Các Bài Suy Niệm Lễ Vọng Giáng Sinh

CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ VỌNG GIÁNG SINH

(Is 62, 1-5; Cv 13, 16-17. 22-25; Mt 1, 1-25 hoặc Mt 1, 18-25)

“Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít”.

1/ GIA PHẢ CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ

(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Người ta có cố có ông, có cha có mẹ có ông có bà, tức là có một gia phả. Đức Giêsu dù là Thiên Chúa, nhưng làm người, nên cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên ấy. Gia phả của Đức Giêsu Kitô được Thánh sử Matthêu viết thật là dài cả thảy 42 đời, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Gia phả này nhắc nhớ chúng ta rằng, “Sau sự sa ngã phạm tội của Ađam và Evà, Thiên Chúa đã không muốn bỏ rơi nhân loại một mình, cũng như đã không muốn phó mặc nhân loại cho sự ác. Ngài đã đáp trả lại sự nặng nề của tội lỗi bằng sự phong phú tràn trề của ơn tha thứ. Lòng Thương Xót luôn luôn vượt lên trên mọi mức độ của tội lỗi, và không ai có thể đặt ra những giới hạn cho Tình Yêu tha thứ của Thiên Chúa” (x. Misericodiae Vultus số 3). Thiên Chúa đã đi tìm Ađam và Evà để cùng đồng hành với con người. Thiên Chúa đã gọi Abraham người đầu tiên trong gia phả, thứ đến là các tổ phụ khác. Thiên Chúa đã hòa mình vào lịch sử với chúng ta, một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, có những thánh nhân vĩ đại nhưng cũng có những tội nhân thấp hèn. Đó là Tình Yêu an ủi của Thiên Chúa, Đấng tha thứ và ban tặng niềm hy vọng cho chúng ta.

Theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Abraham, và cuộc đời Người gắn kết với dân tộc Israen, một dân được tuyển chọn trong tình thương. Đức Giêsu cũng là Con của vua Đavít, nên Người có cơ sở để là Đấng Kitô như lời hứa.

Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm người, sinh ra trong một gia đình, sống trong xã hội, nên cũng chịu chi phối bởi xã hội trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (x. Mt 1,16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Israen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Người, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn.

Như chúng ta đã nói ở trên, Con Thiên Chúa hòa mình vào một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, một gia phả khác thường đối với Do thái giáo. Bởi lẽ, trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ, đó là chuyện lạ, vì người Do Thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria ra, còn bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Tama và Rakháp gốc Canaan, Rút gốc Môáp, vợ Urigia người Híttít. Mỗi bà lại có hoàn cảnh khác thường không ai giống ai. Tama giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giuđa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Rakháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bétsabê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (x. 2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bôát là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (x. R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này, nên cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại nếu tính theo gia phả, dẫn đến cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.

Sự giáng sinh của Con Một Chúa

Thiên Chúa muốn cứu độ con người bằng cách sai Con Một Chúa xuống thế gian, nhập thể làm người. Cách làm người của Con Thiên Chúa vừa bình thường lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Người được sinh ra bởi một người nữ (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Người không được sinh ra bởi người nam (cha ruột), nhưng do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1, 18. 20). Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Có thể nói, Đức Giêsu có được “nhập khẩu” vào dòng dõi vua Đavít hay không đều tùy thuộc vào lời đáp trả của thánh nhân. Nên Thánh Mátthêu đã làm nổi bật dung mạo vị cha nuôi của Chúa Giêsu, vừa nhấn mạnh rằng, nhờ qua thánh nhân, Con Trẻ được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavid ”. Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít với một gia phả. Có một gia đình cần thiết để sống và lớn lên.

Trong giờ vọng lễ Mừng Chúa giáng sinh đêm nay, chúng ta hướng nhìn về Thánh Giuse, vị hôn phu của Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, cha nuôi Đức Giêsu, mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19). Vai trò của Thánh Giuse với nhân đức trổi vượt không thể nào bị rút gọn về khía cạnh luật pháp mà thôi. Ngài được Thiên Chúa tín nhiệm trao ban quyền làm “Người gìn giữ Ðấng Cứu Thế”, trong gia đoạn đầu của công trình cứu chuộc, khi hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, thật xứng hợp biết bao khi hướng về ngài, cầu xin ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Tin cao cả này.

Noi gương ngài, chúng ta mở rộng lòng mình ra, chuẩn bị nội tâm để đón nhận và gìn giữ Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta. Uớc chi Chúa có thể gặp thấy trong chúng ta lòng quảng đại sẵn sàng đón Chúa đến, như đã xảy ra tại Bêlem trong Ðêm Cực Thánh Chúa sinh ra đời. Amen.

2/ ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ

(Lm. Vinhsơn Ngọc Biển S.S.P)

Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa. Kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.

Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.

Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của mình như là “dân tộc bước đi trong u tối“, chốn lưu đày đối với họ chính là “miền thâm u của sự chết”, những khổ nhục họ phải chịu là “cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai ...” Tuy nhiên, cái đêm âm u cũng như miền thâm u sự chết, những cái ách và cái gông nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia gỡ bỏ khi loan báo về một trời mới, đất mới và họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan“, miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung… Bởi vì “một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới” (Is 62,11). Cũng vậy, tiên tri Mikha, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình” (Mk 5,1-4).

Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikha cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ…, thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên: “Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.

Bởi vì: “Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: Hát đi, hát thử đi xem, Xion nhạc thánh điệu quen một bài!” (x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).

Nỗi đau khổ của dân Israel đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi.

Vì thế, Đên nay là: Đêm Hồng Ân; Đêm tình thương cứu thế; Đêm chan hòa Ánh Sáng; Đêm giao hòa giữa Trời và đất; Đêm khơi nguồn Bình An; Đêm mà Thiên Chúa và con người gặp nhau; Đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, “… anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7).

Đứng trước hồng ân cao trọng này, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96, 1-3).

Khi mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như vậy, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” (x.Ga 3,16; Is 9,5). Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2, 10-11).

Mặt khác, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn và trong trái tim của chúng ta. Bởi vì giá trị đích thực của niềm vui giáng sinh là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi người!

Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian qua việc giảng dạy và nơi những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”; “Bánh hằng sống”;“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho những ai đón nhận được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).

Noi gương Đức Giêsu, và để cho Ngài sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, mỗi người hãy trở nên quà tặng cho tha nhân qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông phát xuất từ niềm tin và lòng thương xót…

Đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.

Ước gì, khi chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.

3/ BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

(Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” là sứ điệp của Chúa giáng sinh làm người. Sứ điệp này là lời cầu chúc từ trời, là niềm mong mỏi quí giá và cần thiết nhất của con người.

Niềm vui và bình an của Chúa giáng sinh được ban phát trong đêm thanh vắng, giữa cánh đồng thanh vắng, trong bầu trời thanh vắng. Điều đó ngụ ý rằng niềm vui và bình an bởi trời sẽ chỉ lãnh nhận được bởi những người có tâm hồn thanh tịnh.

Trong đêm khuya thanh vắng, niềm an vui từ trời gởi xuống sẽ được đón nhận bởi những tâm hồn hướng thiện. Hướng thiện là hướng về Chúa, Đấng là nguồn cội của Chân- Thiện -Mỹ, và là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.

Muốn hướng về Chúa, thì phải sạch tội, nghĩa là không còn vướng mắc tội lỗi và những đam mê tật xấu.

Tâm không thiện, lòng không ngay, con người không bao giờ được an vui đích thật. Dù có an vui đi chăng nữa, thì cũng chỉ là niềm an vui giả tạo, niềm an vui của kẻ cơ hội và tội lỗi coi lễ Giáng Sinh là dịp để tụ tập ăn chơi đàng điếm, phóng túng… Có biết bao nhà hàng, quán xá, vũ trường, khách sạn… đón Giáng sinh rất hoành tráng, đèn hoa rực rỡ… nhưng chẳng phải mừng Chúa giáng sinh cứu đời mà là thương mại hoá, kinh doanh kiếm lời. Chính vì những ham hố lợi nhuận ấy, mà người ta sẵn sàng tạo mọi điều kiện, mở các dịch vụ, tận dụng các kỹ nghệ, để phục vụ tất cả những đam mê của con người, kể cả những đam mê xấu xa đê hèn nhất. Tệ hại và đau lòng hơn cả là mọi hình thức tội lỗi ấy lại xảy ra vào đêm Chúa giáng sinh, đêm mà ai cũng coi là linh thiêng: “Đêm thánh vô cùng”.

Vâng, đêm Giáng Sinh chắc chắn sẽ có rất nhiều người đổ ra đường… Trong dòng người ấy, chắc chắn không thiếu những đôi trai gái, những bạn trẻ, những người trung niên, những người lắm tiền nhiều của và cả những người có địa vị trong xã hội… đã móc hầu bao, để ném tiền vào những nơi tội lỗi, lao mình vào vòng tay của bóng tối, mà lẽ ra cần phải xa lánh. Và có khi đồng tiền họ sử dụng trong đêm Giáng sinh lại là những đồng tiền bất chính, làm ăn phi pháp, bóc lột xương máu và nước mắt của bao người lam lũ khổ đau…để biến bao nhiêu thân xác con người, nhất là các cô gái trẻ, các em bé… thành những món hàng, thứ đồ chơi mua vui. Đó là chưa kể đến những chàng trai cô gái muốn trở thành anh hùng xa lộ… lao vào những vòng đua nguy hiểm đe doạ chính sự sống của mình và của người dân vô tội khác.

Ngược với niềm vui bất chính và tội lỗi trên. Niềm an vui của đêm Giáng sinh mà Chúa mang đến là niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Đó là niềm vui miên man, chứa chan và thánh thiện dành cho tất cả những tâm hồn biết đón nhận Đấng ‘Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Đó không chỉ là niềm vui đúng đắn mà còn là niềm vui cao sang, trang trọng, tràn đầy sức sống. Niềm vui mà chính thiên thần Chúa đã gọi tên là ‘Tin mừng trọng đại’, là ‘vinh danh Thiên Chúa’.

Niềm an vui có ‘Thiên Chúa ở cùng’ không chỉ là niềm vui phổ quát được trao ban cho tất cả những người thành tâm thiện chí mà còn là niềm vui có tính cách hết sức cá vị dành cho những con người cụ thể như Giuse, Maria, các mục đồng và các nhà đạo sĩ… Họ là những con người, những cá nhân, đã sẵn sàng mở rộng lòng đón nhận Đấng Emmanuel, đến cư ngụ trong tâm lòng và gia đình mình. Dù phải đối diện với bao khó khăn trắc trở, nhưng một khi nhận được tiếng Chúa mời gọi lên đường, họ đã sẵn sàng ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.

Trên đường đến hang đá Bêlem theo lời loan báo của các thiên thần, các mục đồng chỉ để ý đến ‘Hài Nhi Giêsu bọc trong tã đặt nằm trên máng cỏ’, chứ không để ý đến một mục tiêu nào khác. Khi đến nơi, các mục đồng cũng chỉ để ý đến Hài Nhi Giêsu như là trung tâm và đích điểm chuyến đi của mình. Gặp thấy Chúa Hài Nhi, các mục đồng tin rằng Ngài chính là ‘Tin Mừng cho toàn dân’ và là Đấng Cứu Độ mà họ đang mong đợi.

Thiện tâm của các mục đồng là như vậy. Ta hãy coi đó là mẫu gương thiện tậm. Nếu ta biết điều chỉnh tâm lòng, để luôn hướng về Chúa Giêsu và đặt ngài làm trung tâm mọi sự thiện của đời ta, thì ta sẽ đạt được niềm vui đích thực trong cuộc sống.

Ước mong rằng tất cả mọi người khi mừng lễ Giáng Sinh với lòng thành tâm thiện chí đều xứng đáng lãnh nhận niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Hài Đồng. Amen.

4/ HÔM NAY, ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA

(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Từ 21 thế kỷ qua, lời rao giảng vui mừng trên vang lên từ con tim Giáo Hội. Trong đêm thánh này, Thiên Thần Chúa lặp lại với mỗi người chúng ta những lời như sau: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít” (Lc 2,10-11).

Trong bầu khí linh thiêng của đêm Noel năm nay, khi chiêm ngắm Con Chúa ra đời, chúng ta xin Chúa điều gì? Chắc chắn mỗi người mỗi tâm tình, mỗi ý nguyện, phần lớn những người hiện diện nơi đây đều có những lời cầu xin của riêng mình. Tôi đề nghị một lời cầu xin tha thiết nhất, một nỗi khát vọng mãnh liệt và triền miên của toàn thể nhân loại chúng ta hôm nay đó là xin ơn “Đức tin và Bình an”.

Đề nghị thứ nhất: xin ơn Đức tin

Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật. Những điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.

Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa.

Giáng Sinh là dịp thuận lợi để chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Kitô, và khẳng định lại những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính của Công Đồng Nicê năm 325 và Công Đồng Constantinôple năm 381. Những điều ấy dẫn chúng ta vào mầu nhiệm của Chúa Kitô.

“Một Hài Nhi, được sinh ra bởi Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời“, đây là cách diễn đạt nghịch lý của Giáo phụ Romanos de Mélode. Có lúc, Thiên Chúa gần gũi đến lạ thường, và cũng thật siêu việt, vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, Một Hài Nhi là Con Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời. Để hiểu được cách diễn đạt “sinh bởi Đức Chúa Cha “, chúng ta cần phải đọc lại chương mở đầu của Tin Mừng theo Thánh Gioan : “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa ” (Ga 1,1).

Chúng ta không nghĩ đến sự sinh bởi Thiên Chúa, vì chúng ta có những ý niệm về không gian và thời gian… Nhưng ở nơi Thiên Chúa, thì không có khởi đầu và kết thúc. Chúa Cha sinh ra Chúa Con tự đời đời. Vì thế Chúa Cha là Cha tự đời đời, và Chúa Con là Con tự đời đời.

Đặc điểm của Chúa Cha là trao ban hoàn toàn cho Con mình. Và đặc điểm của Chúa Con là lãnh nhận hoàn toàn từ nơi Cha và vâng phục trong tình yêu đối với Chúa Cha. Chúa Kitô là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa ; điều này thường thấy trong Tin Mừng, khi mà Chúa Kitô dùng từ ” TA LÀ ” (Ga 9, 58).

Quả thật, trong trình thuật cuộc thương khó Chúa Giêsu theo Thánh Gioan, lúc ở trong vườn Giệtsimani, Đức Giêsu hỏi những người đến tìm bắt Ngài rằng : “Các ngươi tìm ai ? ” Họ trả lời : “Giêsu Nagiarét“. Đức Giêsu nói : Này ta,Khi Đức Giêsu nói với họ này ta, họ liền lùi lại và ngã ra đất hết ” (Ga 18,6). Họ ngã, không phải là vì họ trượt chân, nhưng là vì họ ở trong tư thế tôn thờ, vì lời Đức Giêsu nói với họ : chính Ta hay là Ta có nghĩa là thần thánh.

Thập giá đối với người Do Thái là sự sỉ nhục, đối với người dân ngoại là sự điên dồ, nhưng đây là sự mạc khải của Thiên Chúa: ” Khi nào tôi được treo lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi, lúc đó các người sẽ biết ta là ai“. Nhưng Giáng sinh có ý nghĩa, vì Giáng sinh là Thánh Giá có một cái bóng được gọi là Phục Sinh.

“Ánh Sáng bởi Ánh Sáng”

“Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sáng của nhân loại ; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng” (Ga 1, 4-5).

Như vậy, với tác giả Tin Mừng, ánh sáng đồng nghĩa với sự sống thần linh ; Nhập thể của Người là ánh sáng, là một trận chiến chống lại bóng tối. Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.

Vậy, đâu là bóng tối? Chắc chắn là thế gian rồi, nhưng trước hết vẫn là trong lòng người ta. Chúng ta có vùng tối mà chúng ta không muốn thấy, ánh sáng không phải là bạo lực, do đó ánh sáng tràn ngập, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ánh sáng này sau đó sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của nhân loại: thần linh hóa mọi tạo vật, chiếu dọi vào tâm hồn, phản ánh vinh quang rực rỡ của Chúa Cha.

Thế giới của chúng ta đang cần những chứng nhân cho ánh sáng. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, những người chịu phép Rửa tội được gọi là ” ánh sáng” chiếu tỏa ánh sáng Thần Linh.

Việc tái truyền giảng Tin Mừng, là làm thế nào để người môn đệ biến đổi. Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nói với các linh mục rằng : “Người ta muốn thấy Chúa Giêsu qua anh em”. Nơi mỗi người đã chịu phép Rửa tội, bởi vì họ là nhà của “ánh sáng từ ánh sáng” phải được chiếu soi rạng ngời.

Nguồn gốc của ánh sáng là Tình Yêu. Vì vậy, đừng quên rằng nếu như tội lỗi, nghĩa là bóng tối tách ra, Tình Yêu biến thành ánh sáng thần linh. Trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu chiếu tỏa ánh huy hoàng của Người trên khuôn mặt rạng ngời có Thánh Giuse.

Thiên Chúa thật và là Người thật”

Công đồng Chacédoan năm 451 đã tuyên xưng: “Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và người thật”.

Tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, không phải vì một người là Thiên Chúa, những là bởi Thiên Chúa đến vì các tội nhân, Ngài đến để cứu từng người trong chúng ta !

Làm thế nào để Thiên Chúa toàn năng, Thánh, chí Thánh, ngàn trùng chí Thánh, ba lần thánh này, có thể đồng bàn với phường tội lỗi? Làm thế nào để Thiên Chúa đến thi thố tình yêu cho chúng ta?

Hài Nhi nằm trong máng cỏ đến thanh tẩy tội lỗi chúng ta và đem dâng lên trước tòa Chúa. Không, Thiên Chúa không phải là một người cha ngáo ọp, hay một thẩm phán, cũng không phải một kẻ giáo điều. Hài Nhi, Thiên Chúa thật nhỏ bé đến mạc khải cho chúng ta Một Thiên Chúa thật.

Đó là lý do tại sao Chúa Con được sai đến trong thế gian. Không chỉ mạc khải về Chúa Cha, nhưng để nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Làm cho chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót.

Khi tuyên xưng Hài Nhi năm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật, là loại bỏ các lạc thuyết, Ảo thân thuyết, dưỡng tử thuyết. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Người là Đấng cứu chuộc chúng ta.

Nếu Đức Kitô chỉ là Thiên Chúa, thì Người không thể cứu độ tất cả chúng ta! Người là Thiên Chúa và là người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Tuy nhiên, “Tất cả những gì được Người đảm nhận đều được cứu.” (St. Athanasius)

Con Thiên Chúa đã đảm nhận một thân xác, và vì thế từ nay, Người trở nên người nhờ Chúa Thánh Thần, đó là lý do tại sao thân xác của chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta đã đánh mất sự sống, nhờ Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta tìm lại được. Vì thế, chúng ta càng theo Chúa Kitô, chúng ta sẽ càng trở nên giống Người hơn. Chúng ta được trao ban cho Chúa Kitô, chúng ta được thần linh hóa.

Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để chúng ta tin vào Đức Giêsu Con Thiên Chúa.

Đề nghị thứ hai là : xin ơn bình an.

Chúng ta cầu xin Chúa “ơn bình an” như chính lời Kinh Thánh gợi ý: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương! ” (Lc 2,14). Đây là điều rất cần thiết và thực tế. Theo Kinh Thánh, sự bình an đi đôi với hạnh phúc mà Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta mà không khao khát hạnh phúc cho mình và tha nhân? Ai trong chúng ta mà không ước muốn được bình an? Thiếu sự bình an, thì không thể có hạnh phúc. Hạnh phúc trước hết và trên hết là niềm vui “được yêu”, được Thiên Chúa yêu thương, được loài người yêu thương.

Sự bình an là một ân sủng, là “quà tặng Giáng Sinh” của Thiên Chúa cho chúng ta. Để có được quà tặng ấy, chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).

Nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Chúa Cha ở cùng tất cả chúng ta. Amen.

5/ TÌNH YÊU NHẬP THỂ

(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Đêm nay, Đêm Tình Yêu. Chúng ta có thể nói như thế mà không sợ sai lầm. Vì yêu, Thiên Chúa đã thể hiện hết tình đối với con người khi làm cho ánh sáng chân thật chiếu trần thế (x. Lời nguyện nhập lễ). Đêm con người được Chúa yêu thương, “dân tộc bước đi trong u tối được nhìn thấy sự ánh sáng” (x. Is 9,2-7). Đại tin vui đến với con người đêm nay : “Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui ?” (x. Is 9, 4). Đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).

Thiên Chúa là Tình Yêu

Theo thánh Augustinô thì toàn bộ Kinh Thánh chỉ là bản “tường thuật tình yêu của Thiên Chúa”. Chính tình yêu này giải thích mọi sự khác, cắt nghĩa vì sao có tạo dựng, có nhập thể làm người, có chết và sống lại để cứu chuộc. Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.

Kiểu nói “Thiên Chúa là Tình” có hai nghĩa rất khác nhau. Hoặc Thiên Chúa là đối tượng của tình yêu (yêu Chúa). Hoặc Ngài là chủ thể của tình yêu (Chúa yêu). Thư thứ nhất của Gioan cho chúng ta câu trả lời : “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu thương chúng ta” (1Ga 4,10). Như thế, Thiên Chúa là Tình yêu, còn chúng ta là đối tượng được Thiên Chúa yêu thương.

Con người được Chúa yêu thương

“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa đã hạ sinh cho chúng ta vì yêu thương.

Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm cho chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2016 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại.

“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.

Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ của tình yêu, sẻ chia và hy vọng.

Tình Yêu, vì : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một Người” (Ga. 3, 16-17). Hy vọng, vì Thiên Chúa giáng sinh làm người để giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi muôn điều lo sợ, sợ thiên tai, nhân tai, sợ chết. Sẻ chia vì : “Thiên Chúa làm người để con người trở nên thiên chúa”. Trở nên thiên chúa đây nghĩa là gì ? Đó chính là trở nên tình yêu như Ngài là Tình Yêu. Vâng, Thiên Chúa xuống thế làm người để trao ban tình yêu và mời gọi con người đáp lại tình yêu, đón nhận tình yêu và trở nên tình yêu đối với anh em.

Chúng ta hãy yêu thương nhau

Nơi Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu giáng trần không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Chúa Giêsu đã nhập thể làm người vì yêu để con người trở nên khí cụ của tình yêu ấy.

Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Tình Yêu đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử.

Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Người sẽ cứu dân ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi người nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao, là Tình Yêu của Chúa Cha. Nhờ sự sinh hạ của Người mà chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều nơi, nhiều chốn, nhiều gia đình, sống nhưng lại sống vất vưởng, vì ở đó thiếu vắng tình yêu. Nhân dịp mừng sinh nhật Con Chúa, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho toàn thể nhân loại tình yêu của Chúa và xin Chúa xua tan đi bóng đêm hận thù, ghen tỵ, tranh chấp đang còn len lõi đó đâu trong các gia đình, trong các cộng đoàn, giữa lòng các dân tộc hay trên thế giới.

Lạy Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha muôn thủa, Ông Vua Thái Bình, xin hâm nóng trái tim mỗi người chúng con để chúng con biết yêu, biết trao ban tình yêu từ Chúa cho người chúng con gặp gỡ ! Amen.

bài liên quan mới nhất

Ngày 28/4: Thánh Phêrô Channe – Linh mục, tử đạo (1803-1841)

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng