Ngài lại và điệu đi như một tên gian ác.
Chỉ vì muốn đền tội cho chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa là Vị Thẩm Phán uy nghi trên cõi trời cao, là Đấng ngự trên toà tối cao phán xét cả thiên thần lẫn loài người, đã để cho những tên phàm phu tục tử, đê hèn và đốn mạt đứng ra xét xử Ngài, xỉ vả, nhiếc mắng, vung tay tát vào mặt Ngài, thậm chí khạc nhổ lên khuôn mặt cao quý thánh thiện của Ngài.
Chỉ vì muốn đền tội cho chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể cả vũ trụ càn khôn, là Đấng đầy quyền năng phép tắc, đã để cho con người hèn mọn lột áo Ngài ra, quất lên thân thể Ngài những ngọn roi ác nghiệt. Ôi, những lằn roi ác nghiệt làm cho máu thánh Ngài tươm ra khắp toàn thân!
Chỉ vì muốn đền tội cho chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đầy quyền năng và sức mạnh, chỉ phán một lời đủ làm cho bão tố phải lặng yên, lại chấp nhận làm “Con Chiên” đền tội, để cho người ta đóng đinh tay chân Ngài vào Thập tự giá. Một khi chịu treo lên Thập tự giá, Ngài trở nên yếu đuối hơn cả những người yếu đuối nhất: Dù muốn xua đuổi ruồi mòng bâu vào các vết thương, chích hút máu mủ của mình, Ngài cũng không làm được.
Chỉ vì muốn cứu chuộc chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng bá chủ đất trời, là chủ nhân của mọi kho báu trong hoàn vũ, lại trở nên người nghèo thiếu hơn mọi người nghèo nhất thế gian: Chết trần, chết trụi không mảnh vải che thân.
Chỉ vì muốn cho chúng ta được sống đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và thông ban sự sống cho các thiên thần và loài người, giờ đây chỉ còn là một xác chết, để cho người ta an táng trong mồ.
Một Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ càn khôn, một Thiên Chúa đầy quyền năng phép tắc, một Đấng trao ban sự sống cho muôn vật muôn loài… đã trở thành một thi hài im lìm bất động, không chút hơi thở, không còn sự sống, nằm im lìm trong lòng đất!
Tất cả chỉ vì để đền tội và cứu chuộc chúng ta.
Giờ đây, trước Thánh giá Chúa Giê-su, chúng ta hãy tự hỏi mình:
Chúa Cứu Thế đã hy sinh tột bậc, hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả vì ta, chúng ta phải báo đáp thế nào cho cân xứng?
Chúng ta phải dốc lòng chừa tội là nguyên nhân gây ra cuộc khổ nạn đau thương của Chúa hay cứ tiếp tục phạm tội để Chúa phải đau khổ triền miên?
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã chịu đau khổ quá mức rồi, xin cho chúng con đừng tay lại, đừng phạm tội nữa để khỏi chất lên thân mình Chúa thêm nhiều cực hình và đau thương.
Chúa đã trả giá quá cao để cứu linh hồn chúng con khỏi tội lỗi và khỏi án phạt đời đời trong hoả ngục, xin cho chúng con quyết tâm chừa tội để khỏi làm lãng phí công trình cứu chuộc của Chúa.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu chết. Việc tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu không phải là ôn lại một kỷ niệm trong quá khứ, nhưng để chiêm ngắm việc Người chịu chết để ta khám phá ra Tình Vô tận mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Cái chết của Chúa Giêsu không phải như cái chết của một ông vua, một nhà lãnh tụ của quốc gia, của một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của loài người. Cái chết Chúa Giêsu là cái chết của Người Con Một, Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa.
Giáo hội như muốn mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng, từ các trang trí cho đến những bài ca phụng vụ, tất cả đều đưa chúng ta vào cõi thinh lặng. Thinh lặng để nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thập Giá, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ Thập Giá. Thập Giá vẫn mãi mãi là một mầu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa? Tại sao Con Một Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên Thập Giá?
Cái chết của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa : Đó là cái chết được báo trước : “Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người.” (Mc 10, 33-34). Đó là cái chết vì yêu mến Chúa Cha, để vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu chịu chết để tiêu diệt thần chết là ma quỷ và sự dữ.
Chúa Giêsu chịu chết vì tội lỗi của nhân loại, vì yêu thương và muốn cứu chuộc nhân loại. Nhờ sự chết của Chúa, loài người được giao hòa với Thiên Chúa. Nhờ sự chết của Chúa, con người được sống và được tham dự vào sự phục sinh của Người. Thật vậy, Chúa chịu chết để cho con người được hưởng vinh quang trong Nước Trời.
Cho dù có phải hy sinh, tủi nhục, đau khổ, bị bỏ rơi, Chúa vẫn sẵn sàng đi trọn con đường đau thương, vẫn trung thành vác thập giá và nhất là phải chết trên thập giá.
Trên thập giá, Chúa Giêsu trở nên “Chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian” (Ga 1,29), mang lấy tội lỗi nhân loại nơi thân mình Người. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5,21)
Thiên Chúa đã chết vì tội chúng ta. Thiên Chúa đã phải trả giá quá đắt để cứu loài người khỏi chết. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó! Vậy mà tôi vẫn vô tâm !
Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào những nỗi khổ đau của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mầu nhiệm của khổ đau.
Trong hai người cùng chịu treo trên Thập Giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào rửa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là trộm lành chỉ biết thốt lên lời van xin cứu vớt. Ðối với chúng ta, điều đó thật là phải lẽ, xứng với tội lỗi chúng ta. Kẻ trộm lành quả thực đã đi sâu vào mầu nhiệm của Thập Giá, ông đã nhận ra thân phận tội lỗi của mình.
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá trước tiên là một bày tỏ về bộ mặt tội lỗi của nhân loại. Mãi mãi Thập Giá vẫn là biểu trưng của sự độc ác của con người. Ðó là đỉnh cao trí tuệ của con người trong việc sáng chế ra những phương thế để hành hạ nhau, để loại trừ nhau, để chém giết nhau. Ðó là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại.
Nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập Giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập Giá không chỉ là mạc khải về tội lỗi của con người, nhưng tội lỗi còn là mặt trái của một nguồn ánh sáng vô biên.
Ðó là ánh sáng của tình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá là biểu tỏ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi ông quay nhìn sang Chúa Giêsu trên Thập Giá. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, người trộm lành chỉ có thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ khi được tình yêu Chúa Giêsu chiếu dọi vào. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn trìu mến và tha thứ của Ngài.
Ta còn được mời gọi nhìn thấy chính cây giá gỗ, trên đó Đức Giêsu chịu đóng đinh như là một dụng cụ nhục hình và tử hình. Thập giá là hình phạt tiêu biểu mà Lề Luật dành cho người phạm trọng tội. Vì thế, Thập Giá là biểu tượng cho công lí của con người.
Ấy vậy mà, người chịu đóng đinh là chính Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vô tội, Đấng công chính hoàn hảo; vì thế, sự công chính của con người chỉ là giả tạo, gian dối và chỉ có vẻ bề ngoài.
Nơi Thập Giá, Đức Kitô muốn giải thoát ta một cách chính xác khỏi sự công chính giả tạo nhân danh Lề Luật, sự công chính bề ngoài đến từ chính chúng ta, để trao ban cho chúng ta sự công chính của chính Ngài, sự công chính đích thật của con Thiên Chúa.
Nơi Thập Giá, Đức Kitô mang vào mình mọi “bệnh hoạn tật nguyền” của chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên lành mạnh, nên công chính cách nhưng không, như bài ca về “Người Tôi Tớ Đau Khổ” đã loan báo. Vì thế, trên tất cả, nơi thập giá của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nhìn ra trong tín thác và bình an thẳm sâu “Khuôn Mặt đích thật” của chính Thiên Chúa.
Và rồi khi khám phá ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, ta thấy một Tình Yêu vô tận đã yêu thương ta. Nhận ra như vậy, ta lại sống như thế nào đó cho xứng đáng với sự hy sinh tột cùng của Tình Yêu vô tận đó.
22. Nơi Thánh Giá Thiên Chúa Trao Tình Yêu – Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
Nhìn lên thánh giá, suy nghĩ nông cạn và non nớt của loài người dễ cho rằng, đó là một thất bại to lớn.
Thực ra, đối với Kitô hữu, Thánh giá chính là hiện thân, là sự thành công lớn lao của một tình yêu tận cùng, một tình yêu vượt hết mọi rào cảng, vượt thắng tất cả sự tàn nhẫn và tội ác của con người. Đó là một tình yêu hạ mình, một tình yêu mà Thiên Chúa là Chúa trời đất hiến dâng chính mình để cứu lấy con người.
Thánh Gioan ghi nhận lời của Chúa Giêsu, cũng chính là ghi nhận lời của Tình Yêu không cùng ấy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16).
“Yêu… đến nỗi đã ban”, cụm từ tuy đơn giản nhưng khắc họa sự lớn lao hết sức của tình yêu, đủ nói lên tất cả sức mạnh, tất cả sự tha thiết, tất cả sự mãnh liệt của một tấm lòng yêu thương.
Còn hơn cả một lòng yêu thương, bởi tình yêu của Đấng đã “Yêu… đến nỗi đã ban” ấy không phải như tình yêu con người dành cho nhau, nhưng là tình yêu của Đấng Tạo Thành dành cho thụ tạo của mình. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa hiến dâng cho loài người.
Và tình yêu mà Thiên Chúa đã ban, không phải là một cái gì bên ngoài Thiên Chúa, nhưng là chính bản thân Thiên Chúa, là chính Đấng phát xuất từ giữa cung lòng Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, là hiện thân khôn tả của tình yêu vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người.
Vì thế, khuôn mặt thập giá của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn nhất, là tiếng nói mạnh mẽ nhất, là nét bút tuyệt vời nhất, là vết khắc sâu sắc nhất về một tình yêu bền vững có một không hai trong lịch sử nhân loại, tình yêu của Thiên Chúa từ trời cao dành cho người trần thế.
Bởi vậy, cái chết của Con Người chịu đóng đinh kia, cho thấy chiến thắng của tình yêu siêu phàm. Cái chết uy hùng kia biểu dương một tình yêu mạnh hơn sự chết, có sức tiêu diệt hận thù và làm phát sinh từ trong cái chết của tội lỗi loài người một nguồn sống vô tận cho cả loài người.
Hôm nay, trong nghi thức tôn thờ Thánh Giá Chúa Giêsu, nhất là cùng nhau đến hôn kính chân tượng chịu nạn, chúng ta hãy mang hết tâm hồn đặt dưới chân Chúa để cảm tạ Người.
Trao dâng Con của mình, tức là Thiên Chúa trao tặng chính mình, trao tặng chính sự hy sinh lớn lao của bản thân để cứu độ chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đến vô cùng, hãy cảm tạ Thiên Chúa không phải bằng lời, nhưng bằng cả cõi lòng mình. Hãy ý thức thật sâu lắng và mạnh mẽ: Chúa yêu thương ta đến nỗi không còn kể mình nữa, miễn là ta được sống. Ý thức thật nhiều, để niềm ý thức ấy trở nên nung đốt tâm tình cảm tạ trong ta thật mãnh liệt, thật dồi dào, thật trào tràn.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Chúng con ca tụng Tình Yêu diệu kỳ của Chúa đã làm cho chúng con được tái sinh trong sự sống. Xin cho chúng con luôn ý thức Tình Yêu mà Chúa dành cho chúng con, để chúng con sống suốt đời cho Tình Yêu của Chúa, và ngày càng xứng đáng với mối tình siêu nhiên ấy. Amen.
23. Cuộc Khổ Nạn Dưới Con Mắt Của Gioan
Dưới con mắt của Gioan, cuộc Khổ nạn là một cuộc đấu tranh được thực hiện đầy quyền thế. Bị trói, bị tát, bị đóng đinh thập giá Chúa Giêsu áp đảo các quan tòa và các đao phủ, bảo vệ sáng kiến cho đến giây phút cuối cùng: “Ngài nói: mọi sự đã hoàn tất. Ngài gục đầu xuống và tắt hơi”.
Ngài đặt câu hỏi với chúng ta là những người đến dưới chân thánh giá cùng một câu hỏi đặt ra cho những kẻ tới bắt Ngài: “Các ngươi tìm ai?” Ngài không phải là kẻ sinh ra để than phiền nhưng là một Đấng Cứu Thế quyền năng, “biết” tường tận điều mình đã chọn.
Chúng ta sẽ nghe ba lần cái “biết” hoàn toàn có ý thức và tự do này. Cuộc Khổ nạn bắt đầu bằng cái nhìn cương quyết về sự vượt qua đầy khó khăn: “Biết rằng đã đến giờ từ bỏ thế gian để về cùng Cha, Chúa Giêsu đã yêu thương con người và yêu thương cho đến cùng”. Khi mọi sự sắp diễn ra, chính Ngài không ngừng đặt ra những câu hỏi: “Biết mọi sự sẽ xảy ra cho mình, Ngài tiến lên và hỏi họ: “Các ngươi tìm ai?” Ngài giữ được sự sáng suốt này cho đến giây phút cuối cùng: “Biết rằng đây là lúc kết thúc và để cho Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ngài nói: “Ta khát”.
Ngay từ cuộc chiến đấu đầu tiên đã có phong cách này: ba tiếng “Chính Ta đây!” là một sự tỏ bày thần tính thực sự: “Họ giật lùi lại và ngã xuống”. Và khi Chúa Giêsu mạnh mẽ lấy lại hình ảnh chén đắng: “Sao? Ta không uống chén đắng Cha đã ban cho Ta chăng?”, người ta không thể không nghĩ đến đấng sấp mình cầu xin ở vườn Giêtsêmani: “Lạy Cha, xin cất chén đắng này xa con!” Nhưng chúng ta thấy đây không phải là một sự mâu thuẫn mà là một sự tiến triển, mẫu mực và hy vọng của chúng ta: không hổ thẹn khi cảm thấy bị đè bẹp, với điều kiện phải cầu xin sức mạnh của chính Đấng Cứu Thế để vác thánh giá.
Chúa Giêsu tự chủ biết bao khi lợi dụng những câu hỏi của trưởng tế để nói về sứ mạng cốt lõi của Đấng mạc khải: “Tôi đã nói công khai, tôi đã dạy dỗ trong các hội đường. Cứ hỏi những kẻ nghe tôi nói, họ biết những điều tôi dạy dỗ!” Cái tát của tên lính hầu biểu tượng sự từ chối tàn nhẫn sự mạc khải này, nhưng ở đây nữa, Chúa Giêsu vẫn là người hướng dẫn tất cả: “Nếu tôi nói sai, hãy làm chứng điều sai trái đó; nếu tôi nói phải, tại sao lại đánh tôi?”Chính Chân lý tối thượng phán xét những gây gỗ của chúng ta khi có sự thật nào đó làm phiền chúng ta. Chúa Giêsu-Chân lý đặt câu hỏi cho chúng ta suốt cuộc khổ nạn này.
Và nhất là trong màn này là lúc mà quyền năng đơn thuần và tối cao của sự thật làm đảo lộn các vai trò. Philatô chỉ là một con rối tội nghiệp trước các bị cáo vĩ đại này: “Nhưng ông là ai? Ông có đúng là vua hay không? Ông từ đâu đến?”
Chính Gioan đặt chúng ta trước câu hỏi về nguồn gốc ngay từ đầu trần thuật cuộc khổ nạn: “Ông từ đâu đến?” Một con người sắp phải chết trên thập giá. Nhưng ai chết? Làm sao con người này có thể làmchủ được cái chết của mình và làm chủ tất cả mọi sức mạnh đến độ có thể quét sạch mọi thứ với chỉ một từ sự thật mà thôi? Các chức sắc tôn giáo, đám đông cuồng loạn, đế quốc, không gì có thể đứng vững trước khẳng định bình thản này: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian chỉ là để làm chứng cho sự thật. Đó là vương quyền của tôi”.
Đây là bước chuyển từ sự thật đến vương quyền làm trong bối rối. Nhưng sự thật ở đây chính là việc con người có thể biết Thiên Chúa và thân phận con người. Kẻ nào có quyền trên sự thật này thì kẻ đó có quyền lực nhất. Ngài thật là vua trên hết các vua, là Chúa tận thâm sâu cõi lòng.
Chúa Giêsu có quyền trên sự thật “của cuộc sống”. Ngài đến để làm chứng, nghĩa là mạc khải, xác nhận rằng Thiên Chúa yêu mến chúng ta và chứng minh rằng tất cả thay đổi ngay từ khi bước vào trong ánh sáng này. Và Ngài không chỉ là Đấng nói sự thật, Ngài là sự thật bởi vì chính Ngài là chứng tá sống động về tình yêu của Thiên Chúa, Ngài là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện. Ai biết chiêm ngắm Chúa Giêsu sẽ hiểu tất cả: Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế nào và chúng ta phải bước đi trong ánh sáng này và do đó phải sống thực sự như thế nào: “Ta là đường, là chân lý, là sự sống” (Ga 14,6).
Đó phải chăng là sự suy niệm về sự khổ nạn? Phải, một sự suy niệm kiểu Gioan. Tất cả đều là sự thật trong cuộc đời Chúa Giêsu, tất cả đều là sự thật trong cái chết của Ngài, tất cả đều là sự thật cho chúng ta. Mặc dù biết bao điều ẩn giấu trong cái chết này, chúng ta vẫn chắc chắn rằng cái chết đó cứu độ chúng ta, trong đại thể cũng như trong từng chi tiết của cái chết đó. Sự suy niệm trở nên vô tận.
Vai trò làm mẹ của Đức Maria không chỉ là một giai đoạn cảm động mà là một sự mạc khải: Đức Maria trở nên mẹ chúng ta khi chúng ta đón nhận Ngài “trong ta”, trong cuộc đời chúng ta, trong tư tưởng chúng ta, trong sự tin tưởng nơi Ngài. Dưới chân thánh giá, chúng ta học cách nhìn Đức Mẹ như Chúa Giêsu đã nhìn mẹ Ngài. Ở đây tất cả là tình yêu.
Chính sự thật này cứu độ chúng ta: có thể nghĩ rằng tất cả là tình yêu như người ta nói: “tất cả là hồng ân”. Trong khi đến để mạc khải điều đó bằng cuộc sống và cái chết của mình, Chúa Giêsu-chân lý trả lời cho câu hỏi mà một đứa trẻ đã hỏi Đức Cha Gilson: “Tại sao Thiên Chúa yêu thương con người đến thế?” Đức Cha trả lời: “Đây là một câu hỏi lớn, nhưng trước hết đó là một điều có thực”.
24. Nghịch Lý Của Thánh Giá – Tu Sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Buổi chiều hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Buổi chiều hôm nay là “giờ” của Thiên Chúa Cha đã định, và cũng là “giờ” của Đức Giêsu hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại; “giờ” của người Tôi Trung mà tiên tri Isaia đã loan báo. “Giờ” đó được hoàn tất trên Thánh Giá. Vì thế, phụng vụ chiều hôm nay đều quy chiếu về Thánh Giá Đức Kitô như một sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến cuối.
1/ Nghịch lý của Thánh Giá
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8); và Ngài đã chết theo như lời Thánh Kinh (x. 1Cr 15,3).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã là nguyên nhân để nhiều người được cứu độ, nhưng cũng không thiếu những kẻ cứng lòng, cố chấp và chai lỳ trong ích kỷ, kiêu ngạo. Những người như thế, họ coi đó như là hình phạt mà Đức Giêsu là người đáng phải chịu do tội mình gây nên.
Thật vậy, khi thập giá được dựng lên, và khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, đã không biết bao người tin theo và suy tôn. Tuy nhiên, cũng không thiếu những lời chê bai dè bỉu và khinh thường. Họ coi thập giá như là thứ đồ tể đáng sợ để trừng phạt những tử tội oái oăm, khét tiếng và nguy hiểm… Suy nghĩ như thế, thì cái chết của Đức Giêsu không có công trạng gì, mà chỉ như là một hình phạt đích đáng được dành cho một kẻ đã từng bị kết án vì tội “kích động dân chúng; tìm cách lật đổ chế độ và nói lời phạm thượng”. Và, những người theo Đức Giêsu phải chăng họ là bọn người cuồng tín khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một kẻ bị treo trên cây gỗ như một tử tội!
Thật vậy, thập giá của Đức Giêsu hôm nay được tôn vinh, đã làm không ít người cảm thấy ngỡ ngàng, bởi vì xét theo người đời, thì đây chính là sự ô nhục, hận thù, đáng ghét… là biểu tượng của sự chết chóc và thập giá vẫn chỉ là dụng cụ ghê rợn được dùng để xử tử tội nhân mà thôi.
Nhưng đối với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan khôn dò thấu của Người. Thánh Phaolô đã nói: “Con Thiên Chúa chết trên thập giá là một trong những đường lối khôn ngoan sâu thẳm mà không một ai dò thấu” (x. Rm 11,33). Bởi vì Thiên Chúa đã dùng thập giá như một sự nghịch lý để cứu độ con người.
Thực ra thập giá luôn mang tính nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ.
Nhưng với những người tin, hẳn sự cảm nghiệm, suy nghĩ và thái độ hoàn toàn ngược lại. Những người đó sẽ coi thập giá trở thành Thánh Giá và Thánh Giá lúc này trở thành phương dược, để qua đó Đức Giêsu chuộc tội thay con người và cứu độ nhân loại.
Nếu xưa kia trong vườn Địa Đàng, Ađam đã ngã gục trước cây trái cấm, và gieo rắc tội lỗi cho nhân loại, thì giờ đây, trên cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì mà Ađam đã đánh mất và để lại hậu quả cho nhân loại.
Như vậy, từ cây trái cấm, sự chết đã tiêu diệt thế gian, và trái cấm là rào cản lớn đến độ con người không thể vượt qua, thì giờ đây, từ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì đã mất do nguyên tổ gây nên và mặc cho nó thành cây Sự Sống, quả Phúc Trường Sinh.
Chính Đức Giêsu đã khẳng định rõ điều này khi nói: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên xưng niềm tin và ơn cứu chuộc của mình nơi Thánh Giá, ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa […] Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (nhưng) cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (x. 1Cr 1,18-25).
Vì thế, “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
2/ Đón nhận Thánh Giá như nguồn ơn cứu rỗi
Cuộc đời của người Kitô hữu, tức là cuộc đời của những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người luôn nghe thấy lời mời gọi của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? “ (Mc 8,34-36); và: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).
Lời mời gọi đó đã được gióng lên ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội cũng như suốt cuộc đời của mỗi người chúng ta. Như vậy, Thánh Giá trở nên cứu cánh và việc vác Thánh Giá trở thành điều kiện cần của chúng ta trên hành trình dõi bước theo Đức Giêsu.
Thánh Giá mà mỗi chúng ta phải vác ở đây chính là bổn phận phải chu toàn; là từ bỏ những thứ không cần thiết trên hành trình tin Chúa; là từ bỏ ý riêng… và phục vụ trong yêu thương.
Làm được như thế, ấy là chúng ta sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Giêsu. Đặt bước chân của ta vào dấu chân của Chúa, để sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng.
Như vậy, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy khi tuyên xưng: “ Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào thập giá […] (Và) tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi ” (Gl 2,19-20).
Mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, người kitô hữu chúng ta sẽ từ bỏ con đường tội lỗi, để được hiệp thông cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn của Ngài, và như một định luật đối với những người tin và theo Đức Giêsu là: qua đau khổ thì mới được vào vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng chịu treo trên Thánh Giá, xin thương xót và cứu chuộc chúng con. Amen.
25. Buổi Chiều Thinh Lặng Thánh – Tu Sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
“Hỡi không gian rủ sương mù ngàn mây hỡi hãy che khắp trời cao. Ánh kim ô vụt lu mờ. Vì thương Chúa gánh muôn nỗi khổ đau” (Giờ tử nạn, Lm. Hoài Đức).
Với những lời hát rất sâu lắng ấy, tác giả đã dẫn đưa chúng ta đi vào tâm tình của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh trong thinh lặng.
Thinh lặng để thấy, hiểu, để cảm nghiệm và để thay đổi lối sống cho phù hợp với những gì tốt lành mà mình đã thấy, hiểu và cảm nghiệm.
Thinh lặng còn làm cho chúng ta đi vào tâm tư của người khác để cùng họ sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn.
1/ Thinh lặng để thấy
Cũng vậy, trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta rất cần sự thinh lặng để sống những tâm tình vừa nêu ở trên!
Trước tiên, thinh lặng để thấy: thấy Đức Giêsu là Đấng rất thương những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, người ốm đau bệnh tật. Từ đó, Ngài không thể lặng im khi những điều đó xảy ra với con người dưới những chiêu bài “đánh lận con đen” khi nhân danh tôn giáo, đạo đức, người nghèo để làm khổ nhau.
Ngài không chỉ lên tiếng gián tiếp, nhưng Ngài đã “chỉ mặt đặt tên” nơi những con người có tâm đen tối. Ngài không chỉ nói mà còn hành động. Ngài không sợ chết mà ngược lại, sẵn sàng lấy mạng sống của mình bảo vệ những người bị ngược đãi để đổi lấy sự công bằng.
Chính vì thái độ và lựa chọn của Đức Giêsu như vậy, nên chúng ta thấy Ngài đã bị những người Pharisêu, Kinh Sư, Thượng Tế ghét bỏ và tìm mọi cách để hạ sát. Với họ, Đức Giêsu chính là cái gai trong mắt, cái đó ngáng đường. Họ luôn coi Ngài là thành phần nguy hiểm, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy phản ứng chống lại Đức Giêsu của những nhà lãnh đạo Dothái thời bấy giờ rất gắt gao do những nguyên nhân như: ghen tương, thù hận, gian dối, kiêu ngạo.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhìn thấy thái độ hoang tưởng và vụ lợi của Giuđa; sợ hãi của Phêrô cũng như các môn đệ khác; sự thay trắng đổi đen của dân chúng; sự hèn nhát, nhập nhằng của Philatô….
Trên đây là những điều chúng ta thấy được qua cuộc thương khó của Đức Giêsu.
2/ Thinh lặng để hiểu
Khi đã thấy được nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đấng Cứu Thế, giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng để hiểu về cuộc thương khó này dưới cái nhìn cứu độ.
Trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy có hai tên trộm: một người được gọi là thánh trộm lành; một người phải gọi là kẻ trộm dữ. Tại sao vậy? Thưa, đơn giản là người trộm lành đã biết lắng nghe và hiểu được Đức Giêsu là ai! Đặc biệt, trong thinh lặng, anh ta còn nhận ra tội lỗi của mình để xin Chúa tha thứ. Còn tên trộm dữ đã không biết lắng nghe, ngược lại, hắn không ngớt chửi rủa và trách móc Đức Giêsu cũng như những kẻ đóng đinh hắn. Hắn không hiểu được ý nghĩa của cái chết nơi Đức Giêsu, vì thế, hắn đã tự mình đánh mất “phao cứu sinh” cuối cùng của cuộc đời đầy tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hắn đã phải chết như một kẻ xa lạ với ơn cứu chuộc mà Đức Giêsu mang lại qua cái chết của Ngài.
Cũng như người trộm lành, qua cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta hiểu được rằng: tình yêu của Thiên Chúa là vô hạn. Tình yêu ấy đã đi bước trước để đến với nhân loại qua việc trao ban chính Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì được sống và sống dồi dào.
Đến lượt Đức Giêsu, tình yêu ấy được nở hoa cứu độ ngay trên thập giá, bởi vì: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Như vậy, chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể nhận ra và cảm nghiệm sâu xa về cái chết của Đức Giêsu là vì tình yêu, đồng thời, qua đó, chúng ta sẽ nhìn thấu tội lỗi của chính mình và của nhân loại, ngõ hầu ăn năn, sám hối, để được đón nhận ơn tha thứ từ mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu.
3/ Thinh lặng để đổi thay
Từ những gì đã thấy, đã hiểu, đã cảm nghiệm, có lẽ mỗi người chúng ta đều có với nhau một mẫu số chung, đó là: bất bình, lên án những người đương thời với Đức Giêsu vì sự ác tâm, thất đức của họ, khiến Đức Giêsu phải chết một cách đau thương tức tưởi như vậy!
Tuy nhiên, trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta cũng nên làm một cuộc cật vấn lương tâm tận đáy lòng mình, để xem thử mình có liên quan gì đến cuộc thương khó của Đức Giêsu không?
Xét về mặt khách quan bên ngoài như địa lý, thời gian và đối tượng, có lẽ chẳng thể nào tìm ra được một ai có những hành động trực tiếp với Đức Giêsu như những người Pharisêu, Kinh Sư và Thượng Tế khi xưa. Nhưng, xét về sự liên đới tâm linh, chắc chắn chúng ta không thể vô can nếu không muốn nói là tàn ác chẳng thua kém những kẻ gây nên cái chết của Đức Giêsu, thậm chí còn nặng hơn nữa!
Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống thực dụng, ham tiền, hám lợi và chuộng danh vọng, những lúc như vậy, chúng ta đâu khác gì các môn đệ của Đức Giêsu khi các ông tranh giành chỗ nhất – nhì trong vương quốc mà họ tưởng chừng Đức Giêsu sẽ lập chốn trần gian!
Lại nữa, sự phản bội, vô ơn và sống hai mặt, nhiều khi lại là lựa chọn chủ đạo của chúng ta trong đời sống. Khi lựa chọn những thứ đó làm nền tảng cho đời sống của mình, chúng ta đâu khác gì Giuđa!
Rồi có lúc vì sợ mất chức, mất quyền, hay nhát đảm, nên đã không dám tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa, nhiều khi chúng ta cũng từ chối thuộc về Chúa khi không dám đứng về phía sự thật để làm chứng cho chân lý. Những lúc như thế, hình ảnh, thái độ và lựa chọn của Philatô và Phêrô lại hiện lên thật rõ nét trong từng hành vi và lời nói của chúng ta!
Cuối cùng, đám đông dân chúng khi xưa do thiếu hiểu biết, nên đã bị giới lãnh đạo tôn giáo “giật dây”, vì thế, họ đã phản bội Đức Giêsu. Mới ngày nào họ muốn tôn Ngài làm Vua. Sự kiện đó chỉ cách hôm nay có mấy ngày, họ đã long trọng đón Vị Vua ấy vào thành với tư cách là Đấng Thiên Sai, là Vua Israel. Miệng họ cũng đã từng tung hô vang trời lở đất để đón Chúa vào thành. Tuy nhiên, ngày hôm nay, họ đã thay đổi hoàn toàn!
Nhiều khi chúng ta cũng vì cái bụng mà sẵn sàng gian lận, đổi trắng thay đen, hay đã có những lần ta tìm mọi cách kéo Chúa về với phe ta, mặc dù biết những việc ta làm là sai trái…. Hoặc nhiều khi chúng ta cũng sống theo kiểu a dua với đám đông: “Ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi cũng làm theo!”.
Đôi khi chúng ta cũng nhân danh Chúa để làm những điều khuất tất, hoặc lấy Chúa làm bình phong cho những trái khuấy của mình! Lúc không được như ý muốn, chúng ta cũng phản bội Chúa bằng việc quay lưng lại với Ngài khi sẵn sàng tôn thờ một ngẫu tượng nào đó thay cho Chúa. Không còn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình, ngược lại, chúng ta đã lấy lời của những thày bói, thày mo và cô đồng….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương trung thành, yêu mến và can đảm của Đức Mẹ; người “môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; những phụ nữ Giêrusalem; bà Verônica; ông Simong và những người đạo đức khác…. Đồng thời, khi suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta hãy học bài học vâng phục và yêu mến của Đức Giêsu với Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự. Từ đó, mỗi người sẽ tiếp bước trên con đường tình yêu ấy cách trung thành để đến với tha nhân như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khai trí mở lòng, để chúng con hiểu thấu được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con qua mầu nhiệm thập giá. Xin cho chúng con dám cam đảm nói lên lời: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì?” Từ đó, chúng con biết trung thành, can đảm để thuộc trọn về Chúa và sẵn sàng làm chứng về Ngài trong mọi hoàn cảnh. Amen.
26. Tình Yêu Mạnh Hơn Cái Chết – Ðức Cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Một trong những điều xem ra ngược đời nhất, là giữa tình yêu và cái chết có sự liên lạc chặt chẽ. Kể cũng lạ kỳ : tình yêu là một giá trị tích cực, một khía cạnh phong phú của cuộc đời, là cao điểm của sự sống, thì tại sao khi nói tới tình yêu, người ta lại liên tưởng đến sự chết, là một mãnh lực phá hoại và dìm sự sống xuống đáy sâu ? Quả thật, một chân lý càng sâu sắc, thì càng có vẻ nghịch lý và không ngớt làm cho người ta bỡ ngỡ. Tình yêu càng ở cao độ, càng có những đòi hỏi gắt gao và hầu như đặt con người trong thế chiến đấu : chiến đấu để loại trừ các chướng ngại, chiến đấu để đạt tới đối tượng của lòng mình. Nhưng vì là một cuộc chiến đấu cam go, nguy hiểm, nên thường kết thúc bằng cái chết. Do đó mà có những cái chết vì yêu : chết vì tình không được toại nguyện; chết vì muốn chung thủy với tình yêu; chết vì thương yêu quá đỗi. Nhưng vì sao lại nói ; Tình yêu mạnh hơn cái chết?
1/ Chết và mãnh lực của tội
Chúng ta suy niệm về tình yêu và cái chết trong bối cảnh phụng vụ ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Ngày ấy, bóng Thập giá bao trùm lên khắp mặt địa cầu. Một xác người treo trên cây gỗ. Những giọt máu từ các vết thương loang lỗ chảy thấm xuống lòng đất. Uy tín Con Thiên Chúa bị chôn vùi trong ô nhục. Đó là một cái chết quá ư bi thảm ! Nhưng vì sao Người phải chết như thế ?
Phải chăng vì ông Giêsu đã xách động quần chúng nổi loạn (Lc 23,2-5) ? Vì ông đã có ý tưởng phá hủy Đền thờ Giêrusalem (Mc 14,58; Mt 26,61) ? Vì ông đã phạm thượng khi tự xưng là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa (Mt 26,65; Mc 14,64; Lc 22,71; Gn 19,7) ? Hoặc vì các kỳ lão ghen tương (Mc 15,10) và sợ dân chúng bỏ họ đi theo ông (Lc 22,2) hay vì môn đệ Giuđa muốn bán Thầy mình (Mc 14,10; Mt 26,14; Lc 22,3) ? Xét về các lý do chính trị, xã hội, chính Philatô xác nhận : ông Giêsu đã không làm điều gì đáng chết (Lc 22,14-23; Gn 19,4); và lời tự thú của Giuđa cũng chứng minh cho sự vô tội của Người : “Tôi đã nhúng tay vào một cuộc đổ máu oan uổng” (Mt 27,4).
Tất cả các hành vi phản bội, hận thù, ghen tương, cáo gian, bỏ vạ, hèn nhát, sợ sệt kia đều là những khía cạnh của tội một mãnh lực làm cho lòng người ra tối tăm và bị kiềm chế trong vòng nô lệ. Đức Giêsu chính là Người Đầy Tớ Đau Khổ của Giavê (Is 52,13-53,12) và chỉ là nạn nhân vô tội của tội ác loài người.
Muốn hiểu đúng ý nghĩa cái chết trên Thập giá cũng như toàn bộ mầu nhiệm Đức Kitô, ta phải chọn cái nhìn thần học, nghĩa là nhìn như Thiên Chúa nhìn vào công việc Người làm. Nhãn quan đó cho ta thấy : Đức Kitô đã chịu chết vì tội thế gian. Người vô tội, đã tình nguyện trở thành tội vì ta và gánh chịu hậu quả của tội là cái chết trên Thập giá (2C 5,21) . Thánh Phaolô mô tả tội như một mãnh lực độc hại, chỉ tổ gây ra chết chóc (Rm 6,23; 1C 15,55tt). Với cái chết như khí giới nguy hiểm ấy tội đã thống trị loài người (Rm 5,12-21; 6,20-23).
Theo quan niệm Thánh Kinh, tội là hành động phản bội Giao ước tình yêu, và như thế cắt đứt mạch sống nối liền chúng ta với trái tim Thiên Chúa. Tội gây ra chết chóc toàn diện và vĩnh viễn cho loài người, nếu Thiên Chúa không tự động tái lập sự sống. Người Do Thái trong Cựu Ước đã ý thức được điều đó. HoÏ biết rằng tội và sự chết là những thực tại hệ trọng đến nỗi không thể dùng các lý lẽ thuần túy nhân bản để giải thích hết được. HoÏ thoáng thấy : có bàn tay hắc ám của một mãnh lực ma quái nào đó đã nhúng vào và gây nên cơ sự ấy. Sách Khôn ngoan viết : “Vì quỷ dữ ghen tương, nên sự chết đã đột nhập vào thế gian” (Kn 2,24). Sự chết đây không phải là cái chết thể lý thuộc bản tính tự nhiên của con người như một tạo vật làm bằng bụi tro và sẽ trở về tro bụi (Kn 8,19), nhưng là chết trong tâm hồn, chết vĩnh cửu, mà cái chết thể lý từ nay chỉ là một hình ảnh. Theo thánh Gioan, con rắn trong vườn Địa đàng chính là hiện thân của Satan, “đứa mê hoặc thiên hạ” (Kh 12,9; 20,2). Còn theo thánh Phaolô, chính tội loài người phạm từ nguyên thủy dưới ảnh hưởng độc hại của Satan đã mở cửa cho sự chết đột nhập vào đời và dìm tất cả trong bóng tối tử thần (Rm 5,12-21). Như một phản ứng dây chuyền, một khi tội xuất hiện, thì càng ngày càng chồng chất dồn dập và gieo rắc sự chết khắp nơi. Tội mạnh như thác lũ và cái chết là bằng chứng chiến thắng của nó. Nhưng hỏi rằng : Tội có thẳng nổi tình yêu ?
2/ Sức mạnh sáng tạo của tình yêu
Tình yêu luôn sáng tạo và tìm ra được nhiều cách biểu hiện, lắm khi cũng bất ngờ. Để thắng tội kiêu căng, Đức Kitô đã chọn sống khiêm hạ và tự hư-vô-hóa (Ph 2,6). Để thắng tội tham lam hưởng thụ, Người đã chọn sống khó nghèo (2C 8,9). Để thắng tính háo danh trần tục, Người đã như điên rồ chọn cái chết ô nhục trên Thập giá (1C 1 ,23) . Thiên Chúa hành động cách ngược đời, và vì Người là tình yêu, nên tình yêu thắng được tội và mạnh hơn cả cái chết.
Tình yêu bao hàm chiến đấu. Chiến đấu đòi phải có năng lực. Quả thật, Nước Trời chỉ dành riêng cho những người mạnh (Mt 11,12) và chính Tin Mừng là một sức mạnh giải phóng (Rm 1,16) . Thiên Chúa là Đấng dũng mạnh, vì Người đầy lòng yêu thương. Cái chết trên Thập giá của Đức Kitô là một cái chết tự nguyện vì tình yêu : Người yêu mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta. Người chết vì vâng lời Chúa Cha để chuộc tội nhân loại.
Đàng sau cây Thập giá xảy ra một cuộc chiến đấu vô hình giành quyền sống chết giữa tình yêu và tội ác. Một chiến thuật đánh đổi rất ngược đời đã bẻ gãy mũi nhọn của tội và vô-hiệu-hóa sức tàn phá của nó. Thân xác Đức Kitô đã chết lạnh, và trở thành bất động trên cây gỗ. Về mặt nhân loại, Người đã thua. Người đã thực nghiệm trong chính bản thân mình sự bất lực tột độ, sự yếu nhược tận cùng của thân phận làm người là cái chết thể lý. Mãnh lực tối đa của tội là gây ra cảnh chết : cái chết vĩnh cửu của tâm hồn, mà cái chết trong thời gian của thân xác là một hình ảnh . Chúa Kitô vô tội không thể trải qua cái chết vĩnh cửu của tâm hồn. Nhưng Người có thể dùng cái chết của thể xác mình thay cho cái chết vĩnh cửu của tâm hồn ta. Người chết thay cho ta là như thế – cuộc đánh đổ ấy chỉ có thể thực hiện bởi vị Thiên-Chúa-làm-người, vì mầu nhiệm Đức Kitô thuộc cơ cấu bí tích, trong đó yếu tố nhân loại hữu hình là dấu chỉ và khí cụ của yếu tố thần linh vô hình (Vat II, GH 8). Người chết về thể xác trong thời gian, để ta khỏi chết về tâm hồn trong vĩnh cửu. “Người mặc lấy bản tính nhân loại từ nơi lòng Mẹ Maria, để giải thoát loài người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Người” (Vat II, GH 55), nhất là nhờ mầu nhiệm cái chết của Người trên Thập giá.
Người đã bị sức mạnh của tội đẩy lui đến tận cùng : Người chịu chết trong thể xác, vì yêu ta. Chính Người thực hiện điều Người đã nói : không thể yêu hơn là yêu đến chết vì yêu (Gn 15,13). Chịu đựng được tột mức như thế không phải là bất lực, nhưng là dấu hiệu nói lên sức mạnh vô biên. Tình yêu có bị giết cũng vẫn không chết. Còn tội chỉ gây ra được cái chết là hết sức mình : đó là cái chết vĩnh cửu của tâm hồn ta, từ nay được đánh đổi với cái chết thể xác trên Thập giá của Con Thiên Chúa. Nơi đây, tội bị mãnh lực vô biên của tình yêu giết chết và tiêu diệt tận căn. “Tội bị kết án nơi thân xác Đức Kitô” trên cây gỗ (Rm 8,3).
Chính tình yêu được chứng minh bởi ý chí tự nguyện chịu chết vì vâng lời Chúa Cha là sức mạnh làm cho thân xác Đức Giêsu sống lại vinh hiển, nghĩa là biến hình (Mc 9,1-9) từ trạng thái thân xác thường tình bị chi phối bởi các định luật thể lý, đến trạng thái thân xác sáng láng sống theo định luật của Thần Khí tự do . Xuyên qua cái chết tự nguyện vì tình yêu, Đức Giêsu đã vượt từ thân phận tôi đòi của kiếp người trần thế đến thiên chức Chúa Tể được siêu thăng để bá chủ muôn loài, hầu làm rạng rỡ Chúa Cha (Ph 2,7-11). “Vượt qua “, theo thần học thánh Gioan, có nghĩa là “trở về với Chúa Cha ” (Gn 13,1). Chính sức mạnh tình yêu, sức mạnh của Thần Khí Chúa Kitô và Chúa Cha, đã tái sinh tâm hồn ta qua bí tích Thánh Tẩy. Cũng chính sức mạnh tình yêu ấy đang tiếp tục biến đổi tâm hồn ta nhờ Thánh Thể và lời tha tội, và sẽ biến hình cả thân xác ta khi ta sống lại trong ngày sau hết.
Tình yêu mạnh hơn cái chết, vì tình yêu tiêu diệt được ? Tội là căn nguyên sinh ra nó. Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi đâu ? Nọc độc ngươi còn đâu ? (1C 15,55).
3/ Suy Tôn Thánh Giá
Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, trên Núi Sọ, bóng Thập giá bao trùm lên khắp mặt địa cầu. Một xác người treo trên cây gỗ…
Thập giá ô nhục đã trở nên Thánh giá vinh quang, ngai tòa vương quyền tình yêu, vì con người treo trên cây gỗ ấy là Con Thiên Chúa, tự nguyện chịu chết vì vâng lời Chúa Cha để chuộc tội thiên hạ. Vinh quang Thiên Chúa biểu hiện trong tình yêu. Ách thống trị của tình yêu luôn êm ái nhẹ nhàng (Mt 11,30).
Nhưng tình yêu của Chúa Kitô mạnh mẽ hơn cái chết, vì tình yêu đã thắng được tội ác. Tình yêu ấy có tham vọng chinh phục lòng mọi người để lấp đầy bằng sự sống mới : sự sống bởi Thần Khí tự do, là Đấng biến đổi chúng ta thành con cái Chúa Cha. Vì thế Thập giá ô nhục đã trở nên cây ban sự sống.
Thập giá ô nhục cũng đã trở nên ngai tòa phán xét : “Tội đã bị kết án nơi thân xác Đức Ki tô”. Tòa án thế gian đã phán xét Người và lên án tử cho Người; nhưng chính khi chịu đóng đinh trên Thập giá, Người, vô tội, đã lên án tội ác thế gian. Song là một bản án khoan hồng, tha bổng cho những người sám hối ăn năn. Người vừa phán xét, vừa cầu ân cho những kẻ phạm tội giết Người, mà không biết mình giết Con Thiên Chúa (Lc 23,34). Từ nay Thập giá đã dựng lên giữa lịch sử loài người để trở thành phương tiện thánh hóa và cứu độ. Ai ngước mắt nhìn lên thánh giá Đức Kitô mà tin nhận Người là Chúa Cứu thế, thì sự sống vĩnh cửu sẽ chảy tràn vào lòng họ. Chính Thái độ đối với thập giá đã định đoạt số mệnh mọi người.
Trong lịch sử nhân loại chỉ có một người – mà người ấy lại chính là Con Thiên Chúa – đã chịu chết ô nhục trên thập giá vì yêu thương. Tình yêu ngược đời ấy đã đảo ngược thế sự: từ nay mọi tủi nhục, uất ức, mọi chết chóc oan uổng, mọi thua thiệt đắng cay không còn vĩnh viễn luống công một cách phi lý vì lúc mà lý trí loài người không hiểu nổi nữa, thì chính Thiên Chúa tìm ra được một sáng kiến lạ lùng : thâu dụng những cái nghịch lý ấy vào kế hoạch cứu thế của Người. Thập giá Đức Kitô là điểm quy tụ và siêu thăng tất cả mọi tủi nhục uất ức mọi thua thiệt oan uổng của loài người, nhất là của những người không nói lên được với ai tiếng nói và nỗi lòng mình, lại cũng chẳng được ai hiểu biết, để làm nên sự thành công tối hậu, sau cái vẻ thất bại trước mắt, và đem lại vinh dự vinh hiển cho họ. Bởi vì sức mạnh của Thiên Chúa tự biểu dương ra trong cảnh bất lực; khôn ngoan của Thiên Chúa thích khoác chiếc áo điên rồ. Nhưng trong sự điên rồ, có tiềm ẩn một triết lý sâu xa; triết lý của tình yêu cứu độ được viết ra trên Thập giá.
Mọi người mang dấu Thánh giá trong lòng đều là chủ thể của Chúa Cứu thế. HoÏ làm thành dân Thiên Chúa, quy tụ trong Giáo hội. HoÏ xây dựng Nước Trời giữa lòng thế giới bằng cách làm cho tình yêu thống trị khắp hoàn vũ. Từ trên Núi SoÏ ngày thứ Sáu Tuần Thánh, bóng Thập giá bao trùm lên mặt địa cầu, để quy tụ mọi con cái Thiên Chúa đang tản mắc khắp nơi (Gn 12,51-52). Thập giá Chúa Kitô là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, nhờ tình yêu đã thắng vượt cái chết.
Tình yêu mạnh hơn cái chết, vì Thập giá Chúa Kitô đã toàn thắng tội lỗi.
GIẢNC LỄ
Chiều nay chúng ta họp nhau lại đây, không phải để dâng lễ, nhưng để tưởng niệm cuộc Khổ nạn và đặc biệt, tôn thờ Thánh giá Chúa Giêsu. Chúng ta đã nghe bài Phúc Âm tường thuật cuộc Khổ nạn của Chúa. Và hai bài đọc trước đã cho chúng ta biết ý nghĩa cuộc Khổ nạn này. Giờ đây, chúng ta cầm trí suy niệm những lời Thánh Kinh ấy, trước khi suy tôn Thánh giá Chúa Kitô để được ơn cứu độ.
Bài sách Isaia thật quí giá. Đó chính là lời tiên tri. Tác giả sống trước Đức Kitô có tới 5,6 trăm năm, thế mà ông đã như được nhìn thấy tận mắt thân hình Người nằm trên Thánh giá. Ông viết: dân chúng phải kinh hoàng khi nhìn thấy Người, vì mặt Người đã đổi thay không còn giống con người ta chút nào nữa. Philatô đã làm chứng : Đức Kitô quả thật đã như vậy. Người bị bọn lý hình đập đánh và đóng mão gai vào đầu, đến nỗi ông phải kinh hoàng vì tưởng rằng chỉ cần đưa Người ra cho quần chúng thấy là họ phải động lòng trắc ẩn đòi tha Người ngay. Nên ông đã cho điệu Người ra công đường với bộ mặt đầy máu me và đau đớn ấy. Ông chỉ vào Người và bảo : “Này là Người”. Ông có ý nói: Người trước đây thế nào mà bây giờ như thế ? Có thể tưởng tượng được không? Quả thật, Người đã rách nát tất cả mặt mũi và thân hình rồi. Lsaia viết : Người không còn gì để mắt ta có thể nhìn được nữa. Và ông nói : “Người giống như một người cùi, một người bị bệnh phong, nhìn thấy ai cũng phải ngoảnh mặt đi”.
Phải, Đức Kitô của chúng ta đã bị đập đánh dã man, khốn khó và tiều tụy như thế đó ! Mà không phải chỉ có thân thể Người bị hành hạ như vậy đâu ! Cây Thập giá, và chỗ đứng của Người ở giữa hai tên tử tội, còn như muốn bêu xấu danh dự của Người nữa. Thân phận của Người đã mất mát tất cả về phần xác. Và bản án kia với nhũng lời xỉ vả riếc róc còn muốn chôn cả tên tuổi Người xuống lòng đất. Người là tên tử tội bị tống ra khỏi thành để treo trên Thập giá ! Đau thương và nhục nhã biết chừng nào !
Đang khi Người có làm gì nên tội ! Philalô lúng túng khi muốn tìm ra tội Người. Cuối cùng ông đành rửa tay bảo mình không dính dáng gì tới máu người vô tội này. Các người Do Thái cũng chẳng tìm được cớ nào để ghép tội. Nhưng họ cứ lớn tiếng đòi giết Người, vì lẽ như lời Caipha nói : Phải có một người chết đi thay cho toàn dân. Không ngờ ông đã thực hiện chính lời Isaia. Nhà tiên tri cách ông 5,6 thế kỷ đã viết : Sở dĩ Người bị hành hạ, đánh đập tan nát, là vì tội lỗi của ta. Người mang lấy tội của toàn dân để cho chúng ta được sạch tội. Đó là câu giải thích cuộc Khổ nạn của Chúa mà chúng ta phải đào sâu để tìm ra ý nghĩa.
Gợi lại những đau thương của Chúa trong ngày hôm nay, Phụng vụ của Giáo hội cũng không muốn gì hơn là làm cho chúng ta hiểu được vì sao Chúa lại phải chết như vậy. Dĩ nhiên, Người không có tội nào rồi. Và Người chết như vậy là vì ta. Nhưng tương quan giữa cái chết của Người và tội lỗi của ta như thế nào ? Đó là mầu nhiệm mà bao lâu còn sống chúng ta phải suy nghĩ, để khỏi tỏ ra bội bạc với người đã chết vì ta và nhất là để được ơn cứu chuộc khỏi tội. Thương tình, tội ai người ấy chịu. Nhưng đó chỉ là câu tục ngữ của thế giới loài người. Ơû trước mặt Chúa, không thể như vậy. Adong ngày trước phạm tội xong đã phải đi ẩn. Nghe Chúa gọi, ông chẳng dám mang tội ra. ông vẫn nấp ở trong lùm cây. Giữa Thiên Chúa và tội nhân không thể có liên lạc trực tiếp nữa. Không phải vì Chúa hẹp hòi không muốn tha thứ. Người muốn lắm chứ, nên mới đến tìm Adong. Nhưng chính Adong mới không dám ra trước mặt Người. Dơ bẩn làm sao dám giơ mặt ra ánh sáng!
Chính Chúa Kitô cũng đã nói : tội nhân ưa tối tăm hơn ánh sáng; tội nhân chỉ muốn sống trong tối tăm và sợ ánh sáng phơi bày công việc xấu xa của họ ra. Tội nhân không thể tự cứu mình… ngược lại càng ngày càng đi sâu vào con đường tối tăm, giống như người mặc áo mới, cố giữ sạch, nhưng khi phải một vết nhơ, tự nhiên hết muốn giữ gìn, để cho bẩn luôn rồi giặt một thể. Nhưng khốn nạn, tội lỗi không dễ giặt như vậy. Và kinh nghiệm tội càng nhiều, ngã càng sâu, xác thịt càng bất lực, không thể chỗi dậy được nữa. Phải có người không có tội, và không thể phạm tội, liều mình dấn thân vào nơi tối tăm, đi xuống vực thẳm, kéo người tội lỗi lên. Đó là việc Chúa đã làm. Người đã xuống thế, chấp nhận thân phận tội nhân, chịu mọi đau thương của kẻ có tội, để tìm gặp tội nhân ngay chính nơi họ đang sống, nói đúng hơn, chính nơi họ đang chết, để làm cho họ sống lại, mà đi vào thế giới mới. thế giới của sự thánh thiện. lsaia ví chúng ta như các con chiên lạc, đi vào các hẻm tội lỗi. Chúa là mục tử nhân lành; Người bỏ đoàn thiên thần thánh thiện, xuống thế đi tìm chúng ta về. Mà vì chúng ta chui rúc trong bụi gai, lạc vào những chỗ hiểm hóc, nên con đường cứu thế của Chúa chúng ta là con đường hẹp, đầy gian khổ, làm đổ máu.
Hơn nữa, chúng ta không chỉ phạm tội nơi tối tăm này, chốn hẻo lánh kia, mà còn lỗi phạm ngay trên thân xác mình, trong đầu óc và tận lòng trí mình, nên Đức Kitô phải chết nơi thân xác, chịu lưỡi đòng đâm vào tận tim, để cứu chuộc cả đến thân xác chúng ta hầu sau này nó cũng được phục sinh vinh quang. Thế nên, chính tội lỗi của ta đã đóng đinh Con Một Chúa. Chính tội lỗi loài người đã giết chết Con Đức Chúa Trời. Buổi chiều hôm nay, phụng vụ kêu mời tất cả chúng ta nhìn lên Thánh giá Chúa Kitô để ý thức điều đó, để ghét bỏ tội lỗi, để dốc lòng hối cải, để cảm mến Chúa đã chịu thương tích vì ta. Và tâm hồn chúng ta sẽ được thư thái; vì ơn cứu độ sẽ đến với kẻ sám hối ăn năn, vì kìa trên Thánh giá, Đức Kitô đã cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ có tội, như lời thánh Phaolô hôm nay nói và như bài tường thuật cuộc Khổ nạn chúng ta vừa nghe. Thánh Phaolô bảo chúng ta nhìn mà xem: Chúa cứu thế rất thông cảm; Người quá biết thân phận con người chúng ta; Người đã chấp nhận từ khước khổ hình thập giá, để chúng ta được cứu độ. Chính vì vậy mà bây giờ Phụng vụ mời chúng ta sắp sửa đứng lên cầu nguyện cho hết mọi hạng người trong Hội thánh và trên thế giới, để ơn cứu độ hôm nay tuôn đổ xuống trên họ, để từ nay họ nhìn vào Thánh giá Chúa như nguồn ơn cứu vớt, để chạy đến quì hôn, hứng lấy tất cả nguồn mạch phong phú của Chúa Cứu chuộc, trước khi nhận lấy Mình Thánh là bảo chứng của Mầu nhiệm Cứu thế.
Như vậy, hôm nay chúng ta sẽ tôn kính thờ lạy Thánh giá Chúa với tất cả lòng mến cậy trông. Và trước hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người, xin Chúa đưa họ cùng chúng ta đến với Thánh giá, hầu tất cả thế giới chiều nay thêm ơn cứu độ.
27. Tôn Kính Thánh Giá Chúa Giêsu
l/ Một là Giêsu, hai là Baraba
Baraba đang ở trong ngục, lo sợ từng ngày sẽ bị đưa ra xử tử vì đã phạm tội cướp của giết người!… Bỗng sáng hôm đó, lính canh đến mở cửa ngục, gọi anh ra, tim anh phập phòng hoảng hốt, tin chắc đã đến ngày giờ mình phải đen tội… Nhưng lính không dẫn anh ra pháp trường như anh nghĩ, mà dẫn đến dinh quan Philatô. Khi đến đó, anh thấy đã có sẵn một người đang bị trói, toàn thân tả tơi đầy thương tích máu me, đầu đội gai nhọn, trông rất thảm thương. Anh nghĩ chắc người nầy phạm tội gì còn nặng hơn anh nữa nên mới bị tra tấn hành hạ đến thế?…
Đang lúc anh suy nghĩ, thì quan Philatô cho dẫn anh và người đó ra đứng trước dân chúng đang tụ tập đông đảo ở đó, mặt họ hầm hầm nộ khí.
Philatô nói:
– Ta không thấy lý do nào kết tội ông nầy. Theo tục lệ các ngươi, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các ngươi. Vậy các ngươi có muốn ta tha Vua dân Do-thái là øGiêsu cho các ngươi không?
Họ la lên:
– Đừng tha nó, nhưng xin tha Bạraba! (Ga 18,38-39)
Kẻ có tội âáng chết thì họ xin tha, còn Đấng vô tội bị họ đòi đóng đinh khổ giá. Thật oái oăm thay lòng dạ con người!…Nhưng chính tôi cũng đã nhiều lần làm như họ, mỗi khi tôi cắm đầu chạy theo lợi hộc, danh vọng, lạc thú thế gian. Phải chăng vì thương chúng ta, để cứu rỗi chúng ta, Chúa Giêsu vô tội phải bị kết án tử hình thập giá?…
2/ Thánh giá Chúa cứu tôi
Một mục sư Tin lành đang chuẩn bị nghi thức Tuần Thánh. Ông dựng một cây thang thật cao và leo lên, để phủ khăn đen lên ảnh chuộc tội trên thánh giá theo luật dạy. Leo đến đầu thang, cây thang ngã xuống… Thời may ông nắm được thanh đứng của cây thánh giá, nhờ đó ông khỏi té chết…Ông đã tâm sự với một người bạn:
– Chính sự kiện đó giúp tôi đánh giá thật sâu xa Thánh giá Chúa cứu rỗi tôi thế lào… –
Tôi có tin Chúa Giêsu đã dùng Thánh giá mà cứu rỗi tôi không?… Tôi có nhớ lần nào đó hai khi nào đã giúp tôi ý thứ Chúa Giêsu cứu rỗi tôi và còn tiếp tục cứu rỗâi tôi mãi không?… Tôi có biết dùng thánh giá cứu rỗi tôi và anh chị em tôi không? (Theo Viễn tượng 2000)
3/ Xin tha cho họ
Trong giờ hấp hối trên thánh giá, Chúa Giêsu nhìn xuống thấy những kẻ đánh mình, nhục mạ mình, đóng đinh mình… Thay vì thù ghét họ, Người ngước mắt lên cầu khẩn
“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm…”
Và khi kẻ trộm cũng chịu đóng đinh với Chúa vừa mở mịêng nói dứt lời:
“Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
Người liền hứa không một chút do dự : “Quả thật, ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”
Có tình yêu nào cao thượng hơn nữa không? Có tình yêu nào vô biên hơn tình Chúa thương con người không? Do tội tổ tông với tội mình làm, loài người đã phản bội Chúa, xúc phạm đến Chúa… Nhưng Chúa vẫn thương cho Con Một chịu chết khổ giá chuộc tội mọi người, nhất là kẻ có tội, kẻ nghịch- người thù của Người !
Chúng ta đã thấy rõ tình thương vô biên của Chúa. Chúng ta có đáp lại chưa? Đáp lại cách nào? Đáp lại bao nhiêu?… Phải chăng Chúa muốn chúng ta thấy đó mà Kính mến Chúa hết lòng, thương yêu nhau như người.
4/ Không thập giá nào không đòi hỏi.
Có người kia Chúa cho vác cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi. Anh đến xin Chúa cho đổi thập giá khác. Chúa bằng lòng và bảo:
– Ngoài nghĩa địa, có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tùy thích.
Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhỏm vác cây thánh giá của mình và loay hoay chọn cây khác.
Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: cây thì dài quá, cây thì ngắn quá, có cây nhẹ nhàng thưng sù sì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá…
Và rồi đêm nào cũng thế… cho đến một đêm kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất vác về nhà.
Nhưng ôi! Khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích Phúc).
Chúa trao thập giá cho chúng ta vác theo Người, để được cứu rỗi được sống dời đời, nhất là để cộng tác với Người cứu giúp anh thị em chúng ta. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận đau khổ thử thách ở đời vì lòng mến Chúa yêu người. Càng có lòng kính mến Chúa thương yêu anh em thì thập giá càng nh nhàng dễ chịu. Như Chúa Giêsu vì thương loài người quá bội, không một lời than khổ khi vác thánh giá lên đồi Canve.
5/ Niềm vui và an hòa sẽ đến:
Inđira đến gặp đạo sĩ Makia và ngỏ lời:
– Xin Ngài hãy chỉ cho tôi một thần linh để tôn thờ và một tôn giáo để sống theo.
Đạo sĩ Makia liền đưa anh đến một tòa nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành cho một gian phòng riêng. Dừng chân đầu tiên trước tượng thần Bátda, đạo sĩ giới thiệu:
– Đây là vị thần sẽ cất hết mọi đau khổ khỏi thế giới.
Nhưng Indira lắc đầu và xin được sang phòng khác. Trước vị thần thứ hai, Makia giới thiệu:
– Đây là nữ thần Sopha có bí quyết giúp con ngươi tránh được đau khổ.
Nhưng Indira cũng lại xin đạo sĩ đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị thần bị treo trên thập tự giá. Indira tò mò hỏi:
– Vị thần nầy là ai mà bị treo trên thập tự giá như thế?
Đạo sĩ chậm rãi trả lời:
– Đây là thần của những người Kitô.
Với xúc động lộ trên mặt, Indira xin đạo sĩ giải thích thêm về những gì cần phải làm để trở thành môn đệ của Đấng chịu treo trên thập tự. Đạo sĩ ngạc nhiên hỏi:
– Nầy anh Indira, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần anh gặp trước, một vị đề nghị cất hết đau khổ, một vị đề nghị giúp tránh đau khổ, thế mà anh không thích vị nào. Tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của vị chết nhục nhã trên thập tự như thế? Indira giải thích:
– Hứa làm mất đi đau khổ trên trần gian là hứa suông, vì người ta không thể nào cất đi được đau khổ. Và dạy con người tránh đau khổ là dạy con người sống thấp hèn, và người ta cũng không cách nào tránh đau khổ được. Nhưng nhìn vào vị thần của người Kitô chấp nhận đau khổ trên thập tự, tôi hiểu được ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Rồi một khi người ta hiểu và chấp nhận đau khổ thì niềm vui và an hòa sẽ trổ sinh trên thế giới nầy.
Đó là lý do tôi bị thu hút bởi Đấng chịu treo trên thập tự kia và muốn làm đồ đệ Ngài… (Trích Món quà giáng sinh).
6/ Thập giá hằng ngày.
Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi.
Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi! (John Newton).
7/ Chọn thánh giá
Một người đến phàn nàn Chúa đã trao cho Thánh giá nặng quá vác không nổi!
Chúa dắt anh đến nơi có nhiều loại Thánh giá đề chọn. Nhìn tới nhìn lui, thấy cây nào cũng tương đối như nhau, sau cùng anh chọn được một cây. Nhưng khi đến gần mới thấy nó có cạnh vuông vác chắc đau vai lắm. Nhìn chỗ khác, anh thấy có cây Thánh giá tròn. Thích quá, anh chạy đến lấy vác thử thì thật nó không đau vai, nhưng nặng như cây Chúa đã trao. Thế là anh bỏ lại, tìm chọn cây khác.
Cuối cùng anh cũng chọn được một cây Thánh giá vừa ý anh vui vẻ vác lên vai đến trình với Chúa. Chúa mỉm cười bảo:
– Con hãy nhìn kỹ lại xem. Đó chính là cây Thánh giá Cha đã trao cho con vác từ lâu….
Nếu chúng ta cứ mãi bận tâm đến thập giá phải vác thì chúng ta phải. lựa chọn, so sánh, thay đối mãi như người nầy.
Trọng tâm của người Kitô hữu là tình yêu. Một khi đã mến Chúa yêu người thật lòng thì thập giá nào dù nặng nề khó vác đến đâu chúng ta cũng vác được nhẹ nhàng thoải mái.
Bằng chứng cụ thể là Chúa Giêsu. Vì thương chúng ta, mặc dầu phải vác cây Thánh giá nặng nề ngã lên té xuống: Nhưng Người vẫn hết sức vác đến đỉnh Can-vê, để chịu đóng đinh treo trên đó cứu rỗi chúng ta. (Theo phút cầu nguyện cuội ngày tập II).
8/ Biểu hiện của Tình yêu
Năm 1825, một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ chánh tòa đồ sộ do người Bồ-đào-nha xây cất đã bị đổ nát. Tuy nhiên như phép lạ, mặt tiền nhà thờ vẫn còn nguyên và cây Thánh giá vẫn đứng vững.
Khi ông toàn quyền Hồng Kông là John Browin đến tham quan cảnh tượng, ông đã sửng sốt thốt lên:
– Tôi được vinh dự thấy Thập giá Chúa Kitô. Thập giả vẫn đứng vững qua mọi đổ vở của thời gian. Tất cả ánh sáng của lịch sử đều quy tụ nơi Thập giá Vinh quang. Thập giá vốn là hình phạt xử tử dã man nhất thời La-mã, nay dược Chúa Giêsu dùng làm biểu hiện của anh Thương. Nơi Thập giá, không những tình yêu Thiên Chúa được tỏ hiện trọn vẹn, mà nơi Thập giá chân lý về con người còn được tỏ bày cách trong sáng nhất. Con người chỉ có thể là người khi hiến thân hy sinh phục vụ mọi người.”
Thập giá là chân lý của chúng ta, là nguồn sống của chúng ta và là sức mạnh của chúng ta… (Theo Lẽ sống, tập 2)
9/ Cái hộp nhỏ
Một hôm Đức giáo hoàng Inôcentê IX mời cha Laudius Aquaviva là Bề trên Tổng quyền Dòng Tên và là bạn thân vào phòng làm việc của ngài. Ngài chỉ cho cha thấy cái hộp nhỏ để trên bàn và nói:
– Cha biết có gì trong hộp nầy không? Trong đó có vật quy ùlắm. Cha hãy mở ra xem..
Cha Aquaviva mở hộp ra, ngạc nhiên thấy trong hộp một xác người nằm ngay ngắn và giống hệt Đ.G.H, cha đang phân vân không biết việc gì thì Đức Inôcentê tâm sự:
– Hình người chết nằm trong đó giống tôi là điều rất quý giá, vì nó nhắc tôi nhớ có lúc tôi phải chết. Mỗi lần cần quyết định điều gì quan trọng thì sau khi cầu xin Chúa soi sáng, tôi vào đây mở hộp nầy ra, nhớ đến lúc tôi chết rồi mới quyết định. Trước mọi quyết định, tôi đều tự hỏi: Nếu tôi phải chết ngay lúc nầy, tôi phải quyết định thế nào. Chính vì thế, cái hộp nầy rất quý giá đối với tôi..
Đó là bí quyết của ĐGH Inôcentê IX. Hy vọng đó cũng là bí quyết của mỗi người chúng ta. Không những chúng ta chỉ đặt mọi quyết định của mình trong viễn tượng cái chết, nhưng còn phải đi xa hơn, là đặt mọi quyết định của mình trong viễn tượng ánh sáng của điều bên kia cái chết, của sự sống đời đời sau cái chết Chúa Giêsu biết Người chịu chết để sống lại vinh quang, nhất là để cho mọi người được cứu rỗi, được sống muôn đời. Ước gì mỗi người cũng biết noi gương ĐGH Inôcentê IX, đặc biệt là Chúa Giêsu biết dự kiến thế nào, để sau khi chết được sống và sống muôn đời, và nên nguồn sống cho gia đình, cho anh chị em chúng ta… (Theo Phút cầu nguyện cuối ngày tập II).
l0/ Sức mạnh phi thường
Hãng truyền hình Phi-luật-tân có chiếu bộ phim tựa đề “Cậu bé Simon”. Bộ phim bắt đầu với một hình tượng hãi hùng. Tại bệnh viện, một đám người đang xô đẩy chen lấn nhau xem một điều kỳ lạ, trong khi đó có những người tìm đường chạy trốn, đó là cha mẹ của đứa bé mới được sinh ra với thân hình kỳ dị, được đặt tên là Simon. Em bé đã bị cha mẹ ruồng bỏ vì thân hình quái dị của em. Nhưng may mắn thay, em đã được một gia đình nhận làm con nuôi.
Ngày qua ngày, em lớn lên trong sự ấp ủ, thương yêu, khích lệ của gia đỉnh cha mẹ nuôi. Nhưng em cũng không tránh khỏi bị khinh rẻ, cười nhạo của những trẻ đồng lứa tuổi. Dù vậy em vẫn vui tươi chấp nhận tất cả sỉ nhục..Và bộ phim được kết thúc cũng trong khung cảnh của bệnh viện, lúc Simon từ biệt mọi người thân thương để vĩnh viễn ra đi trong niềm thương tiếc mến phục của mọi người, vì em đã hy sinh chịu chết để cứu các bạn em khỏi phải chết ngộp trong một chiếc xe bị lọït xuống hố trên đường đi cắm trại.
Simon với thân hình quái dị đã vĩnh viễn ra đi, để lại một hình ảnh cao đẹp khắc sâu trong tâm trí mọi người. Một cậu bé tàn tật đã dám hy sinh chết thay cho đồng bạn, mặc dù lúc sống luôn bị họ nhạo cười khinh rẻ!…
Nhờ đâu cậu bé Simon tàn tật luôn bi khính miệt dám chấp nhận cái chết bi thảm cho bạn hữu được sống như thế? chắc chắn là nhờ sức mạnh phi thường của tình thương vì thương bạn hữu và nhất là để đáp tình thương của cha mẹ nuôi cậu. Chúa Giêsu hy sinh chịu chết trên khổ giá cũng vì thương chúng ta, cứu chúng ta được sống và đọc biết là được sống vĩnh, Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu và bắt chước bé Simon trong đời sống hằng ngày. (Theo Ánh sáng thế gian).
11/ Ba cách nhìn thập giá..
Cô Ann Thomas và cô bạn là Betty vào một cửa hàng bán đồ phế thải. Cô Ann vừa lôi ra một thùng đồ, Behy hỏi:
– Có gì đáng giá không?
– Không. Toàn là đồ vô dụng.
Nhưng cô Bettty nhìn vào, thấy có cây thánh giá cũ kỹ rỉ sét liền cầm lấy và nói:
– Tôi đã tìm được vật quý.
Cây thánh giá nầy làm bằng bạc. Cô Bettty mang về nhà lau chùi đánh bóng, và nó trở thành đồ quý thật. Và đứa con trai 7 tuổi của cô đã nhìn thấy cây thánh giá quý đó. Nó cầm lên, cung kính ngắm nhìn một lúc lâu. Bỗng nhiên em òa lên khóc nức nở.
Cô Betty hoảng sợ, không biết điều gì xảy ra cho nó. Cô hỏi:
– Con sao vậy?
– Con thấy Chúa Giêsu bị đóng đinh treo trên Thánh giá. Con không cầm lòng được!…
Ba người cùng nhìn cây thánh giá: một người cho là đồ phế thải, người khác bảo là đồ quý giá, kẻ khác nữa thấy Chúa Giêsu chết đau khổ trên đó.
Thế giới hiện nay cũng có ba hạng người với ba thái độ khác nhau trước thập giá Chúa Kitô.
Có số người cho thập giá là vật vô giá trị, chẳng đáng quan tâm. Họ kể đó là điều ô nhục, là một cớ vấp phạm, nên tìm cách xa lánh vứt bỏ.
Hạng người khác cho đó là vật quý có giá trị nghệ thuật hoặc với chất liệu quý.
Chỉ có những người có cái nhìn đức tin, nhận ra thập giá là biểu hiện của tình yêu cao cả lớn lao, tình yêu của Đấng đã ban Con Một cho nhân loại, chịu chết treo then khổ giá cứu độ mọi người. Họ nhìn thấy nơi thập giá chính Đấng đã phán: Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu.
Đó là cái nhìn của người Kitô hữu đích thực. Cái nhìn đó giúp họ nhận biết giá trị vô cùng của thánh giá Chúa Kitô. Từ đó họ cũng nhận ra giá trị nơi thập giá của chính mình, thập giá mà họ đón nhận trên bước đường theo Chúa Giêsu. Và nhờ đó họ can đảm hân hoan thực hiện Lời Người: Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình hằng ngày mà theo Ta”. (Theo thiên đàng là thế đó)
12/ Người nầy đã chết cho con.
Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa kỳ, vị anh hùng đã thắng chiến tranh giải phóng nô lệ, bãi bỏ chế độ chủ nô và duy trì sự thống nhất của Hoa kỳ, bị ám sát vào tháng 4.1865. Thi hài ông được đưa từ thủ đô Hoa kỳ về tiểu bang Illinois. Dân chúng đón tiếp trọng thể trong vài tiếng đồng hồ tại Cheveland thuộc tiểu bang Ohio.
Trong đoàn người diễn hành theo linh cửu, có một phụ nữ da đen bồng đứa con nhỏ trên tay. Khi đến gần thi hài vị tổng thống, bà mẹ liền nhắc cậu bé lên và nói:
– Con ơi! Nhìn kỹ, nhìn kỹ đi. Người nầy đã chết cho con đó
Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta. Ngài đã cứu chuộc chúng ta, và đã khôi phục lại tước vị làm con Chúa cho chúng ta. Ngài chính là vua của cả nhân loại, là Vua trên hết các vua. Ngài làm Vua vì tất cả những điều Ngài làm cho chúng ta. Nhưng trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài chẳng tỏ vẻ gì là một ông vua. Ngài còn nhất mực từ chối mỗi khi dân chung tôn phong Ngài làm vua. Thế rồi Ngài bị bắt nộp, bị đánh đòn, bị điệu ra tòa. Trước mặt Philatô, Ngài tự nhận là Vua, nhưng không là vua theo nghĩa chính trị thường tình. Ngài là vua vì đứng đầu một nước mới. Nước mà Ngài hứa ban cho người trộm lành. Một Nước không nằm trên bản đồ thế giới, mà nằm trong tâm hồn mọi người. Nước Ngài không thuộc thế gian, nhưng ở trong thế gian:
Nước của Tình yêu, và Chân lý, của Phục vụ và tha thứ, của Cứu độ và cứu sống. Tổng thống Apraham Lincoln đã tiếp nối công cuộc của Ngài. Chúng ta có tiếp tục công trình của Ngài không? (Theo Maria, Mẹ tuyệt mỹ).
Sưu tầm