"Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”
Lời Chúa: Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15,9-17
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con”. Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.
Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.
Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.
Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.
Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.
Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.
Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.
Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.
Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn (x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.
Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.
Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.
Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.
Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.
Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.
Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.
Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.
Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.
Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.
Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc… của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?
Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó khong? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”.
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra mot khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phai yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.
Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những ngươi nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dau để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tien, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được an no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đep, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.
Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?
2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?
3- Đối với ban, yêu thương người khác dễ hay khó?
4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Dựa trên truyền thống các ngôn sứ, Người Do Thái tin rằng ơn Cứu độ chỉ được ban cho dân tộc Do Thái, vì đó là dân được tuyển lựa. Các môn đệ đều là người Do Thái. Họ đã theo Chúa Giêsu và được Người giáo huấn. Tuy vậy, các ông vẫn mang não trạng chật hẹp của truyền thống. Một số trong các ông tin Thày mình là một chính trị gia, đến để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người La mã, vì thế, vào lúc Chúa phục sinh quy tụ các ông và chuẩn bị lìa xa các ông mà về trời, vẫn có người trong số môn đệ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?” (Cv 1,6).
Chính vì ảnh hưởng bởi não trạng tự tôn dân tộc, mà ông Phêrô lúng túng khi có người ngoại, tức là không phải người Do Thái, xin gia nhập Đạo. Chính Thiên Chúa đã can thiệp qua hai thị kiến để giúp ông Phêrô và các tông đồ thoát khỏi những băn khoăn này. Ngài vừa sai sứ thần đến với ông Cornêliô, vừa cho ông Phêrô thấy một thị kiến là một tấm khăn lớn buộc bốn góc từ trời thả xuống đất, trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết, cùng mọi thứ chim trời. Đó là những con vật luật Do Thái cấm ăn vì coi là vật không thanh sạch. Chúa đã giải thích cho ông Phêrô: đừng gọi là ô uế những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch. Qua thị kiến này Chúa muốn khẳng định: ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô dành cho mọi dân tộc, không loại trừ ai. Vì Đức Kitô là Ánh sáng muôn dân, là Mặt trời công chính rạng soi cho mọi nước.
Thực ra, trong giáo huấn của Chúa Giêsu, đã nhiều lần Người khẳng định tính hoàn vũ của ơn Cứu độ. Người nhấn mạnh đến tình thương của Chúa Cha, Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những kẻ lành cũng như người dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất nhân. Trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi rào cản và thành kiến, đồng thời Người khẳng định: đã đến lúc việc thờ phượng không còn giới hạn bởi ranh giới địa lý hay chủng tộc, mà là lúc những ai thờ phượng Chúa thì thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Qua câu nói của ông Caipha Thượng tế: “Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”, Thánh sử Gioan nhận ra đó là một lời tiên tri: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối” (Ga 11,50-52). Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố: Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Như thế, cây thập giá, hay đúng hơn là cái chết của Chúa Giêsu là điểm quy tụ muôn dân. Cây thập giá cũng là điểm kết nối, giao hoà Thiên Chúa với nhân loại, để rồi từ nay, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nhưng tất cả những ai đang sống dưới gầm trời này, nếu họ kêu cầu Danh Đức Giêsu Kitô, thì họ được cứu độ. Mặc dù Giáo Hội tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại, Giáo Hội cũng công nhận những tinh hoa của các nền văn hoá như hạt giống của Lời. Vì vậy, những ai không được nghe nói đến Chúa Giêsu và ơn Cứu độ của Người, nhưng thành tâm sống theo chỉ dẫn của lương tâm, thì họ cũng thuộc về Vương quốc Chân lý của Chúa Giêsu.
Với lời tuyên bố của thánh Phêrô: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” Giáo Hội sơ khai đã bước sang một trang sử mới. Từ nay mọi người đều có thể gia nhập Đạo Chúa. Đức tin vào Đức Giêsu đã vượt qua biên giới Do Thái để đến với dân ngoại. Sau này, với thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại, một viễn cảnh mới được mở ra. Thánh Phaolô xác tín rằng, mình được chọn để đem Tin Mừng của Chúa đến với các dân ngoại. Vì vậy, ông nỗ lực cố gắng thiết lập các cộng đoàn. Những cuộc hành trình truyền giáo của thánh Phaolô là những gian nan chông gai, nhưng vị tông đồ dân ngoại vẫn can đảm hy sinh, vì ông được Chúa nâng đỡ: “Ơn Ta đủ cho con”.
Ơn Cứu độ thực hiện trong Đức Kitô đã mở ra một thế giới mới. Không còn biên giới, không còn rào cản, không còn phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ. Thế giới mới Chúa Giêsu thiết lập có một ngôn ngữ mới: đó là tình yêu. Tiếp nối lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Chúa nhật trước, lời mời gọi “ở trong Thày” được nhắc đi nhắc lại, như một điểm nhấn nổi bật. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Mẫu mực của yêu thương không phải là một vĩ nhân trần thế, nhưng là chính Chúa Giêsu. “Như Thày đã yêu”, đó chính là cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa Giêsu đã chứng minh lời dạy này bằng cuộc khổ nạn thập giá.
Một khi chuyên tâm thực hiện lời dạy yêu thương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở thành “bạn hữu” của Người. “Anh em là bạn hữu của Thày, nếu anh em thực hành những điều Thày truyền dạy”. Thật là một vinh dự lạ lùng! Chúng ta là con người còn đầy yếu đuối và tội lỗi, lại có thể trở nên bạn hữu của Đấng Cứu thế. Quả vậy, một khi thực thi những giới răn của Người, nhất là giới răn yêu thương, thì chúng ta sẽ luôn có Chúa là người đồng hành, là người chia vui sẻ buồn, là người tâm huyết, gần gũi và thân tình. Khái niệm Chúa Giêsu là “bạn hữu” giúp chúng ta đi vào sự kết hợp bền chặt thâm sâu với Người, nhờ đó, chúng ta có sự bình an và niềm vui nội tâm, là nền tảng định hướng cho mọi suy tư và hành động trong cuộc sống hằng ngày.
Yêu thương là sáng kiến đến từ Thiên Chúa, vì chính Ngài đã yêu chúng ta trước (Bài đọc II). Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về đức yêu thương. Người đã hiến mạng sống mình trên thập giá vì yêu thương nhân loại và để đền tội cho chúng ta. Người tín hữu được Chúa sai vào lòng cuộc đời sống và loan truyền tình yêu thương cho tha nhân, đồng thời làm chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống. Vâng, Chúa đã chọn và đang cắt cử chúng ta vào cuộc sống xã hội còn đầy những khó khăn phức tạp, để hát lên niềm vui của Tin Mừng và để làm chứng Chúa đã phục sinh.
Qua việc thực thi đức yêu thương, chúng ta giới thiệu ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng đã chết cho muôn người, Đấng Cứu độ muôn dân. Đấng ấy đang sống và hiện diện giữa chúng ta.
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, các tôn giáo thường chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa Thượng Đế và con người. Còn mối liên hệ giữa con người với con người, nếu không bị bỏ quên, thì cũng bị coi nhẹ. Bởi vì tự bản tính loài người, chúng ta ai cũng ích kỷ chỉ lo cho mình mà thôi.
Thế nhưng với Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã lập lại thế quân bình giữa hai mối liên hệ: giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thật vậy, khi người ta hỏi Ngài xem điều răn nào là đieu răn quan trọng nhất, thì Ngài đã xác quyết: Mến Chúa và yêu người, cả hai đều giống nhau, nghĩa là có giá trị bằng nhau.
Hơn thế nữa, với Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta có cảm tưởng như Chúa Giêsu chỉ chú trọng điều điều răn thứ hai mà Ngài gọi là điều răn mới. Ngài nói đây là điều răn của Thầy: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống của mình vì bạn hữu. Thực ra Chúa Giêsu không có ý bảo chúng ta rằng: Từ nay khỏi cần phải nghĩ tới chuyện kính mến Thiên Chúa, chỉ cần yêu thương anh em mà thôi. Nhưng sở dĩ Ngài không nói tới lòng kính mến đối với Thiên Chúa la vì mọi tình yêu thứ thiệt điều bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì Ngài chính là Tình yêu.
Nước chảy phải có nguồn. Chặn nguồn lại thì nước sẽ không thể chảy xuống sông ngòi mà đi vào ruộng đồng. Với niềm tin, chúng ta thấy neu không có lòng kính mến đối với Thiên Chúa, thì cũng không thể có tình yêu thương đối nhau thực sự được. Bởi thế, trong điều răn mới đã bao gồm điều răn thứ nhất rồi.
Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bản chất của tình yêu ấy luôn luôn là trong sạch, vui tươi và viên mãn. Thế nhưng khi vào đời, tình yêu ấy cũng như dòng nước chảy, nhiều khi uốn khúc quanh co, nhiều khi đụng phải những chướng ngại vật và phải chảy qua cả những chỗ sình lầy dơ bẩn. Nhưng cuối cùng, thì chính tình yêu sẽ thanh tẩy tất cả, sẽ biến đổi tất cả, để rồi hướng mọi dòng chảy, nghĩa là hướng mọi thứ tình yêu con người chảy vào lòng đại dương bao la là chính tình yêu của Thiên Chua.
Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta tình yêu, để rồi nhờ chúng ta mà mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc sẽ được trở về với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Alpha và Ômêga, là khởi thuỷ và cùng đích của mọi tạo vật.
Những lời nói cuối cùng trong cuộc đời của một người thường là những lời nói tâm huyết, bộc lộ cả một tấm lòng chân thực. Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi ra đi chịu chết, Ngài đã cùng với các môn đệ dùng bữa tối. Trong bữa ăn này, sau khi đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nói với các ông tất cả những gì cần nói.
Trong cuộc trao đổi này, Chúa Giêsu đã xác định các ông là những người bạn hữu của Ngài, bởi vì các ông được Ngài cho biết tất cả những gì Cha Ngài đã nói với Ngài. Cũng trong cuộc trao đổi ấy, Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại với các môn đệ một lệnh truyền quan trọng, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Bằng chính cuộc đời của mình, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ mẫu gương sáng chói của tình thương yêu. Chính Ngài đã đi tới tận cùng của lòng thương yêu ấy như Ngài đã từng nói: Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến mạng sống mình vì bạnhữu. Quả thực, nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với Thiên Chúa, thì cũng là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với con người. Đó cũng chính là mẫu mực, chính là nền tảng cho tình yêu thương huynh đệ.
Hơn thế nữa, ở đây Chúa Giêsu còn đặt tình yêu thương giữa các tông đồ vào trong mạch thương yêu xuất phát từ Thiên Chúa: Như Cha đã yêu mến Thầy, thầy cũng yêu mến các con. Vậy các con hãy yêu mến nhau. Chính nhờ tình thương yêu này mà các môn đệ ở trong tình thương yêu của Chúa Giêsu, cũng như vì lòng thương mến các môn đệ, mà Chúa Giêsu ở trong tình thương của Chúa Cha.
Chúng ta có thể nói: với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào cối lõi của chương trình cứu độ, tức là đưa mọi người vào lại trong tình thương của Thiên Chúa và trong tình thương yêu lẫn nhau. Hai vế của tình thương này không thể tách rời nhau như lời thánh Gioan đã khẳng định: Kẻ nói mến Chúa mà không thương người, thì chỉ là kẻ nói dối. Với lòng thương yêu này, các tông đồ sẽ được nếm thử niềm vui ơn cứu độ, đồng thời còn phản ảnh được lòng mến Chúa của chúng ta nữa như lời Chúa Giêsu đã phán: Nếu các con yêu thương nhau thì mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy.
Điều Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ ngày xưa, cũng là điều Ngài truyền cho chúng ta hôm nay. Đạo của Đức Kitô chính là đạo của tình thương, của lòng yêu mến. Tất cả mọi tổ chức, mọi lập trường, mọi quan điểm của Giáo Hội cũng như của chúng ta, nếu không thực sự phục vụ tình thương đều là những gì nằm ngoài Kitô giáo. Ngược lại, việc rao giảng Tin Mừng, và làm chứng tá cho Chúa một cách hữu hiệu nhất, không gì bằng thực hiện giới luật của Chúa, đó là hãy yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm nay Chúa Nhật thứ hai của Tháng Năm đúng vào ngày của Mẹ. Vào ngày này cả thế giới tỏ lòng tri ân và để tôn vinh sự yêu thương và hy sinh cao cả của Mẹ dành cho gia đình. Quả thế, Không có gì ngọt ngào như lời của Mẹ. Không có gì dạt dào bằng tình thương của Mẹ. Không có gì xót xa hơn khi tóc Mẹ ngày thêm sợi bạc. Có gì thương hơn là Mẹ với con, dù con lớn vẫn là con của Mẹ. Đi suốt đời lòng Mẹ vẫn theo con.
Đúng như thế, trong trận động đất sóng thần xảy ra ở Nhật Bản vào tháng năm 2010, khi đội cứu hộ tiếp cận một ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ trông thấy thi thể bất động của cô qua các khe nứt. Nhưng tư thế của cô thật kì lạ, trông cô như đang quỳ xuống như khi cầu nguyện, thân cô hướng về phía trước, và hai tay cô như đang bọc lấy thứ gì đó. Ngôi nhà đổ nát đã đè quỵ hoàn toàn lưng và đầu của cô. Dù rất khó khăn, người đội trưởng vẫn cố gắng đưa tay qua các khe nứt để chạm tới thân người phụ nữ. Ông hy vọng mong manh rằng cô vẫn sống. Khi chạm đến làn da lạnh và cơ thể cứng ông biết người phụ nữ này đã chết. Ông lại lần mò bên dưới không gian chật hẹp cơ thể đã lạnh của người phụ nữ, ông reo lên:”Một đứa trẻ, là một đứa trẻ!” Cả đội đã cẩn thận di dời từng mảnh đổ vỡ của căn nhà chung quanh người cô. Một cậu bé 3 tháng tuổi đã được tìm thấy trong tấm chăn hoa bên dưới thân người mẹ đã mất của mình. Người mẹ đã hy sinh thân mình để cứu lấy cậu bé, khi căn nhà sụp đổ, cô đã ôm trọn đứa trẻ và gánh lấy toàn bộ sức nặng của tòa nhà, đứa trẻ vẫn ngủ, một cách bình yên khi người đội trưởng đưa ra. Bác sỹ nhanh chóng kiểm tra cậu bé, khi mở tấm chăn ông thấy một chiếc điện thoại. Một dòng chữ vẫn sáng trên màn hình: “Nếu con có thể sống, con phải nhớ rằng mẹ luôn yêu con.”
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất và được người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ với nhau. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính, “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc!”. Như vậy nó không có mẫu số chung. Đức Giêsu hôm nay đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu và có mẫu số chung: yêu như Chúa yêu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Có nghĩa rằng muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như thế”. Đức Chúa Cha là nguồn cội của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu phải quy chiếu về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu của Chúa như thế nào? Qua Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho thấy rõ tình yêu Thiên Chúa qua 3 chiều kích:
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình. Chúa Cha yêu thương tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu, lành hay dữ, thực vật hay súc vật, cỏ cây… Cho nên, trong bài đọc 2, Thánh Gio-an quả quyết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống”. Chúng ta đó chẳng phải là mọi người đó sao? Có đạo hay không có đạo, thiện hay ác đó sao?
Thứ đến, Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Tin nhắn của mẹ Nhật bản: “Nếu con có thể sống, Mẹ vẫn yêu con”, nhưng thử hỏi nếu con phản bội mẹ thì sao? Chưa biết? Còn Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã dựng nên ta, nhận ta làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Còn ta không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Đó là Ngài hy sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người. Cho nên, tình yêu của Chúa Giêsu là mẫu số chung cho mọi tình yêu chúng ta dành cho nhau: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.
Cuối cùng, tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Cụ thể dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Người Cha yêu quá đến nỗi quên hết những lỗi lầm của ta. Và trên cây thánh giá, Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của mình. Cho nên, Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa, tình yêu của Ngài chỉ yêu chứ không có ghét, hay trả thù. Còn ta thì sao? Tình yêu của chúng ta còn có ghét, “yêu nhau yêu cả lối đi ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng” hay “Yêu nhau kéo áo đắp chung, ghét nhau nắng dãi mưa dầm mặc nhau. Yêu nhau con mắt liếc qua, ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra”.
Tháng Năm, cũng là tháng Hoa dâng kính Mẹ. Đoàn con cái Mẹ ở khắp nơi muốn hiệp lời hát khen ca tụng Mẹ, dâng lên Mẹ những đóa hoa tươi xinh để tỏ lòng yêu mến. Ước chi những đóa hoa rực rỡ hương sắc ấy, mà mỗi người trong giáo xứ chung ta dâng lên Mẹ trong Năm Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Giáo Xứ, không dừng lại ở vẻ đẹp bên ngoài, nhưng biểu lộ tâm tình của những người con muốn ngước nhìn và bắt chước Mẹ sống gắn bó với Chúa Giêsu, biết lắng nghe và ghi khắc Lời Ngài, hết tình yêu thương và phục vụ anh chị em và sẵn sàng đi ra làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Xin cho mỗi mọi chúng ta cùng với Mẹ Maria biết lấy tình yêu Thiên Chúa đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Allêluia.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa Nhật tuần trước nói về nguyên lý cành nho phải kết hợp với cây nho mới sinh hoa trái.
Qua đó, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống liên kết với Ngài và liên kết với nhau. Hôm nay, Đức Giêsu còn đưa ra một giáo huấn hết sức quan trọng và mời gọi chúng ta thực hiện, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.”(Ga 15,12). Để thực hiện giáo huấn này, chúng ta cần tìm hiểu: Đức Giêsu yêu nhân loại như thế nào? Chúng ta phải làm gì để yêu thương nhau như Đức Giêsu yêu nhân loại?
Đức Giêsu yêu nhân loại đến nỗi Ngài đã chấp nhận xuống thế làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi: sinh ra nơi hang đá nghèo hèn trong đêm đông lạnh lẽo; sống trong một gia đình thiếu thốn ở Nazaréth với cha nuôi của Ngài là bác thợ mộc Giuse, mẹ của Ngài là bà Maria, một thôn nữ nhà quê; gần 30 năm làm nghề thợ mộc để phụ giúp gia đình.
Trong ba năm đời sống công khai, vì tình yêu nhân loại nên Đức Giêsu đã đi khắp nơi để thực hiện ý định yêu thương: Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi, đến với hết mọi hạng người không phân biệt dân tộc màu da hay địa vị giàu nghèo; Ngài đến với những người đau yếu bệnh tật để cứu chữa họ; Ngài tha thứ cho những người tội lỗi, cho những kẻ xúc phạm đến Ngài; Ngài đã tuyển chọn, huấn luyện các Tông đồ và thiết lập Giáo hội; Ngài đã thiết lập các Bí tích là máng chuyển thông ơn Chúa cho loài người; Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và dạy họ hãy làm như thế với nhau; Ngài đã chấp nhận bước vào con đường khổ giá một cách tự nguyện để cứu độ nhân loại. Đó là bằng chứng tình yêu Ngài dành cho nhân loại, đúng như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Sau khi sống lại, vì yêu thương nên: Ngài đã hiện ra với nhiều người, nhất là hiện ra với các Tông đồ để củng cố đức tin cho họ và cho mọi người qua mọi thời đại; Ngài ban Thánh Thần cho các Tông để các ông thêm can đảm làm chứng cho Tin mừng; Ngài soi sáng cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta am hiểu Kinh thánh; Ngài còn nâng chúng ta lên thành bạn hữu của Ngài: “Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu.” (Ga 15,15).
Tóm lại, những lời nói, những việc làm của Đức Giêsu trong suốt 33 năm sống trên trần thế đều vì yêu thương nhân loại chúng ta.
Đó là yêu hết mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giàu nghèo…phải yêu mọi người là anh em với nhau như Đức Khổng Tử đã nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em.
Đó là biết trao ban và cho đi. Không chỉ trao ban và cho của cải vật chất mà còn trao ban và cho cả nụ cười, cái nhìn yêu thương, lời nói động viên khích lệ. Bởi vì, cho là được, giữ là mất. Cho thì có phúc hơn là lãnh nhận. Cho một cách vô vị lợi, không so đo tính toán.
Đó là biết hy sinh. Hy sinh thời gian, hy sinh tiền bạc, hy sinh sức lực và hy sinh chính cả mạng sống của mình vì người mình yêu. Pierre l’Ermite nói rằng: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đức Giêsu cũng đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.”(Ga 15,13)
Đó là tình yêu chân thành. Thánh Gioan Tông đồ khuyên các tín hữu hãy yêu thương nhau chân thành, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng chính việc làm: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.”(1Ga 3,16-18).
Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Người ta kể rằng: Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ “Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời: “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong tình yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Ta ”. (Sưu tầm)
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại nên Chúa đã xuống thế làm người, đã lập nên Giáo hội, các Bí tích, nhất là đã hy sinh cả tính mạng của mình. Chúng con hết lòng cảm tạ Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến Chúa và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương nhân loại chúng con. Amen.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”.
Trước khi đi vào con đường khổ giá, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gấm được coi như bí mật cuối cùng và quý giá nhất của Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây Chúa Giêsu đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương rồi, nhưng trong giờ phút chia tay thì đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Điều răn của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12). Thế là lời trăn trở củaThầy đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và là một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên ” yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước cho họ ” Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.
Sống yêu thương thì dễ hiểu rồi, bởi vì là con người thì ai ai cũng biết mình có bổn phận phải yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác. Nhưng phải yêu thương ai? Chắc chắn đây không phải chỉ nói với những người lập gia đình, sống đời hôn nhân nhưng Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người. Vì thế ta phải hiểu chữ yêu thương nhau theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng nhìn lại thực tế, chúng ta chỉ yêu thương một số người như cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bè bạn thân thiết, vài người yêu thương của chúng ta. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn thù ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như Chúa đã dạy chúng ta? Hơn nữa, Chúa bảo chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con. Vậy yêu thương như Chúa Giêsu là yêu thương như thế nào? Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa; còn các môn đệ là người, là học trò. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã tôn trọng.
Chúng ta đang yêu thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu thương của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng quyền của họ có khác với quyền của ta. Có như vậy mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau. Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ, tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó. Chúa Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
Hơn nữa, chúng ta phải yêu người như Chúa yêu .”Cha đã yêu mến Thầy thế nào,Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x.bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x.bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, người xa lạ trở thành thân quen. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”.
Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tính đối với Thiên Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em. Phải biết “Yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”. Yêu như Chúa yêu nghĩa là không đóng khung giới hạn, biết đến với mọi người. Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài.
Mỗi thánh lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con luôn nhớ lời căn dặn của Chúa, để chúng con luôn biết sống yêu thương nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, để chúng con luôn làm tròn sứ mạng Chúa đã trăn trối, để chúng con luôn là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong)
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)
Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nao chúng ta có thể yêu và được yêu?
Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúa, chấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chung ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ la “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhoc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.
“Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.
“Thầy đã nói với anh em … để niem vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì càm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rat nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh)
Yêu và muốn được yêu là khát vọng ngàn đời của con người.
Nhưng… tình yêu phát xuất từ đâu? Thế nào là yêu và được yêu?
Thánh Gioan trong thư thứ nhất của ngài đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”.
Như thế nguồn gốc phát sinh ra tình yêu là Thiên Chúa. Ngài là người yêu thương chúng ta trước và chúng ta là người được yêu: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước” và Ngài đã biểu lộ tình yêu ấy đối với chúng ta là Ngài “đã sai Con Một Ngài đến trong thế gian, để nhờ Người Con Một ấy mà chúng ta được sống”.
Về phần con người, nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mang bản chất của Thien Chúa và chúng ta nhận biết Ngài là Cha yêu thương. Yêu thương là dấu chỉ để thế gian nhận biết chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Yêu Chúa, yêu người là hai giới răn quan trọng, tóm kết những giới răn khác. Như thế, là con cái Thiên Chúa, là Kitô hữu chúng ta phải có bổn phận biểu lộ bản chất yêu thương với Thiên Chúa và với mọi người.
Tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa đến con người tựa như một cây nho mà gốc và thân cây nho là Thiên Chúa và cành nho là con người như lời Thầy Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng…anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 5:1, 5). Chúa Cha yêu thương Chúa Con bằng nhựa yêu thương là Chúa Thánh Thần thúc đẩy và nuôi dưỡng cây nho lớn mạnh và phát triển sinh nhiều hoa trái: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga. 15: 9) và “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga. 15: 12)
Nhưng chúng ta phải yêu Thiên Chúa, yêu con người như thế nào?
Hôm nay, qua đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga. 15: 9-17), Thầy Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương yêu thương: Yêu như Thầy yêu.
Để cho cây nho yêu thương phát triển và lớn mạnh và sinh nhiều hoa trái, thì cả thân lẫn cành phải ở lại, phải gắn liền, phải liên kết từ gốc đen cành bằng nhựa yêu thương, phải chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái,tức là tuân giữ lệnh truyền, tuân giữ giới răn mà tình yêu đòi hỏi, và hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Khi yêu, không ai lại muốn đem điều xấu, điều bất hạnh đến cho người mình yêu. Hơn thế, Thiên Chúa là tình yêu, là Cha nhân lành thì chắc chắn không bao giờ Ngài bắt con người tuân giữ những lệnh truyền, những giới răn đưa con người đến bất hạnh và khổ đau; còn hơn thế, Chúa Cha đã hy sinh Người Con Một yêu dấu mình, Chúa Con đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu.
Như Cha Thầy yêu Thầy, Thầy Giêsu cũng yêu thương anh em.
Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau.
Tình yêu Chúa Cha và Chúa Con đã lan phát sinh ra tình yêu con người và từ tình yêu con người lại lan toả ra tình yêu giữa con người với con người.
Thầy đã thể hiện tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha bằng “đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Ngài”.
Chúng ta không biết Chúa Cha yêu Chúa Con đến mức độ nào, nhưng qua lời công bố của Chúa Cha: “Này là Con Ta rất yêu dấu và đẹp lòng ta, các con hãy vâng nghe lời Ngài” và qua lời xác nhận của Thầy Giêsu: “Thầy yêu anh em như Cha Thầy yêu Thầy”, chúng ta tin Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau rất thắm thiết, yêu nồng nàn, yêu chứa chan hơn bất cứ một tình yêu nào khác!
Chúa Con đã yêu thương Chúa Cha bằng vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng không theo ý con mà xin theo ý Cha”.
Vâng theo ý Cha là tuân giữ lệnh truyền của Cha, thực thi ý muốn của Cha, và như thế là làm đẹp lòng Cha và ở lại trong tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu đã chấp nhận xuống thế làm người, chịu đau khổ,chịu chết để đem con người vào cõi phúc trường sinh. Đó là tình yêu của Thầy Giêsu dành cho con người. Đến lượt chúng ta, chúng ta lại yêu thương nhau nhưThầy đã yêu thương chúng ta.
Theo gương của Thầy Giêsu, chúng ta lại phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta, mà muốn yêu thương anh em, chúng ta phải ở lại trong tình yêu của Thầy như Thầy ở lại trong tình yêu của Cha Thầy và muốn ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta lại phải giữ giới răn Thầy truyền dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga. 14,23-24), và hy sinh mạng sống mình vì anh em. Hy sinh mạng sống mình vì anh em là biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, là đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…. Hy sinh mạng sống vì người mình yêu là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình”. (Ga. 15,13)
Khi chúng ta yêu Thiên Chúa là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, là anh em cùng một Cha, nhưng khi chúng ta cùng Chúa Cha và Chúa Con yêu thương đồng loại, yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa, thì chúng ta đã trở thành môn đệ, là bạn hữu như lời Thầy Giêsu đã nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga. 15,15).
Xin kể một câu chuyện về bạn hữu ở đời thường như sau:
Bão Thúc (tức Bão Thúc Nha, còn có tên là Bão Tử, người tài giỏi việc nước của nước Tề) đã cắt cử Quản Trọng cho Hoàn Công dùng. Quản Trọng tên thật là Di Ngô, người nước Tề, một tướng giỏi.
Bão Thúc chết, Quảng trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi:
– Ông với Bão Thúc không phải là người họ hàng thân thích, sao ông thương tiếc ông ta quá vậy?
Quản Trọng giải thích:
– Ngươi không rõ ngọn ngành đâu! Để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn bán chung với Bão Thúc; lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, nhưng Bão Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền để tiêu dùng nên mới làm thế. Ta ở chỗ chợ búa thường hay bị lắm kẻ bắt nạt, Bão Thúc không coi ta là người hèn nhát, nhưng biết ta rộng lượng, không chấp những điều người ta đối xử với mình. Ta bàn việc với Bão Thúc, nhiều lúc việc hỏng, Bão Thúc không cho ta là ngu, mà cho là việc thành công hay thất bại là do có lúc may mắn, có lúc không. Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi nhiệm, Bão Thúc không cho ta là người chẳng ra gì, mà lại coi ta là người chưa gặp thời, chưa tìmđược vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bão Thúc không cho ta là bất tài, nhưng biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. Ta nhịn nhục thờ vua Hoàn Công, Bão Thúc không cho ta là người vô liêm sĩ, người không biết xấu hổ, mà biết ta không giữ những chuyện nhỏ mọn, có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ…
Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu biết ta là Bão Thúc. Với người hiểu biết mình, thì đem cả tính mạng ra mà đền đáp còn chưa đủ huống chi thương khóc thế này thì đã thấm vào đâu! (Thuyết Uyển. Cổ Học Tinh Hoa)
Thật là người bạn đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, người bạn tri kỷ!
Tình bạn giữa con người chưa mang dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa mà còn được thán phục như thế, thì kết qủa của tình bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người lại càng cao trọng và đáng thán phục hơn nhiều Yêu thương anh em như chính mình đã khó, yêu thương anh em như Thầy Giêsu yêu chúng ta lại càng khó hơn! nhưng đó là những nỗ lực chúng ta cần phải đạt tới để được xứng đáng là Kitô hữu, là bạn hữu của Thầy Giêsu. Điều kiện để yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta là giữ giới răn Chúa truyền dạy, là ở lại nơi Thầy và hy sinh mạng sống mình vì anh em, cụ thể hơn là đọc và nghe tieng nói của Thiên Chúa qua Tin Mừng và ở lại, sống kết hợp với Chúa trong phép Thánh Thể.
Chúng ta đã đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với Thầy Chí Thánh của chúng ta như thế nào để được xem là bạn hữu của Thầy Giêsu!
Sống trong cuộc đời, chúng ta phải yêu thương nhau. Đó là điều dễ hiểu. Bởi vì nếu không yêu thương nhau, xã hội sẽ bất ổn và bản thân chúng ta cứ phải nơm nớp lo sợ trước những hận thù chồng chất. Thế nhưng, phải yêu thương nhau như thế nào?
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một khuôn mẫu để noi theo và bắt chước. Ngài phán: Các con hãy yêu thương nhau, như Thày đã yêu thương các con. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta như thế nào, để rồi chúng ta sẽ lấy tình yêu của Ngài làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc để đo mọi việc làm của chúng ta?
Không cân phải nói, hẳn chúng ta cũng đã quá rõ: Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, lớn lên trong xưởng thợ Nagiarét. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống vất vả và nghèo túng. Ở nhà thì phải lao động cực nhọc. Đi rao giảng Phúc âm thì vất vưởng nay đây mai đó, không có lấy cả một nơi để gối đầu và nghỉ ngơi. Nhất là Ngài đã chết một cái chết ê chề và nhục nhã, như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Liệu chúng ta có thể biểu lộ tình yêu thương của chúng ta bằng những hành động cụ thể như vậy hay không? Liệu chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh và ngay cả cái chết cho những người mình thương mến hay không?
Hẳn chúng ta còn nhớ một Maximilianô Kolbê đã chết thay cho một bạn tù ở trại tập trung của Đức Quốc Xã trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ hai. Hẳn chúng ta còn nhớ một Đamiêng, vị tông đồ người hủi, đã đến hải đảo Molokai, đã sống giữa họ và đã chết giữa họ, để nâng đỡ và xoa dịu những đớn đau họ phải chịu do chứng bệnh phong cùi gây nên. Và còn biết bao nhiêu tu sĩ nam nữ đã âm thầm hy sinh cuộc sống của mình để chăm sóc cho những người già cả, đau yếu và bất hạnh.
Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ bên Tàu, có một em bé đói rách, tiều tụy và mắc bênh phong cùi. Em bị dân chúng đánh đập và đuổi ra khỏi làng. Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương xa đã bế em trên tay, che chở em khỏi gậy gộc phũ phàng. Thấy có người chịu mang em đi, dân làng mới thôi không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả. Giờ đây, những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má em. Không phải là những giọt nước mắt đau buồn và tủi hận, nhưng là những giọt nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi: Tại sao ông lại lo lắng cho tôi? Nhà truyền giáo trả lời: Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em là em gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói khổ, long đong vất vả nữa. Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp: Vậy tôi phải làm gì? Nhà truyền giáo trả lời: Em hay tro tặng cho người khác tình yêu của em, càng nhiều càng tốt. Từ đó cho đến khi qua đời, trong suốt ba năm, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đa đưa em vào. Tới năm mười một tuổi, khi em qua đời, các bệnh nhân đã khóc và nói với nhau vói tất cả niềm thương nhớ: Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa chúng ta.
Lề luật của Chúa được gồm tóm trong hai điều, đó là mến Chúa va yêu người. Chúng ta hãy cố gắng thực thi hai điều ấy với niềm xác tín rằng: qua những yêu thương nho nhỏ, chẳng hạn như một ánh mắt dịu hiền, một nụ cười cảm thông, một lời nói an ủi, một việc làm giúp đỡ…chúng ta se trở nên là những môn đệ đích thực của Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
Anh chị em thân mến. Trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ, các văn nhân, thi sĩ, tốn rất nhiều giấy mực để ca tụng một vấn đề rất cổ xưa nhưng cũng rất hiện đại, và có lẽ vấn đề nầy sẽ còn rất nhiều người nói đến mãi, cho đến khi nào không còn con người hiện diện trên trái đất nầy mới thôi. Đó là vấn đề Tình Yêu. Trong trào lưu ca tụng tình yêu, cố thi sĩ Xuân Quỳnh cũng có bài thơ đã được phổ nhạc mang tên: “Thuyền và Biển.”
Trong đó có mấy câu dể gây cảm xúc cho người nghe: Chỉ có thuyền mới hiểu, Biển mênh mang nhường nào. Chỉ có biển mới biết, Thuyền đi đâu về đâu. Những ngày không gặp nhau, Biển bạc đầu thương nhớ. Những ngày không gặp nhau, Lòng thuyền đau – rạn vỡ.
Thuyền và biển làm cho nhau thêm phong phú. Nếu không có thuyền trên biển, biển sẽ yên lặng trong cô đơn, hay chỉ là những cơn cuồng nộ giận dữ. Nếu không có biển thì con thuyền cũng trở nên vô dụng, vì không thể phát triển được những gì của con thuyền đòi hỏi.
Chúa Giêsu luôn kêu gọi mọi người sống trong tình yêu. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại nghe Ngài nói về tình yêu một cách cụ thể hơn. Ngài kêu gọi mọi người hãy đến và ở lại trong tình yêu bao la của Thiên Chúa Cha. Điều làm cho con người được phong phú: Đó là tình yêu. Tình yêu bao la của thiên Chúa bao bọc con người, để cho con người có thể ngụp lặn trong biển tình tuyệt vời đó. Sống trong tình yêu Thiên Chúa, con người được trở nên phong phú, cuộc đời mới có giá trị. Nếu tách rời khỏi biển tình yêu Thiên Chúa, con người sẽ trở nên vô dụng, cuộc đời sẽ từ từ đi vào cỏi chết. Sống mà không có tình yêu thì không phải là sư sống đích thực.”Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.”
Con thuyền cuộc đời của chúng ta, được Thiên Chúa trang bị thật đầy đủ, để có thể ra khơi trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Chẵng lẽ con thuyền ra khơi mà không định hướng, không mục đích. Không lẽ con thuyền ra khơi mà trên thuyền không mang theo một vật dụng gì hết. Không thể chấp nhận được, khi con thuyền đi vào biển cả mà không có một sự chuẩn bị nào cho xứng đáng.
Ra khơi trên biển Tình Yêu của Thiên Chúa, con thuyền phải được trang bị bằng những chất liệu của Tình Yêu. Từ chất liệu của con thuyền cho đến những thứ hành trang mà con thuyền mang theo.
Nhìn lại con thuyền cuộc đời của mỗi người chúng ta, Thiên Chúa đã trang bị bằng chất liệu Tình Yêu thật hoàn hảo. Con người chúng ta Thiên Chúa đã tạo dựng bằng Tình Yêu thương của Ngài. Những chất liệu đó giờ đây, có lẽ no đã bị biến chất phần nào, nó đã bị hao mòn với thời gian, nó không còn đủ mạnh và vững chắc để có thể ra khơi cách an toàn. Nên nhiều khi chúng ta ngại không dám ra khơi trong biển Tình của Thiên Chúa. Chúng ta sợ nó bị hao mòn, chúng ta cũng sợ nó bị chòng chành vì những cơn sóng tình. Một sự sợ hãi còn lớn lao hơn nữa, là chúng ta sợ bị mất hút trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Khi đó vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến chính mình, chỉ biết lo cho mình, bảo vệ bản thân, nên chúng ta quá lo sợ.
Chính vì thế mà chúng ta không thể sống đúng được lệnh truyền của Tình Yêu. Những lúc như thế, chúng ta chỉ biết yêu thương có chính mình, ngoài ra, chúng ta chẵng biết yêu thương ai hết. Như thế thì cuộc đời chúng ta giống như con thuyền thật tốt đẹp, thật hoàn hảo, chính vì sự tự hào với dáng vẽ tốt đẹp đó, mà nó sợ không dám đưa mình xuống nước để hoạt động, nên nó mãi ở trên nơi khô cạn. Suốt đời nó cũng là vô ích, mặc dù nó tốt đẹp, nhưng nó không hoạt động được, vì thế nó là một con thuyền chết, là đồ phế thải, vì nó vô dụng. Chẵng lẽ con thuyền cuộc đời của chúng ta lại trở nên vô dụng như thế sao. Chẵng lẽ con thuyền chúng ta không dám ra khơi để lênh đênh trong biển tình của Thiên Chúa sao?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết dùng Tình Yêu để sống với nhau, để con người của mình được ở trong Chúa như con thuyền trong biển cả.
13. Anh em hãy yêu thương nhau – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên Chúa thương yêu, con người phải biết thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương ta. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình thương bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
Nhưng thảm hại thay, tình thương một xương một thịt đó chẳng được bao lâu, khi con người sa ngã. Thiên Chúa đến hỏi, thì Adong đã đổ lỗi cho Evà (St. 3, 12). Mọi tội lỗi đã trút đổ lên đầu nhau, còn mình vô tội. Lúc này, không còn phải là một nữa, mà là hai, không còn xương tự xương toi, thịt là thịt tôi. Nó đã tách rời nhau, xa lìa nhau. Một kẻ là tội phạm, một kẻ rửa tay. Hai kẻ đối kháng nhau, thù ghét nhau. Trong cảnh gia đình chia rẽ, oán hận nhau, con cháu trở thành kẻ thù nhau: Cain đã giết em mình là Abel. Esau đã thù Giacob. Các con Giacob đã bán em là Giuse sang Ai cập. Bao lâu tình yêu chỉ bắt nguồn từ xương thịt bấy lâu còn chia rẽ, hận thù.
Thứ nhất, Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tuân giữ lệnh truyền cua Chúa Cha, thực thi giới răn của Chúa Cha: “Thầy đã tuân giữ giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Ngài”. Vì thế chúng ta muốn ở trong tình thương của Thiên Chúa, chúng ta phải giữ giới răn của Ngài: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”.
Thứ hai, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Người đã dám gánh tội của chúng ta, đã chịu chết đền tội cho chúng ta. Người không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.
Con Thiên Chúa vô cùng cao cả đã yêu thương chúng ta đến cùng tận, còn chúng ta là đồng bào, đồng phận xương thịt với nhau, sao không dám hy sinh cái thân phận hèn hạ của mình cho nhau? Chỉ có hy sinh cho nhau, chúng ta mới biết mình ở trong tình yêu của Thiên Chúa.
Thứ ba, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chọn chúng ta làm bạn hữu của Người: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu”.
Thực sự, chúng ta không thể nào đáng là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta vừa là loài thụ tạo, vừa kém hơn loài thụ tạo, vì đã phạm tội, xúc phạm đến Đấng tác tạo nên ta. Mọi loài thụ tạo đều vâng phục Thiên Chúa một cách triệt để theo một trật tự hoàn hảo. Vĩ đại như tinh tú, mặt trời, mặt trăng đã tuân theo lệnh Thiên Chúa sắp đặt xoay vần, không hề sai trái. Nếu chúng sai trái, loài người và muôn vật bị tiêu hủy. Còn chúng ta đã không vâng lệnh Thiên Chúa, đáng lẽ chúng ta đã bị tiêu diệt. Làm sao dám làm bạn hữu của Người. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã cho chúng ta được vinh dự vô cùng đó. Noi gương Đức Giêsu, chẳng những chọn mọi người làm bạn hữu của ta, mà còn phải tôn trọng mọi người hơn ta, ta mới xứng đáng với tình thương của Người, mới mong thu được nhiều kết quả và đáng Chúa Cha nhận lời chúng ta nài xin.
Thánh Phêrô, đã noi gương Thầy Chí Thánh, đến thăm nhà ông Cônêliô. Phêrô không kỳ thị dân ngoại, không khinh thị quân Rôma xâm lăng, như lối sống kỳ thị của truyền thống Do thái, Phêrô kính trọng gia đình Cônêliô, đã đỡ ông lên: “Xin ông đứng dậy, vì tôi cũng chỉ là người phàm”. Còn ông Cônêliô, dù là một sĩ quan của đế quốc Rôma vĩ đại, là người cai trị dân, ông đã hạ mình xuống “ra đón và phủ phục dưới chân Phêrô ma bái lạy”. Trước những cử chỉ hy sinh bỏ mình đi, hạ mình xuống và chân thành kính mến nhau như vậy, làm cho người Do thái kinh ngạc, và Thiên Chúa đã yêu thương các ông mà ban Thánh Thần tình yêu tràn trề xuống cho Phêrô và gia đình Cônêliô, để nhận nhau làm bạn hữu muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương bao la của Chúa, tình thương đồng hóa, đồng phận với mọi người cùng khổ, tình thương hy sinh mạng sống để cứu độ muôn dân.
Sao chúng con không biết thương người như Chúa thương chúng con và mọi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU
Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”.
Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu.
Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình truyền hình, các truyện tiểu thuyết, trong các bài hát, các tác phẩm văn nghệ, và trong các cuộc giao tiếp hàng ngày.
Những câu truyện về tình yêu sẽ vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên sân khấu cuộc đời chúng ta.
Tình yêu mang lại niềm vui, hạnh phúc, bình an, sức mạnh, và một ý nghĩa để sống.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, thời nay dường như cũng là lúc mà xã hội cảm thấy thiếu vắng tình yêu nhất. Người ta chối bỏ nhau, chém giết nhau, làm khổ nhau. Người ta nói về tình yêu, bàn về tình yêu, viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng ít người sống cho tình yêu. Và đó là lý do tại sao chúng ta vẫn còn xa cách nhau mặc dầu chúng ta vẫn ở kế cận nhau.
Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải dừng lại để lắng nghe lời của Đức Giêsu:
“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạngsống vì bạn hữu mình.”
Tình yêu chân thật phải được trả bằng giá rất cao.
Đức Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Ngài dạy chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu đặt trên căn bản của ý chí muốn dấn thân trọn vẹn không tính toán, không điều kiện.
Cây Thập Giá, Bí tích Thánh Thể và Tha Thứ là ba dấu chứng rõ ràng nói lên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi hy sinh mạng sống của Ngài và chết trên Thập Giá để cho chúng ta được sống.
Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi đã trở nên của ăn và của uống hằng sống cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Và ngài Yêu thương chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Đây chính là cách thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện cho nhau trong cuộc sống. Ngài muốn chúng ta yêu bằng ý chí dấn thân hy sinh chết đi cho nhau như Ngài đã hy sinh chết đi cho chúng ta.
Và Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng cách trao ban chính bản thân mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác.
Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: “Người ta chỉ có thể yêu khi người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình yêu, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca”.
Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.
Cho nên nhận chính là để cho đi. Cho đi để sinh lợi dồi dào hơn như hình ảnh hai biển hồ Galilêa.
Tại Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau.
Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa.
Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và có rất nhiều cá. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Biển hồ thứ hai là Biển Chết.
Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Nhưng có một điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là dòng sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
Một hình ảnh cho chúng ta thấy:
Càng trao ban, càng dồi dào.
Càng trao ban, càng sinh lợi.
Càng trao ban, càng nhận lãnh được nhiều.
Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.
“Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Amen.
Có một tác giả nọ nhận định như thế này: “Nếu bạn có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà che đầu và một nơi để nghĩ qua đêm, là bạn đã giàu hơn 75% dân số trên thế giới này. Nếu bạn có tiền trong ví để xài, có tiền ban phát cho người nghèo, có tiền để dành trong ngân hàng, là bạn đang ở trong 8% những người giàu nhất trên thế giới.
Thưa anh chị em! Chẳng biết điều đó có chính xác hay không, nhưng chúng ta cũng thấy được rất rõ rằng: Giữa người giàu và người nghèo có một khoảng cách rất là xa khi mà thế giới đang theo đuổi cái xu hướng mà người ta gọi là Toàn Cầu Hóa. Và cái nghèo mà người ta nói tới nhiều nhất là cái nghèo về cơm áo gạo tiền. Người ta lo sợ rằng: Với một đà tăng dân số như ngay hôm nay thì sẽ có lúc trái đất này không còn đủ lương thực cho con người nữa.
Thế nhưng, nếu nhìn kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, đó không phải là điều đáng sợ lắm, mà cái đáng sợ hơn hết là cái nghèo đói tình thương trong thế giới ngày hôm nay. Vì nghèo đói tình thương cho nên chiến tranh chưa bao giờ kết thúc. Vì nghèo đói tình thương cho nên mới có cái cảnh “Người ăn không hết, kẻ lần không ra”. Vì nghèo đói tình thương cho nên những xung đột, những cãi vã, những tranh giành vẫn xảy ra hàng ngày ở chung quanh chúng ta.
Lời Chúa trong Thánh Lễ chiều hôm nay mời gọi từng người trong chúng ta hãy can đảm dùng một chút thiện chí của mình để góp phần đẩy lùi nạn đói tình thương đang hoành hành nơi bản thân và nơi môi trường sống của chúng ta, qua việc thực hiện lời gọi của Đức Kitô Phục sinh, vị sứ giả của tình thương: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”. Và cũng kể từ đây, giới luật yêu thương đã trở thành giới luật mới quan trọng nhất. Nói là kể từ đây có nghĩa là giới luật này nó đã có từ rất lâu. Nơi Cựu Ước chúng ta đã nghe là: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”.
Tôi yêu bản thân tôi như thế nào thì cũng phải yêu người khác như vậy. Nhưng trong Tân Ước, Đức Giêsu đã đẩy những đòi hỏi của giới luật này lên đến một cấp đột mà có lẽ không ai dám nhìn tới: “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con”. Như vậy giới răn mà Chúa gọi là giới răn mới này đòi hỏi chúng ta không phải là lấy chính mình để làm tiêu chuẩn nữa. Bởi vì tiêu chuẩn của con người dù có hào hoa rộng rãi đến đâu đi nữa, thì cũng có yếu tố chủ quan và tiêu cực trong đó, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn:”Yêu người như Chúa yêu”. Muốn biết đựơc Chúa yêu thương như thế nào, chúng ta phải nhìn lại cuộc đời dương thế của Chúa, ma rõ ràng nhất là trong ba năm rao giảng Tin Mừng: “Không có ai đến với Chúa mà phải ra về tay không, phải ra về trong cay đắng thất vọng cả: Người mù đựơc sáng mắt, kẻ què đi được, người chết được sống lại, kẻ tội lỗi được thứ tha”.
Đối với Đức Giêsu, tất cả những kẻ đang đứng trước mặt Người đều là những người rất quan trọng và rất đáng thương. Và sau cùng, Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá để muôn đời trở nên một kiểu mẫu tình yêu cho mọi người: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Tình yêu của Chúa đẹp đẽ quá, lý tưởng quá, làm sao tôi có thể trở nên giong như Người được? Thế nhưng bao lâu chúng ta còn hiện diện trong cuộc đời này là bấy lâu chúng ta được Chúa mời gọi: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Thưa anh chị em! Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến cấp độ “Như Thầy yêu thương” một cách hoàn hảo đâu. Bởi vì Chúa thì quá tuyệt vời thánh thiện, còn chúng ta thì ngược lại có quá nhiều giới hạn, nhiều thiếu sót mà giáo lý nhà Phật gọi là “tham, sân, si”.
Thế nhưng, chúng ta không vì thế mà tự cho phép mình xao lãng hay miển chuẩn giới răn đặc biệt quan trọng đó. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải tự treo mình trên Thánh Giá vì anh chị em, Chúa cũng không buộc chúng ta phải trở nên một Têrêsa Calcutta vĩ đại suốt đời lo lắng cho người khác, hay một cha Thánh Maximilianô Kolbê anh hùng chết thay cho người bạn tù của mình.
Thế nhưng, chúng ta lại có rất nhiều dịp để thể hiện tình thương của mình cho người khác, để sống cho tha nhân. Mà sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chúng ta không thể chết như Chúa được thì hãy chết trong mồ hôi và nước mắt, chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày qua những lần chúng ta rộng rãi thể hiện sự bác ái của mình đối với tha nhân. Có một thanh niên nọ, trong lúc chờ đón xe về Thành Phố Cần Thơ, bỗng nhìn thấy có một chiếc xe đạp đang từ phía Cần Thơ chạy về hướng Vĩnh Long. Và có lẽ không chú ý hay như thế nào đó mà cô bạn sinh viên điều khiển chiếc xe đạp ấy ngang nhiên đâm vào một chiếc xe Honda đang dừng trước mặt. Vì xe đạp chạy không nhanh lắm nên chẳng ai có hề hắn gì cả, chỉ có chiếc xe Honda bị bể chiếc vè sau mà thôi.
Trước những lời bắt chẹt thô thiển và cái giá phải bồi thường mà chủ xe Honda đã đưa ra thì cô bạn sinh viên đó chỉ còn biết đứng khóc mà thôi. Hơi ngập ngừng một chút và vì biết chắc rằng một cách bất ngờ như thế thì cô bạn sinh viên ấy không thể có đủ số tiền để bồi thường. Anh thanh niên đó đã mạnh dạn tiến tới ra tay nghĩa hiệp trả tiền chiếc vè sau mới, thay cho cô bạn kia.
Anh thanh niên này quyết định làm chuyện đó hoàn toàn không phải vì cô ấy trẻ, cô ấy là sinh viên, mà bởi vì lúc đó tự nhiên anh ta cảm thấy có một cái gì đó thúc đẩy anh ta phải làm việc bác ái này. Vả lại anh ta quyết định làm việc đó một phần cũng là vì muốn nói với chủ xe Honda rằng: “Chúng ta đừng nên hiếp đáp bắt chẹt những con người yếu thế hơn mình”. Anh thanh niên hơi tào lao đó chính là người đang đứng trước mặt anh chị em đây.
Thưa anh chị em! Hoàn toàn không bao giờ dám coi đó là một kinh nghiệm tốt lành để gọi là khoe khoang với người ta, nhưng con muốn chia sẽ một tình huống cụ thể của bản thân mình đó, để mạnh dạn lặp lại một lần nữa bài học này: “Ngày nào bạn từ chối thắp lên ngọn lửa yêu thương, ngày đó sẽ có nhiều người chết vì giá lạnh”.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: “10.645 người nghèo đã khỏi mù”. Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đồng ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79, 5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.
***
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: “Các con hay yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chủ ông và tôi tớ, nhưng chính là “Bạn hữu thân tình”.
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: “Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô dạy: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “Như Thầy đã yêu”. Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viet: “Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể# Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đe của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”.
***
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chua đã yêu thương chúng con. Amen.
“Đây là điều răn của Thầy, chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con.” (Ga 15,12)
Tình yêu đẹp biết bao! Vì thế, người ta đã tốn biết bao giấy mực, bài hát để ca tụng nó, nhưng tình yêu thực sự chỉ đẹp khi có sự tự hiến, hy sinh đi kèm. Chim Pelican tự mỗ bụng mình ra để cho con đang cơn đói, ăn chính thịt mình mà sống. Còn cảnh nào cao đẹp hơn? Chúa Kitô vì yêu chúng ta đã chết cho chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay muốn cho ta suy niệm về chủ đề này.
Thánh Têrêsa đi tu khi còn nhỏ, mới 15 tuổi; chín năm sau đã từ trần; vậy mà đã để lại cho hậu thế một đường lối nên thánh tuyệt hảo, gọi là con đường nhỏ, một tấm gương sáng về lòng nhiệt thành yêu mến Chúa và yêu mến các linh hồn. Têrêsa nói: “chỉ khi nào người ta hy sinh chính mình, mới thật là yêu.”
Mẹ Têrêsa Calcutta, đặc biệt thương yêu trẻ em và người nghèo khổ. Mẹ là một Thần tượng của Thiên Niên Kỷ mới và được nhiều người biết đến.
“Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Ngày hôm nay, tin vào Lời nói, tin vào một con người đã chết cach đây hơn 2000 năm, có phải là lỗi thời và không cần thiết không? Một cái xác chết trên thập giá, buồn tẻ, xem ra thất bại. Vậy cái chết để minh chứng Tình Yêu, liệu có còn đánh động ta không? Câu trả lời thẳng thang: Có. Qua 20 thế kỹ, hàng hàng lớp lớp các anh hùng tử đạo, các bậc hiển tu đã dám đem cả mạng sống mình để minh chứng cho Tình Yêu này. Họ là những nhà bác học, nông dân… đủ mọi thành phần, và ngay cả trong thời đại văn minh của chúng ta, như những vị được nêu ở trên đây. Như vậy chưa đủ minh chứng cho bạn sao?
“Thầy không gọi các con là tôi tớ, mà là bạn hữu, Hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy”: Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống thân hữu của Chúa, vào tình yêu nghĩa thiết ngọt ngào của Ngài; vì Ngài xem ta là bạn hữu của Ngài cho dù chúng ta bất xứng. Ta có ngạc nhiên không? Tại sao ta từ chối, khi hiểu tình yêu của Ngài dành cho ta thật quảng đại và lớn lao?
(Suy niệm của An Phong, OP.)
Tin mừng hôm nay nhắc đến Luật Vàng Kitô giáo là “Mến Chúa yêu người”. Hai chiều kích “hiệp thông” (mến Chúa) và hướng tới (yêu người) này làm nên toàn bộ thái độ sống Kitô giáo.
Con người, nếu có một sự hòa điệu tuyệt vời giữa mình với chính mình, sẽ sống bình an, hạnh phúc. Thật vậy, cuộc sống con người thường được nói đến như là “một bãi chiến trường”; là sự “giao tranh giữa điều muốn làm và điều phải làm”; hoặc sống trong tình trạng “điều tôi muốn, tôi không làm; điều tôi không muốn tôi lại làm”; hoặc “điều thiện và điều ác giành giật cắn xé nhau trong tôi”; đó là nguyên nhân của sự bất an, hỗn độn, thậm chí hủy hoại nữa.
Nói khác, Ý chỉ đạo, Tâm cởi mở lòng ra và Thân hành động cho được, đó là một sự hoà điệu lý tưởng của con người. Ý phán đoán ngay chính, Tâm đón nhận bao dung, thì Thân mới có thể diễn đạt nên hành động “yêu người”; Ý tốt, Tâm tốt thì hành động sẽ tốt.
Đó cũng là cửa ngõ để con người có thể sống hòa điệu với người khác; có thể nói nếu có hòa điệu của Ý-Tâm-Thân sẽ có hòa điệu giữa ta với Chúa, ta với người và ta với chính mình.
Nhưng nói thì dễ, sống được mới khó. Bi kịch của nhân loại bắt đầu từ đây. Có khi Ý phán đoán nghiệt ngã, phê bình khắc khe; có khi Tâm thiếu bao dung, tị hiềm; và Thân thì tìm sung sướng cho mình chứ không hành động để xây dựng. Giữa cuộc đời, vẫn còn có nhiều người nghĩ (ý) rất hay nhưng không hề “giơ ngón tay lay động” (thân). Hoặc người ta dễ dàng mủi lòng, thậm chí rớt vài giọt nước mắt (tâm) nhưng lại chỉ là tình cảm thoáng qua, nhất thời, không dễ gì khơi dậy hành động (thân).
Làm sao cho Ý ta sáng, Tâm ta bao dung và Thân ta hành động quảng đại? Làm sao để ta sống giữa cuộc đời trong sự hài hòa của tình yêu thương nhân ái? Chúa Giêsu mở một con đường để mời gọi chúng ta đạt đến sự hài hòa tuyệt vời ấy: “Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy; nếu anh em giữ các giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy; như Thầy đã giữ các giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người”.
Với tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta được sống hòa hợp với Chúa, với mình và với anh chị em.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa để lại cho chúng con một giới răn thôi,
giới răn của tình yêu;
Nhưng chỉ một giới răn đó thôi,
chúng con cũng không làm nổi.
Xin Chúa đổ xuống trên chúng con tình yêu của Chúa,
tình yêu lớn lao trong tấm bánh nhỏ nhoi này;
để chúng con không sợ yêu;
không lùi bước trước những thách đố của tình yêu;
để chúng con được “ở trong Chúa”, và “Chúa ở trong con”.
Trong Cựu Ước, Môsê đã dạy luật yêu thương: “phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, Ngài đã giảng dạy yêu thương và thực hiện yêu thương cách trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luat yêu thương Chúa Giêsu dạy là Ngài đã nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đệ Ngài và đây cũng là tiêu chuẩn để xét xử chúng ta sau này.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho hết thảy những ai bước đi theo Ngài. Có lẽ không một ai dám lấy mình làm tiêu chuẩn, làm tấm gương cho người khác trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực yêu thương như Chúa Giêsu. Sở dĩ Chúa Giêsu dám nói như vậy vì Người đã chứng minh cách tuyệt đối tình yêu thương của Người cho tất cả nhân loại chúng ta bằng cái chết và sư Phục Sinh vĩ đại của Người.
Sách Phúc âm miêu tả một Chúa Giêsu biết cảm thương, đó là một xúc cảm khiến người ta ruột gan xáo trộn. Thật vậy, Đức Giêsu xúc động thể lý và cảm nghiệm nỗi đau khổ, trái tim Người rướm máu trước dân nghèo, bị ruồng bỏ, bị xua đuổi, bị chà đạp. Có cái gì đó ở trong Người khiến Người không chịu nỗi thái độ giả hình và thói bất công đối với người thấp hèn, tàn tật, yếu đuối, túng thiếu.
Đức Giêsu động lòng thương khi thấy người phong cùi kêu xin Ngài cứu chữa. Người cùi bị mọi người xua đuổi, khai trừ, đi đến đâu đều phải lắc cái chuông nhỏ, cảnh báo cho người ta biết mà tránh xa. Không ai được đến gần họ, vì sẽ bị lay nhiễm mà trở nên ô uế. Người cùi lớn tiếng van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi được sạch”. Đức Giêsu giơ tay ra, chạm đến anh như cử chỉ chào đón và tôn trọng nhân phẩm của anh, rồi chữa cho anh lành mạnh. Nhất là Người còn chữa lành con tim tan vỡ và lòng tự trọng đã bị sứt mẻ của anh.
Đức Giêsu luôn biết cảm thông và tha thứ. Nhiều người bị giam hãm trong mặc cảm tội lỗi, tâm hồn họ tan rã vì sợ Thiên Chúa, sợ bị trừng phạt. Họ còn bị ruồng rẫy bởi những người tự coi mình là thanh sạch. Đức Giêsu đến là để bày tỏ dung mạo khoan dung của một Thiên Chúa luôn thương xót và tha thứ, chứ không phải một Thiên Chúa kết án và trừng phạt những vi phạm lề luật.
Một ngày kia những người Pharisêu và kinh sư bắt tại trận một phụ nữ đang ngoại tình. Như đàn sói hung hãn đang săn mồi, họ tóm lấy người phụ nữ còn mình trần, lôi đến trước mặt Đức Giêsu, lúc đó đang giảng dạy trong đền thờ.
Họ hỏi Chúa Giêsu: “Ông Môsê dạy hạng đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình này phải bị ném đá cho chết. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Bọn người hung dữ, cuồng tín giữ luật này nghĩ rằng họ giăng bẫy Đức Giêsu. Đức Giêsu không nói gì, chỉ cúi xuống viết trêt cát. Họ gặng hỏi: “Thầy nghĩ sao? Chúa đứng dậy ra giọng đĩnh đạc nói: “Ai vô tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi”. Bọn họ thẹn thùng bỏ đi hết. Chúa Giêsu nhìn người phụ nữ nói “tôi không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Người phụ nữ ra về, được tình thương đổi mới, hết bị mặc cảm tội lỗi ràng buộc và sống một cuộc đời mới.
Chúa Giêsu đã sống yêu thương và dạy chúng ta phải biết đối xử với người khác bằng sự yêu thương, có nhiều cách thể hiện sự yêu thương đối với nhau nhưng chúng ta cần phải đi từng bước và có những thực hành cụ thể. Xin gợi lên những thực hành giúp chúng ta thực hiện sự yêu thương trong đời sống mình: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Tục ngữ có câu “có gieo có gặt”, nhưng thành quả gặt hái lại tuỳ theo loại giống mà chúng ta gieo trồng. Vì “gieo gì gặt ấy”. Mình gieo yêu thương sẽ tìm được hạnh phúc an bình. Mình gieo thù hận sẽ phải đón nhận sự trả đũa oán hận, vì “gieo gió ắt gặp bão”.
Có thể nói cuộc đời là một chuỗi ngày dài gieo giống. Mỗi ngày ta gieo một vài lời nói, một vài hành động và rồi năm tháng trôi qua chúng ta sẽ có ngày gặt hái những gì chúng ta đã gieo vãi. Mặc dù là khoảng thời gian có thể là rất xa. Một năm. Hai năm. Hay có khi cả đời. Nhưng chắc chắn một điều là mùa gặt sẽ tới. Có những điều chúng ta sẽ phải gặt trước khi từ giã cõi đời, nhưng cũng có điều chúng ta phải gặt ở cõi đời sau.
Có một người đàn ông rất giầu có đã đến tuổi về hưu. Ông trao ban gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được sống an nhàn tuổi già bên con cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con dâu lại không muốn bố chồng ở mãi trong nhà. Cô đã đề nghị chồng phải đưa bố đi ở nơi khác. Người con không muốn mất tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nhưng lại là nơi rẻ tiền nhất theo lời căn dặn của vợ.
Một tuần sau đó, hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi được một lúc bỗng nhiên người cha già bật khóc. Lương tâm người con không chịu nổi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha. Sau một vài phút, người cha bị hắt hủi nghẹn ngào nói: “Con ơi! Cha không khóc vì con đưa cha vào đây. Cha khóc vì cách đây bốn mươi năm trước, cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ “gieo gì gặt ay thôi!”.
Thực vậy, “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Những gì chúng ta đã và đang nhận trong cuộc đời này hoàn toàn tuỳ thuộc vào những điều chúng ta đã gieo vãi, vun trồng ngày hôm qua. Cùng một môi trường nhưng có người nhiều bạn bè, và ngược lại có người chẳng được ai chơi. Có người được yêu thương, đùm bọc. Có người chỉ nhận được sự khinh bỉ, dửng dưng xem thường. Có người được hàng xóm bao bọc “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có ngươi lại bị anh em loại trừ. Có người vui vì sự chơi đẹp của tha nhân. Có người dở khóc dở cười vì sự chơi xấu của tha nhân. Tất cả điều đó cho thấy, những gì chúng ta nhận được là do chính chúng ta đã gieo vãi vun trồng tuy theo cách sống của chúng ta.
Hôm nay, Chúa bảo chúng ta hãy đi gieo vãi yêu thương. Chúa cầu mong chúng ta sinh hoa kết trái. Chính Chúa đã gieo vào lòng chúng ta hạt giống yêu thương. Chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của Chúa. Chúng ta được sống trong tình yêu quan phòng của Chúa. Chúa còn tuyển chọn chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Chúa còn làm tất cả để chúng ta được hạnh phúc. Chúa đã quên cả chính mình để chúng ta được sống. Chúa không đòi chúng ta đền đáp cho Chúa. Chúa chỉ mong chúng ta hãy theo gương Ngài mà đối xử với nhau trong yêu thương. Chúa bảo chúng ta “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu là tiếp tục gieo vãi hạt giống yêu thương của Chúa cho muôn người. Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù. Hãy trồng cây yêu thương vào trong thế gian để thế gian được hái những trái ngọt của hạnh phúc, của tình người.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương mà không toan tính, hay pha chút ích kỷ, nhỏ nhoen? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình để rồi có thể chia sẻ buồn đau với tha nhân? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà quên mình? Có lẽ có, nhưng chac chắn có rất ít!
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu thương tràn lan. Có mấy ai đã tự vấn lương tâm để thấy rằng mình làm hại anh em thì nhiều mà làm điều tốt thì ít? Có mấy ai dám tự trách mình vì những lời mình nói, vì những việc mình làm đã mang lại khổ đau cho anh em? Có mấy ai đã dám noi lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn vì sự tắc trắc của mình mà làm cho gia đình xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ và ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn thân để xây dựng hoà bình khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương và tôn trọng tha nhân?
Nhân loại hôm nay rất biết ơn những con người biết xây dựng hoà bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, khoảng 200.000 người đã lắng nghe Martin Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện. Ông nói rằng: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao…”
Ước mơ của ông cũng là ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới. Nhưng khao khát hoà bình thì nhiều, còn gieo vãi niềm an bình hạnh phúc thì chẳng có mấy ai! Người ta nặng lời kết án nhau thì nhiều mà nói lời xin lỗi thì còn quá ít. Người ta nói xấu thì nhiều mà nói tốt cho nhau vẫn còn khiêm tốn. Thế nên, thế giới vẫn còn đó sự nghi kỵ, hiểu lầm và thù oán. Thể giới vẫn phải đón nhận đoạ đầy khổ đau bởi sự dữ do chính con người đã gieo vào trần gian.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn học bài học yêu thương của Chúa để đem ra thực hành trong cuoc sống thường ngày, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho trần gian. Amen.
Ở đây, Đức Giêsu dạy chúng ta yêu thương nhau ở mức độ cao hơn, yêu vì làm vui lòng, lợi ích cho người mình yêu, đó là tình yêu vị tha. Tình yêu này xuất phát từ Chúa Cha đến với Đức Giêsu, rồi từ Đức Giêsu đến với con người và con người với nhau: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” và “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Đối lại, Chúa Con yêu Chúa Cha bằng tình yêu vâng phục: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”(Ga 4,34). Chúa Cha không những yêu thương Chúa Con mà còn yêu thương cả loài người tội lỗi nữa. Vì yêu thương đến nỗi ban Con Một của Người cho chúng ta (Ga 3,16).
Phần Đức Giêsu, Ngài yêu thương loài người chúng ta thế nào? Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để ban sự sống mới cho ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Vậy Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau không vì mình mà vì Ngôi kia, Cha dành cho Con, Con dành cho Cha mọi sự tốt đẹp. Chúa Cha và Chúa Con yêu thương loài người vì lợi ích, hạnh phúc của loài người. Yêu là trao ban, yêu là muốn cho người mình yêu được tốt hơn… đó là kiểu mẫu cho mọi tình yêu thương cua chúng ta đối với nhau.
Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau, thì xã hội này không còn chỗ cho con cái của ma quỷ nương tựa. Làm sao ta có thể lừa đảo, gian dối, nói xấu, làm điều trái phép công bằng… với ai đó khi ta thực sự yêu họ? Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau chắc chắn xã hội sẽ tốt hơn, bởi chúng ta làm việc với tinh thần trách nhiệm cao; hy sinh, phục vụ với tất cả khả năng cho người mình yêu, cho gia đình, cong đoàn, xã hội…
“Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do. Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình”.
Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ”. Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em.
Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: “Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ở đó”. Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó”.
(Suy niệm của Lm Phạm Thanh Liêm, SJ)
Thiên Chúa là ai? Sau những năm tháng cảm nghiệm và nghiền ngẫm về Thiên Chúa, tác giả thư Gioan diễn tả: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài là Đấng làm mọi sự vì yêu: tạo dựng tất cả vì yêu, làm vũ trụ này tiếp tục hiện hữu vì yêu, tuyển chọn dân Do Thái vì yêu, và ban Thánh Thần giúp dân ngoại đón nhận tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh cũng vì yêu.
Thiên Chúa yêu thương dân Do Thái. Ngài đã kêu gọi Abraham, đã can thiệp vào cuộc đời Giacóp, đã ở với Giuse bên Aicập, và đã đưa dân Do Thái từ Ai cập trở về đất hứa. Lịch sử dân Do Thái cho thấy Thiên Chúa hiện diện và thương yêu dân tộc Do Thái cách đặc biệt. Ngài đã ban cho dân những thẩm phán để giải phóng và hướng dẫn dân, đã ban cho dân các tiên tri để nói với dân nhân danh Ngài.
Đã có thời, người Do Thái tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương dân tộc Do Thái mà thôi, vì Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái là dân riêng. Dường như chính Đức Giêsu cũng đã có lúc Ngài tưởng mình chỉ được sai tới với người Do Thái, nhưng qua biến cố gặp gỡ chị phụ nữ vùng Tia và Xiđôn, Ngài đổi ý vì nhận ra ý định của Thien Chúa (Mt.15, 21-28). Hôm nay Phêrô cũng nhận ra ý định của Thiên Chúa đối với dân ngoại khi Thiên Chúa can thiệp để Phêrô tới rao giảng cho gia đình Cornêliô. Thiên Chúa đã ban Thánh Thần giúp Phêrô nhận ra ý định của Thiên Chúa muốn dân ngoại thuộc dân Thiên Chúa qua việc lãnh nhận phép rửa.
“Thiên Chúa không thiên tư tây vị người nào” (Cv.10, 34). Thiên Chúa thương tất cả mọi người, Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc. Thiên Chúa không chỉ yêu thương dân tộc Do Thái, nhưng Ngài yêu thương mọi dân tộc như yêu thương dân tộc Do Thái. Với biến cố dân ngoại đón nhận Tin Mừng, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa yêu thương dân ngoại hơn dân Do Thái nữa, nhưng thực ra Thiên Chúa không thiên tư tây vị: Ngài yêu dân ngoại như yêu dân tộc Do Thái. Như dân Do Thái đã nhận ra Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử dân Do Thái thế nào, thì mỗi dân tộc cũng phải nhận ra Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử dân tộc mình như vậy. Dân Do Thái là mẫu, để các dân tộc khác tập nhận ra Thiên Chúa đã đang yêu thương và đã đang can thiệp vào lịch sử dân tộc mình.
Đức Giêsu là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa cho con người. “Chúa Cha yêu mến thầy thế nào, thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu thầy”. Đức Giêsu yêu con người vô cùng. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình thương. Đức Giêsu đã hiến mạng sống Ngài cho con người. Ngài là tấm bánh bẻ ra nuôi sống con người. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Qua Ngài, với Ngài và trong Ngài, con người tìm được đường chân thực đi tới sự sống.
Đức Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho con người. Cuộc sống của Đức Giêsu giống cuộc sống của mỗi người chúng ta. Tôi gặp khó khăn gì trong cuộc sống, Đức Giêsu cũng gặp như vậy, cả những ao ước, những cám dỗ, những thách thức. Đức Giêsu đã gặp khó khăn với những người sống với Ngài, như khi Phêrô can ngăn Ngài đi trên con đường Thiên Chúa muốn, khi các tông đồ do dự không muốn lên Giêrusalem. Đức Giêsu cũng bị bỏ rơi khi gặp hoạn nạn, rồi cả cái chết, và là cái chết nhục nhã trần trụi trên thập giá. Những gì con người thường gặp, thì Đức Giêsu cũng đã gặp. Ngài là mẫu gương trong cách hành xử. Ngài là ánh sáng soi những lúc tối tăm của kiếp người. Ngài là ý nghĩa cho những đau khổ con người phải chịu.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nói với con người. Con người học bằng nghe, bằng nhìn. Đức Giêsu là con người cụ thể, con người có thể nhìn để thấy để học; Đức Giêsu là Lời, con người có thể nghe để hiểu. Nhìn Đức Giêsu, con người có thể nhận ra bài học Thiên Chúa muốn dạy con người. Đức Giêsu là tình yêu Thiên Chúa cho con người. Đức Giêsu la Lời Thiên Chúa nói với con người. Đức Giêsu là mặc khải của Thiên Chúa cho con người.
Đức Giêsu nói: “Đây là giới răn của thầy: các con hãy yêu thương nhau”. “Ai giữ giới răn của thầy, thì ở lại trong tình yêu của thầy”. Thánh Gioan tông đồ viết: “chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu đến từ Thiên Chúa”. Chỉ có mỗi một điều quan trọng trên đời, đó là yêu thương. Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa, thì biết Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người đó. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Khi người ta yêu thương, người ta là con cái Thiên Chúa, vì người ta đang giống Thiên Chúa, vì Thien Chúa là Đấng chỉ biết yêu. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu. Thiên Chúa không phạt con người. Những đau khổ con người chịu, là do thù hận. Thù hận làm con người khổ, làm con người không hạnh phúc, là hỏa ngục theo một nghĩa nào đó. Ai yêu thương, theo một nghĩa nào đó, đang hạnh phúc. Nên, một nghĩa nào đó, để biết mình có yêu thương không, là có thấy mình đang hạnh phúc không. Một người yêu thương, là người để người khác có thể sống thoai mái với mình, để họ được tự do.
Thánh Thần là tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần giúp con người sống trong tình yêu, và nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Một dấu chỉ để biết con người có Thiên Chúa ở với mình không, là xem con người có sống yêu thương không. Yêu thương là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện, là dấu chỉ của Thánh Thần đang ở với người đó, và đang hoạt động nơi người đó. Mỗi người đều bởi Thiên Chúa mà được sinh ra, nhưng còn có một sự sinh ra khác: “ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa vì Thiên Chúa là tình yêu”. Ai yêu thương, thì đang được sinh ra bởi và trong Thánh Thần.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có ai đó chưa biết gì về đạo thánh Chúa, yêu cầu chúng ta: “Bạn có thể giúp tôi hiểu cách vắn gọn về bản chất của đạo Thiên Chúa trong vòng năm phút được không?”
Đề nghị nầy có thể làm cho chúng ta lúng túng. Trước một vấn đề quan trọng như thế thì dễ gì tóm gọn trong dăm ba phút? Thế nhưng lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta giải quyết phần nào vấn nạn nầy.
Có thể hiểu cách đơn giản rằng Đạo Chúa không gì khác hơn là Dòng Suối Yêu Thương với ba chiều kích:
* * *
Như một quy luật tự nhiên, các suối đầu nguồn luôn trao hết, trút hết nguồn nước của mình vào lòng các dòng sông. Suối sẵn sàng cho đi luôn mãi không tiếc nuối bao giờ.
Các dòng sông, một khi đã nhận được nước từ những con suối ơ thượng nguồn, cũng không ngừng cho đi, cho đi ngày đêm không ngơi nghỉ, trút hết nguồn nước của mình cho vùng hạ lưu và cho ra biển cả.
Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn chảy xuôi xuống các dòng sông và tuôn chảy vào đại dương.
Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn Tình Yêu. Tình yêu của Người như Suối đầu nguồn. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha trao ban tất cả mọi sự cho Chúa Con như Lời Chúa Giêsu xác nhận: “Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy” (Gioan 5, 26).
“Chúa Cha yêu thương ngươi Con và đã giao mọi sự trong tay Con” (Gioan 3, 35).
Bởi vì Chúa Cha đã trao ban mọi sự cho Chúa Con nên Chúa Giêsu khẳng định: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”.
Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.
Chúa Giêsu chẳng những không giữ lại những gì Chúa Cha trao cho mình, mà còn đem tặng ban tất cả cho nhân loại, kể cả mạng sống của Người. Tình yêu của Chúa Giêsu lên đến cao điểm khi nâng con người phàm hèn lên hàng bạn hữu nghĩa thiết và hiến ban cả mạng sống mình cho họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.
Chúa Cha như suối đầu nguồn đã trút hết tình yêu cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu như dòng sông cả đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đã trút hết tình yêu ấy cho chúng ta.
Đến lượt mình, chúng ta được kêu mời trút hết tình yêu cho tha nhân như Chúa Giêsu đã trút hết tình yêu của Người cho chúng ta.
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12).
Thế là dòng suối Yêu Thương xuất phát từ Thiên Chúa Cha, qua Chúa Giêsu, tuôn tràn xuống chúng ta và thông qua chúng ta để đến với mọi người khắp nơi trên thế giới. Cứ thế, dòng suối Yêu Thương lưu chảy không ngừng, không nghỉ… đem lại hạnh phúc và sự sống cho tất cả mọi người.
Đừng cản trở dòng Suối Yêu Thương
Thỉnh thoảng có những thân cây to lớn bên bờ đổ xuống hoặc những ghềnh đá làm cản trở dòng chảy của con suối khiến nước không thể chảy xuôi về nuôi những cánh đồng phía dưới.
Khi không còn thương mến nhau, chúng ta trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh mình và vì thế chúng ta làm cho đời sống của bao ngươi quanh ta trở nên cằn cỗi.
Khi không còn thương mến nhau, chúng ta tự loại mình ra khỏi gia đình yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế chúng ta tự làm cho mình trở thành kẻ lạc loài và cô độc.
Lạy Thiên Chúa là Nguồn Mạch Tình Yêu, xin cho chúng con luôn chia sẻ Tình Yêu Chúa cho mọi người để nhờ đó, chúng con được hoà mình vào dòng suối Yêu Thương không bao giờ vơi cạn.
(Suy niệm của Anmai, CSsR.)
Tình yêu! Có quá đáng chăng khi gọi Tình yêu là mầu nhiệm. Được lắm chứ vì lẽ chẳng ai có thể định nghĩa được tình yêu. Chỉ có ai đang yêu mới hiểu tình yêu là gì. Tình yêu thật chỉ đáp trả lại bằng tình yêu thật chứ không phải là dục vọng, danh vọng và vat chất. Thậm chí tình yêu ấy có thể trả bằng một giá rất đắt đó chính là trả giá bằng mạng sống mình vì người mình yêu.
Nếu tình yêu chỉ dựa vào vật chất, danh vọng và dục tình thì đó không phải là tình yêu thật mà là một tình yêu giả tạo.
Định nghĩa của thánh Gioan Tông đồ thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Định nghĩa thế thôi chứ nào Gioan giải thích được vì lẽ tất cả những ngôn từ của con người dành cho tình yêu của Thiên Chúa chang bao giờ đủ cả vì lẽ tình yêu của Thiên Chúa quá lớn, vượt quá trí hiểu của con người.
Thánh Gioan vừa mới khẳng định cho chúng ta qua thư của Ngài về tình yêu Thiên Chúa:
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này:
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
Tình yêu cốt ở điều này:
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”. (1 Ga 4, 7-10)
“Ta hãy gẫm suy tình yêu của Chúa
Tình Chúa ôi quá bao la
Ngay khi lúc ta còn là tội nhân
Thì Chúa, Chúa đã chết Ngài chết cho ta
Nay khi chúng ta được ơn giải oán
Nhờ máu nước của Ngài…”
Thế đấy! Tình yêu ấy nhiệm mầu, bao la đến độ linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã diễn ý của Thánh Phaolô tông đồ thành dòng nhạc đi vào lòng người.
Có gẫm, có suy cho đến ngất trí đi chăng nữa nhưng làm sao hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho những con người có tội và nhất là chính tôi đây là kẻ tội lỗi. Dẫu tôi đây yếu đuối, tội lỗi nhưng chẳng hiểu sao Thiên Chúa lại yêu tôi đến như vậy.
Tình yêu Thiên Chúa thật bao la, thật nhiệm mầu đối với cuộc đời Gioan để rồi trong toàn bộ tác phẩm Tin mừng thứ tư của mình, Thánh Gioan cứ xoáy đi xoáy lại về cái tình yêu nhiệm mầu mà Thiên Chúa dành cho Gioan, dành cho mọi người và dành cho chính bản thân tôi.
Mở đầu trang Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe đấy chúng ta thấy mối tương quan giữa Chúa Cha với Đức Giê-su và, bên kia, mối tương quan giữa Đức Giê-su vơi các môn đệ được đối chiếu với nhau. Một bên, Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su và Đức Giê-su yêu mến các môn đệ.
Đằng khác, các môn đệ hãy ở trong tình thương của Đức Giê-su, cũng như Đức Giê-su ở trong tình thương của Chua Cha.
Như vậy, tình thương bắt nguồn từ Chúa Cha (1 Ga 4,8.16), từ Chúa Cha bước sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su bước sang các môn đệ. Và, ngược lại, tình thương ấy phải từ các môn đệ sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su trở về cùng Chúa Cha.
Điều kiện phải có để ở trong tình thương, là tuân giữ các điều răn: các môn đệ phải tuân giữ các điều Đức Giê-su dạy, cũng như Đức Giê-su đã tuân giữ các điều Chúa Cha dạy.
Điều răn của Thầy là gì? Ga 15,12-14.15b cắt nghĩa Ga 15,9-10. Muốn ở trong tình thương, thì phải tuân giữ các điều răn Người dạy (15,10). Điều răn nào? Thưa là tất cả (êntôlas), mà trước hết là điều răn “thương yêu nhau” (15,12). Hơn nữa, phải thương yêu nhau như Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ, nghĩa là yêu thương đến nỗi hy sinh mạng sống. Lắm khi, giá trị món quà nói lên kích thước của tình yêu: yêu nhiều, tặng nhiều, yêu ít, tặng ít. Mà, đối với con người, không gì quí hơn mạng sống. Nên hy sinh mạng sống là thương yêu vô cùng. Đúng là tình yêu mạnh hơn tử thần.
Cái chết của Đức Giê-su trên thập giá bắc hai nhịp cầu. Chết như vậy, Đức Giê-su nói lên một cách tuyệt đối rằng Người thương yêu Chúa Cha đến nỗi vâng lời Người mà tự nguyện chịu chết (4,34; 5,30; 6,38; 14,30). Đằng khác, chết như vậy, Đức Giê-su đồng thời cũng nói lên rằng Người thương yêu vô cùng những kẻ Người đã chọn làm bạn hữu (13,1.34). Tình yêu của Đức Giê-su là nền tảng và là tiêu chuẩn của điều luật yêu thương anh em (15,12).
Chính cái chết của Chúa Giêsu là đỉnh điểm của tình yêu tự hiến mà Ngài đã ban tặng cho con người. Thử hoi trong cuộc đời, mấy ai dám chết như Thầy Chí Thánh Giêsu? Chỉ những ai dám hy sinh ngay cả mạng sống của mình mới minh chứng tình yêu thật của mình.
Có đôi vợ chồng trẻ nọ, chồng là giảng viên Đại học, vợ là diễn viên và là người dạy thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau. Trước khi lấy nhau, hai người đã nghe không biết bao nhiêu người khuyên rằng:
– “Họ sẽ không bao giờ hạnh phúc bên nhau”.
Chồng thì ngồi nghế giảng viên Đại học, vợ suốt ngày cầm roi dạy cọp trong chuồng thú của đoàn xiếc, nhưng tình yêu đưa họ bay lên với những giấc mơ tuyệt đẹp. Người chồng giảng viên Đại học mặc dù thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không xứng đáng lắm, nhất là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc toả ra từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật khó chịu nhưng người diễn viên dạy thú thì không the không cần đến cái mùi ấy. Chính cái mùi ấy mà bầy cọp dữ mới nhận ra cô và vâng lời ngoan ngoãn.
Cho đến một hôm, hai người giận nhau, tình trạng ấy kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Cô chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với người chồng và cũng rất xa lạ đối với cô. Đó là tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ đã làm hòa với nhau. Thế nhưng, một hậu quả thật bi đát đến vơi cô: Đêm hôm sau người vợ ấy chết!
Người nữ diễn viên dạy thú ấy đã chết dưới nanh vuốt của con cọp dữ mà chính cô đã thuần hoá. Nó không nhận ra cô nữa vì mùi cọp quen thuộc không còn mà chỉ có mùi nước hoa hồng xa lạ. Con cọp hốt hoảng trước mùi lạ lẫm đó và đã tự vệ bằng cách tấn công. Chỉ trong khoảnh khắc người nữ diễn viên dạy thú đã tan xác vì những móng vuốt sắc nhọn của con cọp mà cô đã hết lòng thương yêu.
Câu chuyen “Mùi cọp” trên đây như một ngụ ngôn về sự hy sinh chính mình cho tình yêu. Người vợ vì yêu thương chồng đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đành phải hy sinh mạng sống mình. Một tình yêu đích thực là dám quảng đai quên mình đi, dù phải hy sinh, để bảo vệ hạnh phúc cho người mình yêu.
Thật sự ra mà nói, không phải thử thách tình yêu một cách nghiệt ngã như hai vợ chồng trên đây là phải làm như vậy nhưng ngay trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể diễn tả tình yêu thương ấy một cách hết sức dễ dàng. Chúng ta có thể thực thi giới luật yêu thương của Chúa mọi lúc và mọi nơi.
Bất cứ nơi đâu và lúc nào, chúng ta đều có thể sống cái tình yêu hay nói đúng hơn và đáp trả tình yêu được. Có khi chỉ là bớt một lời nói chanh chua, bớt đi một chút của ánh mắt tị hiềm, bớt đi cái thái độ hung hăng của ta đó chính là cử chỉ, thái độ của những người biết sống cách đap tình.
Cái khó của cái có thể ở đây là liệu rằng chúng ta có cảm nhận được chúng ta yêu hay không mà thôi? Chúa lúc nào cũng yêu ta còn ta lúc nào cũng quay lưng lại với Chúa. Anh chị em đồng loại yêu ta lắm đấy chứ nhưng với cái bản chất ích kỷ và con người nhỏ nhen đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu. Không nhận ra thì làm sao chúng ta có thể đáp lại mối tình mà Thiên Chúa cũng như anh chị em đồng loại dành cho ta.
Xin Chúa Giêsu là vua của Tình yêu đến và ở lại với chúng ta, soi sáng cho chúng ta để chúng ta nhận ra rằng Chúa yêu chúng ta hơn chúng ta tưởng, anh chị em đồng loại yêu chúng ta hơn chúng ta biết để rồi khi ấy chúng ta cũng thay đổi lối sống, thay đổi cuộc đời là đáp trả tình yêu mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa, từ anh chị em đồng loại.
(Suy niệm của Lm. Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 15: 9-17: Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Ngày 10/10/1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M.Kolbe đã tự nguyện hiến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính Ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một người tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14/8/1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của Ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như Ngài… Chính tình yêu cao cả đã giúp Ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng người kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”
Anh chị em thân mến,
Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hóa giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giờ phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và là một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.
Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải qui chiếu khít khao vào chính tình yêu của Chúa Giêsu – một tình yêu vốn đã qui chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho những kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x.bđ.1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gủi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x.bđ.2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho nỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ, và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành tranh lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc Tử nạn Phục sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại Bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào phục sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.
Anh chị em thân mến,
Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.
Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vậy làm bung phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.
Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.
Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hon nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…
Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hòa.
Mỗi thánh lễ là một cử hành về Tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.
Trong những dòng suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật 6 Phục Sinh hôm nay, tôi không làm gì khác hơn là chỉ kể chuyện cho anh chị em và các bạn nghe. Vì tôi tưởng rằng những câu chuyện này, tuy đơn sơ thôi, nhưng lại diễn tả hết những gì mà tôi muốn nói.
Câu chuyện thứ nhất:
“Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và co em gái của cậu 6 tuồi. Cả hai đều gầy yếu và đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại tới lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều và cần đuợc tiếp máu. Thế nhưng bệnh vien không có sẵn loại máu cùng nhóm máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với cô. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống cô em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng sau đó cậu ta bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hếin máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”
Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho cô em gái. Khi tỉnh dậy mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! con vẫn còn sống đấy à?
Suy tư:
Câu chuyện thứ hai:
“Có hai vợ chồng nhà kia, hằng ngày cùng nhau vào rừng kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm bốn miệng ăn. Hai vợ chồng và hai đứa con thơ.
Một hôm, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tả, mặt sông dậy sóng. Chiếc thuyền nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp. Hai vợ chồng bị văng ra khỏi thuyền. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng môt tay bám vào thân cây, tay còn lại cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể bị chết chìm. Người chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ. Em phải sống để nuôi các con em nhé!” Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống và nuôi con!” Rồi chị đã buông tay ra cho chìm xuống để anh chồng đủ sức bơi vào bờ.
Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sông lập bàn thờ và thành tâm khấn vái cầu xin hương hồn phù hộ cho ba cha con.
Suy tư:
Câu chuyện này là một chú thích và là một minh họa cho điều Chúa Giêsu đã nói: ” Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Yn 15,13)
Thay cho kết luận:
Người ta quen nghĩ rằng chết là mất tất cả, chết là không tồn tại, chết là một điều khủng khiếp, nên người ta sợ chết. Chết như thế là chết vì ích kỷ. Trái lại chết vì yêu là chết vì hiến trao. Chết vì yêu là chết vì người khác và cho người khác. Vì thế, mặc du ta chết nhưng ta vẩn sống vẫn tồn tại. Vì tình yêu của ta sẽ đọng lại mãi trong lòng mọi người, rất sâu và rất lâu.
Cuối cùng tôi xin mượn tâm tình trong một lời cầu nguyện, đơn sơ thôi nhưng lại rất thấm thía. Tôi muốn mượn tâm tình này như một lời tự tra vấn mình và là lời nhắn nhủ đến tất cả. Tâm tình của lời cầu nguyện ấy thế này:
“Lạy Chúa, xin khoan để cho con chết đi. Bởi vì con chưa yêu đủ”. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa “Thầy đi dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là “các con hãy yêu mến nhau” (Ga 15, 12).
Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu?
Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói “yêu như Thầy đã yêu mến các con” là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con là bạn hữu” (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con” (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống cac môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, “Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người” (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu các con”, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7 – 8). Gioan quả quyết: “Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (1 Ga 4, 10).
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người khong trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đo. Đây là tình yêu huyết tộc.
Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.
Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.
Chúng ta vẫn thường nghe nói: “gia đình là Giáo hội thu nhỏ”, thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: “yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng”.
Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô: Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biet anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời: ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao?
Chuyện khác: Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:
Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.
Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: “Thầy truyền cho các con” (Ga 14, 12), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tang cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiền xuống. Trong các Chúa nhật trước, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Mục Tử Nhân Lành, là cây nho thật, chúng ta là cành phải kết hợp với cây. Nhưng hôm nay, Người cho chúng ta thấy một Trái Tim rung động đầy tình yêu.
1) Tình yêu không biên giới
Trong Trái Tim này tất nhiên chúng ta chỉ thấy tình yêu. Tình Yêu là mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Các bản văn của Gioan (1 Ga 4,7 – 10; Ga 15,9 – 17) mạc khải rõ: “Thiên Chúa là tình yêu ; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16) người ấy sẽ sinh trái.
Từ tạo dựng đến cứu chuộc, Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu. Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả bằng tình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” (Ga 15,9).
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta làm một cuộc xuất hành nội tâm tình yêu đi từ chính mình qua con người của mình bằng cầu nguyện với trái tim lắng nghe, vứt bỏ sau lưng những gì không cần thiết khiến chúng ta mất đi điều tối cần là: Thiên Chúa và tình yêu của Người.
Chúa Giêsu thật là có lý khi dạy chúng ta: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (x. Ga 15,12.17). Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Con Thiên Chúa đã trở nên mẫu mực, nguyên tắc, nguồn suối và thước đo, để chúng ta yêu: “Như Thầy đã yêu mến các con”. “.
Một trong những hoa trái của tình yêu là niềm vui: “Thầy nói với các con điều ấy để niềm vui của Thầy ở trong các con” (Ga 15,11). Nếu cuộc sống chúng ta không chiếu tỏa được niềm vui của đức tin, nếu chúng ta để cho những phiền toái choáng ngợp lòng chúng ta khiến chúng ta không nhận ra Chúa đang ở đó, là vì chúng ta không biết Chúa Giêsu cho đủ, chưa yêu “như Chúa”.
Tình yêu của Thiên Chúa là không biến giới. Người đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Dù bạn hữu không hiểu Chúa, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Người. Ðiều này nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!
2) Tên mới của các môn đệ là: BẠN
Thiên Chúa là người chủ động. Người khẳng định: “Chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Chúng ta luôn bị cám dỗ để tin rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta chỉ là người đáp lại tiếng Chúa gọi. Người đã chọn chúng ta một cách nhưng không để trở nên “Bạn”: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa (…) Thầy gọi các con là bạn” (Ga 15,15).
Ban đầu, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Ađam như một người bạn nói với bạn mình. Đức Kitô, Ađam mới, đã lấy lại và không chỉ gọi chúng ta là bạn nhưng là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu: “Như Thầy đã yêu các con”. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, chiều kích nhưng không là nền tảng và tình yêu của chúng ta phải có. Yêu như Chúa là phải yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa không có sở hữu. Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta làm cuộc xuất hành tình yêu hướng về người khác. Dâng tặng tình yêu thương cho anh em và đáp lại tình yêu của Chúa để trở nên BẠN.
3) Tình yêu hỗ tương: tình bạn
Nói đến tình bạn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự có đi có lại trong tình yêu. Vậy, trong nghĩa nào thì tình bạn khác với tình yêu? Tình bạn là một tình yêu hỗ tương. Theo thánh Augustinô, tình bạn là có đi có lại, nhưng không có tính toán vì không có sự giả vờ trong tình bạn thật.
Sự tương hỗ Kitô giáo được sinh ra từ sự nhưng không, không có nghĩa là “dịch vụ chưa thanh toán, hay làm mà không cần lý do”, nhưng được thi hành với lý do cao cả: tình yêu được sinh ra bởi đức tin.
Tình yêu Kitô giáo là sự đảo nghịch, nhưng không đối xứng: cho và nhận không cùng đẳng cấp. Tin Mừng về sự có đi có lại không đơn giản chỉ là một sự đổi chác. Nếu chúng ta chỉ yêu đến mức trao đổi, đây không phải là tình yêu đích thực. Và nếu chỉ vì chúng ta cho mà chúng ta được yêu, thì đây không phải là ta được yêu thực sự. Chỉ những ai hiểu được sự nhưng không tự nhiên này, mới có thể hiểu được Thiên Chúa và chính mình. Con người với hình ảnh giống Thiên Chúa, được tạo dựng và trao ban nhưng không. Đây là cách còn người tìm thấy sự thật của chính mình và thể hiện bản thể mình là giống “hình ảnh của Thiên Chúa”.
Đặc tính của mối liên hệ tình bạn này tối thiểu có ba điều: hoàn toàn hiến thân (“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”) (Ga 15,13); Tín nhiệm (“Ta đã giao phó cho các con tất cả những gì Ta đã nghe được từ nơi Cha Ta”); lựa chọn ơn gọi là tiền định nhưng không (“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”) (Ga 15,16).
Tất cả có thể tóm gọn trong từ: “YÊU”. Người Thầy nhân lành yêu cầu chúng ta làm việc bác ái như là một điều răn duy nhất có thể. Không có bác ái, tất cả đều không không vậy. Thực tế, Đức ái phải dẫn con người tới các nhân đức khác để làm cho con người tốt.
Là những người thừa hưởng sự ưu đãi này, các môn đệ được “nâng lên” làm BẠN của Thiên Chúa: “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” Nó có nghĩa gì? Rất đơn giản, có nghĩa là chúng được Chúa Kitô yêu mến và nếu tình yêu là một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình, chúng ta phải ra khỏi chính mình và đặt mình vào trong Trái Tim Chúa và sau đó tự hỏi Chúa yêu thương chúng ta thế nào và Chúa đợi gì, chúng ta làm như Chúa: yêu mến người khác như Chúa yêu mến chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhấn mạnh đến một giới răn quan trọng nhất trong đạo: đó là giới răn yêu thương. Giới răn này đã có trong Cựu ước, nhưng một lần nữa, trước khi đi vào cuộc tử nạn, Đức Giêsu nhấn mạnh đến giới răn này dưới khía cạnh tình yêu huynh đệ.
Thánh Gioan Tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7). Ngài yêu thương chúng ta trước nên đã dựng nên ta, nhất là ban Con Một của Ngài cho thế gian để mọi người được cứu chuộc. Đáp lại, chúng ta cũng phải yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
Nhưng yêu thương bằng cách nào? Hay nói cách khác, làm thế nào mà biết được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là chân thật? Qua các bài đọc của Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể khẳng định mà không sợ sai lầm: đó là chúng ta trung thành giữ các giới răn của Chúa và yêu thương nhau bằng những việc làm cụ thể, chứ không chỉ yêu thương nhau trên đầu môi chót lưỡi.
+ Bài đọc 1: Cv 10,25-48.
Trong Giáo hội sơ khai, có một vấn đề gai góc cần phải được giải quyết: đó là có thể chấp nhận cho những lương dân chịu phép rửa mà không đòi buộc họ giữ các Lề luật Do thái không? Nhiều người không chấp nhận. Nhưng thánh Phêrô được Chúa Thánh Thần soi sáng đã tuyên bố: “Thiên Chúa yêu thương mọi người không thiên vị ai, tất cả mọi người được chấp nhận tham dự vào nguồn mạch sự sống của Thiên Chúa”. Vì thế, ngài đã rửa tội cho viên sĩ quan Rôma tên là Cornêliô và nhận ông vào Hội thánh Chúa.
Trước biến cố này, thánh Luca tin rằng đó là một biến cố quyết định đối với tương lai Kitô giáo, nên trong dịp này, ngài không ngại cho chúng ta chứng kiến lễ Thánh Thần hiện xuống lần nữa, lần này trên các dân ngoại. Những ơn khi Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống lần đầu tiên cũng được ban cho họ, ngày cả trước khi họ chưa chịu phép Rửa.
+ Bài đọc 2: 1 Ga 4,7-10.
Thánh Gioan khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7) và mọi tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Không phải chúng ta đã yêu Ngài nhưng Ngài đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ cho chúng ta trong việc này: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống… và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
Từ đó sinh ra những hệ luận:
– Chúng ta phải yêu thương nhau.
– Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 15,9-17.
Tiếp tục dụ ngôn cây nho và cành nho, trong bài diễn từ ở nhà Tiệc ly trước giờ phút chịu tử nạn, Đức Giêsu khuyên các Tông đồ hãy kết hợp với Ngài:”Hãy ở lại trong Tình yêu của Thầy”. Đồng thời Ngài cũng đưa ra một điều răn quan trọng để các ông thực hiện: “Đây là giới răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15,12)
Tình yêu mà Đức Giêsu muốn cho các ông thực hành có những đặc tính này:
– Yêu như Chúa yêu: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thuơng các con”.
– Yêu đấn tận cùng: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”.
– Tình yêu phải được thể hiện trong việc làm: “Nếu như các con giữ điều răn của Thầy”.
Các con hãy yêu thương nhau.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước nói về cây nho và cành nho, nhắc cho chúng ta hãy sống kết hợp với Chúa như cây nho và cành nho. Hôm nay Đức Giêsu lại đưa ra cho chúng ta một bài học nữa về sự liên kết giữa các cành nho. Đó là đức Bác ái mà các Kitô hữu phải thi hành đối với nhau: “Đây là giới răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Con người từ bản tính ai cũng biết yêu, tuy mức độ và sắc thái có khác nhau. Nhưng làm sao con người lại biết yêu? Trong bài đọc 2, thánh Gioan Tông đồ đã trả lời cho chúng ta:”Vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”(1Ga 4,7). Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu, Ngài ban cho chúng ta tình yêu ấy để chúng ta yêu Ngài và yêu nhau.
Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương.
Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói:”Này là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi”(St 2,23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói:”đồng bào ruột thịt”. Đồng bào có nghĩa là chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt.
Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho con người, nhưng đã thất bại. Loài người không yêu Thiên Chúa, lại cũng không biết thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lại một lần nữa, Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương con người trong việc cứu chuộc. Tình yêu ấy đã được thánh Gioan Tông đồ diễn tả:”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”(Ga 3,16-17).
Thiên Chúa không những yêu thương con người, đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, lại còn ban ơn cứu độ, nâng con người sa ngã lên, một việc làm còn lớn lao hơn việc tạo dựng.
Chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó. Một lò sưởi không thể nào toả ra sức nóng, trừ phi nó đã được đón nhận sức nóng từ trước đó. Điều này cũng đúng cả đối với Đức Giêsu. Ngài nói với các môn đệ của Ngài:”Như Cha đã yêu mến Thầy, nên Thầy cũng yêu mến các con”. Tình yêu mà Ngài chia sẻ một cách quảng đại cho các môn đệ của Ngài, và cho mọi người nói chung, chính là tình yêu mà Ngài đã đón nhận từ Thiên Chúa Cha.
Tình yêu đã được lãnh nhận ấy thật là tuyệt vời. Tình yêu chia sẻ ấy đã được thánh Gioan tông đồ mô tả:”Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16). Ngài đã dám gánh tội chúng ta, đã chịu chết để đền tội cho ta. Ngài không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại:”Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người thí mạng vì người yêu”(Ga 15,13).
Ngoài ra, Ngài cũng còn tỏ lòng thương yêu chúng ta bằng cách tôn chúng ta lên làm bạn hữu của Ngài:”Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu”. Thực sự, chúng ta không xứng đáng được gọi là tôi tớ Thiên Chúa vì chúng ta là vật thọ tạo đã dám xúc phạm đến Ngài, đến Đấng đã tạo dựng nên mình. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Ngài dành cho chúng ta.
Đức Giêsu có những lời tâm huyết muốn truyền lại cho các tông đồ trong bữa Tiệc ly. Một trong những lời tâm huyết ấy là:”Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương nhau, vì yêu thương là một lệnh truyền duy nhất gồm tóm mọi lệnh truyền khác (x. Mc 12,28-34). Lệnh truyền này là chúng ta yêu thương nhau như chính Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Và khuôn mẫu của tình yêu thương là Đức Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này có rất nhiều đặc tính mà chúng ta cùng tìm hiểu để áp dụng vào đời sống thường ngày của chúng ta.
Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu nói:”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta nên lưu ý đến chữ nhau và chữ như, hai chữ ấy nói lên mức độ của tình yêu cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
* Chữ NHAU. Nói lên chiều rộng của tình yêu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương nhau. Chữ “nhau” giả thiết phải có hai người trở lên. Vậy phải yêu ai và yêu bao nhiêu người? Chúa không bảo hai vợ chồng hay hai tình nhân yêu nhau, mà bảo phải yêu thương tất cả mọi người vì tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa. Vì thế, ta không nên hiểu chữ “nhau” này theo nghĩa hẹp, chỉ nhằm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta mà thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người.
Cha Zosima nói trong cuốn sách “Anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky:”Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mọi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự” (Flor McCarthy).
Thánh Augustinô khi nói về mức độ của tình yêu thì ngài nói rất chí lý: “Mức độ của tình yêu là không có mức độ nào”.
Câu nói của Đức Khổng Tử cũng tương tự:”Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em.
* Chữ NHƯ. Nói lên chiều sâu của tình yêu. Phải yêu thương mọi người không trừ ai, lại còn phải yêu thương với một tình yêu sâu đậm như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta.
Trong Thông điệp “Ánh sáng rạng ngời”, Đức Gioan Phaolô 2 đã viết:”Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể… Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của Người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy”(Số 20).
Một trong các đặc tính của tình yêu là “trao ban”, là cho đi. Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói:”Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca”.
Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng:”Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ”, thì thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ mà thánh nữ sáng tác:
Sống yêu đương chính là cho tất cả,
Trên đời này không đòi hỏi công lao.
Không tính toán, không kể cho là bao,
Vì đã yêu có khi nào suy tính.
Truyện: Hai biển hồ.
Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Biển hồ thứ hai tại Palestine là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi mà người cũng có thể trở nên bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
“Cho thì có phúc hơn nhận”. Càng trao ban, càng được nhận lãnh. Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.
(Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 154)
Tục ngữ Tây phương có câu:”Partir, c’est mourir un peur”: ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một hy sinh, hy sinh làm ta đau khổ và đau khổ được coi như chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết:”Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”(Pierre l’Ermite).
Yêu là hy sinh và hy sinh lớn nhất là cho đi chính mạng sống của mình như Đức Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”(Ga 15,13). Nếu đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của nhà văn Khái Hưng, ta thấy cũng có một nhân vật dám thực hiện lời khuyên trên của Đức Giêsu. Câu truyện ấy gồm tóm như sau: Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì”em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.
Thánh Gioan Tông đồ luôn khuyên nhủ tín hữu hãy yêu thương nhau. Yêu thì có năm bảy đường yêu, nhưng tình yêu đòi hỏi sự chân thật. Ngài khyên:”Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa”(1Ga 3,16-18).
Nhiều người chỉ yêu thương hời hợt bên ngoài, lòng họ chẳng yêu gì, đúng là họ chỉ yêu trên đầu môi chót lưỡi như thánh Gioan đã nói ở trên. Vì thế người ta nói:
Tôi yêu anh vạn
Tôi mến anh nghìn.
Anh có ăn thuốc đưa tiền tôi mua.
Những người này người ta liệt vào loại:
Thương miệng thương môi
Thương miếng xôi miếng thịt.
Truyện vui: Cớ sao ông lại chết?
Trong một bãi tha ma tối đen như mực, có một người đàn ông đã 5 ngày liền ngồi buồn rầu trên một nấm mồ và luôn miệng nói một câu thảm thiết “Cớ sao ông lại chết? Cớ sao ông lại chết để tôi khổ thế này”?
Người hầu tìm thấy ông ta, muốn an ủi, bèn hỏi:
– Người quá cố là cha hay anh ông vậy?
Con người khốn khổ rên rỉ:
– Không phải cha, không phải anh. Đó là người chồng trước của vợ tôi đấy!!!
Giới trẻ ngày nay thích đi chọn thần tượng cho mình để học đòi bắt chước. Đối với họ, thần tượng của họ là lý tưởng của đời mình, họ ra công học đòi bắt chước để trở nên giống thần tượng của họ trong cách ăn mặc, nói năng, đi đứng… Vì thế, họ đi tìm thần tượng của họ nơi các ca sĩ nhạc trẻ, nơi các cầu thủ bóng đá, nơi người trí thức, nơi các nhà chính trị xuất sắc…
Nhưng có một người mà suốt 2000 năm nay đã rất nổi tiếng, đã được người ta suy tôn là thần tượng tuyệt vời mà họ không biết, đó là Đức Giêsu Kitô. Thần tượng này đã dám khuyên mọi người hãy bắt chước cách sống của mình để trở nên giống mình:”Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29). Biết bao người đã say mê thần tượng đó, người ta đã tin theo và bảo vệ thần tượng đó mặc dầu phải hy sinh mạng sống mình.
Thần tượng ấy đã làm gương và khuyên nhủ chúng ta một điều mà mọi người cần phải thực hiện:” Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15, 13).. Rất nhiều người đã thực hành lời khuyên đó bằng cách thể hiện ra trong những việc làm cụ thể hằng ngày.
Truyện: Ngôi nhà thờ.
Trong một ngôi làng tại dẫy núi Alpes ở Thụy sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dùng một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân. Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện đó như sau:
Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở nên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình còn phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có đồng một ý tưởng đó và tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình có cả gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Ta”.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 271-272)
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU VÀ SINH HOA KẾT TRÁI
Tin mừng Ga 15: 9-17: Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: “Chính Người đã yêu thương chúng ta”. Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.
Phụng vụ hôm nay phong phú những từ ngữ nói về tình yêu, những từ ngữ đơn giản nhưng thật kỳ lạ, và dường như còn phi thường nữa. Chỉ nguyên bằng một từ rất quen thuộc, “tình yêu”, Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào khám phá chính mầu nhiệm bản thân Chúa Cha và của chính Người, mầu nhiệm tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu và cuộc sống mà Người muốn đưa chúng ta đi vào. Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: “Chính Người đã yêu thương chúng ta” (1Ga 4,10). Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.
ª Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho “thật”, còn chúng ta là cành, mà cành thì phải “ở lại” trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Gioan). Đức Giêsu đã lệ thuộc vào Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng đã yêu mến anh em như vậy” (15,9). Đây là những biến cố được xác định trong quá khứ. Đức Giêsu ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống Kitô hữu.
Chúng ta phải “ở lại” trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người “ở lại” trong tình thương của Cha Người. Chúng ta cũng có thể “ở lại” trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình bằng hữu ấy. Chúng ta cũng có thể “ở lại” bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là “ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn ; giữ lời]” (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để “niềm vui của Thầy ở trong anh em” và “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài “niềm vui” này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu “ở lại” trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Ngài để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ “ở lại” trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhận từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng ta chỉ hiểu điều ta đã nhận khi ta tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
ª Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17).
Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Họi thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (15,12 nhắc lại 13,34). Hành vi “Thầy đã yêu thương anh em” trong quá khứ phải được thể hiện trong tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống “vì bạn hữu của mình”, “nhân danh bạn hữu mình” (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi nói đến việc hy sinh tính mạng “vì bạn hữu của mình”, Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là “tôi tớ”, nhưng là “bạn hữu”. Chúng ta chứng tỏ chúng ta là “bạn hữu” của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14 ; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm “tôi tớ của Thiên Chúa”. Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (Gs 24,29 ; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là “bạn hữu”, như Môsê xưa kia là “bạn hữu” của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các “bạn hữu” thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15).
Các kinh sư Do Thái thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ “ra đi và sinh được hoa trái” (c. 16). Hoa trái này được nhắm “ở lại [= tồn tại]” và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13 ; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, “hãy yêu thương nhau” (c. 17).
Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng ; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quí báu nhất của trái tim Người ; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật, là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các “bạn hữu” của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Họi thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta “ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại”, vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.
Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Ngài đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Ngài cho Con của Ngài.
III. Gợi ý bài giảng:
Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới ; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã đi ra và hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.
Từ “điều răn” được Đức Giêsu sử dụng bốn lần nhằm cho thấy rằng “yêu thương” là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?
Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm tôi tớ Thiên Chúa, “làm việc cho Đức Giêsu”, mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành bạn hữu của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn những tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.
Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà cao ngạo. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: “ở lại trong Đức Giêsu”, “ở lại trong tình yêu của Người” và “yêu thương nhau”. Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người ; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
PHÚC NÀO HƠN ĐƯỢC LÀM BẠN VỚI CHÚA
Có người nói vui rằng Chúa Giêsu ở trên trời không có mẹ, không có anh em, không có bạn hữu. “Buồn quá”, nên Ngài đã tự nguyện nhập thể làm người để được làm con một người mẹ (Đức Maria), được làm anh em và đặc biệt là được làm bạn hữu với loài người. Nói thế cũng đúng phần nào nếu đặt trong bối cảnh của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”.
Quả vậy, Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài không viết một tác phẩm nào, cũng không xây một ngôi nhà thờ nào. Nhưng Ngài đến để thiết lập một tương quan mới với con người, tương quan bằng hữu.
Dĩ nhiên tình bằng hữu của Chúa Giêsu đối với chúng ta vượt lên trên tất cả tình bạn tự nhiên của con người. Bởi vì tình bạn ấy được mặc cho một giá trị vô cùng cao quý nhờ cái chết hy hiến của Ngài trên thập giá: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình”.
Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong tương quan tình bạn, chứ không phải là một tương quan nào khác?
Người ta nói rằng mọi thứ tình, kể cả tình yêu đôi lứa, khi phát triển đến mức hoàn hảo đều qui về tình bạn. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng đây quả là một quà tặng, một diễm phúc lớn lao mà Thiên Chúa ân ban cho con người chúng ta. Không lớn lao sao được khi con người thân hèn phận mọn được cất nhắc lên địa vị ngang hàng với con Thiên Chúa. Không cao cả sao được khi kẻ thụ tạo yếu đuối tội lỗi được biết tất cả, tất cả chứ không phải chỉ 1/4 hay 1/2 những gì thâm sâu bí nhiệm của cõi thiên giới, như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết”.
Từ đây, con người được được sống trong mối thân tình với Đấng hoá công, được trở nên đồng vai đồng vế với Con Thiên Chúa. Vì là bạn hữu mà! Được gọi danh Giêsu một cách thân thiết, danh mà cả triều thần thiên quốc phải kính tôn; được tâm sự với Ngài một cách thân thương và cởi mở đến độ không còn khoảng cách nữa.
Trước hồng ân cao vời đó, chúng ta được mời gọi sống thế nào, nếu không phải là luôn mặc lấy tâm tình cảm tạ tri ân. Cảm tạ Chúa Cha vì Ngài đã đưa ta vào trong tương quan tình bạn với Ngài. Tri ân Chúa Con vì Ngài đã để lại cho ta một kiểu mẫu tình bạn tuyệt vời, tình của người “hiến mạng sống vì bạn hữu mình”.
Chuyện kể rằng: Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoi, đang đi ngang qua đó. Tolstoi dừng lại, lấy tiền cho người ăn xin, nhưng không còn đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: “Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng mang theo gì”.
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà lớn nhất rồi”.
Chúa Giêsu không những gọi chúng ta là anh em, Ngài còn gọi chúng ta là bạn hữu, nghĩa là cho ta được trở nên ngang hàng với Ngài. Lẽ nào ta lại không có được tâm tình như người ăn xin trong câu chuyện trên?
Chúng ta còn được gọi mời sống thế nào nữa, nếu không phải là sống tốt tương quan tình bạn với Chúa Giêsu và với anh em mình. Sống tốt tình bạn với Chúa Giêsu, qua việc ở lại trong tình yêu của Ngài, tức là giữ các giới răn. Đồng thời để cho Lời của Ngài ơ lại trong ta, cụ thể là năng tâm sự với Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Sống tốt tình bạn với anh em, qua việc nổ lực yêu thương anh em bằng chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho ta. Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng la bạn hữu đúng nghĩa của Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”
Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đe mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giesu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thieng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và lam nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.
Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- mot tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành nhưng người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.
Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.
Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.
Yêu người như yêu Chua, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.
Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thu, chiến tranh…
Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.
Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là ke biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con luôn nhớ lời căn dặn của Chúa, để chúng con luôn biết sống yêu thương nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, để chúng con luôn làm tròn sứ mạng Chúa đã trăn trối, để chúng con luôn là môn đệ đích thực của Chua. Amen.
“Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”
Đã có một lần nghe lại những câu buồn cười và cười buồn: con cua và con còng đấu phép; đấu bao nhiêu con còng cũng vẫn thua hết, vậy mà con cua lại [bị xử là] thua con còng. Đồng dao về sự đời chua chát là thế, lại lắt léo câu chuyện liên hệ họ hàng khó tin: Dưa hấu là cậu bí ngô;bí ngô là cô đậu nành; đậu nành là anh dưa chuột,..Nhưng nếu tìm hiểu sâu rộng hơn, sẽ thấy đây là những lời châm biếm đối với những quan hệ cấm kỵ, thậm chí là loạn luân ở cuối thời Lý đầu nhà Trần, mà mục đích chỉ là để bảo vệ ngôi báu,quyền lực. Vì vậy chẳng lạ gì những mối liên hệ “siêu”huyết thống, khi tất cả đều vì là “họ nhà chim”: Bồ các là bác chim gi; chim gi là dì sáo sậu; sáo sậu là cậu sáo đen; sáo đen là em tu-hú; tu-hú là chú bồ-các…!
Mở những trang đầu của “Bổn Lẽ cần cho được rỗi linh hon” (trước đây) của địa phận Vinh, ta đọc thấy: “Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng nào?”; “Thưa: Đức Chúa Trời là Đấng thiêng liêng, vô thuỷ vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, lọn tốt lọn lành, ở khắp mọi nơi”. Hình như cho tới nay vẫn chưa có một ‘định nghĩa’ nào gọn gàng, đầy đủ và hay hơn về Đức Chúa Trời, tóm tắt những gì một tín hữu Công giáo nghĩ về Chúa của họ, giúp phân biệt hết sức rõ ràng với bụt thần và vô số thần thánh trong tín ngưỡng Á Đông, trong đó có Việt-Nam. VÔ THỦY VÔ CHUNG là ý niệm rõ ràng nhất trong cái trừu tượng thời gian, cái mà toán học dùng ± # để diễn tả sự vô tận. Bên cạnh đó, con người là loài được tạo dựng, càng nên thấp hèn vì đã phạm tội vong ân bội nghĩa. Nhưng cho dù không phạm tôi, thì việc “bắt quàng làm họ” với Đấng Tạo Hoá đã là chuyện không tưởng, ngông cuồng. Ấy vậy mà chuyện ‘đũa mốc chòi mâm son’ lại thành hiện thực. Trời cao đất thấp gặp nhau: Thiên Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung. Và chính Thiên Chúa khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Người, chính là ban cho nó cũng được “vô chung”. Bù lại,chính cái ‘hữu thuỷ’ ấy nhắc nhở chúng ta điều mà Chúa Giêsu nói: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa là Tình Yêu (x. I Ga), Tình Yêu – viết hoa – vô thuỷ vô chung. Tình yêu chúng ta – hữu thủy từ bản thể, nhưng bắt nguồn từ Thiên Chúa – Tình Yêu vô thuỷ vô chung, cho nên đã trở thành ‘vô chung”. Sự tồn tại và giá trị có được là do bắt nguồn,thông hiệp và gắn chặt vào Tình Yêu vô thuỷ vô chung. Đó là ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Tạo dựng chính là Thiên Chúa cho vũ trụ và con người một cái “thuỷ” để từ đó sẽ được phú ban cho sự vô chung, đơn giản là vì tất cả đi vào quỷ đạo Tình Yêu (viết hoa) là Thiên Chúa. Lực hút ly tâm – Tình Yêu vô thuỷ vô chung – từ đó sẽ “nâng cấp” và làm cho mọi loài thọ tạo gắn bó vĩnh viễn với Thiên Chúa,”ở lại trong Tình Yêu Chúa”(Ga 15,9 b). Chỉ những ai tự để một lực khác chi phối và cuốn hút mạnh mẽ ra khỏi lực ly tâm Tình Yêu, thì mới tự loại trừ. Lực ly tâm ấy chính là các giới răn của Chúa, rút cuộc vẫn là ‘tình yêu’: yêu Chúa và yêu anh em. Khi người ta cho Tạo Dựng (creation)và Tiến Hoá (evolution) cái ‘đuôi’ “ism”, (thuật ngữ chuyên môn là thuyết, chủ nghĩa, hoặc đơn giản là: ‘duy’), tức là người ta muốn áp đặt suy nghĩ và tác động của mình, gạt bỏ vai trò Đấng Tạo Hoá và ban cho Tiến Hoá là Thiên Chúa. Tiến hoá vì thế chỉ là bắt đầu cuộc hành trình hữu thuỷ tiến về vô chung. Vũ trụ và con người ví được như cổ máy: Thiên Chúa dựng nên và cho khởi động với đích đến là vô chung, nôm na là muôn thuở muôn đời. Con người, vì thế, lệ thuộc vào Thiên Chúa, vào Đấng Vô Thủy. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa muốn nó ‘vô chung’ như Người. Khác biệt duy nhất, ấy là con người luôn phải hướng về vô chung để hoàn thiện mình trong sự kính uý thờ phượng Thiên Chúa; trong khi Thiên Chúa tự bản thể là Đang vô chung như đã là vô thủy: một cuộc tiến hoá thiêng liêng, cao lên mãi, tăng thêm mãi, tinh luyện trong tình yêu và trong tạ ơn của cái hữu thuỷ đối với Đấng vô thủy vô chung, để chính bản thân được ‘vô chung’. Đó chính là ý nghĩa của Lời Chúa phán với ông Môsê ở biến cố Bụi Cây Cháy: “Je Suis” – Tà Là – Tự Hữu – Vô Thuỷ Vô Chung.
Những năm qua,do khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, đời sống nhà nông ngày càng bấp bênh và bị hấp dẫn bởi những hào nhoáng của đời sống thị thành, lớp thanh niên ở nông thôn kéo nhau ra thành phố kiếm công ăn việc làm. Nhiều gia đình chỉ để lại cha mẹ già trông coi nhà cửa vườn tược, hoặc gửi con nhỏ cho cha me già, để vào nam lập nghiệp. Chưa kể đến những hậu quả tinh thần và đạo đức mà làng xóm truyền thống phải gánh chịu, mà nó còn phương hại đến hôn nhân và gia đình. Người ta đem sức lao động “xuất khẩu”: quả là có đổi đời, đổi nhà đất nhà ngói sang mái bằng, từ thiếu thốn sang đầy đủ tiện nghi hiện đại, nhưng cũng đổi theo chúng là hạnh phúc gia đình đổ vỡ vô phương cứu chữa và vô số tệ nạn thâm nhập vào gia đình và hôn nhân. Nhà nước Việt Nam không thấy được và cũng chẳng màng tới chuyện luân lý,đạo đức, mà chỉ lo một ngày gần đây cạn kiết lực lượng sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực sẽ bị đe doạ nặng nề, nên đã nghĩ ra đủ kế sách để giữ chân lớp lao động trẻ ở lại nông thôn. Chính sách “ly nông bất ly hương” so ra không mấy khác với ý nghĩa lời Chúa Giêsu hôm nay, ngoại trừ lý do và động cơ. Chẳng ai chấp nhận một cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng, chịu bao bất công, thiệt thòi, mà rút cuộc cũng chẳng nuôi nỗi bản thân, để ‘ly nông bất ly hương’. Khi hàng hoá ế ẩm dồn cục, không xuất khẩu được, người ta mới chợt nhó đến nông thôn. Chang khác nào dụ khị con nít. [1.000 đồng/ngày là thu nhập bình quân của nông dân làm ruộng. Tính theo năng suất bình quân thu được từ một sào ruộng trong điều kiện canh tác tốt, thời tiết thuận lợi đạt 2,0 – 2,2 tạ thóc/vụ, quy sang tiền là 400 – 440 nghìn đồng.Trừ hết mọi khoản còn lãi gần 100 nghìn đồng chia cho 90 ngày (Trích từ Báo Lao Động số 326 Ngày 21.11.2004)]. Khi tâm tư, suy nghĩ,hành động không hề có chút thuỷ chung, không hề có tình thương, mà chỉ giáo điều,vụ lợi, thì không thể nào có sự gắn bó, không ai có thể gắn bó. Mọi cố gắng móc nối, liên kết, ràng buộc “họ hàng” nếu không sai trái, thì cũng chỉ là giả tạo.
Dưa hấu là cậu bí ngô: đây không phải là mơ tưởng huyển hoặc từ phía con người; không phải là lời động viên, hứa hẹn từ Thiên Chúa, mà là một thực tại do sáng kiến của Đấng Tạo Hoá muốn con người – một khi được Thiên Chúa cho hiện diện trên trần gian, – cũng sẽ hướng về sự sống đời đời, tức là vô chung, trong Thiên Chúa. Tình Yêu Vô Biên là đáp số của những lắt léo, mầu nhiệm nầy. “Với Thiên Chúa, không có gì là không thể được” (Lc 1,27). Thiên Chúa là Tình Yêu: với Tình Yêu, đâu chỉ có”dưa hấu” trở thành “cậu bí ngô!
Tình Ca 154
34. Phải có hoa hồng trên cây hồng
(Suy niệm của Guy Morin)
Chúng ta đã quen với qui luật về hiệu năng. Tại nhà máy, người ta cho thôi việc người thợ nào sản xuất kém. Cũng vậy, người công dân đòi hỏi phải có những cảnh sát hữu hiệu, bắt được tội phạm. Người làm vườn không thể chấp nhận một cây hồng mà lại không sinh hoa. Ai trong chúng ta chịu để một cây hoa tàn héo trong bồn hoa nhà mình?
Mặc dù Tin Mừng đầy dẫy những cử chỉ nhưng không thế mà người ta cũng gặp nơi đó qui luật về hiệu năng. Chúa Kitô chúc dữ cho cây vả không có trái, kết án người đầy tớ đã chôn vùi nén bạc của mình. Lời Ngài, hạt giống gieo vào lòng con người, phải sinh hoa kết quả. Bản thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi qui luật này. “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất có chết đi thì nó mới sinh nhiều bông hạt”.
Chúa nhật trước chúng ta đã đọc câu chuyện về cây nho mà người ta tỉa những cành không sinh trái. Chúa Giêsu đã nói: “Điều làm vinh danh Cha Thầy là các con mang nhiều hoa trái, và như vậy các con sẽ trở thành môn đệ của Thầy”. Bài Tin Mừng hom nay nói cho chúng ta biết phải sinh hoa trái nào.
Hoa trái, đó là đức ái huynh đệ.
“Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con làm điều Thầy truyền dạy. Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau”. Qui luật về hieu năng được áp đặt cho người môn đệ đó là đức bác ái. Không gì thay thế được. Không phải là chuyện xây cất một tòa nhà hay một vương cung thánh đường nhưng là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô bằng tình yêu thương. Giáo Hội có thể triển nở mà không cần nhà thờ nhưng không thiếu những mối tương quan huynh đệ được. Hoa quả làm vinh danh Chúa Cha, đó là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tóm tắt qui luật này một cách mạnh mẽ rằng đao thật là viếng thăm trẻ mồ côi và kẻ góa bụa lâm cảnh cơ cực.
Đức ái huynh đệ không phải là tình cảm cũng không phải là thiện cảm tự nhiên nhưng là vâng phục Thiên Chúa trong và bằng việc phục vụ người đồng loại. Việc phục vụ cụ thể: chia sẻ của cải, nâng đỡ tinh thần, quan tâm đến người nghèo và những người bên lề xã hội, tôn trọng tha nhân. Đối với kẻ thù, việc phục vụ này là kiên nhẫn chịu đựng và cầu nguyện cho họ. Đây là đức ái vô vị lợi. Cho mà không mong đáp trả và không điều tra về công trạng của người được yêu thương. Cứu giúp mọi người và cho đi cách rộng rãi như Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những dấu chỉ nội tâm để nhận ra đức ái huynh đệ.
Khi người Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu thực thi đức ái, đức ái này được biểu lộ nơi những cử chỉ, những thái độ, những lời nói, những cách nhìn và đối xử với người khác. Đó la những dấu chỉ bên ngoài. Nhưng thánh Gioan nêu cho chúng ta ba dấu chỉ nội tâm: biết Thiên Chúa, lời cầu xin được chấp nhận, niềm vui.
Ở khởi điểm, người Kitô hữu trở thành môn đệ bởi vì họ đón nhận tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu. Về sau, nhờ thực thi đức ái huynh đệ, họ đào sâu kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Quả thật, mỗi một cử chỉ huynh đệ nhắc nhở họ nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ trước nơi Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, họ càng ngày càng cởi mở đối với tình yêu của Chúa Cha. Vì tình yêu lớn lên khi tự hiến mình đi.
Một dấu chỉ nội tâm khác, đó là lời cầu xin được chấp nhận: “Tất cả những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”. Tên Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Những lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Giêsu tức là hướng về ơn cứu độ, thì sớm hay muộn, chắc chắn Chúa Cha cũng sẽ chấp nhận. Dấu chỉ này không hiển nhiên. Nhiều Kitô hữu than phiền là Thiên Chúa làm thinh. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra lời đáp của Chúa đối với lời cầu xin của chúng ta. Một lời đáp khó hiểu hoặc làm ta phải bỡ ngỡ.
“Thầy đã nói với các con điều này để cho niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được trọn vẹn”. Niềm vui cũng là một dấu chỉ nội tâm cho những ai thi hành đức bác ái. Khi sự sống được triển nơ, đó là niềm vui. Mỗi lần đức ái huynh đệ được thể hiện, thì sự sống của Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài tăng thêm nơi chúng ta hơn một chút và trở thành cụ thể. Triều đại của Thiên Chúa tiến một bước vì loài ngươi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đối với họ qua tình yêu của người anh em. Lúc đó, chúng ta là dấu chỉ cho nhau rằng Thiên Chúa tiếp tục hành động và cứu độ. Do đó mà niềm vui, dù niềm vui này thường đi chung vơi đau khổ.
Sứ điệp.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi sinh hoa kết quả, hoa quả của đức ái. Đức ái sẽ xiết chặt những mối liên hệ giữa tôi với Ngài, sẽ làm cho lời cầu nguyện của tôi mang lại hiệu quả và sẽ ban cho tôi niềm vui của Ngài. Lẽ nào tôi từ chối?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)
Hai từ “yêu thương” đã quá quen thuộc với con người, cách riêng với Kitô hữu. Tình yêu là một đề tài vừa phong phú, vừa hấp dẫn của văn chưong, nghệ thuật, phim ảnh…và luôn mang tính thời sự. Tình của mỗi thời dường như mỗi vẻ và cách kiểu yêu của mỗi giới, mỗi người, thì mang mỗi sắc mầu, nhưng bản chất tình yêu thì trước sau như một. Biết rằng chúng ta phải yêu thương nhau nếu muốn sống như con người, thế nhưng thử hỏi thế nào là yêu thương thì quả thật không dễ trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Ngay cả những việc to lớn như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt” thì cũng chưa hẳn là đã yêu thương (x. 1 Cor 13,3).
Có thể nói tình yêu là huyền nhiệm vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Tuy nhiên thánh Gioan Tông đồ lại cho chúng ta một cái nhìn về tình yêu: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Như thế chúng ta có thể nói yêu thương là thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu trong sự tự nguyện đi bước trước và có trả giá cách nào đo.
“Sông sâu còn có người dò…”, nhưng để đo mức độ của ước muốn thì như không thể. Làm sao đe minh chứng rằng ước muốn của tôi không triệt để? Làm sao để khẳng định rằng tôi chỉ muốn điều tốt loại hai, loại ba cho người tôi yêu mà không phải là điều tốt nhất? Quả thật, khi đã ước muốn thì người ta khó biết mưc độ ít nhiều, có giới hạn hay đến cùng. Tuy nhiên qua hành động, thì ta có thể kiểm chứng mức độ một cách nào đó khả dĩ được nhiều người chấp nhận. Thực tế có đó chuyện ta nghĩ rằng mình có muốn điều tốt nhất cho ngươi mình yêu, nhưng chỉ thực hiện điều tốt nhì, tốt ba, tốt thứ tư, điều tốt có hạn chế mà thôi. Khi đã có cái giới hạn thì hình như đã có sự tính toán. Đã có tính toán, có so đo hơn thiệt, thì chưa thực sự là yêu thương. Sư thường: “ăn thì cho và buôn thì so”. Biên giới của tình yêu là tình yêu không biên giới.
Trong động thái đi bước trước, phía người yêu thương thì thể hiện qua việc có sáng kiến, và phía người được yêu thương thì biểu lộ sự kinh ngạc, sững sờ. Kinh Thánh cho ta thấy điều này: Mỗi khi Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào một biến cố lịch sử nào đó thì dân chúng nói chung và những người được tuyển chọn nói riêng đều bàng hoàng, kinh sợ. Các trang Tin mừng cũng tường thuật hiện tượng này rất nhiều lần. Sau mỗi kỳ công mà Chúa Giêsu thực hiện để thi ân giáng phúc, thì dân chúng đều kinh hãi và ca ngợi Thiên Chúa. Có thể nói đây là một tình trạng sững sờ khi chứng kiến một điều kỳ diệu hay được yêu thương bằng một tình yêu vượt quá tầm luận lý thường tình. Đêm Tiệc ly, Phêrô và các bạn đã sững sờ khi Thầy Chí thánh cúi xuống rửa chân cho mình, đến nỗi ông đã vội phản ứng: ” Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13,8).
Sống yêu thương thì không thể ngồi chờ. Vẫn có đó những lý lẽ để bào chữa rang chưa đủ tài, chưa đủ lực hay chưa đến lúc đến thời…cho những người chưa biết hay không biết yêu thương. Dù chưa đến thời viên mãn thì Thiên Chúa cũng đã tự tỏ bày chương trình yêu thương của Người qua các tổ phụ, các ngôn sứ (x. Dt 1,1). Đã yêu thương thì luôn có đó những việc phải thực hiện, ngay hôm nay và chúng sẽ không ở ngoài tầm tay của chúng ta.
Vì yêu thương nhân loại Chúa Kitô đã tự nguyện hy sinh vinh quang và danh dự của một vị Thiên Chúa, để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Vì yêu thương nhân loại đến cùng, Người đã hy sinh cả phẩm giá của một con người bình thường để rồi chịu chết bằng án hình thập giá nhục nhã, như một tội nhân (x. Phil 2,6-8). Vì yêu thương, Người đã tự nguyện ở lại với chúng ta trong hình bánh rượu. Yêu thương nhân loại, Chúa Kitô không chỉ trao ban những gì Người có bằng quyền năng của Ngươi mà Người còn trao ban chính cái Người là, tức chính bản thân, danh dự, phẩm vị, sự sống của Người.
Nhiều người nói rằng mình yêu thương khi sẵn sàng cho đi tiền bạc và cả thời giờ, nhưng lại không chịu được khi bị mất một chút danh dự hay uy quyền, chưa kể là chính mạng sống. Cho đi chút của tiền, quả là không dễ, vì đồng tiền dính liền khúc ruột, nhưng vẫn có thể cho đi cách này cách khác, lúc này lúc kia, và nhất là khi khúc ruột ấy la “khúc ruột thừa”. Cho đi ít thời giờ, cũng không mấy dễ, vì thời giờ là vàng bạc, nhưng vẫn có thể cho đi, nhất là những lúc rảnh rỗi, không biết làm gì. Còn cho đi cái phẩm vị, cái danh dự của mình, thì dường như là qua khó, vì đó chính là bản thân tôi. Thế nhưng, nếu không vượt qua cái khó này thì đừng nói chuyện yêu thương.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Dù nhiều người đã biết những cũng cần phải nói: Đây la lệnh truyền, là giới răn mới và cũng là một lời trối trăng của Thầy Chí Thánh. Để thực sự là môn đệ của Người, chúng ta không thể xao lãng hay tránh né nó (x. Ga 13,35). Xin đừng yêu nhau bằng môi miệng nhưng hãy can đảm vác thập giá hằng ngày để có sáng kiến, đi bước trước trong việc thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu thương và cho cả những người không yêu thương mình.
(Viết theo Flor McCarthy)
Lần nọ, có một người thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, một ngày kia anh ta đến gặp một vị linh mục nổi tiếng là thánh thiện. Anh ta hỏi vị linh mục: “cha có tin vào Thiên Chúa không?”. Vị linh mục trả lời: “vâng, cha tin” Người thanh niên hỏi tiếp: “dựa vào bằng chứng nào mà cha tin là có Thiên Chúa.” Vị linh mục trả lời: “cha tin vào Thiên Chúa bởi vì cha biết Ngài, cha cảm nghiệm được Chúa hiện diện trong cha mỗi ngày”. Người thanh niên lại hỏi: “nhưng làm thế nào cha cảm nghiệm được Thiên Chúa.” Vị linh mục đáp: “khi chúng ta yêu thương, chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và sự nghi ngờ lập tức biến mất như sương của buổi sang dưới ánh nắng mặt trời.
Người thanh niên suy nghĩ về điều này một chút, sau đó anh lại hỏi: “làm sao con có thể đạt được điều này?”. Vị linh mục trả lời: “bằng hành động yêu thương. Hãy cố gắng yêu người thân cận của bạn, yêu họ tích cực và không mệt mỏi. Khi bạn tập yêu thương họ càng nhiều thì sự cảm nghiệm của bạn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự bất tử của linh hồn càng sâu sắc. Đây mới là bằng chứng và con đường thật sự về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Vị linh mục nhắc lại những lời của Thánh Gioan: “các con thân yêu, các con hãy yêu thương nhau, bởi vì tình yêu đến từ Thiên Chúa; ai yêu thương thì người đó sinh ra từ Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu là điều kiện đầu tiên để hiểu biết đúng đắng về cuộc sống và cảm nghiệm đặc biệt về Thiên Chúa. Như cha Zosima đã nói trong quyển “anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky: “các con hãy yêu thương tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên, cả vũ trụ và những hạt bụi nhỏ bé trong đó. Nếu con yêu thương tất cả chúng, các con sẽ có được cái nhìn thiêng liêng về chúng. Van Gogh cũng nói tương tự như thế: “cách tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương mọi sự: yêu bạn bè, yêu vợ chồng…và bạn sẽ nhận biết Thiên Chúa cách đúng đắng.”
Tình yêu là vị thầy tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng nó không đến theo ý thích cá nhân ta… mà chúng ta phải trả bằng cái giá thật đắt. Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn nhiều năm để một con người có thể đến đỉnh điểm nào đó mà anh ta hoặc cô ta có thể yêu.
Có một khoảng cách, một sự khác biệt to lớn giữa biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Không yêu thì không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta yêu thương thì khoảng cách đó được rút ngắn lại. Yeu thương là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu thì có Thiên Chúa; nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có tình yêu. Biết thì không cần phải chứng minh và cũng không cần phải giải thích.
Ghen ghét là một tật xấu, chính tật xấu này làm cho ta ghét mọi thứ. thật là cao quývà quảng đại khi con người yêu thương mọi thứ, thậm chí chỉ là một bụi hồng. “Chính bản thân cảm thấy hài lòng khi chỉ là một người giữ vườn âm thầm, nhỏ bé để yêu mến những gì mình vun trồng” (Von Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa phú bẩm một khả năng để yêu thương. Tuy nhiên, chúng ta cần phải để tình yêu nảy nở trong tim một cách đúng đắng, mô phỏng theo tình yêu của Chúa. Khi đó, chúng ta sẽ biết cho đi nhiều hơn. Nhưng tiếc thay, con tim thì thường hay lạnh lùng và thường hay đóng kín, trống rỗng và khô khan… Chúng không nên ngạt nhiên về đieu này. Vì người ta quan niệm rằng chúng ta có một con tim bằng thịt chứ không phải bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương nơi con tim mình, để chúng ta có thể sản sinh nhiều hoa trái yêu thương.
Hình ảnh của Thiên Chúa trở nên tốt nhất và sáng tỏ trong mỗi người khi chúng ta biết yêu thương.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ một điều răn mới: “là hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương”. Xin Chúa hãy chạm vào trái tim con để con có thể yêu thương như Chúa, để con luôn vui sống trong bình an và sự hiệp nhất trong Nước Trời nơi mà con sẽ sống mãi mãi. Amen.
37. Chỉ là một nhịp đập của tim.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yeu thương nhau trong Đức Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:
1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ. Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi ngươi biết Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sư Phục Sinh của Người và mầu nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.
Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn than mình chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng: của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn. Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. La Con Thiên Chúa, Người có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý. Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui cua Người vào các môn đệ. Con người đón nhận niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa Cha yêu, đó la nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.
2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha. Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái tim Người, và gọi họ là bạn hữu.
Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất. Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không? Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Wiliam Oscar Wilde đã viết về mot huyền thoại tình yêu: “Hoạ mi và bông hồng đỏ”.
Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ:Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ. Họa mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin: – Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
– Hoạ mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.
– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?
– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình
– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng?
– Kể cả sinh mạng em.
– Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt cẩn thận trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Hoạ mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.
Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.
Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muon hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban. Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài.
Đức Chân Phước Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Ngài mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).
Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”.Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Ngài. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vo ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta. Vì thế, trong bài đọc 2, Thánh Gioan khuyên rằng: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yeu”.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu rồi tuôn chảy đến nhân loại. Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)
Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.
Vị tu sĩ đáp: có chứ.
Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?
Vị tu sĩ đáp: Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bơi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.
Người thanh niên hỏi: nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp: Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cam nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi:Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.
Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn.
Tin Mừng hôm nay, tiếp nối khung cảnh Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về ẩn dụ cây nho và cành nho để dạy các môn đệ bài học “ở lại trong tình yêu của Chúa”: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ơ lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, Muốn “ở lại trong tình yêu của Chúa”, chúng ta phải yêu thương nhau “như Chúa đã yêu” chúng ta.Chúa còn hứa ban cho những ai biết yêu “như Chúa đã yêu” sẽ được hưởng niềm vui của Chúa, được làm bạn hữu của Chúa và muốn xin gì Chúa cũng ban cho.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “ Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Yêu thương”.
Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48).
Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9).
Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”.
Chúa Giêsu ban điều răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; x. Mt 8,26-27 // Mc 4,39-41 // Lc 8,24-25; Mt 28,19-20; Mc 1,25-27 // Lc 4,35-36; Mc 5,43 // Lc 8,56; Mc 9,25; Ga 15,12.17).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa vẫn dạy phải yêu thương những người thân cận như chính mình. Những người thân cận là ai? Đó những người quen biết trong họ hàng, khu xóm, những người không thân nhưng có quan hệ với mình. Nói chung là những người mình quen biết trong cuộc sống.
Chúa Giêsu mở rộng tầm nhìn cho những người theo đạo cũ. Khái niệm người thân cận được minh họa qua câu chuyện người Samaritanô trên đường Giêricô xưa. Vì người bị cướp, bị đánh đập không phải là người đồng đạo, không phải là người quen biết, nên những luật sĩ, tư tế bỏ đi, không coi họ là người thân cận. Còn người Samaritanô là người ngoại, nhưng lại xem nạn nhân giữa đường như người thân cận với mình. Cái “mới” là ở chỗ đó. Yêu thương như Thầy đã yêu thương là yêu thương không loại trừ ai, không tính đến là lương hay giáo, quen hay không quen. Yêu thương cả những người nghịch lại với mình, chứ không phải chỉ chọn lựa yêu thương những người hợp với mình…”.
Chúa Giêsu gọi là điều răn mới và nhấn mạnh nơi chữ như ”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).
Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)
Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.
Vị tu sĩ đáp: có chứ.
Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?
Vị tu sĩ đáp: Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.
Người thanh niên hỏi: nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp: Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi: Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.
Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.
”Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa: ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)
Khởi đi từ định nghĩa củaThánh Gioan và dựa vào Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu cua Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, phải chăng Tin Mừng của Chúa Nhật 6 Phục Sinh cũng là đề tài về “Tình yêu”. Nhưng tình yêu thì có muôn vàn cách để hóa giải, Xuân Diệu cũng đã có lần bất chợt thốt lên rằng:
“Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Con người thì không thể, nhưng Thiên Chúa thì có thể, bởi vì Ngài chính là Nguồn của mọi tình yêu. Là con ngươi, ai cũng cũng biết yêu thương,chỉ trừ ra những người không còn khả năng, không có lý trí, hay bị mất trí, bị tâm thần… thì không biết yêu là gì, còn tất cả, bao lâu tim còn đập là bấy lâu con người vẫn phải yêu: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Khi nói như vậy thì có quá lắm không, vì những anh em theo các tôn giáo khác hoặc không theo một tôn giáo nào, họ đâu đã biết Chúa, vậy họ không biết yêu? Không hẳn như vậy, tình yêu cũng như những cơn sóng cuồn cuộn trong đại dương bao la bất tận. Nó cũng như những thác nước ầm ầm vượt mọi chướng ngại vật đổ xuống. Tình yêu là trừu tượng, nhưng con người là cụ thể. Người Hy lạp dùng động từ”Eros” để diễn tả tình yêu. Còn Kitô Giáo thì dùng động từ” Agapê”. Ở giữa hai từ này còn có từ” Philia.
Eros là tình yêu vụ lợi, là một sự ham muốn, một tình cảm lôi cuốn của người khac khi nơi họ có điều gì đó hợp với mình. Eros là một khát vọng, một sự thèm muốn để chiếm đọat. Eros như những nấc thang giúp con người đi từ thế giới khả giác đến thế giới tâm linh. Đức Thánh Cha trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã sử dụng động từ Eros rất nhiều lần. Còn philia là tình yêu vô vị lợi, thường dùng để chỉ tình bạn, tình bạn này chỉ căn cứ ở sự hợp tính nhau, nó giới hạn trong một số người. Còn tình yêu của người Kitô Hữu, nó có sức mạnh và vượt lên trên thứ tình cảm của eros và Philia. Đó chính là AGAPÊ, Agapê là tình yêu vô vị lợi, tự do và dựa trên sự tín nhiệm, không căn cứ trên sự hợp tính nhau. Người kitô hữu thương mến nhau không chỉ là bạn hữu, nhưng còn là chi thể, là anh em trong Chúa Kitô. Tình yêu này phổ quát, vì mọi người là chi thể của Chúa Kitô. Như vậy phải có yếu tố mến Chúa như là lý lẽ tối hậu của lòng yêu người. Người Kitô Hữu nhìn thấy Chúa trong con người anh em. Vậy đối tượng của đức mến là Thiên Chúa và anh em là tạo vật của người. Agapê không nằm trong sự chiếm hữu mà là sự cho đi. Thiên Chúa là tình yêu cho đi một cách trọn vẹn nhất. Tình yêu Agapê xuất phát từ Thiên Chúa, nó không đòi hỏi một sự đáp đền, Agapê là tình yêu dâng hiến hòan tòan và trọn vẹn cho tha nhân, tình yêu vô vị lợi. Chính tình yêu này(Agapê) đã làm cho Đức Giêsu chịu chết trên thập tự Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người: “không có tình yêu thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”(Ga 15, 13).
“Tình yêu chính là đặc thù của nhân bản con người”, ” Con người không thể thiếu tình yêu và con người được kêu gọi để trở nên những người có khả năng yêu”(Thông Điệp Thiên Chúa là tình yêu). Suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, triết gia KierKegaard viết:”Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu có tương quan đảo ngược với sự vĩ đại và cao cả của đối tượng. Kẻ bị bỏ rơi ở trần gian là người được Thiên Chúa yêu thương nhiều nhất.
(Suy niệm của Antôn Hồ Hữu Thông, OP)
HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THÀY
Trong cuộc sống không có gì tẻ nhạt và vô vị cho bằng thiếu tình yêu. Con người luôn khát mong và đi tìm cho mình một cuộc sống yêu thương, và dĩ nhiên không ai chối bỏ tình yêu. Tình yêu là sức hút, và là động lực giúp con người sống gần nhau và cho nhau.
Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã tạo dựng con người và tạo nên muôn loài muôn vật cho con người hưởng dùng. Và cũng vì yêu mà Thiên Chúa đã sai Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Trong mười giới răn của Chúa, thì hai giới răn: Mến Chúa và Yêu người là quan trọng nhất. Suốt chiều dài lịch sử cứu độ, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã chứng tỏ tình thương của Ngài đối với dân Do Thái bằng việc dương nuôi và dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Còn trong Tân Ước Ngài đã chịu khổ hình, chết trên thập giá, và lấy chính thịt máu mình để nuôi sống nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay, thánh Gio-an cho chúng ta thấy nỗi khát mong lơn nhất của Đức Giêsu khi sắp giã từ thế gian mà về cùng Thiên Chúa Cha là: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây là diễn từ ly biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi lên Giêrusalem chịu khổ hình. Lời nhắn gởi thiết tha và chân tình nhất: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ phải làm được những công việc lớn lao, nhưng xin các con hãy thương yêu nhau. Mẫu gương yeu thương của Giêsu là lấy thân xác của mình để chứng minh cho tình yêu đó. “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Thánh Gioan còn kết luận rằng: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3, 16).
Yêu là kéo dài hành động của Thiên Chúa. Thực thế, Chúa Giêsu là Đấng Thánh, Đấng đáng được chúc tụng và tôn vinh mà đã đến vơi kẻ cơ bần, cho người trần truồng có áo mặc, an ủi kẻ khổ đau, an táng người qua đời… Hành động của Giêsu đã khơi lên trong các bạn những tâm tình nào? Bạn có hành động gì trước những người khổ đau, nghèo đói, bệnh tat và ngay cả những tệ nạn xã hội…?
Chúng ta biết rằng yêu người khác thì khó hơn yêu mình. Thế nhưng, chúng ta không thể nói yêu mà không nhắm đến một đối tượng nào. Nhà thơ Xuân Diệu nói về một thứ tình yêu không đối tượng hay không hành động:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Nếu em yêu mà chỉ để trong lòng
Không tỏ hay, yêu mến cũng là không.
Như thế, yêu mà chỉ để trong lòng, không tỏ lộ ra ngoài thì tình yêu đó chưa đủ và có khi còn làm cho người khác đau lòng nữa là đàng khác. Nếu như thánh Phao lô đã nói: Đức tin không có việc làm là đức tin chết, thì chúng ta cũng có thể nói một tình yêu không có hành động là một tình yêu giả trá, vụ lợi và độc đoán.
Có một câu chuyện làm cho nhiều người phải xúc động, vì tinh thần cao thượng của một người dám chết thay cho bạn của mình: Sau cuộc chiến phân tranh Bắc Nam ở Hoa Kỳ, một du khách đến thăm nghĩa trang quân đội ở Nashville và gặp một người đang trồng hoa bên ngôi mộ. Du khách liền hỏi:
– Con ông an nghỉ tại đây à?
– Không.
– Hay là thân nhân của ông?
– Cũng không.
– Thế tại sao ông lại trồng hoa bên ngôi mộ này?
– Đây là ngôi mộ của “một người chết thay tôi”
Rồi ông kể: Khi chiến tranh xảy ra, tôi được lệnh phải nhập ngũ. Khi chuẩn bị xong đồ đạc, từ biệt vợ con để lên đường, thì một người bạn của tôi đến nói với tôi: “Gia đình anh đông con, và anh là lao động chính, nếu như anh đi thì e rằng vợ con anh sẽ không đủ khả năng mưu sinh, các con anh sẽ đói khổ và giả như anh có chết thì các con anh sẽ mất cha, đời chúng nó sẽ khổ. Thôi! Tôi sẽ đi thay cho anh, vì toi chưa có gia đình”. Tôi rất xúc động và lưỡng lự, nhưng rồi tôi cũng đồng ý. Và trong một trận chiến, anh ta bị trọng thương và qua đời. Tôi rất đau xót và bàng hoàng khi có người dám hy sinh cho tôi. Tôi rất cảm phục tam lòng cao cả đó. Hôm nay tôi đến viếng và trang hoàng lại nấm mộ cho bạn tôi. Nói xong, ông cắm một tấm bảng nhỏ với dòng chữ: Anh đã chết cho tôi.
Thưa cộng đoàn, đây thực là một cái chết vì bạn hữu của mình. Vì tình thương mà anh ta dám chết cho bạn của mình. Nếu như người bạn không có lòng yêu thương, không thấu cảm sự khốn khổ cùng cực của người vợ và những đứa con sẽ mất cha, chắc anh ta không đi thay để rồi phải bỏ mạng như the.
Anh bạn trong câu chuyện không phải là một siêu nhân, nhưng là một con người bình thường, rất bình thường nhưng lại có một trái tim phi thường – thực là tình yêu mạnh hơn sự chết. Cho dầu anh đã chết, nhưng tình yêu của anh vẫn tồn tại và cái chết là lời chứng cho tình yêu cao thượng và bất biến.
Chỉ có tình yêu là dòng lưu chuyển, nối kết tình người và làm cho con người được bình an, hạnh phúc. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi chẳng tiec người Con duy nhất của mình. Chúa Giêsu không đòi buộc chúng ta phải làm như Ngài, nhưng chúng ta cũng có thể học nơi Ngài một bài học nho nhỏ: khi yêu thì cố gắng cho đi hơn là nhân lãnh, và có thể chết đi cho những tị hiềm ghét ghen, thù oán …
Chúng ta đang sống trong một thế giới đói khát tình thương, vì thiếu tình yêu mà người ta sẵn sàng khủng bố, chiến tranh, phân biệt chủng tộc, phá thai… Chúng ta phải làm gì với những vấn nạn này?
Thân phận con người được sinh ra bởi tình yêu – tình yêu giữa người cha và người mẹ. Thế nhưng, con người lại thường sống trong thù hận và giết chóc. Thực là một nghịch cảnh cho phận người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhan thân phận yếu đuối, hữu hạn, tội lỗi, nhưng không được loại trừ tình yêu, vì một ngày vắng bóng tình yêu là con người sống trong đau khổ. Tình yêu có thể xoá bỏ mọi ranh giới, hận thù, chia rẽ và giúp chúng ta tha thư tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả (1 Cr 13,7). Chúng ta cần ý thức rằng: Điều còn lại và không bao giờ mất được chính là tình yêu. Và một khi sống cho tình yêu là chúng ta đã chu toàn luật Chúa: Mến Chúa yêu người là chu toàn lề luật.
Tình yêu cần cho mọi người, và chỉ có tình yêu mới làm thỏa mãn khát vọng sống yêu và được yêu của con người. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nói: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thận phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô hạn. Chúng ta phải làm sao nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu đó có thể cứu chuộc thân phận chúng ta trên cây thập giá đời”.
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta cùng tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, cùng lãnh nhận một Thần Khí và sự sống nơi Người, lẽ nào chúng ta lại hờ hững trước những khổ đau, bất công của anh chị em đồng loại. Và chúng ta có đáng để được Đức Kitô chết thay cho mình không? Thien Chúa vì yêu phận người chúng ta, nên Ngài đã xoá bỏ mọi ranh giới giữa Thượng Đế với phàm nhân, giữa Cha với con, giữa chủ với tớ, giữa vì Thiên Chúa quyền năng với phận người hèn yếu, để cho con người được làm bạn với mình – Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (Ga 15,15).
Cuối cùng vì yêu nhân loại, Ngài lấy chính thân thể Ngài để chứng minh cho tình bằng hữu đó. Thiên Chúa cho con người ngang hàng với mình, sẻ chia và cảm thông một cách sâu sắc. Những gì Chúa Giêsu nhận được từ nơi Thiên Chúa Cha, Ngài đều cho chúng ta biết, không còn là bí mật, cất giấu.
Chúng ta học được gì qua bài Tin Mừng hôm nay- phải chăng là một lời nói suông về tình yêu? Có lẽ Chúa Giêsu không buộc chúng ta phải chết cho người khác và chúng ta cũng không có cơ hội để chết thay cho ai đó. Nhưng, vẫn còn đó những tị hiềm ghen ghét để chúng ta thể hiện lòng nhân ái; vẫn còn đo những tranh chấp để chúng ta thể hiện lòng từ tâm; vẫn còn đó những oán thù để chúng ta thể hiện lòng quảng đại thứ tha; …
Thiên Chúa là tình yêu, nên vũ trụ được khai sinh,
Thiên Chúa là tình yêu, khi tạo dựng con người,
Thiên Chúa là tình yêu, bởi Ngài sống cho con người,
Thiên Chúa là tình yêu, nên đã chết cho nhân loại,
Thiên Chúa là tình yêu, nên con người được sống,
Thiên Chúa là tình yêu, nên bạn hãy học sống yêu thương.
Dù ban có liệt kê hàng trăm ngàn thứ tình yêu nơi Thiên Chúa, thì Ngài cũng chỉ là: Thiên Chúa Tình Yêu (Ga 4, 8).
Thưa cộng đoàn, chúng ta không có dịp để chết thay như anh bạn trong câu chuyện trên, nhưng mỗi ngày chúng ta có thể “chết” một ít: Anh chị em có thể chết cho lòng vị kỷ, ghét ghen, thù oán… Những cái chết đó sẽ giúp anh chị em chuẩn bị cho cái chết của chính bản thân. Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương tưới đẫm trái tim héo khô và chai cứng của chúng con. Xin Ngài giúp chúng con nhận ra rằng: Lòng tốt được đáp đền bằng lòng tốt, tình yêu được đáp đền bằng tình yêu.
(Suy niệm của Lm. Mark Link)
Chủ đề: “Tình yêu làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu và thực hiện tình yêu”
Cách đây mấy năm tập san Readers Digest có thuật lại một câu chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện Milwaukee. Em này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ em đã bỏ rơi em. Nhưng bệnh viện cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của em. Thế rồi có một người nhớ đến May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy. Bà nầy đã từng nuôi nấng năm đứa con của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ như thế. Họ yêu cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: “Thằng bé có lẽ sẽ chết yểu!”. Bà May trả lời: “Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu đâu, và tôi rất sung sướng được chăm sóc cho nó”.
Thế là bà May đặt tên cho cậu bé là Leslie. Chăm sóc cho cậu bé quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé, bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ của bà. Một hôm, có người nói với bà: “Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào viện? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?
Leslie càng lớn thì càng có nhiều vấn đề phải đặt ra cho bà May. Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi bị té xuống. Thời gian trôi qua, năm mười, mười lăm năm. Mãi đến khi Leslie 16 tuổi, bà May mới có thể tập cho nó đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà May vẫn tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cau chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt nhận thấy Leslie dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ. Bà tự hỏi; điều ấy có ý nghĩa gì? biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm nhạc chăng? Và bà May bắt đầu cho Leslie nghe âm nhạc. Bà chơi đủ loại hình âm nhạc mà bà tưởng tượng ra được với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu bé. Cuối cùng, bà May và chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ. Họ đặt nó vào giường ngủ của Lislie. Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà và tập cho cậu bé biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.
Thế rồi vào một đêm đông năm 1971, bà May bừng thức giấc vì nghe có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Bà lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem ông có quên tắt radio không. Ông ta nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn là nên xem xét lại. Và họ khám phá ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ. Cậu Leslie đang ngồi tại chiếc dương cầm. Cậu đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây la sự thật!
Trước đây Leslie chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình. Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, cậu cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà bây giờ đây cậu lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế! Bà May vội quì gối xuống và thốt lên: “Lạy Chúa! Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên Leslie”.
Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm sống bằng cây dương cầm. Cậu chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc trữ tình, nhạc dạo và cả nhạc Rock nữa. Hoàn toàn không thể nào tin nổi. Tất cả những bài nhạc bà May đã từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu. Giờ đây ở tuổi 28, Leslie bắt đầu nói chuyện. Tuy không thể đối thoại lâu giờ. Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi, trả lời những câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn. Chẳng hạn, một buổi tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy cuộc đối thoại chán ngắt, cậu bèn nói:
“Tốt hơn là chúng ta nên tắt nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ điên!”.
Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu cho những ca đoàn nhà thờ, cho các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Các bác sĩ mô tả Leslie như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng. Họ không thể cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần 200 năm rồi. Bà May Lempke cũng không the cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết chắc rằng nhờ tình yêu mà tài năng ấy được khai mở.
Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần câu chuyện của bà May Lempke với những gì bà đã làm được cho Leslie nhờ tình thương không mệt mỏi của bà. Nó đặc biệt thích hợp với chúng ta ngày nay vì ba lý do;
Thứ nhất, bằng một cốt chuyện gây cảm động, câu chuyện cụ thể hoá sứ điệp hàm chứa trong các bài đọc hôm nay, được gọi là giáo huấn của Đức Giêsu về việc yêu thương nhau.
Thứ hai, nó đã cụ thể hoá thành một cốt chuyện lý do tại sao chúng ta lại dành ngày hôm nay để làm Ngày Cho Mẹ, bởi vì, thông thừơng, các bà mẹ sống lời Đức Giêsu dạy về tình thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn bất cứ nhóm người nào khác.
Sau cùng, câu chuyện cũng cụ thể hoá năng lực kinh khủng của tình yêu. Những gì mà bà May đã làm vì tình yêu cho Leslie qủa thật là lạ lùng. Đó chính là những gì Đức Giêsu đòi hỏi phải có cho một tình yêu thương đích thực. Đó là một phương cách để tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại này, đúng như cách Đức Giêsu đã tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại Ngài.
Qua tình yêu, Thiên Chúa đã để chúng ta tùy nghi sử dụng cái năng lực mãnh liệt nhất, trên thế gian này, đó là thứ năng lực mà mọi tiền của trên thế gian không thể mua được. Đó là thứ năng lực mà mọi tri thức trên thế gian không thể tạo ra được. Đó là thứ năng lực mà mọi lãnh tụ trên thế giới không thể chiếm hữu được. Đó cũng là thứ năng lực mà mọi đạo quân trên trần thế không thể tập trung lại được. Và kiều kỳ diệu hơn nữa, Tình yêu là năng lực mà mọi người đều có.
Bất chấp nam hay nữ
Bất kể thuộc tôn giáo nào
Bất kể thuộc quốc tịch nào
Bất kể được giáo dục theo phương pháp nào.
Tình yêu chẳng dành riêng cho người khoẻ mạnh
Cũng chẳng dành riêng cho người giàu có
Cũng chẳng dành riêng cho kẻ khôn ngoan
Cũng chẳng dành riêng cho người danh giá.
Tình yêu dành cho tất cả mọi người
Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.
Đây chính là Tin Mừng chứa đựng trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Đây là Tin Mừng có khả năng biến đổi thế giới chúng ta một cách tuyệt hảo chẳng khác nào tình yêu của bà May Lempke đã biến đổi thế giới của Leslie. Đây chính là Tin Mừng mà chúng ta phải rao to từ trên mái nhà và sống nó thật trọn vẹn.
Và nếu chúng ta là được thế, chúng ta cũng có thể làm được những phép lạ bằng tình yêu của chúng ta ngay trong kiếp sống này y như Đức Giêsu đã làm nên những phép lạ nhờ vào tình yêu của Ngài trong thời gian Ngài sống trên dương thế.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Những ai làm vườn đều co kinh nghiệm bực bội, tức tối khi phải phá giây leo. Để leo lên cao giây leo cuốn chặt vào cây trong vườn, cuốn tròn nhiều vòng để leo lên. Mỗi một vòng lên cao một bực và khi đạt đến ngọn cây chúng mau chóng toả lan ra nhiều nhánh bao trùm cây và từ cây này ngọn giây leo vươn dài bám sang cây khác. Cứ thế mau chóng lan ra. Giây leo không những tạo gánh nặng cho cây chúng còn che lấp ánh nắng cần thiết khiến cây chậm lớn và là chỗ mat tốt cho sâu rầy sinh sản mau chóng. Tệ hơn nữa giây leo còn gieo mầm bệnh cho cây chúng leo và dĩ nhiên hút phân bón, và chất dinh dưỡng của cây. Đức Kitô dùng hình ảnh giây leo để nói đến tình yêu liên kết trong Chúa và nhờ tình yêu đó thanh tẩy làm trong sáng cuộc sống tâm linh.
Liên kết trong tình yêu là điều Đức Kitô mời gọi chúng ta sống. Liên kết để được ở cùng, sống chung và nhận sức sống từ Đức Kitô. Một khi chúng ta sống dưới sự che chở của Đức Kitô cuộc đời ta sẽ thay đổi. Thay đổi vì mối liên kết phát sinh trong tình yêu Chúa. Mối liên kết vô hình cho những ai không tin vào Đức Kitô. Qua đức tin ta cảm nhận đuợc mối liên kết vô hình và nhận biết thành quả do tình yêu Chúa trao ban. Tương tự như giây leo làm thay hình đổi dạng của cây, tình yêu Chúa có sức mạnh thay đổi cuộc sống con người. Biến ta thành con người có tâm tư như Đức Kitô, sống và suy nghĩ theo sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi thói hư xã hội. Thói hư kìm chế cuộc sống. Nó làm ta mất tự do bằng cách ta bị lệ thuộc vào chúng. Sống lệ thuộc là sống trong nô lệ, nô lệ của sa đoa, của ham muốn, nô lệ của hận thù. Những thói tật kia khuyến dụ ta bằng hào nhoáng bề ngoài và những phút vui chơi ngắn hạn. Sống theo hào nhoáng đòi hỏi chạy đua với hào nhoáng. Chạy hoài sẽ hết giờ cho tình bạn, tình yêu gia đình và tình yêu Chúa. Chạy hoài sẽ mệt mỏi và thua cuộc. Thua cuộc nên bực dọc, cáu kỉnh, chán đời. Thua cuộc nên cảm thấy đời trống rỗng, vô vị, cuộc sống trở nên vô nghĩa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi cam dỗ lệ thuộc. Tình yêu Chúa ban phát tự do cho tâm hồn. Tình yêu Chúa cởi trói cho con tim khỏi ràng buộc xã hội và ban bình an cho con tim. Tình yêu Chúa giúp ta sống an vui, hạnh phúc thật. Tình yêu Chúa thanh tẩy lối suy nghĩ và hành động. Tình yêu Chúa nâng cao phẩm giá con người, biến ta thành con cái sự sáng, trở nên thân hữu của Đức Kitô.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa…. nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu. (c.15)
Bạn bè đối thoại với nhau bằng nhiều cách. Họ chia sẻ với nhau tình cảm, tâm tư và ngay cả mối lo trong cuộc sống. Họ an ủi nhau khi có người sầu khổ, và chung vui khi có niềm vui. Tương tự như thế Đức Kitô gọi chúng ta là bạn hữu Ngài cũng đối xử với chúng ta như những người bạn đối xử với nhau. Liên kết với Đức Kitô qua cầu nguyện hàng ngày, qua việc siêng lãnh nhận các bí tích. Liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được thông cảm, an ủi, nâng đỡ, cùng đồng hành với Đức Kitô trong mọi tình huống cuộc sống. Nếu chẳng may có người thân ra đi chúng ta than khóc. Thiên Chúa hiểu ta hơn cả bởi chính Thiên Chúa cũng có kinh nghiệm mất con một Ngài là Đức Kitô. Đức Kitô ra đi ở tuổi thanh niên, ra đi một cách đau đớn nên Chúa hiểu nỗi mất mát của ta khi phải chia lìa người thân.
Liên kết với tình yêu Chúa giúp đổi mới tâm hồn. Đổi mới bằng cách xén tỉa, làm cho cuộc sống tâm linh ngày một trong sáng, gần Chúa hơn. Chính việc đổi mới, trong sáng tâm hồn giúp cho niềm vui trở nên dồi dào, trọn vẹn. Niềm vui mà hào hoáng xã hội không thể nào có vì niềm vui này phát xuất tự tâm hồn, như giòng suối trong không ngừng chảy vì nó lấy sức sống, sức mạnh và niềm vui từ nguồn yêu vô tận từ trái tim Đức Kitô. Một trái tim dám chết cho người mình yêu.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Không phải chỉ có con người mới đi lạc mà con vật cũng đôi khi lạc đường, sai lối. Điểm khác biệt là con vật lạc đường vì nhận sai phương hướng, lầm lẫn trong lối đi. Trong khi con người lạc đường không phải lầm lẫn phương hướng mà chủ trương đi lạc. Con đường đi lạc là con đường người đó đi lại hàng ngày, mỗi ngày đi lại cùng con đường, mòn mỏi trên con đường. Dù đi lại nhiều lần vẫn lạc bởi vì người đó chủ trương đi lạc. Dù có đi lại ngàn lần mỗi lần đi tăng thêm một lần lạc. Con vật lac đường tránh không đi lại con đường đó nữa
Đó là câu chuyện con chim cánh cụt tại vùng nam cực. Nó chưa đầy một tuổi, người ta phỏng chừng nó mới mười tháng tuổi, trên đường đi săn mồi về đã lạc đường bơi theo giòng nước nhiều ngàn cây số trước khi trôi dạt vào bờ biển Tân Tây Lan. Báo chí đặt cho nó cái tên là đôi chân hạnh phúc. Đối với con người thì quả là hạnh phúc, lần đầu trên đời nhìn thấy nó mà không phải tốn công, mất của đến nam cực, giá buốt để xem nó. Hạnh phúc vì đời người may mắn lắm mới gặp một lần bởi vì cách đây 44 năm cũng có con chim cánh cụt bơi lạc vào Tân Tây Lan. Đối với sự sống, tồn vong thì con chim cánh cụt quả có đôi chân hạnh phúc. Nhờ đôi chân đó mà nó sống sót. Mới 10 tháng tuổi nó đã cao 80cm. Trung bình chim cánh cụt nam cực cao 122cm và năng khoảng 34kg.
Nghĩa tương phản, đôi chân cánh cụt là đôi chân bất hạnh, dẫn đưa nó xa đàn, rời tổ. Hạnh phúc có chăng là nó sống sót, đôi chân mỏi mệt kia dẫn đưa nó đến bến bờ, dù là bến bờ ngoài í muốn nhưng nó sống sót trên đường đi, không bị cá mập xơi tái trong cuộc hành trình.
Chim cánh cụt thường ăn tuyết để cơ thể đủ nước, giữ mức độ thân nhiệt cân bằng với nhiệt độ nam cực. Lần đầu trên đời nó nhìn thấy cát lại lầm là tuyết nên nó xơi một bụng cát. Kết quả cơ thể không tiêu hoá được phải nhờ đến bác sĩ thú i rửa ruột.
Con người đi lạc gia đình đau buồn, hàng xóm láng giềng lo sợ và Giáo Hội đau khổ. Con người đi lạc không bao giờ chấp nhận mình đi lạc. Trái lại còn tự hào, tự nhận mình tiến bộ, hiểu biết hơn người, song lối sống mới. Mới ở đây không có nghĩa là tốt mà chọn lựa đi lạc lại hãnh diện mình làm đúng, tài khôn. Giáo Hội luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ, tạo cơ hội cho người đó trở về.
Con chim đi lạc được người ta ca tụng, người đến xem kẻ viết bài tường thuật. Hình ảnh con chim đi lạc đăng tải đủ kiểu, lớn nhỏ, chụp thẳng, chụp nghiêng, chụp người coi sóc chim, phỏng vấn người đầu tiên nhìn thấy con chim lạc. Mọi chi tiết được diễn tả rõ ràng mạch lạc. Nhóm bảo vệ súc vật sẵn sàng lên tiếng bênh vực con vật đi lạc. Ca tụng con vật đi lạc đã đành họ còn vận động yêu cầu chính phủ chi tiền cho một chuyến máy bay riêng chở con chim về tổ ấm cũ.
Đối với con vật đi lạc là thế, nó là con vật vô danh, đi lạc trở thành con vật hữu danh, danh tiếng lẫy lừng. Nổi tiếng cỡ nào đi chăng nữa thì con vật cũng không hưởng gì, không ích gì. Điều nó thích nhất, sung sướng nhất là hãy trả nó về đời sống hoang dã, nơi nó sinh ra, nơi nó ngày ngày bơi tìm mò cá, nhặt tôm. Được chăm sóc chu đáo trái lối sống tự nhiên của nó nên nó không thích. Nó không thích tiếng cũng chẳng thích miếng, nếu miếng đó khong do chính công lao của nó, do cánh cụt cộng với đôi chân vẫy bơi trong nước, do chính mỏ nó bắt được con mồi. Danh tiếng đối với nó bằng thừa.
Cá nhân đi lạc người thân lo lắng, họ hàng tiếc thương. Báo chí không lên tiếng lấy một câu, truyền hình không cho lấy một tấm ảnh. Nếu báo chí có nhắc đến một là qua đời cách mờ ám, hai là kết quả của những lỗi lầm khai ra trước toà. Khác với con vật, con vật đi lạc thường ít gây tai vạ cho con người cho xã hội. Con người đi lạc thường tạo ra những tệ đoan xã hội. Lạc càng nhiều mức tàn phá xã hội càng lớn. Lạc càng sâu đặm thì mức phá hoại gây ra càng khủng khiếp. Trong tất cả các loại lạc thì loại lạc tư tưởng là nghiêm trọng hơn cả. Nhất là khi kẻ lạc đó lại ở thế lãnh đạo, chỉ huy thì mức độ tàn phá không phải do một người mà do một phe nhóm, một đảng phái. Khi một đảng phái cùng nhau hợp lực tàn phá thì mức huỷ hoại khủng khiếp tăng nhiều ngàn lần. Số người thiệt mạng vô số kể, tài sản quốc gia hao mòn, thất thoát, tương lai dân tộc lụn bại xuống dốc theo sự hướng dẫn sai lạc của nhóm chủ trương.
Về phương diện tâm linh, lạc giáo, lạc đạo sẽ dẫn đến tình trạng một là li khai khỏi tôn giáo mình có thời tin theo để lập một tôn giáo mới có cùng căn bản của tôn giáo cũ nhưng giải thích trại đi. Hai là hoàn toàn chống lại tôn giáo có thời đã tin theo. Cách nào thì lạc giáo cũng tạo nên chia rẽ, ngăn cách, bài xích tôn giáo cũ.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật luôn đến từ Thiên Chúa. Gọi là tình yêu chân thật vì tình yêu đó dẫn ta đến sự thật, nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
Tình yêu chân thật bất biến với thời gian. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào tình Chúa yêu ta cũng sáng chói như mặt trời. Tinh ròng như nắng sớm, đẹp như hoa chớm nở và chan hoà yêu thương.
Tình Chúa vĩ đại, cao vời, vô bờ bến, tình Chúa khơi dậy trong ta:
– Tình thương người đồng loại.
– Quí trọng sự sống con người.
– Quí trọng đức công bằng.
– Yêu quí và thực thi đức ái.
– Mau mắn nhan sai trái, lỗi lầm.
– Hay thứ tha.
– Giầu lòng xót thương.
Tình yêu Chúa giúp ta nhận ra hình ảnh Chúa Kitô trong người anh chị em mình. Bất kể họ mang mầu sắc gì, tôn giáo nào, người hay thai nhi, già hay trẻ, giầu hay nghèo, nam hay nữ, sang hay hèn, tự do hay tù tội, mạnh khoẻ hay yếu liệt họ đều là con cái Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa.
Dù họ không chọn Ngài nhưng Đức Kitô chọn họ làm bạn. Họ chưa thuộc đàn chiên nên Ngài đi tìm kiếm.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về (Ga 10,16)
Chúa sai tôi đi
Tình Chúa yêu ta thể hiện qua tình người. Thiên Chúa thi ân, giáng phúc cho nhân loại bằng cách cho phép ta cộng tác vào công trình của Ngài. Nhờ thế mà tình người được nâng cao và thánh hiến.
Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sanh nhiều hoa trái (Ga 15,5)
Chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em, để anh em ra đi,
Sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại (Ga 15,16)
Sai đến người đau khổ; đỡ dậy người vấp ngã, sánh vai người tàn tật, an ủi kẻ cô đơn, viếng thăm người bệnh tật, cho kẻ đói ăn, dóng lên tiếng kêu gọi giao hoà và thứ tha. Điều này thể hiện lòng thương xót vô bờ Chúa dành cho nhân loại, qua bàn tay yêu thương trìu mến của con cái Chúa. Các việc lành thánh, công trình từ thiện diễn tả một Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Sống đời sống xót thương là môn đệ chân chính của Chúa.
Tình người
Bên cạnh tình Chúa có tình người. Tình người tốt lành khi tình người được thánh hoá, hướng dẫn bởi Lời Chúa và ân sủng Ngài.
Lời Chúa thanh tẩy tình người
Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em (Ga 15, 3)
Nhờ tình người được thanh tẩy mà nhân loại tránh được muôn đại hoạ phát sinh do lòng ích kỉ.
Chối bỏ ơn Chúa, con người không làm được việc gì tốt. Vì phán đoán, quyết định hướng dẫn bởi kiêu ngạo và lợi nhuận.
Người ta nhân danh tình người hành hạ, làm khổ nhau. Vì lợi nhuận mà dân tộc này xâm chiến dân tộc nọ. Vì lợi nhuận mà quân viễn chinh đi không bao giờ trở lại. Vì lợi nhuận mà bao gia đình tan nát. Vì kiêu ngạo dân tộc này tự nhận văn minh hơn dân tộc nọ. Chủ thuyết này tìm cách triệt tiêu chủ thuyết kia. Lối sống này đòi lãnh đạo lối sống nọ. Nguồn gốc chiến tranh bắt nguồn từ lòng người. Không vì lợi nhuận thì cũng sanh bởi kiêu ngạo hoặc do ích kỉ mà ra. Chối bỏ ơn Chúa, cá nhân tự chuốc hoạ cho gia đình, lãnh đạo chuốc hoạ cho dân tộc.
Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. (Ga 15,5)
Lưới tình
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra các loại tình khác đến từ con người. Sản phẩm con người sáng chế ra thường bất toàn. Tình yêu con người mặc cho cũng bất toàn nên kết quả của các cuộc tình đó cũng bất toàn. Tệ nhất là quái thai tình yêu. Quái thai tình yêu do gian tà, đội lốt và giả tạo sanh ra. Mặt ngoài là tình yêu. Vỏ trông giống tình yêu nhưng sau lớp son tô, phấn điểm là gian tà, ngụy biện và lạm dụng.
Là quái thai thời đại nên phải che đậy bằng mỹ từ, đánh bóng, tuyên truyền, tẩy não. Ai phanh phui sự thật bị liệt vào tội phản bội. Phản bội bị khai trừ. Bắt người khác yêu như họ yêu, nói như họ nói, nhận xét như họ nhận xét.
Trung thành với tình người hay phản bội tình người cả hai đều đau khổ. Kẻ phản bội sống phận hèn tôi tớ, trọn kiếp đoạ đầy. Nặng thì đầy rừng thiêng nước độc, nhẹ ở nhà sống ngày đói, đêm khát. Trung thành góp phần làm băng hoại xã hội. Vì cơm, áo, tư lợi, người dối người, lừa gạt, bỏ tù người. Vật chất trọng hơn tình người. Miệng lưỡi để lừa gạt. Kêu gọi đấu tranh, khích lệ hy sinh, hiến thân cho lí tưởng lường gạt.
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra không có mối tình nào tuyệt hảo.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy… ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giêsu giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?
Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giêsu (14,15.21.25; 15,10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gioan thì Đức Giêsu hình như đang đe cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giêsu với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “… Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?
Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tơi điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15,12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giêsu vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22,36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giêsu sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14,23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khảng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?
Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn cua Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giêsu nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ đong. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giêsu khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khảng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?
À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đoc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta – nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.
Tôi cũng phải như vay thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!
Ôi, lạy Thầy Giêsu từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. Amen.
47. Niềm tâm sự của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc)
Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”(Ga 15,9).
Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu. Chúa Giêsu đã nâng các tông đo lên ngang tầm với mình, Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, Thầy gọi các con là bạn hữu”. Từ hàng tôi tớ trở nên bạn hữu là sự cách nhau một trời một vực. Người tôi tớ không được phép biết việc chủ làm; người tôi tớ chỉ biết hầu hạ. Ngược lại, bạn hữu là người chia sẻ, là người đồng hành. Nhưng từ tôi tớ lên bạn hữu, con người đâu có thể thực hiện được, nếu không phải là chính Thiên Chúa nâng con người lên. Vậy ly do nào để Chúa Giêsu kết luận điều này? Ngài giải thích: “Vì tất cả những gì Cha Ta nói với Ta, Ta cũng tỏ cho các con biết” (Ga 15, 15). Chúa Giêsu đã không dấu điều gì. Đó là tiếng nói của người yêu để trao cho các tông đồ và qua các tông đồ tiếng nói của Chúa Giêsu đến với toàn thể Hội Thánh, đến với toàn thế giới về một sứ điệp Tình yêu dành cho tất cả mọi người, rằng: “Thiên Chúa yêu thương con người và yêu đến tận cùng”.
Tại sao lại gọi là “Yêu đến tận cùng”? Vì lời mời gọi của Chúa Giêsu đã nêu rõ “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Ở lại trong tình yêu của Thầy có nghĩa là Chúa Giêsu gìn giữ, Chúa Giêsu thánh hóa. Chúng ta đươc ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta nên bạn hữu với Thầy. Trò lại được gọi là bạn hữu. Tất cả những điều này là đặc tính của tình yêu. Tình yêu đích thực không tính toán, luôn đi bước trươc, quảng đại cho đi và chấp nhận tất cả. Chúa Giêsu đã không đòi một điều kiện nào, ngoại trừ một yếu tố duy nhất là “Các con hãy giữ lệnh truyền của Thầy”(Ga 15,10). Và lệnh truyền của Thầy rất ngắn gọn, đầy đủ ma không ra ngoài tình yêu. “Điều Thầy truyền là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 15,17).
Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa mà còn trao cho chúng ta một mẫu gương để chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15,12). Với một tiêu chuẩn và cách thức trên, Đức Giêsu đã tự hạ mình xuống để trao ban cho con người những gì là cao cả nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu. Thế nên, trao ban cho con người là Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng với Ngài. Chúng ta không hiểu theo nghĩa tuyệt đối việc Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của loài người để diễn tả. Gọi là bạn hữu, có nghĩa là nâng lên ngang hàng, để đồng hưởng một tình yêu như Đức Giêsu là đầu nói với thân mình, hay như Đức Giêsu là chồng nói với Hội Thánh là hiền thê. Vậy còn gì nữa mà Ngài không cho chúng ta giá trị của một tình yêu đích thực? Còn gì nữa để chúng ta dám đòi hỏi? Cho nên, Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền hôm nay không phải là một mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng chúng ta khẳng định lại một lần nữa, đó là một niềm tâm sự.
Một niềm tâm sự của một người đã cho người mình yêu đến tận cùng. Đây cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng vì người mình yêu”(Ga 15,13). Đức Giêsu đã cho đến tận cùng. Cho Máu, cho Nước từ Trái Tim Ngài chảy ra; cho quyền năng của Thiên Chúa hạ cố đến viếng thăm con người. Cho tình yêu đích thực của Thiên Chúa đến với một tình yêu bất trung, bội phản và hay thay đổi của con người. Cho hạnh phúc vĩnh cửu đi vào trong thế giới của con người. Một hạnh phúc của con người nay còn, mai mất nay lại được đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời đời. Chẳng lẽ, chúng ta không thấy tất cả những điều ấy là một huyền nhiệm sao? Chúng ta không thấy đó là một đặc tính đích thật của tình yêu, trao ban, hiến thân hay sao? Vì vậy, chúng ta không còn gì để nói, không còn gì để đòi hỏi mà chỉ còn lãnh nhận với lòng biết ơn. Và lòng biết ơn đó là gì? Là hãy sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Hoa trái ấy không phải là tự chúng ta làm được nhưng là hoa trái mà Chúa sẽ ban cho, chúng ta đừng để hư mất. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn tiên liệu trước cho chúng ta trong những gì vượt quá khả năng của con người, Ngài căn dặn: “Những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”(Ga 15, 16). Vì vậy, hãy lấy danh Đức Giêsu Kitô để xin và Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu tâm sự: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” và “ở lại trong tình yêu của Thầy”, chính là để bảo vệ và nâng đỡ. Thế nên chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với tất cả điều này, người Ki tô hữu hôm nay không còn gì phải phàn nàn, không còn gì phải lo âu hay sợ hãi. Họ được từng bước mời gọi, họ được từng bước trao ban. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày, không phụ tình yêu thương của Chúa:
– Hãy biến những trìu tượng thành thực tế;
– Hãy hiện thực hoa khái niệm về một tình yêu cao vời và siêu nhiên;
– Hãy thực hành trong chính những người thân yêu của gia đình, những người bé mọn trong xã hội để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đã được thể hiện trong đời sống của mỗi người chúng ta;
– Hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng việc chúng ta đối xử với nhau theo gương của Đức Giêsu Kitô đã yêu và đã ban trao.
Một lần nữa, Chúa lại cho chúng ta một đơn vị, một mô hình thực tế nhất và dễ dàng nhất để chúng ta thực hiện mỗi ngày, đó là YÊU THƯƠNG NHAU. Với tiêu chí đó, chúng ta sẽ không thiếu bất kỳ một cơ hội nào, chúng ta không thiếu một giây phút nào, vì lúc nào chúng ta cũng có thể yêu thương nhau. Va đó cũng sẽ là những nét đặc trưng để chúng ta đáp lại tình yêu cao vời và nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúng con chỉ còn biết im lặng, để tôn thờ và yêu mến Chúa. Vì Chúa đã dùng tất cả quyền năng và thượng trí, để trao cho chúng con một tình yêu lớn lao.
Xin cho chúng con biết thực hành trong đời sống mỗi ngày, với Chúa và với nhau, để chúng con không phụ tình yêu thương muôn đời của Chúa, để cho mỗi người chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa đến muôn đời.
Xin cho mỗi người chúng con khi được lời Chúa hứa, là được bảo đảm cho sự sống đời đời. Và trong tình yêu ấy, chúng con cũng sẽ hy vọng được gặp lại nhau như Chúa đã yêu chung con và chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
Chúa Giêsu đã quan niệm về hạnh phúc như thế nào? Theo tôi nghĩ Ngài đã quan niệm hạnh phúc như là sự hòa hợp của mối tương quan ba chiều: Thiên Chúa, bản thân và tha nhân.
Trong toán học, hễ có ba điểm trong không gian thì người ta có thể vẽ được một vòng tròn cố định. Cái vòng tròn hay tình trạng viên mãn của hạnh phúc cũng phải được hình thành từ mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau. Chẳng hạn trong đời sống gia đình, hạnh phúc hệ tại mối tương quan hòa hợp giữa cha mẹ và con cái, cũng như giữa con cái với nhau. Thực vậy, con cái không thể nào hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với cha mẹ mà không hòa hợp với anh chị em. Hay trái lại, không thể hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với nhau mà không hòa hợp với cha mẹ.
Điểm mới lạ Chúa Giêsu đem đến chính là khẳng định tính cách ngang bằng và bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân, hay nói đúng hơn chỉ có một tình yêu liên kết con người với Thiên Chúa và liên kết con người với con người. Cũng như hai mặt của một đồng tiền. Nếu nó rách bên này thì cũng rách bên kia, không thể có sự nguyên vẹn của mặt này nếu mặt kia không có hay đã nhàu nát.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán: Điều răn thứ nhất đó là kính mến Chúa hết lòng. Còn điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, đó là hãy yêu mến tha nhân như chính bản thân mình. Và chúng ta thấy, cây thập giá là biểu tượng cho sự gắn bó và hòa hợp giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân: chiều dọc biểu tượng cho mối tương quan đối với Thiên Chúa, còn chiều ngang biểu tượng cho mối tương giao giữa người với người. Không có thanh dọc, thì thanh ngang chỉ có thể nằm dưới đất, không thể nâng cao được. Trái lại nếu thiếu thanh ngang thì cây thập giá chỉ còn là một cái cọc chơ vơ. Không có tình yêu Thiên Chúa thì tình yêu con người khó có thể được nâng cao và không thể đạt tới viên man, nhưng nếu không có tình yêu con người thì tình yêu Thiên Chúa cũng không thể đến với con người, bởi vì chẳng ai thấy được Thiên Chúa bao giờ.
Vì thế, tình yêu của Ngài đối với chúng ta đã được biểu lộ qua trung gian của tình yêu huynh đệ giữa chúng ta. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa luôn kết hợp với chúng ta và tình yêu của Ngài mới đạt tới mức hoàn hảo nơi chúng ta. Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mang một khuôn mặt của con người, sống hoàn toàn như một con người trần thế, ở giữa mọi người và hơn thế nữa, còn hạ mình sống thân phận một kẻ nô lệ để có thể phục vụ và chết cho mọi người. Ngài đã lấy chính cái chết trên thập giá để mạc khải trọn vẹn chân tính của mình là Thiên Chúa hằng hữu. Sự hy sinh dâng hiến ấy, đối với Ngài, chính là nguồn vui, an bình và vinh quang. Con người chỉ có thể đạt tới hanh phúc khi thể hiện lòng kính mến Thiên Chúa qua tình yêu thương đối với tha nhân, với một ý thức rằng cho một kẻ bé mọn một chén cơm, một manh áo, một ly nước là phục vụ cho chính Chúa. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tha nhân cũng như hạnh phúc của tha nhân tùy thuộc vào chính chúng ta.
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc giòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc giòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nươc. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa nghỉ, cắn răn chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhan bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuoi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hành khách ở cai sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giê-su nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau nhu Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dạy yêu thương, tôn giáo nào cũng dạy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Mô-sê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giê-su xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yêu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đe Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận vì việc gì…Dù ly do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người: giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba đieu: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4,7).
Thuật ngữ Do Thái qodesh trong cựu ước nói về sự thánh thiện. Thuật ngữ Hy Lạp hagiasmos trong tân ước cũng mang chở ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai hạn từ này theo nguyên ngư có nghĩa là “Sự tách biệt”. Sự thánh thiện nói lên việc tách chia giữa trong sạch và nhơ uế. Nhưng trên hết, hạn từ này diễn tả ý niệm về Thiên Chúa một cách sâu xa. “Ai trong bậc thần minh được như Ngài, lạy Chúa? Ai sánh được như Ngài, Đấng rạng ngời thánh thiện? (Xh 15,11)” Trong khi Đức Chúa Giavê và Đấng Thánh độc nhất, dân Israel có thể thông dự vào sự thánh thiện của Ngài bằng việc tuân giữ lề luật. Dân Chúa vẫn được xem là một dân tộc ưu tuyển, một dân tư tế, một chủng tộc thánh thiện, tách biệt khỏi các dân khác (Xh 19,6). Chính Đức Chúa cũng đã truyền lệnh “Các ngươi phải thánh thiện, vì ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2).
Việc chia tách sự tinh sạch ra khỏi nhơ uế là một chủ đề xuyên suốt được nhắc đến rất nhiều trong các sách Tin mừng và cả sách Tông Đồ công vụ. Ý niệm về sự nhơ uế phản ánh quan niệm xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, đồng thời cũng gợi lên những thách đố mà giáo hội sơ khai phải đấu tranh khi tiếp nhận những tân tòng không phải gốc Do Thái. Theo quan niệm Do Thái cổ xưa, một người bị cho là nhơ uế hay phàm tục, không được phép vào đền thờ để cầu nguyện, không được tham dự các sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng ngay tại các hội đường ở địa phương. Để được tham dự các sinh hoạt đó, họ phải tuân thủ những luật lệ về sự tinh sạch. Những người phong hủi, những người thu thuế, đĩ điếm, những người bị thần ô uế ám, và ngay cả những dân ngoại, đều bị coi là nhơ uế. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Ngài thách thức chống lại não trạng hủ lậu đó, và lột bỏ nhãn hiệu “Bị nhơ uế” ra khỏi những con người nói ở trên, nhất là nơi những người Samari. Đối với Ngài, luật về sự nhiễm uế khi được thực hành cách máy móc và cứng nhắc sẽ trở nên vô nghĩa hoàn toàn. Trong khi người Do Thái rất coi trọng luật này, Đức Giêsu hoàn toàn không để tâm đến một chút nào.
Thánh Thần, quà tặng của Đức Kitô Phục sinh, đã tuôn đổ ơn sủng trên các dân ngoại, là những người mà dân Do Thái vẫn xem là nhơ uế. Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe kể lại câu chuyện Phêrô được sai tới nhà ông Cornêliô, một người ngoại giáo. Trong bài diễn từ, Phêrô đã công bố “ Qủa thật, tôi thấy Thiên Chúa không thiên vị một ai. Nơi moi dân tộc, những ai kính sợ Thiên Chúa, và sống ngay lành, đều được Ngài đón nhận”. Khi Thánh Phêrô đang nói, Thần khí Chúa đã xức dầu cho những người ngoại giáo trong căn nhà của ông Cornêliô. Những người đi tháp tùng Thánh Phêrô đều ngạc nhiên, bởi vì “quà tặng Thánh thần được tuôn đổ xuống cho cả những người ngoại giáo nữa (Cv 10,45).”
Rõ ràng, quan niệm xưa cũ về sự tinh sạch đã bị phá đổ hoàn toàn. Thế nhưng còn quan niệm về sự thánh thiện thì sao? Có phải đây là một ý niệm hoàn toàn mới thay thế cho lề thói cũ đã bị Chúa Giêsu loại bỏ hoàn toàn hay không? Chúng ta hãy từ từ tìm hiểu xem.
Các bài đọc trong phụng vụ hôm nay đều diễn bày một chỉ lệnh sâu xa: “Hãy trở nên Thánh”. Huấn lệnh này cũng định dạng lại mô thức về sự thánh thiện. Thánh Phêrô trình bày cho chúng ta một khởi dẫn để bắt đầu. Ngài nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức. Sách Tông đồ công vụ thuật lại rằng ông rất kính sợ Thiên Chúa, và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn đến (Cv 10,4). Cũng vậy trong bài đọc thứ hai, Thánh Gioan tông đồ đã chuyền tải cho chúng ta một sứ điệp trọng yếu, trở thành khung căn bản định hình sự thánh thiện: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,7-9).”
Đây là một vòng tròn khép kín mang chiều kích linh thánh. Thiên Chúa yêu mến chúng ta trước. Điều đó biến chúng ta trơ nên thánh, và giúp chúng ta cũng biết yêu thương như chính Ngài đã yêu. Đi vào quỹ đạo tình yêu, chúng ta vươn đạt đến quy chuẩn duy nhất về sự thánh thiện. Một khi chúng ta đón nhận một quà tặng, chúng ta sống sung mãn quà tặng đó, và tiếp nối, chúng ta lại trở nên quà tặng tình yêu ban trao cho người khác. Tình yêu Thiên Chúa làm cho chúng ta thông dự vào đời sống linh thánh của Ngài. Đồng thời, tình yêu như một dòng chảy bất tận, khiến tâm hồn chúng ta không thể đóng khép, nhưng luôn mở rộng để thông chia tình yêu cho người khác.
Tình yêu và sự thánh thiện đều là quà tặng mà Thiên Chúa hiến trao cách nhưng không cho mọi người. Ngài trao ban cho tất cả không loại trừ ai. Chúng ta đã thấy rõ ràng điều ấy nơi Cornêliô. Chúng ta cũng thấy quà tặng đó hiện lộ nơi những tâm hồn kết hiệp sâu xa với Chúa, có thể ẩn kín bên trong hay bộc lộ cụ thể ra bên ngoài. Đúng như Thánh Phêrô đã quả quyết “Thiên Chúa không thiên vị ai bao giờ”.
Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Ai trong chúng ta cũng đã biết: con người đầu đội trời, chân đạp đất. Vì thế, sống trong cuộc đời, chúng ta có hai loại bổn phận phải chu toàn. Bổn phận hàng dọc và bổn phận hàng ngang. Bổn phận đi lên và bổn phận đi xuống. Bổn phận đối với trời và bổn phận đối với đất. Hay nói một cách cụ thể hơn đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với anh em.
Chính Chúa Giêsu đã xác quyết điều ấy:
– Giới răn thứ nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi điều Kinh Thánh truyền dạy.
Thế nhưng, chúng ta có cảm tưởng là dường như Chúa Giêsu đặt nặng vấn đề thương người, hơn cả mến Chúa, bởi vì như lời Ngài đã phán:
– Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với các ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy tới mà dâng của lễ sau.
Sở dĩ như thế cũng là điều dễ hiểu bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, tất cả mọi thứ tình yêu chân thật của chúng ta đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, để rồi cuối cùng sẽ lại qui hướng về Ngài. Hơn nữa, chính tình yêu đối với anh em là dấu chỉ chắc chắn nhất để xác quyết về lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa như Ngài bảo:
– Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Hay như thánh Gioan cũng đã xác quyết:
– Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em thì người đó là một kẻ nói dối. Bởi vì anh em là những người sống bên cạnh mình mà chẳng yêu thương thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy bao giờ.
Thế nhưng, chúng ta phải đối xử với anh em như thế nào? Đâu là cái tiêu chuẩn để hướng dẫn chúng ta trong phạm vi này?
Truyền thống của người Do Thái có một câu chuyện kể lại như sau:
Ngày kia một người tìm đến với thầy Samai, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi:
– Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giêrusalem lâu được.
Nghe nói thế, thầy Samai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy Gillen, một người vừa thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Có kẻ cho rằng Gillen chính là người mà Chúa Giêsu khi lưu lại trong đền thờ ba ngày vào năm lên 12 tuổi, đã chất vấn ông về lề luật.
Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gillen đã trả lời ngay không cần phải suy nghĩ:
– Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi. Anh hãy đi và suy nghĩ chín chắn về điều tôi vừa nói.
Phải chăng đó chính là bước đầu tiên để chu toàn giới luật:
– Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng ta còn phải thực hành rất nhiều điều tích cực, chẳng hạn như không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nưa, nhờ đó cuộc sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Đức Kitô.
(Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48
Đoạn trích sách Công Vụ tường thuật thánh Phê-rô viếng thăm gia đình viên sĩ quan Rô-ma ngoại giáo tên là Co-nê-li-ô. Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ân ban của Ngài trên viên sĩ quan lương dân nầy cùng thân bằng quyến thuộc của ông; như vậy, cho thấy tình yêu Thiên Chúa được ban cho hết mọi người không loại trừ bất kỳ ai.
1Ga 4: 7-10
Trong đoạn trích thư thứ nhất này, thánh Gioan ca ngợi tình yêu Thiên Chúa đi bước trước: “Tình yêu cốt ở điều nầy: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
Ga 15: 9-17
Sau dụ ngôn về “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su thổ lộ tấm lòng thương yêu của Ngài đối với các môn đệ Ngài và qua họ với tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ hiến dâng mạng sống mình.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48)
Câu chuyện nầy thuật lại một biến cố đặc biệt nhất trong sự nghiệp tông đồ của thánh Phê-rô và mang tính quyết định nhất đối với việc phát triển Giáo Hội tiên khởi: chấp nhận một lương dân và thân bằng quyến thuộc của người nầy gia nhập cộng đoàn Ki-tô giáo, không cần qua luật Mô-sê, nhất là phép cắt bì. Một cách nào đó, Chúa Thánh Thần đã bắt buộc vị lãnh tụ các Tông Đồ thực hiện điều nầy.
Người lương dân nầy tên là Co-nê-li-ô, viên sĩ quan ngoại giáo trong quân đội Rô-ma đồn trú tại thành Xê-da-rê. Viên sĩ quan nầy là một người trong số những người có thiện cảm với Do-thái giáo, được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Họ là những người nhận ra vị Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, cầu nguyện với Ngài và cứu trợ cộng đồng Do-thái, nhưng không gia nhập vào cộng đồng nầy, khác với những tân tòng, nghĩa là những người chấp nhận phép cắt bì, tuân giữ ngày sa-bát và những đòi hỏi khác của luật Mô-sê.
Chấp nhận lời mời của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô thân hành đến nhà ông. Hoạt cảnh được thánh Lu-ca tường thuật thật cảm động. Sự kiện thánh Phê-rô vào nhà một người lương dân, thì thật khác thường. Như chúng ta biết, người Do thái cấm không được giao tiếp với lương dân, cốt là tránh tất cả sự nhiễm uế ngoại giáo.
Việc ông Co-nê-li-ô đón tiếp thánh Phê-rô cũng thật khác thường: “Khi thánh Phê-rô bước vào, thì ông Co-nê-li-ô liền ra đón và phủ phục dưới chân vị Tông Đồ mà bái lạy” (10: 25). Thái độ của viên quan Rô-ma nầy cũng thật đáng ngạc nhiên. Việc phủ phục là một nghi lễ Đông Phương được dành cho các vị thần linh và các bậc vua chúa. Trước cử chỉ tôn kính của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô phản ứng: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm” (10: 26). Có lẽ thánh nhân nghĩ đến hình ảnh người phong hủi và người đàn bà tội lỗi đã phủ phục dưới chân Thầy mình. Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa trong khi thánh nhân chỉ là một người môn đệ khiêm tốn của Đức Giê-su.
Bài diễn từ của thánh nhân cũng khác thường. Số người tham dự thì đông: “Ông Co-nê-li-ô cho mời thân bằng quyến thuộc đến” (10: 24). Vào lúc đó, thánh Phê-rô công bố những điều thật bất ngờ: không còn một dân đặc quyền đặc lợi nữa, Thiên Chúa không thiên vị người nào hay dân tộc nào, “nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (10: 34-35). Qua đó, vị lãnh tụ Tông Đồ nhận ra chiều kích mới của dân Thiên Chúa.
Sau cùng, hoạt động của Chúa Thánh Thần cũng khác thường. Sách Công Vụ làm chứng rằng Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển Giáo Hội tiên khởi. Vì thế, không phải là vô căn cứ khi sách Công Vụ Tông Đồ được gọi là “sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Chính Chúa Thánh Thần đã xếp đặt cuộc gặp gỡ giữa thánh Phê-rô và ông Co-nê-li-ô. Chính Ngài đã ban cho cả hai người thị kiến hay xuất thần; chính Ngài làm gián đoạn bài diễn từ của vị Tông Đồ để tỏ mình ra và ngự xuống trên mọi người. Có mấy anh em ở Gia-phô, tức các Ki-tô hữu gốc Do thái, cùng đi với thánh Phê-rô (Cv 10: 23). Họ vô cùng kinh ngạc vì những dấu chỉ đặc sũng làm chứng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi lương dân, ngay cả trước khi những lương dân nầy lãnh nhận phép Rửa. “Lễ Ngũ Tuần lương dân” nầy, khá giống với Lễ Ngũ Tuần trước đó tại Giê-ru-sa-lem, cho thấy Thiên Chúa có sáng kiến ban tặng muôn vàn thiên ân cho “những ai ăn ngay ở lành”.
Đối với Giáo Hội tiên khởi, đây là một mặc khải và là một cuộc cách mạng. Chính thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, ý thức đầu tiên về điều nầy. Với những người lương dân nầy mà Chúa Thánh Thần chỉ định, thánh nhân mở rộng cánh cửa Nước Trời khi “truyền làm phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” (10: 48).
BÀI ĐỌC II (1Ga 4: 7-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Trong đoạn trích nầy, chúng ta gặp lại chủ đề mà thánh Gioan không ngừng lập đi lập lại: “Tình yêu Thiên Chúa”. Lời khuyên bảo: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (4: 7), xoay quanh hai ý tưởng. Trước hết, Thiên Chúa là Tình Yêu, vì thế tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa. Sau nữa, Thiên Chúa chứng thực tình yêu của Ngài ở nơi việc Ngài đã ban cho nhân loại Con Một của Ngài.
Trong chỉ vài lời, thánh Gioan đặt nền tảng cho “sự hiểu biết” Ki-tô giáo đích thật. Trái với những khẳng định của các ngôn sứ mạo danh, những kẻ làm xáo động các tín hữu, thánh nhân quả quyết rằng chúng ta biết Thiên Chúa không bởi ánh sáng thần khải, cũng không bởi những suy luận thuần túy trừu tượng, nhưng từ thành quả của một kinh nghiệm của đức ái: yêu thương nhau như Thiên Chúa yêu thương chúng ta. “Tình Chúa đối với chúng ta” là khuôn vàng thước ngọc và là nguồn mạch của mọi tình yêu. Di sản Do-thái rất dễ nhận ra ở nơi đoạn trích dẫn nầy: lời quả quyết được diễn tả vừa theo hình thức khẳng định: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (4: 7) vừa theo hình thức phủ định: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (4: 8). Đây là nét đặc trưng của lối hành văn Do-thái.
Như vậy, “biết Thiên Chúa” nhờ kinh nghiệm của đức ái nầy, vừa trải rộng cho hết mọi người vừa hướng về Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, đưa chúng ta dự phần vào cùng một cuộc sống với Thiên Chúa, chia sẻ cùng sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan không giới hạn viễn cảnh chỉ vào đức ái Ki-tô giáo. Cũng như trong Tựa Ngôn, thánh Gioan đã nhấn mạnh chiều kích phổ quát: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
Trong bức thư nầy, những lời khuyên bảo và những lời nhắc nhở về đạo lý được quyện vào nhau. Điều quan trọng là giúp các Ki-tô hữu kiên vững trong niềm xác tín của mình khi phải đối mặt với những kẻ muốn loại bỏ tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể khỏi Tin Mừng, và vì thế, đánh mất cả ơn Cứu Độ. Ấy vậy, nhờ sự kiện Nhập Thể, Đức Ki-tô mới có thể dâng hiến thân thể của mình thành của lễ. Đó là bằng chứng xác thực nhất và cao cả nhất cho thấy tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
“Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian” (4: 9). Diễn ngữ nầy chỉ được gặp thấy nơi bút pháp của thánh Gioan. Trong thư thứ nhất nầy, cũng như trong Tựa Ngôn và trong Tin Mừng Gioan, đều có chung tư tưởng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16).
Nhập Thể đã thúc đẩy tình yêu Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa khi “Sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (4: 10). Như vậy, Nhập Thể và Ơn Cứu Độ là hai mặt của một thực tại, không thể nào bị loại ra khỏi Ki-tô giáo. Chúng không là những khái niệm xuất phát từ những suy luận phàm nhân, nhưng là những sáng kiến đến từ Thiên Chúa và chứng thực chân lý hàng đầu và căn bản nầy: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Gioan nhấn mạnh hơn ai hết tình yêu Thiên Chúa. Bản văn Tin Mừng hôm nay cũng dâng hiến những âm vang thư thứ nhất nầy.
TIN MỪNG (Ga 15: 9-17)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ “Diễn Từ Cáo Biệt” của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài. Đoạn Tin Mừng nầy tiếp liền sau dụ ngôn về “Cây Nho Thật” được Đức Giê-su công bố vào Chúa Nhật trước. Trong dụ ngôn về “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su đã cho thấy cành nho chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu gắn liền với cây nho. Cũng vậy, các môn đệ dự phần vào sự sống Thiên Chúa và sinh hoa kết trái chỉ khi nào kết hiệp với Ngài. Qua hình ảnh nầy, Đức Giê-su diễn tả mối liên hệ mới mà Ngài đến thiết lập giữa Thiên Chúa với con người: mối tâm giao chan chứa yêu thương.
Trong bầu khí ly biệt nầy, Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài, những người mà Ngài yêu thương cho đến cùng (13: 1), bằng một cung giọng rất mực trìu mến: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (15: 9).
Ở đây, chúng ta chạm đến đỉnh cao của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối liên hệ Phụ Tử độc nhất. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào những mối liên hệ giữa Cha và Con được nêu lên, đều được liên kết vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại. Điều nầy vén mở rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì tập trung vào chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta. Tình yêu mà Chúa Cha dành cho Chúa Con, cũng chính là tình yêu Chúa Con dành cho các môn đệ của mình.
Về phần mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu mến Ngài, không là một thứ tình cảm trừu tượng, nhưng nhất mực trung thành với các điều răn của Ngài: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (15: 10).
Chúng ta đã thấy rồi, động từ “ở lại” là động từ chủ chốt của Tin Mừng Gioan. Trong chương 15 nầy, động từ “ở lại” xuất hiện mười ba lần, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, đức ái mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài, thực hành những huấn lệnh Tin Mừng; bên trong, tăng cường mối liên hệ với Đức Ki-tô.
“Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn” (15: 11). Thật là mâu thuẩn biết bao, “niềm vui” nầy được công bố bởi Đức Giê-su. Ngài sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Và cũng thật mâu thuẩn biết mấy, niềm vui mà Ngài hứa với những môn đệ của Ngài, những người sắp phải chịu cơn choáng váng đến tận cùng nỗi tuyệt vọng khi chứng kiến cái chết của Ngài. Tuy nhiên, niềm vui nầy được định vị ở trung tâm lập luận: vui trong bầu khí thân tình giữa Thầy và trò nầy. Đó sẽ là cách thế hiện diện mầu nhiệm của Ngài ở nơi họ, nhờ đó họ sống sự sống của Ngài. Đó là niềm vui “không ai lấy mất đi được”, như Ngài sẽ xác định ngay sau đó (16: 22).
Trong Diễn Từ Cáo Biệt, những lời dặn dò sau cùng nầy, những lời trăn trối này, những lời tâm huyết nầy, được cô động ở nơi lệnh truyền duy nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau” (15: 12a). Người ta đã đọc thấy từ lâu trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Tuy nhiên, lệnh truyền hãy yêu thương nhau mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ của Ngài có tầm mức vượt quá mọi mức độ, không còn tình yêu quy chiếu về chính mình, nhưng quy chiếu về chính Ngài: “Như Thầy đã yêu thương anh em” (15: 12b). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Giê-su là khuôn mẫu tình yêu của Đức Giê-su đối với các môn đệ; đến phiên các môn đệ, tình yêu của Đức Giê-su đối với họ phải là khuôn mẫu tình yêu của họ đối với nhau: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (15: 13).
“Những người mà Đức Giê-su yêu thương”, trước hết là các môn đệ của Ngài đang vây quanh Ngài và lắng nghe lời Ngài, những người mà Ngài gọi là “bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (15: 14-15). Đó là những người “Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (15: 16).
“Những người mà Đức Giê-su yêu thương”, cũng là tất cả những ai mà Ngài đã hiến dâng mạng sống mình cho họ. Lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” phải rộng mở bao la như tình yêu của Đức Giê-su dành cho nhân loại.
Tuy nhiên, cung giọng trực tiếp của Ngài là cung giọng chứa chan tình thương mến, cả với tư cách con người lẫn tư cách Thiên Chúa. Chính bằng cung giọng chan chứa tình thương mến nầy mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ vào lúc từ giả các ông ra đi. Tấm lòng nhân ái của Ngài để lộ chiều kích sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: THIÊN CHÚA KHÔNG THIÊN TƯ TÂY VỊ, ĐÓN NHẬN TẤT CẢ ĐỂ BIẾN ĐỔI NÊN HOÀN HẢO HƠN.
Kính thưa quý anh chị em,
Mạnh Tử, học trò của đức Khổng Tử, than thở: Bao nhiêu năm theo thầy, được dạy dỗ chu đáo, cẩn thận, nhưng con vẫn ân hận, thiếu xót, vì chưa học được điều cốt lõi của thầy. Con chưa nhìn người và đánh giá họ một cách vô tư, vẫn còn bị cảm tính tự nhiên chi phối: “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, chỉ mình thầy mới nhìn nhận và đánh giá người khác một cách vô tư.
Đức tính của thầy Khổng Tử là hình ảnh mờ nhạt phản chiếu Thiên Chúa là tình yêu và sự sống đích thực: “không thiên tư tây vị, ai kính sợ Người, thực hành đức công chính đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Tình yêu thần linh lớn lao đến độ, bất chấp sự yếu hèn, tội lỗi phàm nhân, đón nhận và nâng con người lên tận trời, dành địa vị làm con Thiên Chúa, chia sẻ đồng một danh phận với Đức Kitô.
Những gợi ý trên giúp chúng ta mở lòng đón nhận phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Các bài đọc, chúa nhật 6 phục sinh năm B, trình bày hoạt động của Đấng Phục Sinh, hiện thân của lòng thương xót Chúa Cha, tuân đổ trên thế gian vô lượng, vô ngần.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, ghi nhận cách thức Chúa sửa sai quan niệm Do Thái dựa trên những tiêu chí cực đoan, vụ luật, về thanh sạch/ô uế, thánh thiện/tội lỗi, công chính/bất lương. Quan niệm vụ luật như thế, tự thân là bất công, kỳ thị, ngập lụt trong văn hóa loại trừ, không bao giờ phản ảnh được sự công chính của Thiên Chúa.
Trước khi Phê-rô đến nhà Co-nê-li-ô, vào giờ thứ sáu, ông đi cầu nguyện và được thị kiến, thấy một bao lớn thả xuống từ trời. Trong bao có đầy dẫy con vật: toàn là vật dơ. Chúa bảo hãy giết mà ăn. Phê-rô từ chối, vịn lẽ là vật dơ, bị cấm. Tiếng từ trời phán bảo: cái Thiên Chúa cho là sạch, ngươi chớ bảo là dơ. Ngay giờ đó, có người đến tìm. Phê-rô nhận ra ý Chúa muốn, ông chỗi dậy cùng đi với họ (cf. Cv 10).
Tại nhà Co-nê-li-ô, Đấng Phục Sinh làm nên hai điều kỳ diệu là cho dân ngoại hưởng tình yêu sự sống và dạy các môn đệ biết sống yêu thương như Chúa, biết mở lòng đến với muôn dân trong một tình yêu không giả dối.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su dạy sống yêu thương, không qua cổng thông tin tri thức, nhưng bằng con đường cảm nghiệm. Tình yêu, như một chất bổ dưỡng tinh thần, thấm vào tâm hồn qua những gì chủ thể yêu thương ban tặng.
Giê-su yêu mến các môn đệ trong chính tình yêu cội nguồn Chúa Cha. Tình yêu tuyệt đối, vô vị lợi, hối thúc Người tự hiến trên bàn thờ thập giá, để ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Tình yêu ấy là thế này: “Trong khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô, theo kỳ hẹn, mà chết vì chúng ta là kẻ có tội” (Rm 5, 8). Thập giá là bằng chứng lớn lao nhất minh chứng Giê-su đã yêu hết mình.
Phần chúng ta, được hưởng lợi bởi tình yêu tự hiến Giê-su, đã được sống lại làm một với Chúa, thì hãy luôn tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, lòng trí hãy suy tưởng những sự trên trời, chứ đừng nghĩ tưởng những sự dưới đất.
Chúa Giê-su mời gọi môn đệ ở lại trong tình yêu của Người, cụ thể, tuân giữ các giới răn của Người.
Tình yêu “vâng phục” giữ cho Chúa Giê-su ở lại trong tình yêu Chúa Cha, thì kẻ vâng giữ lệnh truyền Giê-su, cũng ở lại trong tình yêu của Người như vậy.
Chúa Giê-su không dạy môn đệ yêu thương trừu tượng, lý thuyết, môi miệng, nhưng thực hành yêu thương nhau không giả dối, cách cụ thể: họ đói, các con hãy cho họ ăn, kẻ mình trần hãy cho áo mặc, kẻ đau yếu, tù đày hãy săn sóc, viếng thăm. Đó là những hoa trái tốt đem lại sự sống, người môn đệ được sai đi gặt hái thu vào kho lẫm Nước Trời.
Trong bài đọc II, thánh Gio-an hối thúc chúng ta sống yêu thương thật tình, vì tình yêu Chúa đổ vào lòng chúng ta, như một dòng chảy xuất phát từ cội nguồn Thiên Chúa.
Đối với Gio-an, ai sống yêu thương, người ấy nhận biết và ở lại trong Thiên Chúa. Họ đã được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa, con cái của ánh sáng, vì Thiên Chúa là tình yêu. Ngược lại, kẻ không yêu thương thì không nhận biết Thiên Chúa, chưa được sinh lại bởi Thánh Thần, cuộc đời họ còn đang bị giam hãm bởi tối tăm, ích kỷ, ghen ghét, thù hận và đủ thứ tệ đoan.
Thiên Chúa là tình yêu cội nguồn, nhờ Ngôi Lời nhập thể, trong Thánh Thần, tuân đổ trên chúng ta hồng ân sự sống, để chúng ta được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa. Đây là ân huệ Chúa ban cách nhưng không, nên người môn đệ phải kiên trì ở lại trong tình yêu Chúa, mới có thể góp phần tích cực làm Danh Cha vinh hiển, Nước Cha trị đến.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thực hành hai điều:
* Một là: phải có tâm tư của Chúa, nhất quyết gột rửa khỏi lòng chúng ta óc bè phái, kỳ thị, thiên tư tây vị.
Thánh Phao-lô, trong thư gởi giáo đoàn Cô-rin-tô, đề cao đức ái, coi đó là nhân đức các thiên thần. Người tín hữu phải biết tha thứ, cảm thông trong mọi hoàn cảnh, không vui mừng trước sự dữ, bất công, nhưng phải biết chia vui cùng lòng chân thật.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng hối thúc chúng ta can đảm nói không với văn hóa loại trừ, gắn bó và thực hành văn hóa toàn thể.
* Hai là: lo sao cho mình luôn có Chúa, luôn ở lại trong tình yêu Chúa. Dấu chỉ nhận biết hệ tại ở việc tuân giữ các giới răn, được tóm gọn trong việc yêu mến Chúa hết lòng và yêu anh chị em như chính mình. Ở lại trong tình yêu Chúa là khăng khít với sự lành, kính trọng và cổ võ sự sống trong mọi giai đoạn.
Khao khát lắng nghe, thực hành Lời Chúa, siêng năng cử hành bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và hòa giải. Đời sống kitô nhờ đó mà được tăng trưởng về mọi phương diện, dần đạt tới tầm vóc của Đức Kitô, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Đề: Nhấn mạnh thêm về cuộc sống yêu thương
Anh chị em thân mến
Bấy lâu nay, chúng ta cứ tưởng mình đã biết Thiên Chúa. Nhưng trong Thánh lễ này, thánh Gioan khuyến cáo chúng ta rằng “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”. Thánh Gioan còn nói “Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra”. Hóa ra bấy lâu này chúng ta chưa thực sự là con cái Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương để từ nay xứng đáng là con cái của Ngài.
– Xin Chúa tha thứ những việc làm, lời nói và ý tưởng của chúng ta nghịch lại với đức yêu thương.
– Xin Chúa tha thứ vì tình thương của chúng ta còn quá giới hạn và ích kỷ, chưa biết yêu “như Chúa đã yêu”.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta chưa dám hy sinh vì những người mình yêu.
III. Lời Chúa
Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong cuộc sống của Giáo Hội.
– Do thái giáo xưa nay coi ơn cứu rỗi là độc quyền của dân do thái, cho nên không bao giờ chấp nhận cho một người dân ngoại làm tín hữu chính thức. Cùng lắm, nhưng người “ngoại” ấy chỉ được làm “kẻ kính sợ Chúa” mà thôi.
– Cornêliô là một người ngoại. Còn Phêrô đang là lãnh đạo của Giáo Hội. Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đã mở toang cánh cửa Giáo Hội để từ nay bất cứ người nào cũng có thể gia nhập Giáo Hội.
Bước ngoặc quan trọng này do Chúa Thánh Thần thúc đẩy (chính Chúa Thánh Thần đã khuyến khích Phêrô đến nhà ông Cornêliô) và Chúa Thánh Thần chuẩn nhận (Khi Phêrô đang nói thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang có mặt trong nhà ông Cornêliô).
Lời Tv rất thích hợp để diễn tả tâm tình hân hoan sau sự kiện Phêrô rửa tội cho gia đình ông Cornêliô: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công… Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân… Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Tiếp tục dụ ngôn Cây nho và cành nho.
Đức Giêsu dạy: “Hay ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy”.
Lòng “Yêu mến nhau” mà Đức Giêsu muốn các môn đệ mình có phải vươn tới những mức độ sau đây:
+ “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”
+ “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”
Câu quan trọng nhất trong đoạn thư này là câu định nghĩa “Thiên Chúa là Tình yêu”. Từ đó sinh ra những hệ luận:
+ Chúng ta hãy yêu thương nhau.
+ Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa.
* 1. “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”
Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do.
Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình”. Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ”. Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em. Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: “Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ơ đó”. Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó.
* 2. Thiên Chúa là tình yêu
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo đức và hỏi:
– Ngài có tin Thiên Chúa không?
– Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
– Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao ma cảm nhận được như thế?
– Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:
– Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều Thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu”
Thực vậy, Tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yeu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì bực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu. (Viết theo Flor McCarthy).
* 3. Yêu thương và tôn trọng
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề “Túp lều Bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại Bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được cac giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm doạ sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có 3 chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.
+ Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
+ Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau nay theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bạn bè thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
+ Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.
Có những người mà tự nhiên ta cảm thấy xa cách, khó ưa và không thể nào yêu thương được. Chẳng hạn như trong chế độ buôn bán nô lệ, rất khó có được tình yêu thương giữa một người da trắng tự do và một người da đen nô lệ. Những người da trắng thời đó coi những người nô lệ da đen như một con vật biết nói, bắt họ phải làm việc cho mình, đánh đập họ, khi chán họ thì bán cho người khác, khi tức giận thì còn có thể giết họ bỏ. Thời đó người da trắng không thể nào yêu thương người da đen. Tại sao? Vì họ khinh miệt người da đen, nói khac đi, họ không tôn trọng người da đen. Như Bác Tôm là một người da đen, bác rất tốt, bác làm việc giỏi, bác lại có lòng đạo đức. Thế nhưng những đức tính ấy không khơi lên lòng tôn trọng và do đó lòng yêu thương của ten lái buôn nọ. Ngược lại, bác càng tốt càng giỏi chừng nào thì hắn càng muốn bắt Bác đi làm món hàng mua bán chừng nấy, vì chính những đức tính ấy càng làm cho bác thành một món hàng cao giá. Còn đối với ông Senbi, tuy là một chủ da trắng nhưng lại yêu thương bác Tôm là một người nô lệ da đen, tại sao? Vì ông Senbi biết đánh giá đúng những đức tính của Bác. Ông không Tôm bằng thằng, bằng mày, mà gọi bằng Bác. Ông không coi Tôm là toi mọi nhưng coi như người nhà. Đối lại Tôm cũng rất thương ông Senbi. Người ta đã xúi bác Tôm trốn đi trước khi bị tên lái buôn bắt đi bán. Nhưng Bác đã từ chối “Nếu ông chủ buộc lòng phải bán tôi để khỏi phải bán tất cả những người khác và để khỏi phải phá sản thì thôi cũng được”. Tóm lại, người da trắng và người da đen này thương nhau vì hai người đã biết rõ tấm lòng của nhau, vì họ tôn trọng nhau.
Trong truyện “Túp lều Bác Tôm”, ta thấy hai điều: thứ nhất, tên lái buôn da trắng không thể nào yêu thương được người nô lệ da đen là vì không có lòng tôn trọng người ấy; thứ hai, giữa bác Tôm và ông chủ da trắng có tình thương yêu nhau là vì họ tôn trong nhau. Như vậy, tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho người ta đến gần nhau và tình yêu thương nhau. Hơn nữa, tôn trọng còn là cái nền tảng vững chắc giúp cho tình yêu của những người đã yêu thương nhau lại cang bền vững hơn.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
+ Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta,. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
+ Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yeu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo Lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
* 4. Vài suy nghĩ vụn vặt về tình yêu
* 5. Ở lại trong tình thương
Đức Giêsu bảo: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”.
+ Chữ “ở lại” mà Đức Giêsu dùng khiến tôi hình dung tình thương của Chúa như một mái nhà. Mái nhà tình thương này luôn có chỗ cho tôi. Chúa bảo tôi hãy ở trong đó mãi, đừng bỏ nhà ra đi. Nghĩa là Chúa luôn thương tôi, chỉ có tôi là có khi không ở trong tình thương đó.
+ Ở trong mái nhà tình thương của Chúa, khi tôi đói thì được ăn, khi khát thì được uống, khi mệt mỏi thì có thể nghỉ ngơi, khi bệnh tật thì được chăm sóc, khi buồn phiền thì có người an ủi…
+ Chúa khuyên tôi ở lại vì Ngài biết tôi có thể bỏ đi. Tôi bỏ đi khi tôi không còn coi đó là nhà mình nữa, tôi tìm một chỗ khác mà tôi nghĩ là nhà mình; Tôi bỏ đi khi tôi tưởng là trong nhà đo người ta không thương tôi nữa do tôi đã lầm lỡ thế nào đó.
+ Nhưng khi Chúa bảo tôi “hãy ở lại” nghĩa là Ngài khẳng định rằng dù tôi thế nào đi nữa thì tôi vẫn được Ngài thương yêu, và không chỗ nào khác ở ngoài là nhà thực sự của tôi.
* 6. Như Thầy đã yêu (Ga 15,9-17)
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: “10.645 người nghèo đã khỏi mù”. Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đong ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79, 5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.
***
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chu ông và tôi tớ, nhưng chính là “Bạn hữu thân tình”.
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho cac con biết” (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: “Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô day: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “Như Thầy đã yêu”. Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viết: “Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, ma việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể# Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”.
***
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dấu chỉ chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu là tuân giữ giới răn yêu thương mà Người đã trối lại. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con được hiệp thông với Chúa nhờ lời Chúa và Thánh Thể Chúa, xin giúp chúng con biết sinh hoa kết quả trong việc tha thứ giúp đỡ mọi người, để chúng con trở thành chứng nhân tình yêu Chúa cho mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa đã yeu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta. Chúng ta hãy hết sức sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự ganh ghét, thù hận, ích kỷ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp… “
– Chúc bình an: Chúng ta hãy thể hiện lòng yêu thương nhau qua việc chúc bình an cho nhau một cách thật lòng.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Chúc anh chị em về bình an và cố gắng sống yêu thương với hết mọi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu truyền dậy: Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con. Chúa Giêsu đã tóm kết các giới răn của đạo cũ và mới vào hai điều: Yêu Chúa và yêu người. Chúng ta không xa lạ gì với giới răn cao trọng này. Tình yêu là một mầu nhiệm. Chúng ta thuộc lòng các giới răn: Yêu Chúa, yêu tha nhân như chính mình và yêu thương cả kẻ thù. Thánh Gioan nói: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa (1Ga 4,7).Ai trong chúng ta cũng biết yêu, vì chúng ta được sinh ra trong tình yêu. Nhưng chẳng ai định nghĩa được tình yêu. Chỉ những người đang yêu mới hiểu và cảm nhận được ý nghĩa của tình yêu.
Trong văn học, người ta dùng ca dao, tục ngữ, châm ngôn, thi phú, ca nhạc và văn thơ để ca ngợi và đánh bóng từ ngữ ‘tình yêu’. Tình yêu có nhiều mức độ như chúng ta có cảm tình, ưa, chịu, hợp, khoái, thích, thương, chuộng, mến… rồi yêu. Tình yêu cũng có nhiều cấp bậc. Tình yêu gia đình và con cái, tình yêu trai gái, yêu quê hương xứ sở, yêu quốc gia dân tộc, yêu giáo hội và yêu thương nhân loại. Chúng ta chẳng có thể kể ra hết các loại yêu vì chúng ta đang đan xen chằng chịt trong tình yêu. Thật rất khó để hình dung một tình yêu tinh tuyền không đối tượng. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận một tình yêu qua những hành vi cử chỉ được biểu lộ. Tình yêu gắn kết giữa trái tim, ý chí, trí khôn và đối tượng yêu.
Quan sát thế giới chung quanh, có bao nhiêu điều và bao nhiêu người mà chúng ta thật sự yêu thích? Những người hàng xóm láng giềng, chúng ta gặp gỡ và chào hỏi nhau hằng ngày. Chúng ta cũng chẳng yêu và chẳng ghét họ. Có nhiều người cùng dân tộc, mầu da, tiếng nói, nói chung, chúng ta cũng chỉ có chút cảm tình, chúng ta có thể biết nhau và hiểu nhau, nhưng nói là yêu nhau thì chắc là không. Những người bạn cùng sinh hoạt trong một nhóm hội, một cộng đoàn, một giáo xứ, chúng ta cũng chẳng quan tâm nhiều lắm. Nếu nói yêu thích thì không hẳn, nhưng chúng ta có chút tình cảm thân thương, liên đới và sự gắn bó gần gũi.
Chúng ta thử giới hạn lại trong đời sống đại gia đình, trong đó có cha mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em là những người sống gần gũi nhất, chúng ta thật sự yêu thương họ bao nhiêu. Trong gia đình, đôi khi anh chị em chúng ta còn tranh dành, cãi cọ, phiền trách và giận hờn nhau. Tình yêu dành cho những người thân thường được biểu lộ qua sự quan tâm, lo lắng, cảm thông, tha thứ, hy sinh và chăm sóc cho nhau. Hãy tự vấn xem chúng ta có đối xử tốt, tôn trọng, quí mến và yêu thương nhau thật tình không? Gia đình chính là tổ ấm của tình yêu.
Tất cả mọi thứ tình yêu trên đời đều tương đối và vô thường. Tình yêu cha mẹ con cái được kể là sâu đậm nhất. Tình yêu vợ chồng rất cao quí thật đáng khâm phục và tôn trọng. Trong cuộc đời, đã có những cặp vợ chồng sống trung tín tới tuổi già và tóc bạc răng long. Chính họ đã biết lo lắng, thông cảm, tha thứ và hoàn thiện lẫn nhau. Họ đã dám hy sinh cho nhau và cho con cái, cao quí nhất vẫn là tình phụ và mẫu tử. Qua mọi thời, đã và đang có nhiều gia đình sống trong an vui và hạnh phúc yêu thương.
Đời thường người ta đề cao tình yêu trai gái và tình yêu lứa đôi là cao đẹp và gắn bó nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy có rất nhiều anh chị lúc đầu yêu nhau tha thiết quyết định đi đến hôn nhân, nhưng rồi sau một thời gian chung sống, nhiều cặp vợ chồng cũng có những đổ bể, ly thân, ly dị và thù ghét nhau. Theo dõi tin tức xa gần, chúng ta nghe biết đã có những người dám tự tử vì yêu. Trong những trường hợp này, có lẽ họ đã đặt nền tảng tình yêu trên nền cát và sự chọn lựa không cân xứng. Vì không chiếm hữu được hoặc bị mất người yêu, nên đã tự tử. Đây có thể là một thứ tình yêu bồng bột, tình yêu Solonpas, tiếng sét ái tình và tuyệt vọng vì yêu.
Chúng ta suy về ý nghĩa đích thực của chữ YÊU. Tình yêu quanh quyện trong lòng mọi lúc và ở mọi nơi. Yêu nhau ở xa thì nhớ, ở gần thì thương. Thương nhau là muốn ôm ấp, muốn ngắm nhìn, muốn chia sẻ, muốn lo lắng chăm sóc và muốn ở bên cạnh. Xem ra tình yêu rất bao la, nhưng cung rất giới hạn. Chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương mọi người, nhưng thực sự chúng ta chẳng yêu thương ai tròn đầy. Chỉ nói tiếng yêu cho đẹp thôi. Làm sao gọi là tình yêu, khi làm việc gì cũng so sánh, chành cạnh, phân biệt hơn thua và còn lạm dụng lẫn nhau để tiến thân. Tuy nhiên xét cho cùng, về mặt tích cực của tình yêu gia đình, vì có yêu thương nên mới có ghen và vì có yêu nhau nên có những sự góp ý, chỉnh sửa, cấm cản, cằn nhằn và tranh cãi cũng là để giúp nhau nên hoàn thiện. Mỗi người hãy tự hỏi ai là người chúng ta yêu thương nhất và chúng ta đã đối xử với người đó thế nào?
Chúng ta có thể tìm mẫu tình yêu chân chính và cao quí nơi Chúa Giesu. Chúa Giêsu cho chúng ta một giải đáp của tình yêu:Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã hy sinh hiến mình trên thập giá để cứu độ chung ta. Chúng ta biết rằng họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Chúa Giêsu đã chết cho kẻ tội lỗi là chúng ta. Tình yêu của Chúa vượt trên mọi thù hành, ganh ghét, bách hại, tù đầy và giết chóc. Tình yêu thí mạng của Chúa cao vượt mọi thứ tình yêu. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu như Chúa yêu.
Có lẽ phần đông trong chúng ta sống giới luật yêu thương cách ơ hờ như khách bàng quan. Đôi khi chúng ta cũng cảm thông và động lòng trắc ẩn chia sẻ chút ít cơm áo, tiền bạc giúp đỡ những người đau khổ và cùng khốn trong một vài trường hợp. Việc bác ái của chúng ta còn bị cân đo đong đếm và rất giới hạn. Làm phước nhưng muốn được phước báo ngay, cần phải có lời cám ơn, đăng tên hoặc muốn được nêu danh khen ngợi. Tình yêu của chúng ta bị giới hạn trong sự ích kỷ riêng tư và thiếu vị tha. Chúng ta thường muốn sống trong tình yêu trao đổi cân xứng. Thật ra yêu nhiều thì cho nhiều và cho nhiều là yêu nhiều. Tình yêu vị tha được nhận biết và trân quí khi chúng ta có từ bi tâm và hiến mình vì người khác.
Trong Giáo Hội, không thiếu những vị đã học bài học yêu nơi Chúa. Các ngài đã dám xả thân vì bạn hữu như các vị: Cha thánh Đamien of Molokai, tông đồ người hủi tại Hawaii; Thánh Francis Xavier hiến dâng cuộc đời đem tin mừng cho các dân tộc Á Châu; Đức cha Jean Cassaigne đã hiến thân mình nơi trại cùi Di Linh, Việt Nam. Chân phước Têrêxa thành Calcutta hy sinh một đời phục vụ những kẻ cùng khốn tại Ấn Độ và qua mọi thời đại, đã có rất nhiều mẫu gương của các đấng bậc và anh chị em đáng yêu kính đã dõi theo bước chân của Thầy Chí Thanh để xả thân vì yêu. Các ngài đã học yêu thương như Chúa đã yêu các ngài.
Lạy Chúa, chúng con muốn yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết tâm hồn và hết sức cùng yêu thương anh chị em như chính mình. Chúng con ước muốn yêu và được yêu, nhưng lòng chúng con vẫn thờ ơ và chìm đắm trong tham sân si mà thiếu lòng bao dung. Chúa còn mời gọi chúng con hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho kẻ thù thì chúng con có thể làm, nhưng tha thứ và yêu họ thì chúng con cứ khất lần. Lạy Chúa Thánh Thần, xin mở lòng, mở trí và ban thêm sức mạnh để chúng con biết yêu và yêu như Chúa đã yêu chúng con.
Ngày nay, bạn đã nghe nói nhiều về việc chọn lựa Chúa Giêsu. Người ta nói đến việc cam kết dấn thân theo Chúa Giêsu, quyết định bước theo Chúa Giêsu và dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho Người. Tôi nghĩ loại ngôn ngữ này rất quan trọng. Chúng ta phải cam kết dấn thân cho Chúa Giêsu. Chúng ta phải quyết định theo sát Chúa Giêsu hay là không.
Việc chúng ta cam kết dấn thân theo Chúa Giêsu thì rất quan trọng, nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là chúng ta cần phải nhớ Chúa Kitô đã cam kết dấn thân cho chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói rất rõ ràng điều đó: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Nếu phản tỉnh về đời sống của mình, chúng ta se dễ dàng nhớ đến những lần mình đã bội nghĩa bất trung với Chúa. Nhưng Chúa Giêsu vẫn trung tín với giao ước mà Người đã cam kết dấn thân với chúng ta. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta và tình yêu đó đã thúc đẩy Người dấn thân chịu chết trên đồi Canvê vì chúng ta. Sự bất trung của chúng ta không bao giờ có thể làm biến đổi tình yêu trung tín của Người dành cho chúng ta.
Cuộc đời của thánh Matthia cho chúng ta thấy rõ sự dấn thân của Chúa Giêsu cho chúng ta. Thánh Matthia được chọn lựa là tông đồ sau khi Chúa Giêsu đã chịu chết và đã sống lại. Ngài thay thế cho tông đồ Giuđa, kẻ đã tự tử. Hãy nhớ lại ngài đã được tuyển chọn như thế nào để trở thành một người trong nhóm mười hai? Họ đã rút thăm và ông Matthia đã trúng thăm. Matthia biết rằng ông không quyết định trở thành một thành viên của nhóm mười hai, nhưng ông đã được chọn lựa và được chọn bởi chính Chúa Giêsu.
Chung ta cũng được Chúa kêu gọi và tuyển chọn. Lời cam kết dấn thân của chúng ta chỉ là một cách đáp ứng lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Người đã chọn bạn và cả cuộc đời của bạn phải trở nên một lời đáp trả yêu thương đối với lời mời gọi đó.
Ở đây có nét tương tự như lời cầu hôn. Chúa Giêsu ngỏ lời với bạn, mời gọi bạn, và đề nghị với bạn. Người nói với bạn là Người yêu thương bạn, và Người hỏi bạn có yêu Người không?
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì lời mời gọi yêu thương của Chúa. Xin Chúa ban cho con ơn biết cam kết dấn thân cho Chúa.
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khac dòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nước. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa ngủ, cắn răng chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nươc, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người co thân nhân bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là câu chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 nam 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “Ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hanh khách sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em… Đieu Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dậy yêu thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yeu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra mon đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Kitô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận gì việc gì… Du lý do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người; giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)
TÌNH THƯƠNG CAO CẢ
Đây là lời tâm sự của một người sắp hiến dâng mạng sống. Đây cũng là những lời yêu thương cuối cùng của một người mà suốt đời chỉ biết yêu thương.
Tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta bắt nguồn từ tình yêu của Chúa Cha là tình yêu bản thể: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Chúng ta thật diễm phúc! Tình yêu của Chúa không bao giờ vơi cạn, không bao giờ thay đổi như tình yêu của con người, vì Ngài là nguồn suối tình yêu.
Chúng ta là gì mà được yêu thương như vậy? Phải chi chúng ta tốt, phải chi chúng ta đáng yêu! Nhưng người yêu càng bất xứng thì tình yêu càng cao thượng. Đối với Chúa, tình yêu của Ngài không kể người xứng đáng hay bất xứng. Ngài yêu thương mọi người không trừ ai. Ngài không biết chọn lựa. Vì Ngài là Tình Yêu.
Ngài vẫn yêu thương chúng ta mặc dù chúng ta bất xứng, nhưng chúng ta có chấp nhận tình yêu của Ngài không? “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Làm như Ngài phải nài nĩ chúng ta. Một tác giả đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Ngài khiêm tốn. Tình yêu thành thật bao giờ cũng khiêm tốn. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài mới thực sự khiêm tốn”. Đứng trước sự khiêm tốn lạ lùng của Chúa, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta vẫn không để ý gì?
Chúa vẫn tha thiết yêu thương chúng ta, nhưng tình yêu của Ngài không ủy mị, mềm yếu. Ngài mong ước chúng ta đáp trả không phải bằng một thứ tình yêu dựa trên tình cảm mà dựa trên việc làm, tức là dựa trên ý chí: “Nếu anh em giữ những điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Chính Ngài đã yêu Chúa Cha bằng thứ tình yêu mạnh mẽ đó: “Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và Thầy ở lại trong tình thương của Người”. Thầy chính là gương mẫu duy nhất của tình yêu. Những người chấp nhận tình yêu của Chúa Giêsu phải theo một gương mẫu đó thôi.
“Thầy đã giữ những điều răn của Cha Thầy”. Những điều răn đó đã đưa Ngài đến cái chết ô nhục trên thập giá, với tất cả những khổ hình đau đớn kèm theo. Chúng ta sẽ giữ những điều răn của Ngài như thế nào? Đến mức độ nào?
Điều răn của Thầy không có gì khác là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là vô điều kiện, và nếu có điều kiện thì chỉ có một: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Chính Chúa đã làm điều đó. Cái chết của Ngài là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha, đồng thời là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tình yêu đích thực bao giờ cũng vô điều kiện, và đến tận cùng. Chúa Giêsu là gương mẫu không thể sánh được.
Chúng ta đã thực hiện những gì Chúa dạy chưa? Thực ra ở đời, cũng có những mối tình tương tự, dám hy sinh tất cả cho người yêu. Không mấy người trong chúng ta dám yêu đến như thế. Yêu một người thì dễ, nhưng yêu thương mọi người mới khó. Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương hết mọi người, và “như Ngài đã yêu”, nghĩa là dám thí mạng sống mình cho bạn hữu. Thí mạng sống giống như Chúa thì chỉ có một vài người làm được, nhưng chúng ta có thể thí mạng sống từng ngày, hao mòn cho mọi người, chết dần chết mòn trong phục vụ mỗi ngày. Chúng ta có thể làm được. Mẹ Têrêxa Calcutta là hình ảnh sống động và gần gũi với chúng ta nhất. Mẹ đã hao mòn cho những người bé mọn.
Chúng ta đang sống trong một thế giới không có tình yêu: chiến tranh, khủng bố, tù đày,vô cảm… Nhưng trong thế giới đó cũng có rất nhiều tâm hồn quảng đại, xả thân cho những người khốn khổ. Nơi đâu tình yêu được phát triển, nơi đó Thiên Chúa được tỏ hiện.
Chúng ta dễ mơ mộng, chúng ta cứ tưởng mình đã biết yêu thương nhiều rồi. Thực ra, chúng ta cũng đã có làm cái gì đó cho người nầy hay người kia, và chúng ta bằng lòng với những việc làm nho nhỏ đó. Chúng ta không làm gì hơn nữa. Như thế không phải là yêu, vì tình yêu không bao giờ dừng lại mà luôn là hơn nữa. Phải đi đến mức tận cùng, phải cho đi đến mức độ không còn gì để cho, như Chúa chúng ta. Làm sao chúng ta có thể đạt đến mức độ như thế ? Chỉ khi nào chúng ta dám nói như thánh Phaolô: “Sống đối với tôi là Chúa Giêsu Kitô”. Vì chúng ta chỉ là nhánh, chúng ta phải gắn liền với cây: “Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Tất cả do Thầy mà thôi, vì không có Thầy anh em chẳng làm được gì.
Thầy chọn anh em chứ anh em không chọn Thầy, Thầy cắt đặt anh em ra đi, sinh được nhiều trái. Lúc đó, niềm vui của anh em mới trọn vẹn. Chỉ có Thầy mới là niềm vui thật.
Tại sao những người như Mẹ Têrêxa Calcutta, chỉ một mình với bàn tay trắng đã tạo nên một làn sóng bác ái trên khắp thế giới? Tại sao Thánh Piô, trong tu viện đã làm cho bao nhiêu người trở về với Chúa? Tại sao thánh Gioan-Maria Vianney, một cha xứ nhỏ bé, đã đem bao nhiêu linh hồn về với Chúa? Chỉ vì họ đã gắn chặt vào cây nho thật, vì họ đã ở lại trong tình thương của Thầy, đã yêu thương thực sự như Thầy đã yêu thương, họ đã sinh nhiều hoa trái.
Chúng ta không làm được gì, không phải vì chúng ta bất tài, cũng không phải chúng ta không có phương tiện hay môi trường thuận lợi, mà vì chúng ta là những nhánh nho không trái, cằn cỗi hay tệ hơn, chúng ta đã không dính liền với cây nho. Gắn chặt vào Chúa Kitô, chúng ta mới biết cho đi, biết phải làm gì. Phải ở lại trong tình thương của Thầy, chúng ta mới trở thành tình thương như Chúa Giêsu ở lại trong tình thương của Chúa Cha.
Hãy kiểm soát lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. Chúa gọi chúng ta là bạn hữu, chúng ta có liên kết với Ngài trong tình thân như Ngài đã liên đới với chúng ta không ?
Chúa Giêsu là người yêu duy nhất đã liều mạng cho bạn hữu, đã lấy thịt máu mình nuôi bạn hữu mình. Nhờ đó, Ngài nên một với chúng ta. Chúng ta hãy ăn lấy Chúa, như Chúa mong ước, nhưng ăn lấy Ngài là sống trong Ngài, với Ngài, thành một với Ngài, chúng ta mới có can đảm yêu thương anh em như Ngài đã ước mong. Như thế, tình yêu của Ngài sẽ được lan rộng quanh chúng ta, chúng ta sẽ là những nhành nho sai trái.
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả thực, tôi biết Thiên Chúa không thiên vị ngươi nào” (Cv 10,34)
Trong bài ca “Một lần trong đời”, phần điệp khúc đã lập đi lập lại câu: “Đời vẫn như thế, cuộc sống vẫn như vậy…”. Không biết điệp khúc này muốn nhấn mạnh đến tính “vẫn như thế” hay tính bất biến không đổi thay của cuộc sống, thắc mắc này vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy thế, người ta nghiệm thấy trong cuộc sống vẫn có những điều đổi thay, tăng trưởng và cả sự bền vững, không đổi thay của thực tại. Kinh nghiệm Phục sinh của các tong đồ cho chúng ta thấy nhiều minh họa về sự thường hằng và cả sự đổi thay này.
Chúng ta biết Thiên Chúa vẫn như thế, không đổi thay và vĩnh cửu, như Người đã tỏ lộ cho ông Mô-sê “Ta là Đấng Hằng sống” (Xh 3,14). Ở tâm điểm của Hữu thể không đổi thay của Thiên Chúa là chính sự Hiệp nhất và Tình Yêu. Tuy nhiên, cách mà sự hiệp nhất và tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ cho các tông đồ, các môn đệ của thời Giáo hội tiên khởi, lại dường như phá vỡ sự bất biến không đổi thay của bản tính Thiên Chúa. Qua việc sai phái Người Con một của Thiên Chúa là Đức Giêsu Ki-tô xuống trần gian để cứu chuộc chúng ta khi chiến thắng trên tội lỗi và sự chết, và sau đó trao ban Thánh Thần an ủi để hướng dẫn Giáo hội, có điều gì đó làm đổi thay cách thế chúng ta biết và cảm nghiệm về hữu thể và tình yêu của Thiên Chúa.
Hẳn rằng không phải tình yêu của Thiên Chúa là điều mới me đối với người Do Thái. Như lá thứ thứ nhất của Thánh Gio-an đã nói tới điều này “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa”. Tình yêu của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong suốt lịch sử của dân Ít-ra-en. Tuy nhiên “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống”. Chính qua sự biểu lộ của Người Con Một, mà có một điều gì mới đã xảy ra.
Điều mới mẻ này được tìm thấy nơi sự phát triển mở rộng của Giáo hội sau biến cố Phục sinh của Đức Ki-tô, và nó làm cho những gì Đức Giêsu đã thực hiện không chỉ dành cho một nhóm nhỏ các môn đệ của Ngài, nhưng cho toàn thể nhân loại. Đã chẳng có một lối đường rõ ràng cho Giáo hội, một đồ án hay một bản hướng dẫn cho kế hoạch phát triển 5 năm của Giáo hội. Những gì mà các tông đồ có được vẫn là ân huệ của Chúa Thánh Thần để giúp họ nhận biết sứ mệnh của mình và khám phá ra Giáo hội thực sự là gì.
Vẫn còn có một thứ sa mạc trong Chúa Thánh Thần, một điều gì đó dường như chưa thuần thục hay chưa kiểm soát được, và công việc của Chúa Thánh Thần có thể làm thay đổi những lối tư duy và hành động cũ kỹ. Hẳn rằng điều này cũng thách đố chính Giáo hội tiên khởi, như chúng ta nhìn thấy trong cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Cornelius trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Qua những thị kiến, cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần, Phêrô đã đi đến một lối nhận định mơi mẻ: Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho cả Dân ngoại nữa. Nếu chuyện này dường như không tạo nên cơn “sốc” cho chúng ta, đó là vì chúng ta đã được Phêrô và các tông đồ chia sẻ: ngay cả các dân ngoại cũng được cứu độ. Thế nhưng chính sách Công vụ cũng nói tới việc Phêrô bị “sốc” về chuyện này (Cv 10).
Tính chất mới mẻ về việc cả dân ngoại cũng được đón nhận, đã được công bố qua lời của Phêrô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa khong thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”. Đây là điều thực sự mới mẻ, mới mẻ tận căn, mở ra con đường mới cho sứ mệnh phổ quát của Giáo hội. Phêrô không đợi sự đồng thuận của các tông đồ khác, nhưng hành động dựa vào sự cảm nghiệm Thánh Thần Thiên Chúa ở giữa họ. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”. Thế rồi, Phêrô đã làm phép rửa cho họ.
Người ta không thể chối bỏ sự đổi thay gây sốc này trên các môn đệ của Đức Giêsu qua tác động của Thánh Thần, và tính mơi mẻ của việc dân ngoại cũng được đón nhận, dầu Phêrô có quyết định một cách nhanh chóng, cũng cần được Giáo hội phê chuẩn tại công đồng Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng tính mới mẻ này cũng ở ngay trong trạng thái thường hằng của nó, tức là trong tình yêu không đổi thay của Thiên Chúa. Vì những gì mà Giáo hội được mời gọi thực thi cũng chính là việc đưa toàn thể thế giới tới với lời mời gọi tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, một điều xem ra rất xưa, nhưng lại được làm mới mẻ trong tương giao với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Đây là giới răn của Thày: anh em hãy yêu mến nhau như Thày đã yêu thương anh em” – Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu cận nhân, vốn vẫn như thế, nhưng đã được làm nên mới hoàn toàn.
“Con chim trước khi chết thì cất tiếng hót bi thương; con người trước khi chết thì lời nói rất chân thật”. Điều này chúng ta có thể lấy Chúa Giêsu làm bằng chứng. Trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi chịu chết, Chúa đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Một trong những chỉ thị ấy coi như bao hàm mọi chỉ thị khác là “anh em hãy yêu thương nhau” trong bài Tin Mừng hôm nay.
Luật cũ trong Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”. Nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu bản thân tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Đó là mức yêu thương cao độ lắm rồi, nhưng vẫn còn giới hạn và chưa loại trừ được hết những động lực vị kỷ. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và Ngài đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Đó là Ngài dạy: hãy yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Chúng ta không chỉ lấy chính mình làm tiêu chuẩn: yêu người như mình, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn và kiểu mẫu; yêu người như Chúa yêu. Chúng ta phải yêu như Ngài đã yêu.
Chúa đã yêu như thế nào? Cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã yêu thương tất cả mọi người và mỗi người một cách thiết thực và yêu thương cho đến cùng. Ngài không để ai về tay không mỗi khi họ đến với Ngài: người mù được sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, người mẹ mất con được lại con, người chị mất em được lại em, thậm chí đám cưới đang lúng túng vì thiếu rượu cũng được Ngài cho rượu tràn trề. Ngài quan tâm cả tới nỗi mệt nhọc của môn đệ và đưa họ đi nghỉ dưỡng sức. Ngài quan tâm tới những yếu đuối của họ để sửa dạy và nâng đỡ. Tình yêu của Ngài thiết thực như một người mẹ hiền săn sóc con cái.
Có những người xem ra không xứng đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ. Những cô gái điếm cũng có giá trị đối với Ngài. Với những người sống ngoài lề xã hội, những người mà không một ai thèm để ý tới, thì Ngài đã nhìn nhận họ và chuyện trò với họ. Tất cả mọi người trước mắt Ngài đều rat quan trọng. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp hiểm nguy. Và cuối cùng, Ngài đã hy sinh đến chết, vì Ngài không muốn và không thể cắt đứt sự yêu thương, đúng như Ngài đã nói: “Tình yêu cao quý nhất la chết cho người mình yêu”.
Tình yêu của Chúa cao đẹp quá, cao quí quá và Chúa bảo chúng ta hãy yêu như Ngài. Thật khó quá, nhưng Chúa truyền chúng ta phải thực hiện bao nhiêu có thể. Xin hãy nhớ câu chuyện cùng lời khuyên sau đây và cố gắng thực hiện: trong một lớp học kia,một thầy giáo bất ngờ ra bài làm cho các học sinh như sau: “Từ nay đến cuối tuần, mỗi em hãy tìm quan sát một loại hoa tầm thường nở bên vệ đường hay ngoài đồng nội. Những bông hoa không được ai để ý và đặt tên cho đàng hoàng, nhưng chỉ được gọi bằng một tên chung là “hoa dại”. Không có giá trị gì cả”. Cả lớp học hăng say thực hiện điều thầy giáo muốn. Mỗi em cầm theo một cái kính lup để quan sát thật kỹ những bông hoa dại. Sau đó từng em đã mô tả những nét đẹp của những bông hoa dại mà các em đã quan sát; và cả lớp đều công nhận: những bông hoa dại bị khinh thường đều có những vẻ đẹp riêng tuyet vời không ngờ được.
Cuối cùng, thầy giáo lên tiếng kết luận: “Các em đã có kinh nghiệm rồi đó. Nếu chúng ta chú ý quan sát, và dành thời giờ để quan sát đi quan sát lại, thì cả vật tầm thường nhất như bông hoa dại kia cũng sẽ xuất hiện vẻ đẹp trước mắt chúng ta. Ap dụng vào mối tương quan giữa người với người, các em hãy nhớ điều này: mỗi người là một kỳ công tuyệt đẹp của Đấng Tạo Hóa. Nét đẹp của mỗi người khác nhau mà chúng ta không thể quan sát cho hết được. Thế nhưng, mỗi người chúng ta không có thời giờ dành cho nhau để tìm hiểu nhau, chúng ta chỉ biết nhau một cách hời hợt bên ngoài. Chúng ta chỉ nhớ ghi nhận những tật xấu, những khuyết điểm, những lỗi lầm… mà quên đi hay không muốn nhìn đến cái hay cái đẹp nơi người chúng ta gặp. Chúng ta không thể có tất cả những gì, những ai chúng ta thích, nhưng hãy yêu thích những gì chúng ta có; hãy yêu mến những ai chúng ta gặp hằng ngày”.
Ước chi những lời nhận định của thầy giáo trên đây thức tỉnh mỗi người chúng ta về mối tương quan của mình đối với anh chị em chung quanh: chúng ta có dành đủ thời giờ để tìm hiểu và nhận ra những điều tốt nơi anh chị em chung quanh hay không? Có phải vì năng gặp mỗi ngày mà chúng ta có thái độ coi thường, không biết tôn trọng không? Có phải vì khó khăn này nọ mà chúng ta không để ý tới hay thờ ơ đối với anh chị em sống quanh chúng ta không? Có phải vì một điều gì đó mà chúng ta né tránh và phủ nhận điều cao đẹp của họ không?
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm vieng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.
Vị tu sĩ đáp “có chứ”.
Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.
Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.
Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.
Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.
Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (Bài đọc 2).
Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiem có trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…, và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.
Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải la chứng tỏ hoặc giải nghĩa.
Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thanh một người làm vườn, một người biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương của trái tim, để co khả năng tạo ra được những hoa quả của tình yêu.
Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.
(Suy niệm của Giuse Hoàng Hải Đăng, OP)
Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em
Cộng đoàn thân mến!
Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng cũng là từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Bởi chưng, con người hiểu những từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ xác thịt. có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu là thuộc cảm tính. Và để hiểu rõ bản chất của tình yêu, một tình yêu đích thực, chúng ta hãy ngụp lặn sâu trong dòng sông huyền diệu của Tin Mừng theo thánh Gioan ngõ hầu nhận ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó chính là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Đây chính là những lời tâm huyết của Đức Kitô đã nói với các môn đệ trước giờ tử nạn.
Tình yêu của Thiên Chúa đã được thể hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong Đức Kitô. Đó là tình yêu hoàn toàn nhưng không. Tình yêu ấy cao cả đến nỗi Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Người (Ga 3, 16). Thiên Chúa không phải chỉ trao ban một món quà hay một cái gì ngoài mình nhưng là trao đi một điều gì đó thân thiết và quý báu nhất của mình. Và điều quý báu đó chính là Đức Giêsu Kitô, người Con Một của Người. Khi trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho ta chính bản thân Người. Người chấp nhận Con Một của Người phải chết trên thập giá để chúng ta được sống. Một tình yêu không hề biết giữ lại cho mình điều gì dù có quý giá đến đâu.
Bên cạnh đó, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là tình yêu của sự chia sẻ, của sự quên mình và mong muốn hanh phúc cho người mình yêu “ để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tình yêu này lan toả đến hết mọi người không phân biệt tốt xấu cũng như không loại trừ ai dù lành hay dữ.
Và đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa chính là sự từ bỏ. Người đã tôn trọng quyền tự do của chúng ta, mặc dù Người không muốn chúng ta phải chịu cảnh trầm luân đời đời. Nhờ đó, chúng ta có đầy đủ tự do để có thể tin hoặc không tin, có thể chấp nhận hay từ chối quà tặng của Thiên Chúa, và có thể mở ra hay khép lại trước sự sống đã được Thiên Chúa trao ban.
Tình yêu Thiên Chúa là như thế đó. Một tình yêu hoàn toàn như không. Và hơn thế nữa, Người còn chỉ dạy cách thức để chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Cách thức đó là “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15, 10)
Và khi đã ở trong tình yêu của Người, trái tim của chúng ta sẽ hoà chung nhịp đập với nhịp đập của trái tim Người. Nhờ đó, những tâm tư, hành động của chúng ta sẽ rập khuôn theo những tâm tư, hành động của Người và ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người hơn. Khi ấy, tình yêu của chúng ta được nên trọn vẹn. Một tình yêu có đôi tay để ân cần giúp đỡ người khác, có đôi chân để vội vã đến với người nghèo, kẻ cần sự giúp đỡ; có đôi mắt để thấy nỗi đau khổ và những mong muốn, khát vọng của kẻ khác; có đôi tai để nghe nỗi thống khổ của đồng loại. (Thánh Âutinh)
Và khi đã yêu thương như thế, chúng ta sẽ sống với trái tim cởi mở, không còn giới hạn, không còn loại trừ nhau và đón nhận những bất toàn, khác biệt nơi anh em mình với sự tôn trọng. Một khi chúng ta đón nhận những cái khác biệt của nhau tưc là đã có cái nhìn tôn trọng và thông cảm đối với con người, đã đi sâu vào tận cõi lòng của con người, để hoà chung một tấm lòng, cùng rung động theo niềm vui, nỗi buồn của nhau. Nhờ đó, ta sẵn sàng cho đi mà không chơ đợi sự đáp trả của người khác, nhưng chỉ biết rằng bất cứ hành động yêu thương nào cũng dẫn đến niềm vui cho người đón nhận cũng như cho người trao ban. Khi ấy, chúng ta cảm thấy an vui và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gieo vào tâm hồn chúng con lòng quảng đại để chúng con luôn tưởng nghĩ đến tha nhân, biết quan tâm đến những người anh em và biết san sẻ tình thương cho mọi người, để sau này chúng con sẽ gặt được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa. Vì lạy Chúa, chính Người là tình yêu, là kho tàng quý giá nhất đời con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con dấn thân hy sinh, phục vụ cho tha nhân, xin Chúa cũng dạy chúng con biết dùng những lời nói yêu thương, cử chỉ trìu mến mà an ủi nâng đỡ và khích lệ họ. Vì có như thế, mới chứng tỏ chúng con thực sự yêu họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nha thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện như sau:
Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ “Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện của Ta”.
Nếu không có tình yêu, thì mục đích các cuộc sống là gì? William Blake đã nói một câu như sau: “Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng của tình yêu”.
Nhưng chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó. Một lò sưởi không thể tỏa ra sức nóng, trừ phi nó đã được đón nhận sức nóng từ trước đó. Điều này cũng đúng cả với Đức Giêsu. Người nói với các môn đệ của Người “Như Cha Ta đã yêu mến Ta, nên Ta cũng yêu mến anh em”. Tình yêu mà Người chia sẻ một cách quá quảng đại cho các môn đệ của Người, và cho mọi người nói chung, chính là tình yêu mà Người đã đón nhận từ Chúa Cha, Đức Maria, Thánh Giuse và cả những người khác nữa.
Không phải là một dấu hiệu yếu đuối, khi thừa nhận rằng người ta cần đến tình yêu. Chúng ta nên nhìn nhận và biết ơn vì tình yêu mà chúng ta đã được đón nhận. Chúng ta không cần phải tìm kiếm tình yêu đó, bởi vì có liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Người yêu thương chúng ta, không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng chỉ vì Người là Đấng nhân lành. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu của Thiên Chúa. Tất cả điều mà chúng ta phải làm là đón nhận tình yêu này, và rồi cố gắng chia sẽ tình yêu đó cho những người khác.
Được yêu thương nghĩa là có hạnh phúc. Tình yêu làm cho cuộc sống trổ sinh hoa quả. Khước từ tình yêu nghĩa là bắt đầu chết. Khi yêu là bắt đầu sống. Ít người nào có cơ hội bày tỏ tình yêu của mình với người khác bằng cách chết đi cho họ. Nhưng tất cả mọi người đều có cơ hội sống cho người khác.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy cho chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.
Có một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin khoan để con chết đi, bởi vì con chưa yêu đủ”. Đây là một lời cầu nguyện mà chúng ta nên đọc cho bản thân mình.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo Đức và hỏi:
– Ngài có tin Thiên Chúa không?
– Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
– Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao mà cảm nhận được như thế?
– Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:
– Xin ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
– Bằng cách thực hiện những việc yeu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa va sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: “Anh em thân mến, chúng ta hãy thương yêu nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Thực vậy, tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì vực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả nang yêu thương. Tuy nhiên, để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
CHÚNG TA PHẢI YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẾ NÀO? ĐÓ LÀ TÌNH YÊU VỊ THA
Tại sao chúng ta phải yêu thương nhau? Bài đọc hai và bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta trả lời câu hỏi này. Nhưng câu hỏi còn khẩn thiết hơn cả là chúng ta cần yêu thương nhau như thế nào?
Trong Tân ước thì Tin mừng và cả ba thư của Gioan đều có chung văn phong, nhấn mạnh những điểm thần học giống nhau và bàn đến những vấn đề ảnh hưởng đến các tín hữu sơ khai. Vì những điểm tương đồng vừa nêu, các bản văn này được gọi chung là văn chương Gioan, và chúng dường như xuất phát từ cùng một cộng đoàn.
Tình yêu thương tràn ngập trong bài đọc hai. Các thành viên trong cộng đoàn được gọi là “các con thân mến” (agapetoi), và họ được dạy bảo yêu thương nhau (agape) vì Thiên Chúa yêu thương họ. Hơn nữa, đoạn văn đưa ra một tuyên bố đơn giản, trực tiếp, nhưng vô cùng sâu sắc: Thiên Chúa là tình yêu. Để hiểu được ý nghĩa của câu nói này, chúng ta phải nhìn vào cuộc tử nạn của Đức Kitô, được hiểu như một hành động yêu thương vô vị lợi. Trong những câu tiếp theo (chúng ta sẽ nghe vào tuần sau), thư thứ nhất của thánh Gioan khẳng định việc bắt chước tình yêu của Thiên Chúa qua những hành động yêu thương vô vị lợi của chúng ta đã cho phép Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta được tuyệt hảo (1Ga 4,12).
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng phải tuân giữ lệnh truyền “hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.” Hơn nữa, Chúa Giêsu công bố rằng tình yêu vô vị lợi đến từ sự sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Trong trình thuật Tin mừng, Chúa Giêsu bị bắt sau liền ngay sau khi công bố giới răn này, vì vậy Ngài đang chuẩn bị cho các môn đệ hiểu và giải thích việc Ngài bị đóng đinh như một mẫu gương về tình yêu vị tha (agape).
Thật không may, thế giới tràn ngập sự thù ghét. Nhiều người không sống vị tha, mà còn sống thù ghét và coi thường người khác. Thậm chí còn tệ hơn nữa, nhiều người nhận mình là môn đệ Đức Kitô trong khi tuôn ra sự thù ghét người khác. Tình yêu mà cộng đoàn của Gioan vạch ra có lẽ khó thực hiện, nhưng quan trọng là tất cả chúng ta phải hành động hướng về tình yêu này. Các bài đọc nói rằng chúng ta sẽ nhận biết Thiên Chúa qua việc trở nên giống Ngài.
Đối với câu hỏi làm sao có thể diễn tả tình yêu vị tha, chúng ta có thể suy ngẫm những ý tưởng của Martin Luther King Jr. về tình yêu và về Cộng đoàn thương mến “Tình yêu có sức sáng tạo và cứu độ. Tình yêu xây dựng và hợp nhất; còn thù ghét thì phá đổ và huỷ diệt.” Tầm nhìn của Luther King về Cộng đoàn thương mến đặt nền móng trên tình yêu, sự hoà giải, phẩm giá và sự tôn trọng đối với mọi người. Nghèo đói, phân biệt chủng tộc, bạo lực và những hoàn cảnh xuất phát từ những sự dữ này thì không thể dung thứ. Bằng việc ra sức chấm dứt thù ghét và chia rẽ, chống lại những hoàn cảnh và thực hành xem thường người khác, chúng ta diễn tả tình yêu thương nhau – và chúng ta sẽ nhận biết Thiên Chúa qua việc trở nên giống Ngài hơn.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề “Túp lều bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ong chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm dọa sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có ba chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.
. Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
. Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, ngươi này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bè bạn thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nưa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
. Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là ban hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
. Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
. Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yeu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
Có một câu truyện được truyền tụng qua nhiều năm kể về một vị chức sắc chính trị đến dự cuộc lễ đăng quang của Vua Edward VII tại Anh Quốc năm 1901.
Vị chức sắc này chứng kiến một giây phút lịch sử khi chiếc triều thiên được đặt trên đầu vua. Ông đã nhảy múa tại cuộc dạ vũ đăng quang vĩ đại này. Sau cùng, ông đã hòa nhập với các vương tôn và tiếp chuyện với những nhân vật nổi tiếng.
Khi ông trở về nhà, có người hỏi ông có một giây phút hay một dữ kiện nào trong cuộc hành trình thăm viếng của ông tại Anh Quốc đặc biệt nổi bật hơn hết không.
“Có,” ông nói, “thật sự có giây phút đó.” Ông tiếp tục nói rằng lúc đó xảy ra vào một đêm nọ khi ông trở về khách sạn của ông.
Ngoài trời thì lạnh rét. Và trong khi ông đi qua một căn nhà bỏ hoang, ông đã thấy hai đứa bé nhỏ tội nghiệp đang nằm co với nhau tại cửa nhà.
Một trong hai đứa là cậu bé khoảng 12 tuổi; còn đứa kia là bé gái khoảng 4 tuổi, rõ ràng là em gái của cậu bé.
Cậu bé đã cởi áo choàng của mình ra và quàng quanh bờ vai bé bỏng của người em gái. Và cậu lấy chiếc mũ len của cậu mà bọc quanh chân của cô em.
Nhà chức sắc nói rằng hình ảnh của hai đứa trẻ, đang nằm co bên cửa nhà, nổi bật hơn hết. Nó hoàn toàn làm lu mờ vẻ tráng lệ và nghi thức đăng quang, sự nhộn nhịp của cuộc dạ vũ đăng quang, cũng như những cuộc đối thoại với các nhân vật nổi danh.
Đó chính là hình ảnh mà ông không bao giờ quên được bao lâu ông còn sống.
Câu chuyện này diễn tả loại tình yêu mà được diễn tả thật tuyệt vời trong những bài đọc hôm nay.
Nó diễn tả, đặc biệt loại tình yêu mà Chúa Giêsu diễn tả trong bài Phúc Âm hôm nay khi Ngài nói, “Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương các ngươi.”
Và một lần nữa, khi Ngài noi, “Không ai có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu.”
Chúa Giêsu đã dạy và đã thực hành điều Ngài dạy. Chúa vì yêu thương chúng ta đã trao ban mạng sống chịu chết để đền tội chúng ta, để cứu chuộc chúng ta. Thánh Phaolô nói: “-t có ai chết cho tội nhân, họa may mới có kẻ chết cho người công chính. Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.” Chúa yêu chúng ta dường nào.
Chúng ta biết ơn Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Chúng ta hãy yêu mến Ngài và tuân theo lời Ngài: “Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương các ngươi.” Chúng ta hãy quên mình để yêu thương quan tâm đến anh chị em chúng ta. Tình yêu được tóm tắt trong sự trao ban, trao ban trong lời nói và việc làm. Câu chuyện của hai đứa bé, nằm co bên cửa nhà, đã quảng diễn nó. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến cuộc đời cho Chúa và yêu thương anh chị em.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Hãy ở lại trong tình yêu của Thày
Ðọc Thánh kinh Tân Ước, người ta thấy toàn bộ Phúc âm theo thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu, chứa đựng đầy dẫy từ ngữ yêu mến. Ðó là lý do tại sao, Phúc âm thánh Gioan được mệnh danh là Tin mừng yêu mến. Theo truyền thuyết kể lại thì khi về già, thánh Gioan chỉ giảng một câu vắn tắt: Hỡi đoàn con nhỏ, hãy thương yêu nhau. Lời giảng dạy đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong vòng một thời gian khá lâu. Ðiều đó làm giáo dân chán ngấy, tưởng rằng thánh nhân đã bị mất trí, nên xin ngài nói điều gì mới lạ hơn cho họ khỏi nhàm. Ðể trả lời, thánh Gioan nói sẽ cứ tiếp tục giảng vể tình yêu mến bao lâu họ chưa biết thương yêu nhau. Thư thứ nhất của thánh Gioan có ghi: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4:8). Và tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa xuống cả trên các dân ngoại nữa (Cv 10:45), chứ không phải chỉ hạn chế vào một dân tộc nào thôi.
Trong Phúc âm hôm nay, thánh Gioan ghi lại cái lời xác quyết của Chúa bày tỏ tình yêu cho loài người: Như Cha đã yêu mến thày, thày cũng yêu mến các con (Ga 15:9). Vậy ta hãy thử xét coi Chúa yêu mến loài người như thế nào. Và ta cũng chỉ giới hạn cái việc Chúa yêu mến loài người theo như Phúc âm hôm nay ghi lại mà thôi. Nếu xét tất cả những việc Chúa làm vì yêu mến loài người trong toàn bộ Phúc âm, có thể cả năm ta cũng chưa nói hết. Chúa Giêsu đã yêu mến loài người bằng cách chấp nhận cái chết trên thập giá để chuộc tội loài người. Đó là lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Không ai yêu hơn kẻ hy sinh mạng sống vì người mình yêu (Ga 15:13). Chúa Giêsu còn yêu mến ta bằng cách đưa ta lên hàng bạn hữu với Chúa: Thày không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thày gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thày nghe biết nơi Cha thày, thì Thày đã cho các con biết (Ga 15:15).
Bạn hữu là người quan tâm đến ta, và ta quan tâm đến họ. Bạn hữu là người gắn bó với ta khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại. Bạn hữu là người ta có thể tin cậy. Bạn hữu thường trung thành với nhau, giúp đỡ nhau, sống chết có nhau. Trong cái xã hội phong kiến, khi một người nhỏ tuổi gọi người lớn là bạn, có thể bị coi là chơi trèo, hỗn xược, vì cha ông ta dạy kính lão đắc thọ. Chúa Giêsu còn cao trọng hơn ta gấp bội phần, nhưng Người đã tự hạ mình xuống làm bạn với ta. Vậy được gọi là bạn hữu với Chúa, là một ân huệ lớn lao. Điều thắc mắc ở đây là ta có thực sự tin rằng Chúa là bạn với ta không? Chắc rằng ta tin, vì Chúa nói như vậy. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được cái tình yêu và tình bạn với Chúa hay không lại là chuyện khác.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa căn dặn ta: Hãy ở lại trong tình yêu của Thày (Ga 15: 9). Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa nghĩa là gì? Khi người ta nói đứa con đã mất ơn nghĩa với cha mẹ, ta hiểu là đứa con đã xúc phạm đến cha mẹ và làm khổ cha mẹ. Cũng vậy khi phạm tội, ta tự tách ra khỏi tình yêu của Chúa. Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa là còn ơn nghĩa với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là có được sự bình an của Chúa trong tâm hồn. Trong một buổi nói chuyện với giới trẻ tại một giáo xứ kia, một linh mục hương dẫn có cho giới trẻ thảo luận câu hỏi thế nào là hạnh phúc. Có một nhóm trả lời hạnh phúc là khi cảm thấy tâm hồn bình an. Ta thấy câu trả lời đó bao hàm tất cả ý nghĩa của hạnh phúc vì nếu không có bình an trong tâm hồn, thì dù có mọi sự khác cũng không có hạnh phúc. Ở lại trong tình yêu của Chúa là ở lại trong tình bạn hữu với Chúa. Tuy nhiên khi hai người bạn làm mất lòng nhau, hoặc phản bội nhau, và nếu không làm hoà, thì không thể nào duy trì cái tình bạn cũ. Cũng vậy khi ta xúc phạm đến Chúa, ta làm sứt mẻ tình bạn với Chúa, ta tự cảm thấy hổ thẹn vì lương tâm ta bảo như vậy. Ở lại trong tình yêu của Chúa là muốn được gần gũi với Chúa, muốn đặt niêm tin cậy phó thác vào Chúa, muốn Chúa làm chủ đời sống.
Vậy làm thế nào để được ở lại trong tình yêu của Chúa? Trong Phúc âm hôm nay chính Chúa dạy ta làm sao để được ở lại trong tình yêu Chúa: Các con sẽ ở lại trong tình yêu của Thày, nếu các con tuân giữ lệnh Thày truyền (Ga 15:10). Tuân giữ lệnh Chúa truyền, nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa, tuân theo thánh ý Chúa, sống theo đường lối Phúc âm. Cảm nghiệm được thế nào ở lại trong tình yêu Chúa và tình bạn với Chúa, người ta sẽ cảm thấy vui sống Đức tin. Nếu lỡ phạm tội làm mất sự bình an, họ lại ao ước muốn trở về sống trong tình yêu và tình bạn với Chúa.
Lời cầu nguyện: xin cho được ở lại trong tình yêu Chúa:
Lậy Ngôi Hai Thiên Chúa! Con xin tạ ơn Chúa, đã mời gọi con ở lại trong tình yêu Chúa và cho con được làm bạn với Chúa. Xin cho con cảm nghiệm được Chúa, thế nào là được sống trong tình yêu của Chúa và tình bạn nghĩa thiết với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
“Để được sống hạnh phúc và niềm vui được trọn vẹn”
Sống trên trần gian và ngay cả sau khi qua đời, đối với một con người thì điều gì là quan trọng nhất mà chúng ta cần có, cần sở hữu và trân quý? Sáng 6.5.2021 khi đi đem Mình Thánh Chúa cho những người lớn tuổi, đau yếu trong Giáo xứ, tôi chứng kiến Bà Cố Maria, Mẹ của một Nữ Tu vừa qua đời. Bà Cố đã được sống làm con cái Chúa 97 năm trên trần gian; sự ra đi của Bà Cố để lại nhiều niềm thương mến cho mọi người trong Giáo xứ và con cháu. Qua sự ra đi của Bà Cố Maria, làm tôi nhớ lại cách đây đúng 3 năm, vào tối ngày 4.5.2018, khi tôi đến Tu viện của Dòng Phanxicô-Vĩnh Phước để dâng lễ cầu hồn cho Thầy Philipphe Nguyễn Văn Tâm, thọ 103 tuổi. Qua cái chết của Thầy Philipphe, mọi người đều trân quý, thương mến và nhắc nhớ nhau nghe rằng: Thầy là một con người rất đơn sơ, khiêm tốn, con người luôn làm những công việc bổn phận được bề trên trao với lòng yêu mến. Dẫu mang thân phận con người, với những giới hạn, yếu đuối và khả năng khiêm tốn, nhưng Thầy luôn quyết tâm cố gắng để làm mọi việc vì lòng mến. Thật vậy, sống trên đời và ngay cả khi đã mất, không gì cao quý hơn cho bằng tình yêu thương, lòng mến, vì nó sẽ tồn tại mãi mãi. Đây cũng chính là chủ đề mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy lắng nghe, suy niệm, hãy sở hữu và thực hành trong cuộc sống.
Trong một cách thế đặc biệt, Tin mừng theo Thánh Gioan, tường thuật và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần về “Tình yêu thương, lòng yêu mến”. Tại sao Gioan lại nhấn mạnh và đặt làm trung tâm khi nói nhiều về tình yêu như vậy? Vì theo Gioan, Ngài định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Vì tình yêu thương nên Thiên Chúa đã tạo dựng con người, chăm lo, ban ơn giúp sức cho con người, ngay cả khi con người bội nghĩa, bất trung, quay ngược lại từ chối Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương, cứu sống và yêu cho đến cùng. Thiên Chúa qua cách thức diễn tả có một không hai là chấp nhận cái chết trên Thánh Giá. Tại sao Thiên Chúa lại biểu lộ, diễn tả tình yêu của Ngài với cách thức như vậy? Thứ nhất, vì bản tính của Thiên Chúa là Tình yêu, nên Ngài không thể làm khác hơn được. Thứ đến, vì Thiên Chúa muốn cho con người chúng ta cảm nhận được chính tình yêu đích thực của Ngài. Và sau hết, Thiên Chúa muốn trao ban, chia sẻ để cho chúng ta được thông phần, được liên kết và ở lại trong tình yêu của Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thưa ACE, Thiên Chúa yêu thương nên đã biểu lộ, minh chứng tình yêu thương cho chúng ta, Ngài muốn chúng ta được sống trong hạnh phúc và niềm vui của chúng ta được trọn vẹn trong mỗi ngày sống của chúng ta.
Nhưng làm sao chúng ta có thể cảm nếm được tình yêu thương của Chúa, trong lúc con người đang phải đối diện với biết bao khó khăn, đau khổ và nghịch cảnh của cuộc sống thường ngày. Hãy nhớ lại và để tâm đến lời căn dặn, lời di chúc để lại của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Bài đọc hai trích thư Thánh Gioan diễn tả và minh chứng cho chúng ta những gì mà Chúa Giêsu đã rao giảng và truyền lại. Tình yêu là của Thiên Chúa, được phát xuất, trao ban từ Ngài. Chúng ta được diễm phúc vì chúng ta được Chúa thương chọn gọi và trao ban tình yêu thương của Ngài cho chúng ta. Do đó, khi chúng ta sống cảm tạ, tri ân, chúng ta làm lan tỏa tình yêu thương của Chúa cho ACE mình. Thật ra, không phải chúng ta sống yêu thương, nhưng khi chúng ta biết mở rộng cõi lòng-tâm hồn với sự khiêm tốn, quảng đại, thì chính Thiên Chúa hành động qua chúng ta và Ngài sẽ làm lan tỏa đến mọi người.
Điều này cũng được minh chứng trong bài đọc một từ CVTĐ, tình yêu chính là hoa trái là ơn ban của Chúa Thánh Thần, ơn thánh này được tuôn đổ xuống trên những người mà Thiên Chúa thương tuyển chọn làm Tông đồ, để qua chính họ, ơn Thánh Chúa được lan truyền đến cho tất cả ACE, đặc biệt hơn ơn thánh Chúa được trao ban cho những con người phận nhỏ. Khi Phêrô được Thánh Thần sai đến để rao giảng Tin mừng và trao ban ơn Chúa cho những người không phải là Do Thái, thì có những phản ứng ngay cả chống đối. Thật là thấm thía, xúc động khi nghe lại lời của Thánh Phêrô: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, hể ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận”.
ACE rất thân mến, là những người con cái Chúa, những Kitô hữu, chúng ta đã sống ra sao với “Di Chúc Yêu Thương” mà Chúa Giêsu đã truyền lại cho chúng ta, để sau khi qua khỏi đời tạm này, chúng ta còn có những giá trị tốt đẹp, cao quý hầu sẽ để lại cho đời, cho người? Khi chứng kiến cái chết của Bà Cố Maria, Thầy Dòng Philipphê cũng như bao sự ra đi khác của ACE mình, họ luôn là động lực thúc bách tôi phải sống như thế nào, để đến ngày giờ Chúa gọi, khi người ta khi đến viếng thăm lần cuối, họ cũng sẽ nhắc nhớ nhau nghe những đều trân quý, tốt đẹp, thương mến mà tôi đã sống và làm lan tỏa. Lạy Chúa, xin Chúa hãy chúc lành cho những cố gắng, nỗ lực yêu thương của chúng con. Amen.
70. Các con là bạn hữu của Thầy
(Suy niệm của Lm. Trần Minh Đức)
Tôi thực là khó mở miệng khi giới thiệu một người với người khác rằng: “Đây là bạn của tôi”. Khó bởi vì bạn bè có rất nhiều loại: bạn nối khố, bạn cùng lớp, bạn đồng nghiệp, bạn nhậu, ngươi thân quen… Bạn bè kiểu này thì ai cũng có. Bạn bè đúng nghĩa như Đức Kitô nói tới trong bài Phúc âm hôm nay quả thực hiếm có trên đời. Bạn bè tri kỷ là thứ bạn bè không phải ai cũng có. Không phải hễ muốn là có ngay. Kiếm bạn tri kỷ nhiều khi còn khó hơn tìm người yêu. Bởi vì đó là một kho tàng vô giá mà trời trao ban. Con người không thể mua bằng mánh khoé hay dùng tiền bạc để trao đổi.
Tình bạn là một ngôn từ thuộc loại đao to búa lớn. Khi có một người đứng bên cạnh, tôi không còn cô đơn lẻ loi, không có nghĩa là tôi có bạn. Tình bạn với người khác, tình bạn với Đức Kitô là một hình thức đặc biệt của lòng tin tưởng. Ai nhận một người làm bạn, ai được diễm phúc có Thiên Chúa làm bạn, kẻ đó phải sống vị tha và hoàn toàn đặt tin tưởng. Ai nhận một người bạn, kẻ đó phải sống vị tha và hoàn toàn đặt tin tưởng nơi người đó. Tình bạn không có nghĩa đơn thuần là đánh giá cao, tôn trọng một người, cũng không phải là: Kẻ đó không phải sống quanh quẩn trong phạm vi kiểm soát của cảm giác của mình, nhưng có thể tự vén bức màn bí mật của mình, sẵn sàng chia sẻ niềm vui buồn với người bạn.
Một tương quan tốt đẹp như thế phải có những lý lẽ chính đáng. Lẽ dĩ nhiên người bạn luôn mong muốn những gì tốt đẹp nhất cho đời sống, tương lai và chính bản thân tôi. Nhưng tình bạn chân thật luôn đi xa hơn một bước. Tình bạn không những được nuôi dưỡng bằng lý trí, mà còn bằng mạo hiểm. Tình bạn giữa con người với nhau dù tri âm đến đâu đi nữa vẫn có thể có ngày bị tan vỡ, vẫn có thể bị bạn mình lật lọng hạ bệ!
Con người khong ai giống ai. Nhưng tình bạn giữa con người với nhau có thể nói là “môn đăng hộ đối”. Tình bạn giữa con người với Đức Kitô là một thứ tình bạn hoàn toàn không cân xứng Bởi vì một đàng là Con Thiên Chúa, một đàng chỉ là chịu hạ mình làm bạn với một người thứ dân. Phương chi bây giờ nói đến tình bạn giữa Đấng tạo dựng trời đất với phàm nhân, tạo vật mà chính mình dựng lên. Thật là một vinh dự lớn lao dành cho tôi khi chính Đức Kitô goi tôi là bạn.
Bạn bè cần sự gần gũi, cần sự trao đổi. Mặc dù khác biệt nhưng người này luôn nhận được một cái gì đó nơi người kia. Tôi tự hỏi một cách thẹn thùng: Đức Kitô nhận được gì nơi tôi?
Tôi luôn luôn đón nhận sự trợ giúp, lòng trung thành, lời hứa của Ngài dành cho tương lai và cuộc sống vĩnh cửu của tôi. Có thể nói những gì tôi đã có, đang có và sẽ có, đều do tấm lòng rộng rãi của Ngài ban cho. Nhưng Ngài nhận được gì từ nơi tôi? Hoàn toàn không có gì khác hơn là Đức tin của tôi, lòng chuộc con người và đã sống lại để con người được dự phần vào đời sống vĩnh cửu. Đức tin là của duy nhất mà con người có thể dùng để đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình. Phúc thay cho tôi, bởi vì Đức Kitô không đòi hỏi gì khác ngoài lòng tin vào Ngài. Tình bạn giữa tôi với Đức Kitô còn làm cho tôi nhận biết giá trị đặc biệt của tôi trước mặt Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng)
Cuộc sống cần tình yêu. Nhân loại cần tình yêu. Mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu. Bạn và tôi cũng thế: rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Vì tình yêu quan trọng đến thế, cho nên trước khi rời bỏ thế gian, trước lúc chia tay các tông đồ, những người được Chúa Giêsu yêu thương nhiều, Người đã không để lại một tài sản nào, không trối trăn một kho tàng vật chất lớn lao nào, nhưng chỉ để lại lời di chúc ngắn ngũi, qua đó gởi gắm một tâm tư quí báu: “Các con hãy yêu thương nhau”. Nhờ các con yêu thương nhau, mà tình yêu ấy trở thành dấu chỉ để “mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy”.
Năm 1999, báo Tuổi Trẻ có mở một cuộc thi viết mang tên: “Viết về cha tôi”. Trong cuộc thi này có rất nhiều người con viết về cha mình. Tuy có những người cha không làm tròn bổn phận làm cha, để lại sự u uất có lúc là tất cả nỗi thèm khát tình cha của những đứa con. Nhưng những câu chuyện về những người cha thiếu trách nhiệm không nhiều. Độc giả cảm thấy vui vì những bài viết ca tụng người cha nhiều hơn. Những đứa con ca tụng cha mình, bởi cha nó yêu thương nó.
Sau cuộc thi “Viết về cha tôi” đó, báo Tuổi Trẻ đã gom những bài viết hay thành cuốn sách với tựa đề: “Cao hơn đỉnh Thái”. Trong đó tác giả Nguyên Hương kể về kỷ niệm thời chiến tranh của mình. Giữa lúc bom đạn khói lửa như mưa của tháng 3. 1975, để cứu lấy mạng sống của chính mình, gia đình phải chạy loạn. Chắc lúc đó Nguyên Hương chỉ mới là chú bé 12 hay 13 tuổi gì đó, cũng theo gia đình chạy loạn vào chùa. Trong chùa có vô số người chạy giặc. Sân chùa lớn là thế, bỗng chốc trở thành cả sân người. Ai cũng lộ rõ nét hồi hộp lo sợ trên gương mặt mình. Hình như nỗi hoảng sợ khiến con người ta ít nói hơn. Cả sân người đông đúc nhưng tiếng ồn ào không lớn, nghe như tiếng rì rào của gió.
Giữa lúc mọi người đang nơm nớp sợ hãi, bỗng nhiên tiếng khóc của một đứa bé trên tay mot người mẹ trẻ ré lên xé không gian. Tiếng khóc ré đòi sữa của đứa bé bất chấp tiếng đạn réo ngang trời và khói xám mịt mù. Bên cạnh người mẹ trẻ ấy là người cha của đứa bé cũng còn trẻ lắm, đang cố gắng đổ từng muỗng sữa vào miệng con. Người cha đã toát cả mồ hôi mà đứa bé vẫn không chịu uống một giọt nào. Bao nhiêu sữa đổ vào lại trào ra đầy mặt, chảy xuống cổ. Nó nhất định không chịu uống sữa bằng cách đổ từng muỗng vào miệng, chỉ đòi cho được cái chai và núm cao su mà nó vẫn thường mút, vì vội chạy nên cha mẹ của nó đã bỏ quên ở nhà. Tiếng khóc đòi hỏi rất quyền hành, càng lúc càng lớn. Một lúc sau, đứa trẻ đã hết hơi để khóc. Thấy con mình càng lúc càng tái đi vì đói và khóc, người mẹ cũng khóc theo. Thấy vậy, người cha đứng bật dậy, nói với vợ: “Để anh về lấy chai sữa cho con”. Người cha cúi xuống hôn con, rồi nắm tay vợ. Biết đâu đây là lần cuối cùng, anh nựng con, vì ngoài kia, tiếng đạn vẫn cứ réo ngang réo dọc. Người vợ nước mắt chảy dài thương chồng. Chị ôm chân chồng, miệng lắp bắp: “Lỡ có gì…”. Nhưng người chồng gỡ tay vợ ra. Anh chạy đi trong làn đạn mịt mù, ai nhìn thấy cũng thương tâm, hồi hộp lo lắng cho anh…
Mọi người chờ đợi, chờ đợi. Rất lâu, rất lâu sau… Thật may mắn, anh đã trở lại: Và chai sữa trên tay. Tác giả kết luận bằng một câu thật ý nghĩa: “Người cha có còn nhớ lúc liều mình chạy về phía khói lửa hay đã lãng quyên như bao điều cha mẹ đã quyên mình cho con được bình yên”.
Chắc bạn biết, cuộc đời có rất nhiều thứ tình yêu: tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… và câu chuyện trên đây là tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Vì yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”, vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Vì yêu con, người cha trong câu chuyện bên trên đã quên cả mạng sống của mình. Nhưng đâu phải chỉ có tình yêu cha mẹ với con cái mới huyền nhiệm như thế, tất cả chúng ta đều có thể làm gì đó để gọi là yêu thương đối với anh chị em mình. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả ngường đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc.
Mỗi thánh lễ đều là một cử hành về Tình Yêu lớn lao vô bờ, không phải giữa những con người mà là Thiên Chúa đối với con người. Dâng thánh lễ Chúa nhật thứ VI phục sinh hôm nay, xin cho bạn và tôi gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để càng ngày càng ý thức hơn tình yêu bản thân với anh chị em xung quanh. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu trong ta để từng lúc, ta biết chân thành yêu Chúa nhiều hơn và yêu người như yêu Chúa, yêu người như Chúa yêu ta.
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Khi nói đến tình yêu, con người chúng ta thường cố công định nghĩa hoặc truy tầm lời giải đáp cho câu hỏi:
Tình yêu là cái chi chi,
mà lòng ta mãi khắc ghi trọn thề?
Và rồi, cuộc hành trình đi tìm câu trả lời ấy cứ hoài xa, mất hút dần trong sương mù lan toả, như những đám mây cứ trôi hoài mà không chốn dừng chân. Nhưng hãy thử cùng tôi, một lần chạm đến tình yêu hơn là đi tìm câu định nghĩa tình yêu; một lần cảm nếm tình yêu hơn là cứ trông mong vô vọng. Thử một lần ôm trọn tình yêu như một giấc mơ chẳng bao giờ nghĩ tới, để rồi được suối nguồn tình yêu – Thiên Chúa – đánh động tâm hồn ta, thúc bách ta, dẫn lối ta đi trên con đường chân lý ngàn thu.
Có lẽ quý anh chị em thắc mắc tại sao tôi dành nhiều dòng lê thê để nói đến tình yêu, mà chẳng đoái hoài gì đến các bài đọc trong Phụng Vụ Thánh Lễ hôm nay? Nhưng nếu quan sát kỹ lưỡng, nhìn ngắm, đặt mình vào Lời Chúa thì chắc hẳn chúng ta sẽ nhận ra được một chủ đề xuyên suốt cả ba bài đọc – Tình Yêu. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô yêu quý của chúng ta đã từng xác quyết một điều khi Ngài cùng với khách hành hương Rô-ma đọc Kinh Truyền Tin, rằng: “Nền tảng của đời sống Ki-tô hữu không gì khác ngoài lòng bác ái. Và chỉ nhờ tình yêu này, chúng ta mới có thể nhận chìm những sự gớm ghê, nhơ bẩn mà làm hoen úa tâm hồn ta mà thôi”. Nói cách khác, chúng ta được sinh ra từ nguồn cội tình yêu – Thiên Chúa, và hễ ai sống hiệp thông với Thiên Chúa, thì người đó sống trong tình yêu đích thật.
Ở điểm này, chúng ta đừng rút gọn và biến tình yêu thành mô phạm nghiên cứu tâm lý học, mà nên mở rộng con tim, đôi mắt, cảm xúc, và cả ngũ quan để nghiệm ra tình yêu mà Thiên Chúa đã, đang và sẽ dành cho chúng ta “tình yêu ấy là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (x. 1Ga 4, 10). Tình yêu này vượt trên lòng yêu thương cha mẹ-con cái, anh chị em trong gia đình, dòng tộc, và tình bằng hữu (tiếng Hy lạp: philia); tình yêu này cũng trổi vượt hơn tình yêu đôi lứa, nam nữ (tiếng Hy lạp: eros). Nhưng đó là tình yêu kiểu gì mà cao quý, vĩ đại đến như vậy? Câu trả lời rất rõ ràng, cụ thể, và được chính Chúa Giê-su dạy cho chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu không chỉ bằng ngôn từ, mà được thể hiện một cách sâu xa qua hành động hy sinh cả mạng sống, cả con người của mình vì bạn hữu, vì người mình yêu (tiếng Hy lạp: agape). Hơn nữa, Thiên Chúa mời gọi chúng ta – những người mang danh Ki-tô, là con cái Thiên Chúa – biết sống trọn vẹn tình yêu hiến trao này qua những cử chỉ nho nhỏ nhưng đầy lòng tin yêu, chân thành; qua nụ cười tươi đơn sơ, mộc mạc làm sống dậy những tâm hồn trống vắng, chơi vơi; qua những lời chào nói giản dị nhưng thấm đượm cả tấm lòng, mang lại sự bình an đích thật; qua hành động ‘ra đi’ phục vụ vì tha nhân, v.v…Nói sao cho hết vô số trạng huống, hoàn cảnh khi chúng ta đáp trả lời mời gọi sống tình yêu trao dâng như Thiên Chúa đã không ngần ngại hy sinh, trao ban cả Con Một Người cho chúng ta. Người đã trở nên con người, mặc lấy xác phàm phải hư mất, vâng phục cho đến chết, và chịu tử nạn để cứu chuộc loài người tội lỗi, mỏng dòn, bất xứng với tình yêu vô biên của Người.
Trong đời sống thường nhật, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với tượng Chúa chịu đóng đinh, tôi thường nghiệm thấy tình yêu trao hiến và ân ban thâm sâu của Thiên Chúa dành cho con người yếu hèn như tôi. Qua cảm nghiệm này, tôi cũng mạo mụi xin mời quý ông bà, anh chị em dành chút thời gian hướng nhìn lên Chúa chịu tử nạn trên cây Thập Tự, nơi đó tỏ hiện rõ hai chữ tuy ngắn ngủi nhưng cả vũ trụ này không thể chứa nổi – T.Y (cây Thập Giá tượng trưng cho chữ T, ‘Chúa chịu đóng đinh’ tượng trưng cho chữ Y), Tình Yêu. Và khi nghiệm được tình yêu này, xin quý ông bà, anh chị em cùng tôi thưa lên hai chữ T.Y (trong tiếng Anh: Thank You, nghĩa là Cảm tạ Chúa, cám ơn Chúa…). Hơn thế nữa, mỗi khi chúng ta làm dấu Thánh Giá, chúng ta ý thức hơn: cuộc đời vỏn vẹn, mong manh, trôi nổi của chúng ta được chạm khắc với Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi ấy chúng ta múc lấy sự sống vĩnh cửu. Và cũng từ nơi ấy, phát sinh tình yêu vị tha, bao dung của mỗi người chúng ta dành cho anh chị em trong gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, nơi công sở, ngoài xã hội. Đặc biệt, chúng ta luôn luôn được Tình Yêu trao dâng hướng dẫn, làm ‘kim chỉ nam’ cho mọi tư tưởng, lời nói, hành động, trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta trong xã hội ngày nay – một xã hội dường như đang chìm sâu trong thế tục, vật chất, lấy đồng tiền, danh vọng, chức quyền làm tiêu chuẩn đánh giá các giá trị tinh thần bất biến; hơn nữa làm thước đo cho các mối tương quan không lành mạnh.
Nguyện xin tình yêu Chúa thúc bách chúng ta ‘lên đường’, rời xa những gian phòng uy nghi, tráng lệ, nhưng khép kín của tâm hồn mình, mà biết ‘ra đi’ chia san, san sẻ tình bác ái, yêu thương trong gia đình trước tiên, kế đến biết liên đới, cảm thông với tha nhân như Thiên Chúa đã không chờ chúng ta đáp trả mà Người lại ‘đi bước trước’ trao ban sự sống, tình yêu cho chúng ta, mặc dầu chúng ta chẳng xứng đáng. Amen!
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
HÃY RA ĐI VÀ MANG NHIỀU HOA TRÁI
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô đã trao ban cho chúng ta một sứ điệp cao trọng: “…Thầy đã chọn các con và cắt cử các con để các con ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của các con tồn tại”. Chúng ta, những con người yếu hèn, có thể mang lại hoa trái! Nhưng điều đó có ý nghĩa gì với cuộc sống cụ thể của chúng ta?
Chúng ta chỉ có khả năng sinh hoa kết quả, nếu chúng ta ra đi, nếu chúng ta biết vùng dậy ra đi! Thái độ “ra đi” và “vùng dậy ra đi” ở đây chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, chứ không chỉ võn vẹn “lên đường và ra đi” mà thôi! Thái độ đó còn có nghĩa là: mở rộng lòng mình, luôn có tâm hồn sẵn sàng, luôn biết lắng nghe và biết đón nhận!
Nhưng làm thế nào để cuộc sống chúng ta mang lại hoa trái? Đó là khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn mình để đón nhận thánh ý Thiên Chúa, để cộng tác với kế hoạch cứu độ của Người, biết nghe theo những thúc đẩy chính đáng của nội tâm mình hay từ bên ngoài. Ngược lại, nếu chúng ta sống theo những phạm trù, những định kiến cá nhân bất di dịch và khô cứng cũng như với một thái độ khép kín, cuộc sống chúng ta sẽ không bao giờ sinh hoa kết quả được. Chúng ta cần phải vùng lên, mở rộng lòng mình, hãy sống cởi mở và hòa đồng với người khác, và hãy sống trưởng thành đúng với nhân vị của mình. Chỉ có thê, cuộc sống chúng ta mới có thể mang lại hoa trái.
Dĩ nhiên, việc chúng ta mang lại hoa trái không đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện được một điều gì đó. Vì thực hiện được một điều gì đó, tôi có thể cố gắng đem hết sức mình để đạt cho bằng được, hoặc công việc đó có thể bị áp đặt, có thể bị ngoại cảnh đòi hỏi, hoàn toàn ngoại tại và xa lạ với tôi. Trong khi đó, việc đời sống tôi đâm hoa kết trái lại bắt nguồn từ những gì nội tại trong tôi, bắt nguồn từ bản chất riêng biệt của cá nhân tôi. Những gì được đặt để trong con người và nhân vị của tôi, đạt tới sự trọn vẹn của chúng khi chúng đâm hoa kết quả. Nhưng việc đâm hoa kết quả chỉ thành đạt, khi chính tôi thành đạt trong suốt cuộc diễn biến đó, khi nhân vị tôi được phát huy và triển nở.
Tiếp đến, một hoa quả cần phải phát triển từ búp non cho tới hồi chín vàng. Nó cần phải có không gian phát triển, nghĩa là những điều kiện sống tốt, những nhu cầu săn sóc vun xới cẩn thận và sự kiên nhẫn. Chúng ta có thể giúp cho một quả cây chín vàng tốt đẹp, nhưng chúng ta không thể áp đặt được chuyện đó. Như vậy, một đàng chúng ta đóng góp phần năng động của mình, đàng khác chúng ta lại phải tôn trọng sự diễn biến tự nhiên. Cả hai thái độ đó đòi hỏi sự nhẫn nại và sự cần mẫn, và cả hai đều là những đặc tính của một người làm vườn rành nghề. Vậy, để cuộc sống của chúng ta đâm hoa kết trái và đạt tới mức độ chín vàng, chính chúng ta phải là những thợ làm vườn thông thạo, trong đó tính năng động không thể thiếu được.
Trong cuộc sống của chính mình, chúng ta phải bắt đầu vui mừng và hài lòng với những hoa quả nho nhỏ thường nhật, như:
Kết quả của khả năng mình sau một thời gian trau dồi học tập lâu dài (thi tốt nghiệp, thi ra trường, thành công trong khi tiếp xúc với các kỷ thuật mới mẽ,v.v…)
Kết quả của sự tự tín chắc chắn qua những khả năng của chính mình, qua sự công nhận và sự đuợc tiếp nhận bởi xã hội.
Kết quả của tình đồng loại, chẳng hạn: những thành công trong các cuộc hội đàm, trong các cuộc trao đổi tốt đẹp, nhưng thành công trong việc hòa giải với nhau sau những va chạm đụng độ, những thành công trong việc giáo dục con cái, v.v…
Tiến sâu hơn nữa, đó chính sự trưởng thành cá nhân của chúng ta. Vâng, khả năng làm cho chúng ta trở nên một nhân vị có phẩm chất và bản lãnh riêng biệt, là một ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người. Thành quả trở nên một nhân vị với đầy đủ tư cách của một người trưởng thành là ý nghĩa sâu xa nhất của cuộc sống chúng ta. Vì thế, một khi chúng ta hiện thực được thành quả đó, nó sẽ trở nên nguồn suối làm tươi mát được biết bao đồng loại. Vâng, nếu chính chúng ta càng trở nên trưởng thành và đứng đắn, chúng ta càng dễ dàng thông cảm với người khác hơn, cả khi họ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Chúng ta có thể trở thành nguồn an ủi và nâng đỡ cho đồng loại, khi chính chúng ta đã từng trải và trưởng thành trong cuộc sống, biết chấp nhận và thăng tiến kẻ khác. Nhưng nghị lực giúp chúng ta trong suốt tiến trình đạt tới sự trưởng thành, chúng ta chỉ tìm gặp được trong tình yêu. Trong bầu không khí mọi người biết chấp nhận nhau một cách thân hữu, nhân vị mỗi người sẽ có thể phát huy và triển nở, cuộc sống của mỗi người sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Và khi trong chính chúng ta hoa trái của sự phát huy chính mình càng trở nên chín muồi, thì chúng ta càng có thể đưa mắt trông nhìn đến hoa trái của kẻ khác và giúp đỡ được họ trong việc làm cho hoa trái của họ được chín muồi.
Nói tóm lại, mỗi người trong chúng ta có thể mang lại hoa trái và qua đó tham phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, không chỉ với tính cách là một thụ tạo, nhưng chính chúng ta cũng phải mang tính cách sáng tạo, chính chúng ta cũng phải hành động nữa. Trong lời hứa của Đức Kitô nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “… và để hoa trái của các con tồn tại”, điều đó có nghĩa: Giữa sự tạm bợ chóng qua của cuộc sống trần thế, những hoa quả của đời sống đức tin: Những việc lành phúc đức, những việc bác ái yêu thương của chúng ta sẽ tồn tại bền vững và cùng đồng hành với chúng ta vào trong cuộc sống bất diệt trên quê Trời.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cuộc sống có nhiều mối quan hệ, từ huyết tộc đến xã hội, không ai lại không có mối quan hệ nào. Với các Kitô hữu còn có MỐI QUAN HỆ THÁNH với Thiên Chúa và với tha nhân. Đó là mối liên kết kỳ diệu.
Thật vậy, ngay khi người ta muốn ném đá Chúa Giêsu, vì họ cho là Ngài lộng ngôn và phạm thượng, Ngài đã dẫn chứng Kinh Thánh: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh” (Ga 10:34). Và Ngài xác định: “Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ” (Ga 10:35). Mối liên kết thánh đó được thể hiện trong mối quan hệ của Giáo Hội cùng thông công: Giáo Hội vinh hiển (các thánh), Giáo Hội đau khổ (các linh hồn nơi luyện ngục), và Giáo Hội chiến đấu (chúng ta) – cũng gọi là Giáo Hội lữ hành. Tất cả đều là thánh vì có mối quan hệ thánh.
Lời Chúa chứng minh rạch ròi về “sự thánh” đó: “Trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương, nên Ta đã thí bao người đổi lấy ngươi, nộp bao dân nước thế mạng ngươi” (Is 43:4). Chúng ta chỉ là bụi tro nhưng lại được Thiên Chúa quý mến, coi trọng. Vô cùng kỳ diệu. Vì thế, chúng ta phải sống xứng đáng và duy trì mối quan hệ thánh đó.
Nói về mối quan hệ, thi sĩ Rainer Maria Rilke (1875-1926, người Áo, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20) nhận định: “Bản chất một người không phụ thuộc vào cuộc nói chuyện gần nhất mà thể hiện trong toàn bộ mối quan hệ”. Còn thần học gia và triết gia Albert Schweitzer (1875-1965, người Đức) nói: “Chân giá trị của mỗi người không nằm trong bản thân họ, mà nằm ở các sắc màu và đường nét trở nên sống động trong người khác”. Rõ ràng chúng ta luôn có mối quan hệ với nhau, còn gọi là tính liên đới. Đó là mối quan hệ yêu thương, mối quan hệ của lòng thương xót, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16).
Khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. Nhưng ông Phêrô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm” (Cv 10:25-26). Một động thái khiêm nhường thật đáng khâm phục. Không phải dễ mà nói được và làm được như ông Phêrô, vì “cái tôi” trong mỗi chúng ta luôn “to lớn”, lúc nào cũng chỉ rình “vùng lên”.
Ông Phêrô xác định: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Thiên Chúa không thiên vị, nhưng chúng ta thiên vị, do đó mà chúng ta thường coi trọng mối quan hệ này và coi thường mối quan hệ kia. Người giàu sang và có địa vị luôn được đề cao, vào thưa ra bẩm. Còn người vô danh tiểu tốt thì luôn bị “ngó lơ”. Ngay cả trong nhà thờ cũng có chỗ cao và chỗ thấp! Có phải chỗ “cao” thì gần Chúa và được nhiều ơn hơn, còn chỗ “thấp” thì xa Chúa và được ít ơn hơn? Sự phân biệt giai cấp này bởi đâu? Chắc chắn Chúa không như vậy!
Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Đúng là Thiên Chúa không phân biệt ai hoặc điều chi cả. Ai nghe lời Ngài là Ngài thương, tất cả đều bình đẳng trước mặt Ngài. Chúng ta đừng ép Chúa “kỳ thị” theo kiểu của chúng ta!
Ông Phêrô nói: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Họ là những người nghe lời Chúa và đón nhận Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ được gia nhập vào cộng đoàn thánh, thuộc mối quan hệ thánh trong Giáo Hội của Chúa Giêsu, Nhiệm Thể của Đức Giêsu Kitô.
Đó là phép lạ của Chúa. Con người không thể làm được. Chúng ta chẳng là gì, chỉ là “dân ngoại”, nhưng chúng ta lại được liên kết trong mối quan hệ thánh thì quả là điều không thể ngờ được. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người” (Tv 98:1). Còn nữa, chính “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân, và đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” để “toàn cõi đất này xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Thật xứng đáng để chúng ta phải “tung hô Chúa và reo hò đàn hát” (Tv 98:4). Niềm vui không chỉ tăng theo cấp số cộng, mà còn tăng thep cấp số nhân. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi! Nhưng chúng ta đã được chứng kiến các kỳ công của Thiên Chúa, đơn giản mà kỳ diệu như không khí hoặc chuỗi DNA. Đúng như Chúa Giêsu đã chúc phúc: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe” (Mt 13:16).
Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8). Ai được Thiên Chúa sinh ra thì phải biết yêu thương, cũng vậy, ai biết yêu thương mới là người được Thiên Chúa sinh ra. Rất rõ ràng. Rất lô-gích!
Thánh Gioan giải thích thêm: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Đó chính là mối quan hệ thánh mà chúng ta đang được liên kết trong Đức Giêsu Kitô. Càng ý thức được mối quan hệ thánh này, chúng ta càng kết hiệp mật thiết với Ngài, được thể hiện qua mối quan hệ với tha nhân.
Trình thuật Ga 15:9-17 là những lời Chúa Giêsu nói về mối quan hệ thánh. Ngài phân tích: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.
Càng sống lâu chúng ta càng nghe Chúa Giêsu nhắc nhở nhiều lần về tình yêu, về lòng thương xót, thế nhưng nghe tai này rồi chui qua tai khác. Bay theo gió mất tiêu! Theo Việt ngữ, danh từ tình yêu gồm hai từ, rút gọn còn một từ là YÊU – có thể coi đó là động từ. Một động từ ngắn gọn nhưng lại quan trọng cả đời của mỗi con người. Đi đâu cũng thấy cần yêu, lúc nào cũng thấy cần yêu, với ai cũng thấy cần yêu. Thậm chí cả động vật cũng thấy cần yêu. Điều đó cho thấy tình yêu rất quan trọng. Nhưng đâu có thể cứ nói yêu là yêu, mà phải chứng tỏ bằng hành động. Khó quá! Tình yêu không tiết ra chất hy sinh và đau khổ thì không thể gọi là tình yêu hoặc lòng thương xót. Thánh Gioan gọi người “mến Chúa mà không yêu người” là kẻ nói dối (1 Ga 4:20).
Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Với Chúa Giêsu, chúng ta có vài mối quan hệ: Chúa tôi (chủ và tôi tớ), Phụ tử, Huynh đệ, Bạn hữu. Chúng ta hoàn toàn bất xứng nhưng Ngài không ngại coi chúng ta là bạn. Thật kỳ diệu biết bao!
Cuối cùng, Ngài xác định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”. Nói xa nói gần, nói đi nói lại, nói tới nói lui, cuối cùng vẫn là yêu thương. Không ai dám tuyên bố mình là Chúa, chỉ có Chúa Giêsu; không ai dám lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu. Nhưng Đạo của Chúa là Đạo Yêu Thương. Người theo Đạo Chúa cũng phải sống yêu thương, phải thể hiện lòng thương xót.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết yêu thương theo đúng Tôn Ý Đức Giêsu Kitô – nhất là yêu thương những kẻ hèn mọn, xin giúp chúng con luôn duy trì mối quan hệ thánh với Ngài và với tha nhân ở mọi nơi và trong mọi lúc, để bất cứ ai gặp chúng con thì cũng gặp được Ngài nơi chúng con, và chúng con gặp bất cứ ai thì cũng gặp được Ngài nơi họ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
“Yêu là chết trong lòng một ít”. Ai đã yêu thì “chết” chắc, không nhiều thì ít. Mà thường thì “nhiều” chứ không “ít”. Một người không thể gọi là yêu, ít nhất phải có hai người mới khả dĩ có tình yêu. Dù yêu đơn phương vẫn có “đối tượng”. Tình yêu cũng có hệ lụy tất yếu. Có tình yêu thì có thể dẫn tới nhiều hệ lụy khác. Nhưng con người luôn bất toàn, bất túc, bất trác,… “bất” đủ thứ! Cố NS Trịnh Công Sơn tâm sự: “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”. Ông không gọi mà biển gọi, biển nhớ em chứ ông không nhớ. Nhưng ông đang rất… nhớ. Bất toàn là thế đó!
Chúa quá yêu chúng ta, yêu đến chết, thế mà chúng ta vẫn bỏ rơi Ngài, phụ tình Ngài một cách trắng trợn. Chắc chắn Chúa cũng rất nhớ chúng ta!
“Nhân vô thập toàn”, một câu nói quá quen, quen đến nỗi hóa… quá bình thường – nghĩa là “không còn quan trọng”. Thế nhưng câu đó lại quan trọng, quan trọng vì… “quá bình thường”. Nghe chừng nghịch lý, nhưng không hề nghịch lý.
Khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô liền ra đón và phủ phục bái lạy dưới chân ông Phêrô. Nhưng ông Phêrô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm” (Cv 10:25-26). Đó là phong-cách-bình-thường mà quan trọng, biết mình và biết người, giản dị như bản chất một ngư dân, nhưng con-người-bình-thường ấy đã được Thiên Chúa cất nhắc lên làm giáo-hoàng-tiên-khởi, được trao trọng trách chăn cả chiên mẹ và chiên con (x. Ga 21:15-19).
Ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Một cách mô tả mộc mạc và dễ hiểu về Thiên Chúa, nhưng cách mô tả đó chính xác. Thiên Chúa không thiên vị, nhưng đôi khi chúng ta “bắt” Ngài thiên vị như chúng ta, vì chúng ta làm gì cũng thường theo định kiến cá nhân nhiều hơn.
Ông Phêrô còn đang nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Phép lạ hiển nhiên. Vì thế, những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Thiên Chúa không thiên vị, tất nhiên Ngôi Ba cũng không chút thiên vị, vì Chúa Thánh Thần xuống trên mọi người – kể cả dân ngoại.
Rồi ĐGH Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Ai đến với Chúa đều được Ngài tiếp nhận, chắc chắn vậy. Và ông Phêrô đã truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Làm bất cứ điều gì cũng phải nhân danh Chúa, vì tất cả chúng ta đều là huynh đệ và hoàn toàn phải nhờ Ngài: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng nhiều khi chúng ta xin mà không nhân danh Đức Kitô, có lẽ chúng ta quên rằng: “Bất cứ điều gì anh chị em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14:13). Vị Thiên-Chúa-toàn-năng ấy được tác giả Thánh vịnh mô tả thế này: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” (Tv 86:15).
Chúng ta là những người bất toàn, còn Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công” (Tv 98:1a). Kỳ công của Chúa vô vàn, khôn xiết kể, “Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1b). Thiên-Chúa-chí-minh-và-chí-công đã “biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” (Tv 98:2-3a). Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Cho nên: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Thánh Gioan căn dặn: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4:7a), đồng thời giải thích: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7b-8). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Đức Kitô đã chết không chỉ cho chúng ta được sống mà còn sống dồi dào. Người-môn-đệ-Chúa-yêu là người có “máu yêu” nên thích nói về tình yêu. Người môn đệ ấy giải thích: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10). Nói đến tình yêu, đặc biệt là Tình yêu Chúa, nói đến Thánh Tâm Chúa hoặc Lòng Chúa Thương Xót, chẳng bút giấy nào tả hết và nói mãi cũng không thể lột tả đúng mức.
Chúa Giêsu nói rất dễ hiểu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Chắc hẳn Thánh Augustinô đã cảm nhận sâu sắc tình yêu ấy nên mới có thể nói: “Mức độ yêu mến Chúa là yêu mến vô hạn”. Vì không chỉ Chúa muốn mà chúng ta có trách nhiệm phải “yêu mến Chúa hết linh hồn và hết trí khôn”. Yêu Chúa là yêu tha nhân. Nếu yêu như vậy, chúng ta chỉ lời chứ không hề lỗ: “Nếu anh chị em giữ các điều răn của Thầy, anh chị em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Ngài” (Ga 15:10).
Ngài muốn chúng ta “được hưởng niềm vui của Ngài” để “niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Điều răn của Ngài rất đơn giản, tuy hai mà một, là luật-yêu-hai-trong-một: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chúa Giêsu so sánh: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Hai người yêu nhau là hai người đồng đẳng, Chúa yêu chúng ta và Ngài cũng coi chúng ta ngang hàng: “Anh chị em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15:14a), nhưng với điều kiện: “Nếu anh chị em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15:14b). Tội nhân chúng ta được tha thứ là may phước lắm rồi, thế mà Chúa lại còn gọi chúng ta là bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh chị em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh chị em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh chị em biết. Không phải anh chị em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh chị em, và cắt cử anh chị em để anh chị em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh chị em tồn tại, hầu tất cả những gì anh chị em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Ngài ban cho anh chị em” (Ga 15:15-16). Đó là điều quá kỳ diệu, trên cả tuyệt vời, và tất nhiên chúng ta quá may mắn và quá hạnh phúc!
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15:17). Chúa Giêsu luôn nói tới tình yêu, cứ nhắc đi nhắc lại, và còn ra Luật Yêu.
Lạy Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, xin ân thương và tha thứ. Nhờ Lòng Thương Xót của Ngài lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại mà chúng con được dìm mình trong Tình Yêu bao la và kỳ diệu của Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin giúp chúng con đừng tiếp tục lợi dụng Tình Ngài nữa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Ga 15: 9-17: Yêu mến tha nhân, đó là một điều răn và cũng là một đòi buộc quan trọng đối với những ai giữ đạo và sống đạo. Đây là điều ai cũng có thể làm, kể cả những người yếu hèn và tội lỗi.
Suy niệm:
Giới trẻ ngày nay từ cung cách, lời ăn tiếng nói đến cử chỉ hành động bắt theo “trend” qua những trang mạng xã hội. Và trong đoan Tin mừng hôm nay cũng có một trend mà chúng ta cần học hỏi, đó là lời Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ người: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con”.
Nguồn cội của Tình yêu là từ nơi Chúa Cha, làm nền tảng cho tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại. Và điều mà Chúa Giêsu mong đợi nơi môn đệ của Người, đó là hãy tháp nhập vào tình yêu của Chúa Cha. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Tình yêu Thiên Chúa thật là một quà tặng hoàn toàn nhưng không nghĩa là không tính toán so đo. Tình yêu ấy không loại trừ bất kỳ ai, ví như mặt trời mọc lên soi chiếu cho người lành cũng như kẻ dữ. Chúng ta cũng nhận thấy trong đoạn sách Công Vụ, thánh Phêrô viếng thăm gia đình viên sĩ quan Rôma ngoại giáo tên là Conêliô. Ngài nhận ra Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ân ban của Chúa trên viên sĩ quan lương dân này cùng thân bằng quyến thuộc của ông, nên ngài mạnh dạn lên tiếng: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!”
Vậy loan báo Tin Mừng có gì khác hơn là một mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà Con Một yêu dấu của Ngài là Chúa Giêsu Kitô đã biểu lộ đến cùng qua cái chết trên thập giá. Chính vì Thiên Chúa là Tình yêu, cho nên thánh Gioan khuyên nhủ: “Hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa”. Vậy yêu thương thế nào đây?
Nhà chú giải A.Marchadour đưa ra một nhận xét lý thú: Qui luật của tình yêu sự đáp trả hướng tha chứ không phải quy về chính mình. Sự đáp trả của Chúa Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha là hướng về các môn đệ. Cũng vậy, sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Chúa Giêsu được mời gọi hướng về anh em.
Chính Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ Người một giới Răn mới mà Người nhắc đi nhắc lại: “Điều răn của Thầy là: anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em; Điều Thầy truyền cho anh em là: anh em hãy thương nhau”. Tình yêu mà Chúa Giêsu mời gọi không phải là một sự biểu cảm tính, trái lại, đó là một sự can đảm dấn thân hoà hợp giữa ý muốn của ta với ý muốn của Chúa được Chúa Giêsu đúc kết: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” Đây quả là một lời mời gọi đầy thách đố, nhiệm vụ bất khả thi nếu chỉ nhắm vào sức riêng con người của mình, vì tình yêu trong ta chỉ thực sự trọn vẹn khi biết qui hướng về Chúa, lấy Chúa làm mẫu mực, như lời tâm huyết mà Người nài nỉ: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Tuy nhiên, dẫu tình yêu xem ra trừu tượng, khó định nghĩa nhưng việc biểu lộ tình yêu lại rất cụ thể. Vào đầu tháng 5/2021, trên mạng xã hội và nhiều tờ báo đều đăng về nghĩa cử cao đẹp quên mình cứu bạn của cậu sinh viên năm thứ 4 khoa Công nghệ thông tin trường Đại học Khoa học Huế Nguyễn Văn Nhã.
Nhã đang tắm ở ngoài xa, và ánh chiều dần buông, cậu bơi vào bờ. Đang lúc bơi vào thì phát hiện ba bạn nữ đuối sức, chới với bị sóng đánh ra xa bờ. Với mọi nỗ lực, anh đẩy ba bạn nữ vào, song khi lúc các bạn qua khỏi hiểm nguy thì cũng là lúc cậu bị đuối sức, gặp sóng lớn đã cướp đi sinh mạng của cậu. Nghĩa cử cao đẹp của cậu được Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định truy tặng Huân chương Dũng cảm, cộng đồng mạng ghi nhận như một hành động anh hùng giữa đời thường. Sự quên mình để cứu bạn của Nhã khiến tôi càng muốn tìm hiểu thêm. Và quả thật không ngoài dự đoán, Phêrô-Khoa Nguyễn Văn Nhã là một người Công Giáo sống đạo nhiệt thành, một con người noi gương Thầy Chí Thánh đã chết để cho người khác được sống sót. Tấm gương của Phêrô-Khoa Nguyễn Văn Nhã đánh thức nhiều trái tim người trẻ tiếc thương cũng như cảm phục nam sinh viên có nụ cười, gương mặt hồn hậu, đã truyền cảm hứng, niềm tin về cái đẹp, sự tử tế vẫn còn có trong cuộc đời này.
Trước lúc mất ở tuổi 88, vua hề Charlie Chaplin phát biểu như sau: “Nếu bạn nhìn thấy mặt trăng, bạn nhìn thấy vẻ đẹp của Thiên Chúa; nếu bạn nhìn thấy mặt trời, bạn nhìn thấy sức mạnh của Thiên Chúa, và nếu bạn nhìn thấy tấm gương, bạn nhìn thấy tác phẩm đẹp nhất của Ngài.
Lạy Mẹ Maria, cuộc đời là một chuyến đi. Trong tháng Hoa này, xin cho con ý thức ngày hôm nay qua đi và có thể ngày mai sẽ không đến. Trên hành trình về nước Chúa, xin cho con biết sống trọn ngày hôm nay như những đóa hoa rực nở, sống hết mình vì anh chị em như Chúa đã sống, đã chết vì con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)
Không thể tránh né một sự thật này, đó là điều quan trọng nhất Đức Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta thực hiện, thậm chí ra lệnh chúng ta phải làm chính là yêu thương nhau. Vào đêm trước khi chịu chết, Người đã trao cho chúng ta một lệnh truyền giản đơn: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Mẫu mực và tiêu chuẩn cho cuộc sống Kitô hữu chính là Tình Yêu mà Đức Kitô đã thực hiện trước mắt chúng ta trên cây Thập giá. Đòi hỏi duy nhat trong quà tặng tình yêu của Thiên Chúa là khiêm tốn bước tới đón nhận để mà ra đi chia sẻ cho người khác. Tình yêu dành cho những người mà chúng ta còn có thể nhìn thấy được sẽ giúp chúng ta, ngay trên trần thế này, được đến gần hết sức, dấn sâu hơn vào Tình Yêu Thiên Chúa, Đấng chúng ta chẳng có thể nhìn thấy bao giờ. Để cảm nghiệm được tình yêu Đức Kitô, chúng ta phải nhổ bỏ tận gốc rễ cả tính ích kỷ và bắt đầu nghĩ đến tha nhân nhiều hơn chúng ta: Khi chúng ta từ chối chia sẻ cho người khác, chúng ta tự kết án giam mình trong mùa Đông của cô đơn, tự khoanh mình trong bốn bức tường ngăn mọi người ở ngoài hay ít ra là ở một khoảng cách an toàn.
Là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi trở nên những con người sống cho người khác, vì người khác, theo gương Đức Kitô. Tình yêu là một cuộc tự hiến luôn đòi chúng ta phải cho đi không chỉ tất cả những gì chúng ta có mà còn phải cho đi chính bản thân chúng ta, thời giờ, và khả năng chúng ta nữa. Xin đơn cử một ví dụ, các bậc làm cha làm mẹ có thể làm chứng cho Đức Kitô trong đời sống hằng ngày của mình bằng chính công việc sinh kế quên cả mệt nhọc của mình để nuôi sống gia đình, chăm sóc con thơ bệnh tật và hết lòng dạy dỗ chỉ bảo con cái những khi chúng băn khoăn không biết hỏi ai… Làm tất cả chuyện đó thật là vất vả và đáng làm, vì đó thực là cuộc đấu tranh ngược dòng và kiên trì với nhiều ghềnh lắm thác, nhưng khi làm được như thế họ được bảo đảm là sẽ được tìm thấy Thiên Chúa va hạnh phúc. Nơi đâu có tình yêu nơi đó Thiên Chúa hiên diện. Sứ điệp Tin mừng này phải được rao giảng bằng cả lời nói và gương mẫu nữa. Cách thông truyền tình yêu hữu hiệu nhất chắc chắn phải là cư xử đối đãi với tha nhân như là bạn hữu, dành cho họ đầy đủ lòng kính trọng đúng mức.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta vượt qua mọi điều chúng ta có thể tưởng tượng. Mỗi người trong chúng ta được Thiên Chúa yêu thương cách riêng từng người sâu xa mật thiết. “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em.” Chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa đâu, tự sức mình chúng ta cũng không thể nào dành được tình yêu ấy. Một chân lý nền tảng cần nhắc đến là chính Thiên Chúa đã đi bước trước, chọn gọi chúng ta, dẫn đưa chung ta đi, yêu thương chúng ta từ buổi ban đầu, ngay trước khi chúng ta chào đời. Chính vì yêu thương chúng ta mà Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống trần gian để gánh vác tội lỗi chúng ta. Những phút gian truân thử thách, những khi mọi người như thù nghịch quay lưng với mình, và những lúc cay đắng chua chát ngập tràn con tim, chúng ta cần nhớ lại rằng tình yêu của Đức Kitô không hề giới hạn vào những người Chúa yêu thương mà thôi đâu, nên phan chúng ta, chúng ta cũng nên khép chặt cánh cửa tâm hồn đừng bao giờ để cho tư tưởng báo thù nào len lỏi xâm phạm vào tâm hồn chúng ta. Thay vào đó chúng ta nên hướng tâm trí chúng ta vào tình yêu diệu kỳ mà Thiên Chua đã dành cho chúng ta, nhất là đã mời gọi chúng ta làm con cái của Ngài; tham dự vào sự sống thần linh của Ngài. Giữ trọn lệnh truyền yêu thương sẽ giúp chúng ta bước vào đại gia đình Thiên Chúa. Vào lúc cuộc đời xế chiều, chúng ta sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán theo những yếu đuối lỗi lầm của chúng ta những theo mức độ tình yêu chúng ta đã trao cho tha nhân. Vì thế, chúng ta hãy yêu thương nhau.
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU VÀ SINH HOA KẾT TRÁI
1.- Ngữ cảnh
Qua bài ẩn dụ Cây nho (Ga 15,1-8), Đức Giêsu khẳng định một cách hết sức rõ ràng với các môn đệ rằng mọi sự tùy thuộc vào sự hợp nhất của các ông với Người.
Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong các ông (x. 15,7) và nếu các ông tuân giữ các điều răn của Người (15,10). Tất cả xuất phát từ Đức Giêsu: các lời và các điều răn. Nhiệm vụ các của mon đệ là đón nhận sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, các ông được liên kết với Người và có thể sinh hoa kết trái. Trong tương quan này, vị trí của Chúa Cha được Đức Giêsu diễn tả một cách độc đáo.
2.- Bố cục
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).
Riêng bản văn hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (15,9-11);
2) Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (15,12-17).
3.- Vài điểm chú giải
– Chúa Cha đa yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (9): Dịch sát là “Như (kathôs) Cha đã yêu mến (êgapêsen) Thầy, thì Thầy cũng yêu mến anh em (kagô hymas êgapêsa)”. Kathôs ở mệnh đề chính dùng với kai ở mệnh đề phu thì dịch là “Như… thì cũng…”. Egô là chủ từ được nêu ra minh nhiên để nhấn mạnh, còn túc từ hymas được đặt liền với chủ từ cũng là để nhấn mạnh và cho thấy dây liên kết mật thiết với chủ từ egô. Hai động từ “yêu mến” (êgapêsen; êgapêsa) ở thì quá khứ aorist, diễn tả những biến cố rõ rệt và cụ thể trong quá khứ (“Chúa Cha đã yêu mến Thầy”), bây giờ chạm đến chúng ta (“Thầy cũng yêu mến anh em”).
– tình thương của Thầy (9): Công thức này (hê agapê hê emê) nói về tình thương của chủ thể (Đức Giêsu) đối với các môn đệ.
– như Thầy đã giữ các… và ở lại… (10): Kathôs và kai đều bắt đầu hai mệnh đề phụ, nên chỉ có thể dịch là “như… và…”. Động từ têreô ở thì quá khứ hoàn thành (perfect), với ý là lúc này đây, Đức Giêsu đã giữ trọn các điều răn của Chúa Cha.
– vì bạn hữu của mình (13): “Vì” (hyper) có nghĩa là “nhân danh”, “chiếu cố đến”. Cái chết của Đức Giêsu nhằm mưu ích cho chúng ta. Xem Lc 22,19-20; Rm 8,31; 1 Cr 11,24.
– cắt cử (16): Động từ Hy Lạp tithêmi có nghĩa là “đăt một người vào một nhiệm vụ”, đồng thời bảo đảm, cung cấp cho người ấy mọi phương tiện để thi hành nhiệm vụ đó thật hữu hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1 Cr 12,28; 2 Tm 1,11). Động từ này ở thì quá khứ aorist, để nói rằng Đức Giêsu chỉ cắt đặt một lần mà thôi, nhưng điều này có giá trị suốt đời người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho “thật”, còn chúng ta là cành, mà cành thì phải ở lại (menô) trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Ga). Đức Giêsu đã lệ thuộc Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha cua Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy, thì Thầy cũng đã yêu mến anh em” (15,9). Hai động từ đều cùng ở một thì quá khứ (aorist) nói lên những biến cố rõ rệt trong quá khứ: Đức Giêsu đã từ Chúa Cha mà đến thế gian. Người vẫn ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu vơi Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống người môn đệ.
Chúng ta phải “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người “ở lại” trong tình thương của Cha Người bằng nhiều cách. Chúng ta cũng có thể “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình thương ấy. Chúng ta cũng có thể “ở lại” bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là “ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn; giữ lời]” (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để “niềm vui của Thầy ở trong anh em” và “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cung Chúa Cha (14,28). Đề tài niềm vui này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu ở lại trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Người để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các mon đệ sẽ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhạn từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng bạn chỉ hiểu điều bạn đã nhận khi bạn tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giesu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
* Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17)
Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Hội Thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: “Đây là điều ran của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (15,12 nhắc lại 13,34). Đức Giêsu bắt đầu nói “các điều răn” y như thể có nhiều điều răn (c. 10), rồi ngay sau đó lại nói “Đây là điều răn của Thầy”, y như thể chỉ có một điều răn mà thôi. Vậy thì có bao nhiêu điều răn? Các vị thầy thời ấy bảo rằng có 613 điều răn. Các tác giả Mc, Mt và Lc bảo là Đức Giêsu đã giảm thiểu lại còn hai: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người lân cận (Mc 12,28-31; Mt 22,36-40; Lc 10,25-27). Tác giả Ga thì khẳng định là hai điều này đã được giản lược thành một: tình yêu đối với người lân cận trong thực tế là cách thức duy nhất để bày tỏ tình yeu của chúng ta đối với Thiên Chúa (Ga 4,20; x. Phaolô: Gl 5,14; Rm 13,8-10).
Thì quá khứ của “Thầy đã yêu thương anh em” (c. 9) phải được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống “vì bạn hữu của mình”, “nhân danh bạn hữu mình” (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi noi đến việc hy sinh tính mạng “vì bạn hữu của mình”, Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là “tôi tớ”, nhưng là “bạn hữu” (philoi, c. 14). Chúng ta chứng tỏ chúng ta là “bạn hữu” của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm “tôi tớ của Thiên Chúa”. Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (x. Gs 24,29; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là “bạn hữu”, như Môsê xưa kia là “bạn hữu” của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các “bạn hữu” thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15) và muốn họ làm việc với Ngươi để thực hiện chương trình của Người.
Các kinh sư thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ “ra đi và sinh được hoa trái” (c. 16). Hoa trái này được nhắm “ở lại [= tồn tại; menô)” và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, “hãy yêu thương nhau” (c. 17).
+ Kết luận
Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quý báu nhất của trái tim Người; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Ngươi muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các “bạn hữu” của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Hội Thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta “ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại”, vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.
Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Người đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Người cho Con của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
79. Như Thầy Đã Yêu Thương Anh Em
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 15,9-17 nầy liên kết chặt chẽ với đoạn tin mừng của Chúa nhật V Phục sinh B. Chủ đề của đoạn nầy là tình yêu; đối nghịch là sự căm ghét được bàn đến trong đoạn tiếp theo (15,18-16,4). Đoạn nầy có thể chia thành hai. Những câu 15,9-11 nói đến việc lưu lại trong tình yêu của Chúa Giêsu; những câu 15,12-17, trái lại, tình yêu lẫn nhau.
Đoạn 15,9-17 không phải là sự đọc lại những đoạn 13,31-35 và 14,15.21.23-24 tuy trong đó tìm thấy những yếu tố chung. Trung tâm của đoạn nầy là Chúa Giêsu: tình yêu và giới răn của Người. Cấu trúc “như…., Thầy cũng…”, tiêu biểu của Gioan, muốn nhấn mạnh mẫu gương và bản chất của hành động. Một đàng, việc Chúa Cha yêu thương Chúa Giêsu là mẫu gương cho Người để Người có thể yêu thương các môn đệ. Đàng khác, việc Người yêu thương các môn đệ là gương mẫu cho họ để họ có thể yêu thương nhau. Bản chất của tình yêu nầy cũng được hiểu trong chiều hướng đó. Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Giêsu, cũng như của Người đối với các môn đệ, và của họ đối với nhau chỉ là một (x. 6,57; 10,15;17,21; 20,21). Khi kêu gọi các môn đệ lưu lại trong tình yêu của Người, Chúa Giêsu dùng cũng cách nói ấy là như chính Người đã giữ giới răn của Chúa Cha, nên Người đang ở lại trong tình yêu của Cha Người; các môn đệ cũng phải làm như vậy. Kết quả sau cùng của việc lưu lại trong Chúa Giêsu là được hưởng niềm vui trọn vẹn. Niềm vui nầy có tính cánh chung, như Gioan đã vui cách trọn vẹn vì thấy Chúa Giêsu đến (3,29), như các môn đệ trong ngày Người về cùng Chúa Cha (x. 16,24; 17,13).
Đoạn tiếp theo giải thích nghĩa chữ “giới răn” và đưa ra những khía cạnh cụ thể của nó, mà Chúa Giêsu đã đề cập đến trong phần trên (15,12-17). Cụm từ “yêu thương nhau” đóng khung đoạn nầy (cc. 12 và 17); qua đó nói lên nội dung của đoạn nầy là tình yêu lẫn nhau. Giới răn ở đây trước tiên chỉ mệnh lệnh từ Chúa Giêsu là phải hành động như Người đã hành động: đó là yêu thương lẫn nhau như Chúa đã yêu thương mình. Người tuyệt đối không nói gì cả về điều kiện người khác phải có để được yêu thương; vì nếu yêu thương người khác do họ hội đủ những tiêu chuẩn mình muốn, đó là cách yêu thương của dân ngoại (x. Mt 5,46-47).
Tiếp đến, cách thực hành cụ thể của giới răn yêu thương ấy là trao ban mạng sống cho bạn hữu (x. 10,11.15.17-18). Chữ “người bạn” (philos) xuất phát từ gốc động từ “yêu thương”(philein); do đó, yêu thương ai là xem người ấy như bạn hữu (5,20; 11,3; 16,27; 20,2), là thông tri cho nhau biết và hiệp thông với nhau như Chúa Cha đối với Chúa Con (c. 15). Điều nầy không tìm thấy trong tương quan giữa chủ – tớ; như thế, chữ “bạn hữu” đối nghĩa với “tôi tớ”. Chúa Giêsu chọn các môn đệ để họ có thể sống theo cách của Người. Chỉ khi nào sống như Người, họ mới sinh nhiều hoa trái và được Chúa Cha nhận lời (cc. 16-17).
Không ai xứng đáng để được yêu thương, thế mà Thiên Chúa đã yêu thương và trao ban Con của Người (x. Rom 5,7-8). Con người yêu thương nhau là làm lại cho người khác hành vi yêu thương nhưng không mà Chúa Giêsu đã làm cho họ.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
– Sẵn sàng chịu chết cho em gái được sống:
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền. Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được sống!
– Tình nguyện chết thay cho một bạn tù:
“Tôi là một linh mục công giáo Ba-lan, tôi đã già, Tôi muốn được chết thay cho ông này, vì ông còn có vợ con”. Đây là lời của cha Kôn-bê (Maximilianus Maria Kolbe) đã nói với viên cai ngục Đức Quốc Xã, trong lúc hắn đang chọn ra 10 tù nhân phải chết để đền tội thay cho một tù nhân mới vượt ngục đêm qua. Quyết định anh hùng của cha Kônbê đã cứu tù nhân Phăng-xít (Francis) thóat chết, khi ông là người cuối cùng được chọn phải ra xếp hàng vào hầm chết đói. Sau đó, cha Kôn-bê đã phải chịu số phận chết chung với 9 tù nhân kia. Suốt thời gian ở trong ngục tối nhịn đói chờ chết, thay vì những tiếng la hét chửi rủa mọi khi, người ta chỉ nghe thấy những lời kinh tiếng hát của nhóm tù nhân sắp chết nhờ sự động viên của cha Kônbê. Câu chuyện tình nguyện chịu chết thay cho người khác của cha Kôn-bê cho thấy “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự hy sinh tình nguyện chết thay cho người khác của cha Kônbê cho thấy tình yêu của cha thật lớn lao giống như Chúa Giêsu và như lời Người đã tâm sự với các môn đệ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
– Bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm lại ý chính như sau: Một là hãy ở lại trong tình thương của Chúa: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Hai là phải thực hành các giới răn: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người”. Ba là quyết tâm sống giới răn mới của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
– Chỉ có một dòng nhựa tình yêu lưu chuyển từ thân cây là Chúa Giêsu sang các cành nho là các tín hữu và lưu chuyển giữa các cành nho với nhau: “Như Thầy đã yêu anh em, anh em cũng phải yêu thương lẫn nhau”. Tình yêu của chúng ta không được giới hạn trong một số người thân thuộc hay những người đáng yêu, nhưng phải yêu hết mọi người, kể cả những kẻ thù ghét và làm hại chúng ta.
– Ngày nay có lẽ chúng ta ít có dịp biểu lộ tình yêu cao cả là chết thay cho người khác như cha Kôn-bê, nhưng chúng ta vẫn có thể biểu lộ tình thương như: Luôn biết nghĩ đến người khác, lắng nghe để tìm hiểu và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu, quảng đại cho đi hơn nhận lãnh, năng khen ngợi động viên người khác…
– Muốn nên môn đệ thực sự của Chúa Giêsu đòi ta phải biết hy sinh qiên mình, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận sự thua thiệt, như những cái chết nho nhỏ cho các ý riêng theo tính xác thịt của mình. Những cái chết nho nhỏ đó chuẩn bị cho cái chết lớn hơn khi cần phải thể hiện. Mỗi khi thấy trái tim sắp hóa chai cứng như đá, chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu đổ Thần Khí Phục Sinh của Người xuống biến đổi trở thành trái tim bằng thịt biết yêu thương.
Trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để thể hiện tình yêu thương đối với những người thân trong gia đình, với hàng xóm láng giềng, với bạn bè và nhất là những người đau ốm liệt giường nghèo đói, bất hạnh hoặc đang bị bỏ rơi …?
(Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)
CÁC MÔN ĐỆ HAY ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG
Phần thứ hai của diễn từ chỉ hướng đến các môn đệ là những kẻ đã khéo léo lựa chọn. Trong phần này, chỉ còn những kẻ thân tình với Chúa Giêsu ở lại. Danh từ “yêu thương” vang lên 12 lần, và sự bao hàm với động từ “yêu thương” (cc. 9-17) bao trùm và tô điểm toàn bộ bài diễn từ.
Ở đây rõ ràng ẩn dụ trở thành tỷ dụ: các hình ảnh lần lượt được giải thích cặn kẽ. “Sinh hoa trái” tương đồng với “yêu thương”. Trong khi mà Chúa Giêsu yêu thương đến cùng (13,1), Người mời gọi các môn đệ tự ghép vào chính tình yêu đó. Tính tương hỗ là luật yêu thương vận dụng cách kỳ diệu trong đoạn này: Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy… Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Trong tình huống này, sự hoàn lại và sự đáp nghĩa, luật của mọi tình yêu, luôn luôn hướng đến một đối tượng khác là nguồn mạch của nghĩa tình. Việc Chúa Giêsu đáp trả lại tình yêu của Chúa Giêsu dành cho họ phải được hướng đến mọi người anh em.
Từ “như” được lặp lại hai lần quả là quan trọng, vì nó nói lên mầu nhiệm sâu kín nhất của mặc khải: trước hết đó không phải là một sự so sánh; mà chính yếu là một sự ăn rễ sâu, một nền tảng. Tình yêu của Chúa Cha và của Chúa Giêsu biểu lộ trong sự nhập thể mà sự chết tỏ hiện cùng đích và ý nghĩa. Nhiều người đã nhận thấy trong việc nhấn mạnh về mối tương hỗ Cha / Con, Chúa Giêsu / cộng đoàn, môn đệ / môn đệ một giới hạn của tình yêu vô bến bờ trong Mt 5,44.46: “Còn Thay, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù… như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?”. Nhưng mà ở đây Gioan nói về vấn đề khác, về tình yêu sâu xa giữa Chúa Cha và Chúa Con, tỏ hiện trên thập giá (3,16), khuôn mẫu và điểm quy chiếu để thiết lập cộng đoàn mới: “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19). Trong phân đoạn này của diễn từ, không còn có chỗ cho sự đe dọa hình phạt, những kẻ đối nghịch đã biến mất, dành chỗ cho bạn hữu, là những người đã được chọn và đã chọn.
Ở đây Chúa Giêsu nêu ra tiêu chuẩn để nhận ra bạn hữu của Người: đó là những ai thực hiện những điều Chúa Giêsu truyền dạy cho họ (c.14), nghĩa là những kẻ yêu thương nhau (cc. 15-17). Trong Tin Mừng, tình yêu luôn hiện hữu trong mọi bản văn Kinh Thánh: một đòi buộc cụ thể, một sự trung thành trong mọi hành động. Vốn là tôi tớ, các môn đệ đã trở thành bạn hữu. Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ điều Người tâm đắc nhất, sự hiểu biết Chúa Cha (17,26) trong hết mọi sự (16,15). Nhờ Người, các môn đệ được Chúa Cha yêu mến như Người (16,27). Qua mọi thời đại, sự thân mật với Thiên Chúa là ước mơ của mọi người. Trong Cựu Ước, có vài bạn hữu của Thiên Chúa, như Abraham, đã gặp gỡ Thiên Chua như gặp một người thân cận. Ông Môsê cũng đã kinh qua kinh nghiệm huyền nhiệm này. “Ông thân thưa cùng Chúa, diện đối diện, khác nào người ta chuyện vãn với bạn mình vậy” (Xh 33,11). Điều chỉ là đặc ân của một vài người, nhờ Chúa Giêsu, đã được trao ban cho tất cả những ai chấp nhận và trở thành môn đệ của Người.
Thật vậy, tình yêu này không thể là thành quả do quyết định duy nhất của người tín hữu: Chính Chúa Giêsu đã chọn bạn cho mình (6,70; 13,18). Đó là một ân nhưng không mà con người không nên tự phụ.
Theo Thánh Gioan, vài giờ trước khi chết, Đức Giêsu đã bày tỏ cho các bạn của Người viễn ảnh “Chương trình của Thiên Chúa trên thế giới”, và ý nghĩa của việc hiến dâng sự sống cho đến chết của Người.
Trong trang sách đáng yêu này của Thánh Gioan là một bài hát ca tụng tình yêu. Danh từ “yêu” “tình yêu” “ban”, được lặp lại 11 lần… và được dùng với từ “giới răn”. Đối với Đức Giêsu, niềm vui của người được yêu, đó là làm theo ý muốn của người yêu mình.
Ta không thể không để ý đến sự “sinh động” trong trang sách này: Như một bài hát nội tâm, những điệp khúc có cùng một trọng tâm xuất hiện, biến đi và trở lại như những đợt sóng vỗ vào bờ, như giòng thác từ trên đổ xuống từ Thiên Chúa rồi lại trở về nguồn là chính Người.
Trọng tâm của mạc khải này là: Niềm vui “Ta đã nói những điều này cho các con để chia sẻ ‘niềm vui của Ta’, và để các con được tràn đầy niềm vui”.
Vào giờ Đức Giêsu bước từ thế giới này sang bên kia với Chúa Cha, Người nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Đây là những lời tâm sự cuối cùng của Đức Giêsu, đêm trước người “ra đi”. Đối với Đức Giêsu, tất cả bắt đầu trong huyền nhiệm của Thiên Chúa, trong vực thẳm vô hình là “Nguồn” của tất cả mọi sự. Nơi Thiên Chúa, không có sự cô độc không có buồn bã, nhưng có niềm vui yêu thương luôn hiện diện giữa ba Ngôi vị hằng yêu thương nhau.
Thiên Chúa là tình yêu: Chúa Cha yêu Chúa Con, và hai Đấng thông chuyển niềm vui yêu thương này cho Chúa Thánh Thần. Tình yêu vô hình đó, một ngày kia đã hiện thân trong một con người, là Giêsu thành Nagiarét. Huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, có thể ngắm nhìn và cảm nhận được tình yêu này đã làm xúc động trái tim một con người: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy”.
Thầy cũng đã yêu thương anh em.
Nhưng giờ đây, trong con người Chúa Giêsu, mãnh lực tình yêu bắt đau lan ra khắp nhân loại. Thiên Chúa chia sẻ tình yêu của Người, nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không bao giờ được quên Chúa Giêsu đã hành động thế nào để yêu thương chúng ta.
Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.
Câu nói: “Thầy thương yêu anh em” của Chúa Giêsu hàm ẩn sự mê say. Một say mê tình yêu điên cuồng và vô biên: Người vẫn thương yêu những kẻ thuộc về mình còn ở trên trần gian, Người thương yêu họ đến tận cùng” (Ga 13,1). Tột đỉnh của tình yêu chính là Thập giá vinh quang. Đấy là vinh quang của Chúa Giêsu và niềm vui tình yêu vô tận.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thay gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết.
Chúa Giêsu dám nói rằng, Người xóa bỏ sự phân biệt giữa “Thầy và tôi tớ”, giữa “Thiên Chúa” và “Con người”. Từ nay chỉ còn là “Bạn hữu”. Không có gì giấu diếm nhau. Tình yêu có khuynh hướng chia sẻ để tất cả là của chung.
“Tất cả những gì ‘Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết”. Tình yêu khước từ sự “thống trị” người khác nhưng luôn tôn trọng và làm cho người kia “bằng” chính mình.
Qua những kinh nghiệm về tình yêu của con người, chúng ta biết rằng, hai người yêu nhau thường hướng đến sự trong sáng: tình yêu là trao đổi, là hiệp thông. Ta tự tỏ ra cho người kia biết. Chúa Giêsu đã nói: Tất cả những gì Thầy đã nghe được ở Chúa Cha, Thầy đã tỏ ra cho anh em biết. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã nói hết tất cả, không còn gì khác để biết về Thiên Chúa nữa. Thien Chúa đã nói tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa.
Đây là điều răn của Thầy: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”.
Giòng sông tình yêu của Thiên Chúa vẫn tuôn chảy. Nước của giòng thác, khi rơi xuống đất, trải ra, bắn tung lên. Con người khi được Thiên Chúa “yêu thương” chính họ cũng phải trở nên tình yêu theo hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa: “như Chúa Cha thương yêu Thầy, Thầy thương yêu anh em” “Như Thầy thương yeu anh em, anh em hãy thương yêu nhau”.
Chúng ta đừng đọc lướt quá nhanh chữ “cũng như” huyền nhiệm này. Lạy Chúa, Chúa dẫn chúng con đi tới đâu? Chúa yêu cầu chúng con thương yêu đến mức nào? tình yêu của Chúa đã đưa Chúa đen đâu? “Không ai có tình yêu lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Yêu thương đến hy sinh mạng sống của chính mình. “Đây là Mình Thầy, bị trao nộp, đây là Máu Thầy bị đổ ra. Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy, hãy làm việc này như chính Thầy” Giới hạn của tình yêu đó là trao tặng không hạn giới mức độ đo lường. Tình yêu là Thập giá. Thương yêu, thương yêu và yêu thương. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Yêu thương là giới răn của Chúa và dường như chỉ có một giới răn duy nhất đó. Giới răn này làm Chúa quan tâm nhất. Khi con yêu thương tha nhân, con làm điều mà Chúa đã luôn luôn làm. Khi yêu thương, chúng ta làm cho “Thiên Chúa ngự trị” và tạo được một khung trời đẹp cho con người. Tôi duyệt xét lại cuộc sống cụ thể của tôi dưới ánh sáng này. Người này, người kia đối với tới họ là ai? Tôi phải thương yêu ai? Tôi phải chịu trách nhiệm về ai? Ai đang mong đợi gì ở tôi? thái độ của tôi đối với người xung quanh, gia đình và đồng nghiệp thế nào?
Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy. Anh em là bạn hữu của Thầy. Nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
Đối với nhiều người trong thời đại chúng ta, động lực tình yêu dừng lại ở sự đoàn kết với anh em. Những đôi vợ chồng, những gia đình, và các chủng tộc cần phải thương yêu lẫn nhau. Lúc bấy giờ ta có thể nói đến “chân trời tình yêu” (tình yêu theo một chiều ngang); vũ trụ của con người giới hạn ở chân trời trên mặt đất.
Đối với Chúa Giêsu, rõ ràng có một “chiều dọc thẳng đứng” kép đôi xuyên qua con người: Tình yêu từ trên cao Thiên Chúa đến với chúng ta, cũng phải trở về chốn cao sang, trở về với Thiên Chúa. Còn phải có một số rất đông người trở thành “Môn đệ của Chúa”, nghĩa là nhưng người ý thức được những gì đang diễn ra tuồng tình yêu ở nơi trần thế. Phải nhận ra tình yêu, phải nhận biết Thiên Chúa và yêu mến người. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu này: “Anh em hãy trung tín, và ở trong tình yêu của Thầy, anh em hãy là bạn hữu của Thầy. Những môn đệ của Chúa Giêsu, các Kitô hữu, là thành phần của nhân loại đang mến Chúa Giêsu một cách có ý thức: Trách nhiệm vô cùng lớn lao!
Nói cho cùng loài vật cũng thương yêu lẫn nhau. Nhưng con người trong vũ trụ chẳng những có khả năng sống năng lực tình yêu lớn lao này, mà còn biết được khả năng này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, để tạ ơn Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu.
Cũng như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người.
Lúc bấy giờ vòng chuyển động đã hoàn tất. Chuyển động vĩ đại, phát xuất từ Chúa Cha, đã trở về với cội nguồn, và chúng ta có thể chiêm ngắm viễn tượng mà Chúa Giêsu đang có về con người. Một nhân loại được Thiên Chúa thương yêu. Một Thiên Chúa Cha. Một nhân loại huynh đệ, thương yêu lẫn nhau. Một nhóm môn đệ, một Hội Thánh biết nhận ra tình yêu của Thien Chúa Cha.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Niềm vui của Chúa Giêsu là được Chúa Cha thương yêu và yêu thương anh em, là nhận ra Chúa Cha va yêu mến Người. Niềm vui phải là đặc tính của người Kitô hữu, đó cũng là đặc tính của Chúa Giêsu.
‘Thế mà có một số người thường hỏi: trở nên người Kitô hữu thì có khác gì.
83. Chú giải của Fiches Dominicales
GIỚI RAN MỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”
Bài Tin Mừng trích trong chương 15 của thánh Gioan nối tiếp đoạn Tin Mừng tuần trước. Như bức tranh in chìm trong giấy, biểu tượng Cây Nho chỉ tái hiện vào cuối đoạn Tin Mừng. Nó nhường chỗ cho điều làm nền tảng cho nó: Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Chuyển động vòng tròn của việc độc thoại về đời sống cộng đoàn các môn đệ sau khi Người “về” cùng Cha, vốn là tiêu biểu của tư tưởng của thánh Gioan. Một tình yêu duy nhất, nhưng không ngừng trào tràn:
– từ Chúa Cha qua Chúa Con: “Như Cha đã yêu Thầy”
– từ Chúa Con qua cac môn đệ: “Thầy cũng yêu anh em”
– rồi giữa các môn đệ với nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như thế là trung tín với giới răn của Người và ở lại trong tình yêu của Người, như thế họ sẽ được “tràn đầy niềm vui”.
Từ ngữ chìa khoá của chuyển động vòng tròn này là “tình yêu” (tiếng Hy lạp: agape), được sử dụng 12 lần trong bản văn này, dưới những hình thức khác nhau. A.Marchadour đưa ra một nhận xét lý thú: Trong trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em (Tin Mừng theo thánh Gioan Centurion, trang 202).
2) “Như Thầy đã thương anh em, anh em hãy thương nhau”
Vừa khẳng định: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”, Đức Giêsu nói tiếp ngay: “Giới răn của Thầy là anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em”. Hai từ “như” nói lên mầu nhiệm sâu xa nhất của mặc khải. Marchadour lưu ý ta: Đó không phải là một lối so sánh, nhưng là một đào sâu, một thiết lập nền tảng. Ở đây Gioan nói về tình yêu mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, đã biểu lộ trên thập giá (3,16), là kiểu mẫu phải qui chiếu, tình yêu đó là nền tảng của cộng đoàn mới: “Phần chúng ta, chúng ta yêu thương vì Người đã yêu thương ta trước” (1 Ga 4, 19)” (Sđd, trang 202).
Chính do cách thực hiện lời Người truyền: yêu nhau, mà Đức Giêsu nhận ra họ là môn đệ Người, mà Người trở nên “bạn hữu” của họ khi Người chia sẻ cho họ điều thiết thân nhất: sự hiểu biết Chúa Cha.
Từ bao đời, sự gần gũi với Thiên Chúa là ước mơ của con người. Trong Cựu ước, vài người bạn của Thiên Chúa như Abraham, đã gặp gỡ Thiên Chúa như gặp một người thân. Môsê cũng đã sống cái kinh nghiệm thần bí ấy, “Yahvê đã chuyện trò với Môsê diện đối diện, như người ta chuyện vãn với bạn bè” (Xh 33, 11).
Đó là đặc quyền Đức Giêsu dành cho những ai chấp thuận làm môn đệ Người. Thực ra, tình yêu này không phải do người tín hữu chọn mà được; chính Đức Giêsu chọn lựa bạn hữu của Người (6,70; 13,18). Đó là một ân ban nhưng không để con người không thể tự mãn (Sđd, trang 202).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) “Con đường tình yêu”.
(Đức Cha L.Daloz, trong “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”, DDB, trang 194).
Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ Người một giới răn mới (13,34). Người nhắc đi nhắc lại 2 lần: “Điều răn của Thầy là: anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em. Điều Thầy truyền cho anh em là: anh em hãy thương nhau”. Người dạy ta một cách yêu thương mới. Tình yêu tự nhiên bộc phát phải chăng là mối tình có lợi cho ta, giup ta phát triển. Một tình yêu dựa trên sự hấp dẫn, cảm tình; một tình yêu không những trong đó ta vẫn là ta, mà ta còn cảm thấy mình được đánh giá cao, có cảm giác mình lớn lên khi cho và nhận. Thứ tình yêu bè bạn, tình yêu hôn phối như thế đúng là một lý tưởng giúp ta triển nở. Tự nhiên ta dễ cảm xúc trước mặt tình yêu như vậy. Chính Đức Giêsu cũng đã biết đến thứ tình bạn rất nhân loại ấy, Người yêu thương Mátta, em gái bà và Ladaro (11, 5).
Nhưng Người muốn ta tiến xa hơn trong tình yêu. Người muốn đưa ta lên đến tận ngọn nguồn tình yêu: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương các con: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”: Điều Đức Giêsu mong đợi, mời goi các môn đệ, đó là hãy tháp nhập vào tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, để yêu như Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa hoàn toàn nhưng không. Đó thật là một quà tặng. Tình Yêu Thiên Chúa thì phổ quát Người cho mặt trời mọc lên soi người lành cũng như kẻ dữ, cho người công chính cũng như kẻ bất lương! Trái tim Thiên Chúa vui rộn ràng khi thấy kẻ tội lỗi ăn năn hối cải, Người không ngừng kêu gọi, Người sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai trở ve với Người. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến nỗi đã ban Con Một mình! Tin Mừng có gì khác hơn là một mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã biểu lộ khi Người yêu ta đến cùng? Thiên Chúa là tình yêu. Làm sao ta có thể yêu như Thiên Chúa được?
Đức Giêsu vạch cho ta một con đường. Nếu muốn học yêu như Chúa, ta hãy để Người chỉ dạy. Ta đâu phải là người mở ra con đường tình yêu. Chính Lời Chúa chỉ cho ta. Ta phải nghe và trung thành tuân giữ Lời Chúa. Như thế là ta thực tập yêu theo đường lối của Thiên Chúa: “Nếu anh em tuân giữ điều răn của Thầy anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy tuân giữ điều răn của Cha nên Thầy ở trong tình yêu của Cha”. Đó không phải chỉ là cảm tính. Đó là sự hoà hợp giữa ý muốn của ta với ý muốn của Chúa. Đó là sự hoà hợp giữa đời sống của ta với đời sống của Đức Giêsu. “Không ai có tình yêu lớn hơn người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu”. Đức Giêsu, người mục tử tốt lành, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Người kêu mời ta; hãy làm đầy tớ phục vụ anh em, hãy hiến mạng sống vì anh em. Người mời gọi ta yêu đến cùng như Người: “Như Thầy đã yêu anh em “.
Lời mời gọi này quả là một thách đố bất khả kham nếu chỉ nhắm vào sức riêng của ta. Tình yêu trong ta không phải là kết quả của năng lực riêng của ta. Nếu Đức Giêsu trao phó cho ta sứ mệnh yêu như Người, thì chính Người làm trổ sinh trong ta những hoa trái của một tình yêu như thế: “Chính Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại”. Vì thế chỉ có ta mới có thể loan báo tình yêu đến cùng và làm chứng về tình yêu ấy bằng chính đời sống của ta. Biết được nguồn mạch phát sinh tình yêu ấy rồi, ta sẽ tin tưởng trở về với Đấng duy nhất có thể khơi nguồn tình yêu ay trong ta. “Tất cả những gì các con xin Chúa Cha nhân danh Thầy, người sẽ ban cho các con”.
2) “Như” từ ngữ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị quên lãng.
(F. Deleclos, trong “Hãy cầm lấy mà ăn Lời”, Centurion-duculot, trang 124).
Hãy yêu thương nhau. Lời trích dẫn thiếu sót ấy có thể chẳng đi đến đâu nếu ta không quy chiếu về khuôn mẫu, không vượt qua được những khía cạnh cảm tính, hời hợt và chiếm hữu của tình yêu.
Để hiểu biết thực tại, phải ngụp lặn trong dòng sông huyền nhiệm mà Tin Mừng thánh Gioan trình bày cho ta. Không mơ mộng đâu, nhưng đó là lời tâm huyết của con Người. Một xâm chiếm khu vườn bí ẩn của Thiên Chúa nhập thể, một tuyen ngôn tình yêu, thú nhận một tâm tình dịu dàng vô biên: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”. Khó tin, nhưng có thật! Người nói với cả tôi nữa đấy. Người nài nỉ: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy; để niềm vui của Thầy ở trong anh em và anh em được tràn đầy niềm vui”. Nhưng tình yêu có qui luật ở lại trong ta để trái tim ta có thể đập nhịp đập của trái tim Người; để tâm tư, hành động của ta rập khuôn theo tâm tư và hành động cua Người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. “Như”, từ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị lãng quên.
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
DẤU CHỨNG TÌNH YÊU LỚN NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các ngươi”: Tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Cha Người, mà tương ứng là tình yêu tôn vinh Người của Chúa Cha, tạo nên nền tảng và mẫu mực cao cả cho đời Kitô hữu, một cuộc đời từ đây được phô diễn ra bằng đức ái.
“Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta”: Nguyên tự: “hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Ta” (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là ‘trong tình yêu Ta dành cho các ngươi’. Cả bản văn toàn là thuộc cách chủ thể (génihfs Subectifs): tình yêu của Cha đối với Ta, tình yêu của Ta đối với các ngươi (trong đó các ngươi phải lưu lại), các lệnh truyền của Ta (c.10), các lệnh truyền cua Cha Ta, và, lần nữa, tình yêu của Cha Ta đối với Ta.
“Để niềm vui của Ta ở trong các ngươi và niềm vui các ngươi được trọn vẹn”: Là dấu hiệu của một đời sống triển nở, niềm vui được Cựu ước xem như là điểm đặc trưng của thời cứu độ và của bình an cánh chung (Is 9,2; 35,10; 55,12; 65,18; Xp 3,14; Tv 126,3-5) và chủ đề này xuất hiện lại trong các Tin mừng (Mt 25,21.23; Lc 1,14; 2,10). Nơi Gioan, niềm vui của Chúa Kitô phục sinh được chia sẻ ngay từ bây giờ cho các môn đồ sống sự sống mới; niềm vui này phải chiếm hữu tất cả con người và như vậy phải đạt được sự sung mãn nào đó (x. Ga 17,13; 1Ga 1,4; 2Ga 12). Hiện giờ, nó có thể cùng đồng hành với đau khổ (16,20-24;14,28).
“Không có tình yêu nào lớn hơn”: Nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu thức cao cả nhất của tình yêu Người đối với Chúa Cha (14,30), thì nó cũng là chóp đinh của tình yêu Người đối với những kẻ Người đã chọn làm bằng hữu (13,1.4). Đó chính là nền tảng và quy phạm của tình anh em.
“Và đã cắt cử anh em để anh em ra đi”: Động từ Hy lạp tithenai, như công thức Hy Bá tương ứng, diễn tả sự kiện đặt một người nào trong một chức vụ gì đó đồng thời bảo đảm cho kẻ ấy những phương thế để thực thi một cách kiến hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1Cr 12,28; 2Tm 1,11). Như vậy là nhóm môn đồ, nhờ một hồng ân của Chúa, được trao ban trách nhiệm truyền giáo (x. Mc 3,14; 6,7; Mt 10,1; Lc 9,1).
KẾT LUẬN
Niềm vui hoàn hảo là hậu quả của lời mặc khải của Chúa Con và của việc tuân giữ các lệnh truyền mà lời đó bắt buộc. Bao giờ cũng vậy khi người ta tiếp xúc với những sự xếp đặt của chương trình Thiên Chúa: chương trình này thường đòi hỏi khổ chế hy sinh nhưng cũng bao hàm một sự tiền nếm niềm vui mà chúng ta sẽ được trên trời khi kết hiệp hoàn toàn với chiến thắng của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu vừa cho chúng ta biết bí mật cuối cùng và quý giá nhất của tâm hồn Người. Trong một màn độc thoại dài “trước khi qua khỏi thế gian này mà về với Cha”, Người trút những tâm sự sau hết, nói lên những dặn dò cuối cùng; Người xem ra muốn để lại cho các sứ đồ một di chúc thiêng liêng. Thoạt nghe đoạn văn của diễn từ sau Tiệc ly này, điều đánh động chúng ta là việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu mà các sứ đồ cần có đoi với nhau. Trong một đoạn rất ngắn như đây mà Người đã lặp lại chữ “lệnh truyền” bốn lần cả thảy. Như thế Người muốn nhắc nhở một điều tuyệt đối, không bao giờ được đặt lại vấn đề; như thể đó là thực tại chủ chốt, ưu tư thiết yếu, nỗi bận tâm duy nhất của những ai tự cho là thuộc về Người và đáng được vào số những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người.
2) Việc nhấn mạnh này của Chúa Giêsu làm chúng ta bối rối lắng lo. Phải chăng Người không muốn qua đó nói rằng: nguy hiểm chính yếu luôn rình rập nhóm sứ đồ rồi những người sẽ trở nên môn đồ quanh họ, rồi tất cả những ai trong các thế hệ kế tiếp sẽ được quy tụ trong cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, chính là sự thiếu tình yêu. Điều này cũng là cám dỗ thường xuyên nhất là có lẽ là sai lầm thường gặp nhất.
3) Có lẽ! Vì dù sao, xét lại thái độ hiện thời của chúng ta và những nứt rạn mà mỗi thế hệ không ngừng tạo ra trong sự duy nhất của thân thể Chúa Kitô, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa Kitô đã chẳng quá nhấn mạnh. Không cần phải nói đến gương xấu của việc các Giáo hội ly khai, những mối bất hòa lớn lao trong mỗi Giáo hội, hay biết bao tranh chấp của các phong trào ngay trong mỗi Giáo hội địa phương; không cần phải xét đến những gì xảy ra chung quanh chúng ta mà thực sự không tùy thuộc chúng ta, chỉ cần mỗi người hãy nhìn đến mình là đủ, vì mỗi người chỉ có trách nhiệm về chính mình, về phương cách: để tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu, chúng ta yêu mến thế nào? Dù trả lời ra sao đi nữa, thì mỗi một người, nếu thành thật, đều biết mình có thể tiến bộ hơn. Để được như vậy, phải nghe Chúa. Người vừa nói với chúng ta: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu các ngươi”. Mẫu gương của tình yêu chính là Người. Thành thử phải đọc lại Tin mừng, khám phá trong mỗi lời nói, mỗi hành vi của Chúa Giêsu, làm sao đã tỏ lộ cái tình yêu hằng có trong Người, để biết được chúng ta phải cư xử thế nào đến phiên chúng ta. Đừng mất công tìm đâu xa; trong diễn từ mới nghe lúc nãy, Chúa cho chúng ta thay quá rõ Người yêu mến ra sao.
4) Ngay từ đầu cuộc đàm đạo; Người đã bảo chúng ta: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta” sau khi quả quyết: “Ta đã yêu các ngươi”. Người không đòi hỏi chúng ta đáp trả tình yêu của Người đối với chúng ta, không đòi hỏi chúng ta yêu mến Người. Người chỉ xin chúng ta hãy lưu lại, hãy để mình bị bao bọc, để mình chìm đắm trong tình yêu mà Người đang bao phủ chúng ta và đừng làm gì phá vỡ việc lưu lại ấy. Điều tùy thuộc chúng ta là đừng chối từ những gì Người ban cho chúng ta. Người bảo dấu hiệu cho biết ta lưu lại trong tình yêu Người là tuân giữ lệnh truyền Người, một điều thực ra không liên hệ tới Người. Lệnh truyền của Người, ay là đến phiên chúng ta yêu thương kẻ khác; như thể Người không muốn tình yêu Người ban trở về lại với Người, nhưng đổ tràn trên kẻ khác; tình yêu Người biểu lộ như thế sánh được với một con sông luôn tuôn chảy, chẳng bao giờ trở lại về nguồn. Xa hơn Người sẽ nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì bạn hữu”. Tình yêu mà Chúa dành cho chúng ta không giống tình yêu của chúng ta, thứ tình yêu luôn thắc mắc về sự đáp tra nó nhận được: sự đáp trả này đã đủ chưa? Có thành thật và không giả hình chăng? Có bền vững chăng? tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu luôn tiến tới, không chờ đợi đáp trả tí nào. Đó là tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu không trở lại với chính nó. Nó phong phú luôn mãi; đấy là lý do giải thích mềm vui của Chúa Giêsu mà Người có đề cập chỗ khác: “Cho thì vui hơn nhận” (Cv 20,35).
85. Chú giải của William Barclay
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
(Ga 15,11-17)
Điều chính trong đoạn này là Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài biết, chính Ngài đã chọn họ. Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng bởi ân sủng và tình thương, Chúa đã kêu ghọi, chọn lựa chúng ta.
Từ đoạn này, chúng ta có thể liệt kê những điều tuyệt diệu khi được chọn và được gọi.
Chúng ta được chọn để vui mừng. Dù đường đi của Kitô hữu có khó khăn đến đâu trong cả hành trình lẫn mục đích, vẫn là con đường. Trong việc làm phải, làm đúng, bao giờ cũng có niềm vui. Kitô hữu là người luôn vui mừng. Kitô hữu u sầu là một điều mâu thuẫn. Thật sự Kitô hữu nào cũng là tội nhân, nhưng là tội nhân đã được tha thứ và cứu chuộc, niềm vui nằm ngay trong sự kiện đó. Làm sao không vui mừng khi chúng ta đang đi trên con đường sống với Chúa Giêsu.
Chúng ta được chọn để yêu thương. Chúng ta được sai đi vào thế gian để yêu thương. Nhiều khi chúng ta sống như thể được sai đến thế gian để tranh đua, cãi lẫy và đánh đấm nhau. Nhưng Kitô hữu đã được sai vào thế gian, để vừa sống vừa chứngminh cho người khác thấy ý nghĩa của tình yêu đối với nhau. Ở đây, Chúa Giêsu nêu ra một lơi tự xưng quan trọng khác. Nếu chúng ta hỏi Ngài: Thầy lấy quyền gì mà đòi hỏi chúng tôi phải yêu thương nhau? Ngài đáp: Chẳng có tình yêu nào lớn hơn là phó mạng sống vì bạn mình, và Ta đã làm như thế. Nhiều người dạy người ta yêu mến lẫn nhau, nhưng cả cuộc đời họ cho thấy việc đó họ làm sau cùng. Chúa Giêsu ban bố một mệnh lệnh mà chính Ngài đã làm trước nhât.
Chúng ta được gọi để trở thành bạn của Chúa Giêsu. Chúa bảo Ngài không gọi các môn đệ là đầy tớ (douloi) nữa, mà gọi họ là bạn hữu. Câu này có ý nghĩa cho những nguơì nghe lần đầu tiên hơn là cho chúng ta ngày nay. Danh hiệu “douloi”, nô lệ, đầy tớ, tôi tớ của Chúa không phải là danh hieu đáng xấu hổ, nhưng là một vinh dự lớn. Môsê là một douloi, nô lệ tôi tớ của Chúa (Đnl 34,5), Giôsê cũng vậy (Gs 24,29), Đa-vít cũng thế (Tv 89,20). Phaolô kể danh hiệu này là một vinh dự (Tt 1,1) và Giacôbê cũng vậy (Gc 1,1). Những nhân vật lỗi lạc nhất trong quá khứ hãnh diện khi được Chúa gọi là douloi (tôi tớ) của Chúa. Chúa Giêsu phán: “Ta còn có một điều cao trọng hơn cho các ngươi, các ngươi không còn là tôi tớ nữa mà là bạn than của Ta”. Chúa Giêsu ban tặng một địa vị thân thiết với Ngài, mà ngay đến các nhân vật lỗi lạc nhất vẫn không biết, cho tới khi Ngài đến thế gian.
Nhưng ý niệm làm bạn với Chúa có một bối cảnh lịch sử. Abraham là bạn của Chúa (Is 41,80). Sách Khôn Ngoan 7,27 cho biết sự khôn ngoan làm cho người ta trở thành bạn của Chúa. Nhưng từ này còn được minh hoạ bằng một tập tục vốn có trong triều đình các hoàng đế Rôma lẫn các vua phương Đông. Trong các triều đình ấy, có một nhóm người được tuyển chọn, họ được gọi là bạn của vua. Họ được diện kiến nhà vua bất cứ lúc nào, họ được quyền vào cả phòng ngủ của vua lúc sáng sớm. Nhà vau thảo luận với họ trước khi họp bàn với các tướng lãnh và các quan chức. Các bạn của vua là những nhân vật có liên hệ gần gũi, thân cận nhất với vua.
Chúa Giêsu đã gọi chúng ta để làm bạn với Ngài và với Thiên Chúa. Đó là một đặc ân kỳ diệu. Chúng ta không còn phải đứng từ xa, nhìn về phía Ngài mà chờ đợi. Chúng ta không còn là những nô lệ chẳng có chút quyền ra mắt chủ, không như đám đông chỉ đứng xa nhìn thoáng bóng nhà vua đi ngang qua nhân một cơ hội hết sức hiếm hoi. Chúa Giêsu làm một việc lạ lùng: Ngài cho phép chúng ta được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn là người lạ cách biệt chúng ta, nhưng là bạn thân của chúng ta.
Chúng ta được gọi để làm bạn cộng tác với Chúa Giêsu. Ngài không chỉ gọi và chọn chúng ta để ban cho một loạt các đặc ân diệu kỳ, mà Ngài muốn chúng ta trở thành bạn cộng tác với Ngài. Nô lệ chẳng bao giờ là bạn cộng tác,người cùng hùn hạp làm ăn với chủ. Theo luật Hy Lạp, nô lệ được định nghĩa là một công cụ sống, chủ chẳng bao giờ trao đổi ý kiến với nô lệ, nô lệ bị sai bảo phải làm việc mà không được giải thích lý do. Nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Các bạn không phải là nô lệ mà là bạn cùng cộng tác với tôi. Tôi đã nói cho các bạn biết mọi việc. Tôi đã nói cho các bạn những gì Thiên Chúa Cha đã nói với tôi”. Chúa Giêsu dành cho chúng ta danh dự làm bạn cộng tác với Ngài, Ngài chia sẻ tâm sự với chúng ta, cho ta biết kế hoạch, mục tiêu và kỳ vọng của Ngài. Một sự lựa chọn quan trọng được đặt ra trước mắt chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hoặc khước từ viec cộng tác với Chúa Giêsu trong việc đưa thế gian trở về với Thiên Chúa.
Chúa chọn chúng ta làm sứ giả. Ngài phán: “Ta đã chọn các con để sai các con đi”. Ngài không muốn chúng ta sống đời ẩn tu, trốn trách thế gian. Khi một hiệp sĩ đến chầu vua, người ấy không muốn cả đời chỉ yến ẩm tiệc tùng và bầu bạn với vua, người ấy đã xin “Xin hãy phái thần đi làm nhiêm vụ để bệ hạ và toàn dân được ích”. Chúa Giêsu chon chúng ta, trước hết để chúng ta đến với Ngài, sau đó là để ra đi, đến với người thế gian. Đó là mầu mực và nhịp điệu hằng ngày của đời sống chúng ta.
Chúng ta được chọn để trở thành người truyền giáo. Ngài chọn chúng ta để ra đi và mang lại kết quả. Những kết quả vững bền qua mọi thời gian. Phương pháp truyền giáo là sống đời sống Kitô hữu, phương pháp đưa người ta đến với niềm tin là chỉ cho họ thấy kết quả của đời sống Kitô hữu. Chúa Giêsu không sa chúng ta đi tranh luận để bắt người ta theo đạo, chũng không để doạ để họ theo đạo, nhưng thu hút họ đến với đạo Chúa. chúng ta phải sống sao cho đời sống đạt kết quả diệu kỳ, đến nỗi nhiều người khác cũng ao ước được như the.
Chúa chọn chúng ta để trở thành con cái tràn đầy đặc ân trong gia đình của Chúa. Ngài chọn chúng ta để bất luận chúng ta nhân danh Ngài cầu xin điều gì, thì Chúa Cha sẽ làm cho. Một lần nữa chúng ta đối diện với một trong những khẳng định quan trọng, liên hệ đến việc cầu nguyện mà chúng ta cần thấu triệt. Nếu nghĩ không kỹ thì dường như câu này có nghĩa là Kitô hữu, người được chọn của Chúa Kitô, sẽ nhận được tất cả những gì mình cầu xin. Chúng ta đã đề cập đến vấn đề, nhưng cũng nên suy gẫm thêm lần nữa. Tân Ước có quy định một số luật lệ rõ ràng về vấn đề cầu nguyện.
Chúa Giêsu đã chọn chúng ta để trở thành những thành viên được đặc ân, ưu quyền trong gia đình Chúa. Chúng ta có thể và nên dâng mọi sự lên cho Chúa trong khi cầu nguyện. Nhưng không nên tìm câu trả lời theo sự hiểu biết hạn hẹp, hay theo ước muốn bất toàn của mình, mà phải chấp nhận câu trả lời của Chúa theo sự khôn ngoan và tình yêu trọn vẹn của Ngài. Càng yêu mến Chúa chúng ta càng vâng phục ý Chúa.
86. “Các con hãy yêu thương nhau”
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Đức Thánh Cha Gioan 23 trong phiên họp Hội Đồng Giám Mục để bàn luận về nền tảng Đức Ái của đời sống Kitô Giáo. ngài hỏi: “Chư Huynh nghĩ xem đâu là cùng đích của đời sống Kitô Giáo?”
Các ngài trả lời hầu như giống nhau rằng: ” Cùng đích của đời sống Công giáo là: Nhận biết – Yêu mến – Phụng sự Chúa ở đời này để được nước Thiên đàng đời sau.”
Đức Thánh Cha nói cười vui vẻ: “Chư Huynh nghĩ vậy chưa đủ, còn có phần ích kỷ. Phải có phần giúp đỡ người khác cùng nhận biết, cùng yêu mến, cùng phụng sự Chúa, cùng vui hưởng thiên đàng”.
Đó là khía cạnh rộng lớn Chúa truyền dạy qua bài Phúc âm hôm nay “Các con hãy yêu thương nhau”.
Yêu và giúp người khác thực hiện điều đẹp lòng Chúa, tránh xa những gì mất lòng Chúa và mất lòng người ta.
Việc giúp đỡ người khác của chúng ta không phải như cái giúp của ông thầy, của sư phụ dạy truyền cho đệ tử. Nhưng là cái giúp thực hành ngay trong cuộc sống mình:
– Giữ giới luật Chúa – cho người khác noi theo.
– Giữ lời nói đoan chính
– ăn mặc xứng kỳ đức.
– ăn uống không phàm phu tục tử, không bê bối.
– Đời sống vợ chồng lành mạnh, ấm êm.
– Dạy con cái cho phải phép.
– Trước một ngưòi khác tôn giáo, biết tỏ lối sống đạo giáo cua mình…..
Mội điều chúng ta đang thực hiện cách tốt đẹp, có điều cần chú ý hơn trong giai đoạn này là: khía cạnh dạy con theo gương cha mẹ.
Dạy con từ thuở lên ba
Dạy vợ từ thuở về nhà làm dâu.
Cha mẹ sinh con trời sinh tính
Nhưng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Hiện trạng ngày nay: Trẻ con lang thang, cao bồi, phá phách xóm làng, quần áo theo thời theo mốt….
Các anh chị làm dáng làm đẹp (Ok): Bồng bềnh mái tóc mây, bộ tóc Kenedy (Ok). Bo áo đầm xòe dễ coi (Ok). Những điều đó xứng kỳ đức lắm. Mặc đẹp sẽ không dám ba trợn ở dọc đường.
Các em nhỏ chưa đến tuổi thành niên:
Mặc áo mùa đông cho mùa hè – Cha mẹ nhìn con ăn mặc không thấy chướng mắt. Các em mặc áo người lớn khi còn đang là con nít. Quần xắn móng heo, chân đi dép Nhật. Nếu để làm hề thì trên sân khấu đã có đạo diễn, còn ở ngoài đường không ai là đạo diễn cả. Cha mẹ hãy dạy cho con hiểu và chúng sẽ nghe, đừng bảo ” Con tôi nó đâu có vậy”.
Nó có vậy khi không có mặt bố mẹ ở đó. Muốn biết con ai không khó gì, cứ ra các quán hàng là thấy mặt thôi. Muốn biết nghe nói con ai, nghe nói nó làm gì, cứ đến nhà thờ trước giờ Thánh Lễ là phân biệt được kẻ tốt người xấu thôi. Đừng để con hư hổ mặt mẹ cha. Tóm lại, vì mến Chúa, thương người, chúng ta sống sao cho trọn đạo, sống sao cho xứng kỳ đức và răn dạy con cái để nên gương cho mọi người. ” Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta và dạy người khác yêu mến và làm như vậy”.
87. Con tim đập nhịp thần linh
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Bài chia sẻ cho Phúc Âm tuần trước đã nói là bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Phục Sinh năm B tuần này có chất chứa chi tiết về một thứ nhựa sống thần linh, một thứ nhựa sống được Chúa Kitô là Cây Nho hay Thân Nho thông sang cho Giáo Hội, cho Kitô hữu là các cành nho của Người, để các cành nho hiệp nhất với Người ấy có thể nhờ đó sinh muôn vàn hoa trái. Vậy nhựa sống thần linh ở trong bài Phúc Âm tuần này đây là gì, nếu không phải là đức ái trọn hảo, là Tình Yêu Thiên Chúa? Bởi vì, nếu không có yêu thương cũng chẳng có sự sống, chủ đề của 4 tuần cuối của Mùa Phục Sinh. Chính bởi yêu thương Thiên Chúa mới tự động đến với con người, tìm kiếm con người, dù con người tạo vật vô cùng thấp hèn chẳng là gì trước nhan Ngài, trái lại, còn đáng bị trầm phạt muôn đời vì đã chống phản Người. Chính bởi yêu thương Thiên Chúa chẳng những đã đến với con người, nhưng không đến với con người như là một vị chủ tể đến với bầy tôi tớ, mà là đến để nâng con người lên hàng bạn hữu với Ngài, sống thân tình thiết nghĩa với Ngài. Theo lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay thì có hai dấu hiệu Thiên Chúa quả thực chứng tỏ cho thấy Ngài hết lòng muốn làm bạn với con người và muốn con người làm bạn với Ngài, đó là việc Ngài hy sinh mạng sống cho con người và tỏ cho con người biết tất cả những gì về Ngài.
Đúng thế, theo tự nhiên, chẳng có ai lại chết cho kẻ thù của mình, kể cả cho người dưng nước lã. Mạng sống là cái gì quí nhất thì phải được đổi lại hay thay thế cũng bằng những gì tương đương hay đáng giá hơn. Vậy nếu một khi con người được Thiên Chúa hy sinh mạng sống mình cho nơi Con của Ngài thì không phải là con người vô cùng quí giá trước mặt Thiên Chúa hay sao!?! – “Không tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu của mình. Các con là bạn hữu của Thày…”. Cũng theo tự nhiên, chẳng có ai lại đi tâm sự với một người thù ghét mình, hay với một người chẳng bao giờ quen biết, hoặc thậm chí cả với những người ruột thịt nữa, (đó là lý do thực tế cho thấy nhiều khi bạn bè còn thân hơn cả anh em trong nhà, nhất là trường hợp kết bạn trăm năm). Vậy một khi Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho con người qua Chúa Giêsu Kitô là “tất cả sự thật” (Jn 16:13), là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, đến nỗi “ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn 14:9), thì không phải là Ngài đã coi con người như bạn hữu của Ngài hay sao!?! – “Thày không gọi các con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết gì về chủ của mình. Song Thày gọi các con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho các con biết tất cả những gì Thày đã nghe thấy nơi Cha Thày”.
Nếu nói đến chủ tớ là nói đến quyền bính, thì nói đến bạn bè là nói đến yêu thương. Vậy một khi Thiên Chúa muốn làm bạn với con người là Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người yêu mến Ngài. Thực tế cho thấy, con người tạo vật chỉ có khả năng yêu hay chỉ biết yêu khi được yêu, được nâng lên làm bạn với Thiên Chúa mà thôi. Nghĩa là họ được Thiên Chúa ban cho họ khả năng để yêu như Ngài yêu. Đó là lý do con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26), với tâm linh để nhận biết Ngài yêu họ ra sao và với tự do để đáp lại tình Ngài thương mến. Thiên Chúa đã yêu thương con người nơi Con của Ngài, và Con của Ngài đến để cho con người thấy rằng “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đã yêu con người biết là chừng nào, “yêu đến cùng” (Jn 13:1), yêu đến thí mạng sống mình làm giá chuộc họ (x Mt 20:28): “Cha Thày đã yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như thế”. Một trong những con người đã ý thức được thực tại thần linh này, đã ý thức được chẳng những bản tính trọn hảo của Thiên Chúa mà còn đã triệt thấu được cả bản chất của tình yêu lẫn nguyên tắc yêu thương, đó là “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” (Jn 13:23; 19:26; 20:2; 21:20), người môn đệ được ngả đầu (biểu hiệu cho tâm linh con người) vào ngực (biểu hiệu cho tình yêu) Chúa Kitô trong Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:25). Về bản tính toàn thiện của Thiên Chúa, người môn đệ này đã cảm nghiệm rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16). Về bản chất của tình yêu, người môn đệ ấy đã nhận thức ở câu cuối cùng trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Tình yêu là ở chỗ không phải chúng ta yêu Thiên Chúa mà là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và đã sai Con Ngài đến làm của lễ đền tội lỗi của chúng ta” (1Jn 4:10). Về nguyên tắc hay đường lối yêu thương, người môn đệ này huấn dụ, đối với chính Thiên Chúa: “Phần chúng ta, hãy mến yêu, vì Ngài đã yêu chúng ta trước” (1Jn 4:19); còn đối với tha nhân, thánh nhân đã nói đến trong lời mở đầu của bài đọc thứ hai hôm nay là: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa”.
Huấn dụ của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” này về nguyên tắc hay đường lối yêu thương trên đây hoàn toàn chính xác, đúng như lời Chúa Kitô đã khẳng định trong bài Phúc Âm về vai trò chủ động tỏ mình của Thiên Chúa và vai trò tích cực đáp ứng của con người khi minh định: “Không phải là các con đã chọn Thày mà là Thày đã chọn các con để các con đi sinh hoa kết trái”. Đúng thế, con người tạo vật chúng ta được dựng nên từ hư vô, không hề biết Thiên Chúa là Đấng nào và ra sao để yêu Ngài như Ngài là và như lòng mong muốn của Ngài, cho tới khi Ngài tỏ chính bản thân của Ngài ra, tỏ tất cả bản thân của Ngài ra nơi Con Ngài. Thế nhưng, cho tới khi biết được sự thật vô cùng mầu nhiệm diễm phúc này, biết được Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng như thế, con người tội nhân vô cùng hèn hạ, khốn nạn và bất lực cũng không thể nào yêu mến Ngài và đáp lại tình Ngài cho cân xứng, nếu không được tình Ngài chiếm đoạt, để con người có thể yêu Ngài bằng chính quả tim của Ngài. Vấn đề ở đây là làm sao con người bất toàn và bất lực của chúng ta có thể chiếm được quả tim thần linh này để nhờ đó xứng đáng đáp lại Đấng “đã yêu thương chúng ta trước”?
Bài Phúc Âm hôm nay đã cho chúng ta câu giải đáp ngay ở hai câu đầu tiên, nhất là ở câu thứ hai: “Như Cha Thày yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu của Thày”. “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” đây là gì, nếu không phải là hãy chấp nhận tình yêu của Thày, hãy tin tưởng vào Thày, nhất là hãy tích cực đáp lại tình yêu của Thày, bằng cách hãy sống tình yêu của Thày, hay hãy mang tình yêu của Thày các con cảm nghiệm được mà chia sẻ. Đó là lý do, ngay sau hai cầu mở đầu bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ của Người biết cách thức để có thể “sống trong tình yêu của Thày”, cũng như để có thể đáp lại tình yêu của Người, hay sống tình yêu của Người.
Để có thể “sống trong tình yêu của Thày”, thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô, như Người cho biết, cần phải: “tuân giữ các giới răn của Thày”, tức đáp lại các ước muốn của Thày. Và các giới răn của Thày hay các ước muốn của Thày đây là gì, nếu không phải, như Người minh định sau đó, là “các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con”. Nếu “Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng phải yêu nhau như vậy” (Jn 13:34), mà Thày đã yêu các con “đến cùng” (Jn 13:1), đến “tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19), một tác động hoàn toàn vượt trên bản năng bảo tồn, hoàn toàn nghịch lại với khuynh hướng yêu sự sống mình của con người (x Jn 12:25), thì thực tại “các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con” là một chứng cớ hùng hồn nhất và hiển nhiên nhất cho thấy Chúa Kitô “là sự sống” đang sống trong Kitô hữu, và đang tiếp tục yêu thương nhân loại bằng chính con tim của Kitô hữu, một con tim đã bị tình Người chiếm đoạt để chỉ rung động theo những Nhịp Đập Thần Linh, những nhịp đập của một Vị Thiên Chúa Làm Người.
(Suy niệm của Lm. Bm. Minh Trân, CRM)
Dịp Tết Nguyên Đán vừa qua, tôi có dịp về thăm quê hương Việt Nam và dâng lễ tạ ơn. Trong chuyến đi này tôi học hỏi được nhiều điều. Một trong những điều tôi còn nhớ là “nhái.” Nhái ở đây không phải là cóc, nhái. Nhưng là bắt chước người khác. Ở Việt Nam có nhiều mặt hàng họ “nhái” rất tài. Nếu không phải trong nghề, hoac không để ý cẩn thận, người ta sẽ bị lầm một cách dễ dàng. Chiếc xe honda “Spacy” đời mới của Nhật trị giá $85 triệu. Nhưng chiếc xe honda “Spacy” của Trung Quốc, “nhái” y như thật vậy, thì chỉ có $23 triệu thôi.
Thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại rằng Chúa Giêsu cũng đã “nhái” Chúa Cha và muốn mỗi người chúng ta “nhái” Chúa trong việc yêu mến nhau. Chúa truyền dạy: ” Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con… Các con hay yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.”
” Yêu mến nhau” ở đây không phải là lời khuyên, nhưng là lệnh truyền. Do đó, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của vấn đề này. Có nghĩa là, không làm không được. Không làm sẽ chết. Thật thế, tìm hiểu Thánh Kinh, chúng ta thấy điều Chúa truyền dạy ở đây được ghi lại ngay sau dụ ngôn cây nho và cành nho (15:1-8). Trong dụ ngôn cây nho và cành nho này, thánh Gioan ghi rõ rằng cành nho chỉ có thể sống và sinh hoa kết quả một khi ở lại với cây nho. Lìa cây, cành sẽ chết. Tương tự, trong đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan đã nhắc đi nhắc lại 2 lần rằng “hãy ở lại trong Thầy.” Ở lại trong Thầy có nghĩa là “tuân lệnh Thầy truyền.” Và lệnh truyền đó không gì khác hơn chính là: “hãy yêu mến nhau.” Nói ngược lại, không yêu mến nhau là không tuân lệnh Thầy truyền, không ở lại trong Thầy… và hậu quả của nó sẽ dẫn đến sự chết.
Yêu mến nhau bằng cách nào? Yêu làm sao? Hiến mạng sống mình? Thượng tuần tháng 3 vừa qua, trong chuyến đi mục vụ tại Houson, Texas, tôi có được nghe câu chuyện thật cảm động và đầy ý nghĩa của một chị trong ca đoàn thuộc Giao xứ các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chị bị tai nạn xe hơi, gãy xương vai và què chân… và trong lúc này, chị đang mang thai được 5 tháng. Chị được đưa vào phòng cấp cứu. Bác sĩ nói chị cần giải phẫu để đưa đứa bé ra. Tại vì, để chữa trị cho chị cần phải chích thuốc mê và do đó sẽ ảnh hưởng đến mạng sống của đứa bé. Chị nói bác sĩ cứ việc chữa trị, không có thuốc mê cũng không sao. Chị không muốn mất con. Chị kể lại rằng những lần con dao mổ rach xuống thân mình, “nó đau… đau không thể tả được… đau muốn chết được… nhưng tất cả vì con.”
Chết cho người mình yêu để minh chứng tình yêu của mình, chết như Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta được sống, có lẽ chúng ta không có nhiều dịp. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể “nhái” Chúa trong việc sống cho người mình yêu. Để thật sự hoàn toàn sống cho người mình yêu, chắc hẳn cũng đòi chúng ta phải nỗ lực hết mình trong việc chết đi cho chính mình, chết đi hằng ngày hằng giờ, chết đi trong những ước muốn cá nhân, chết đi qua những lần trao ban thì giờ, của cải, sức lực… và một khi thực sự chết đi như thế, chắc hẳn chúng ta sẽ cảm thấy sự sống tươi vui và dào dạt là dường nào.
Người ta thường nói:
“Sướng gì hơn sướng làm lành
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu.”
Tôi cũng xin nhái:
“Nhái gì hơn nhái Thầy mình
Yêu thương trao hiến… trọn tình… mới dza.”
(Suy niệm của Huệ Minh)
HÃY MANG TRONG MÌNH ÁNH MẮT YÊU THƯƠNG
Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.
Trong cuộc sống của con người và trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, có những biến cố, có những dấu ấn để mà đánh dấu sự phát triển của một dân tộc. Và rồi chúng ta thấy sự kiện mà sách Công vụ tông đồ vừa kể lại cho chúng ta, trong suy nghĩ, chúng ta thấy biến cố mà thánh Phêrô ngày hôm nay được ghi lại, đã trở thành một biến cố Lịch sử, trở nên một dấu ngoặc mới.
Đọc lại thì, sách công vụ tông đồ trong bài đọc thứ nhất Chúng ta vừa nghe đấy. Thì có một ông Đại đội trưởng binh lính của người Ý tên là Conêliô, ông là dân ngoại. Ông được xem như là người ô uế, không thanh sạch như những người Do Thái. Và rồi thánh Luca nói rằng là: dẫu rằng là ông bị người ta xem như thế nhưng mà ông sống một đời sống đạo đức, yêu thương.
Và rồi một ngày kia, Conêliô có một cái thị kiến rằng là: “vì ngươi kính sợ Thiên Chúa, ăn ngay ở lành, nên Ta đã thấu lời nguyện xin của ngươi” thì một mặc ông cầu nguyện và ông cho người đi tìm Phêrô và khi mà thuộc hạ của ông Conêliô đi tìm Phêrô để mà nói lên cái lòng kính sợ Thiên Chúa của mình.
Thì lúc đó Phêrô lại được Chúa ban cho 1 cái thị kiến khác là có một tấm khăn lớn từ trên trời thả xuống. Nhìn tắm khăn thì trong đó thánh Phêrô thấy đủ thứ hết: rắn, rết, rồi sinh vật. Và rồi trong cái thị kiến đó thì Chúa bảo rằng là: Phêrô hãy đứng dậy và làm thịt mà ăn đi. Với cái phản ứng rất là tự nhiên, Phêrô bảo rằng là: Lạy Chúa, đời nào mà con ăn những cái thứ ô uế và không thanh sạch đó!
Nhưng mà Thiên Chúa nói rằng là: Cái gì mà Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì đừng bảo là ô uế. Và Thánh Phêrô đã hiểu ý của Chúa, với cái thị kiến đó. Trong cái thị kiến đó. Khi mà hiểu rồi thì Phêrô đã đi theo đoàn tùy tùng của Conêliô và đến nhà Conêliô.
Và thánh Phêrô đã tuyên bố rằng là giờ đây, tôi biết Thiên Chúa không thiên tư tây vị một ai, dù dân tộc nào đi chăng nữa, nhưng mà sống công chính đạo đức thì đều được Thiên Chúa đón nhận. Và thánh Phêrô đã cử hành phép rửa cho đại gia đình ông Conêliô.
Xem chừng đó là cái câu chuyện trong lịch sử trong sách công vụ tông đồ. Nhưng nếu suy cho bằng cùng, đây là một sự kiện rất trọng đại. Bởi vì ngày xưa, dân tộc Do Thái thì họ chỉ quan niệm rằng là Chúa Giêsu đến với họ và trao ban ơn cứu độ cho họ. Nhưng mà Kitô giáo chỉ phát triển ở trong cái vùng Do Thái thôi! Kitô giáo thì chỉ nhận những người Do Thái thôi! chứ còn những người ngoài thì không công nhận.
Và đây là lần đầu tiên mà thánh Phêrô đã cử hành phép rửa cho người ngoại, người mà người ta gọi là ô uế, người mà người ta cho là không trong sạch. Với cái biến cố này, phải nói rằng đánh dấu một bước tiến mới và chính cái biến cố này cho thấy rằng Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa của một mình dân tộc Do Thái, mà là Thiên Chúa của mọi dân tộc.
Do Thái thì tới bây giờ chúng ta thấy, tôn giáo của Do Thái cũng chỉ là Tôn giáo cho riêng của một dân tộc Do Thái thôi.
Còn Kitô Giáo thì, chúng ta thấy với 11 môn đệ sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, khắp mọi dân tộc, khắp mọi quốc gia để mà loan báo. Để rồi, Kitô giáo thuộc mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ, mọi màu da.
Nhờ biến cố này, và qua biến cố này, chúng ta thấy hội thánh được phát triển không ngừng. Và rồi chúng ta thấy, giáo hội phát triển dựa trên biến cố nào? trên cái sự kiện nào?
Không phải đơn giản để mà giáo hội phát triển. Không thể nào mà đơn giản ngày hôm nay, Giáo hội được lan tỏa, nó phải có một cái sức hút nào đó! Phải có một sức mạnh nào đó! Nó có một quyền lực nào đó! hay là nói chung là nó có một cái tác động nào đó, để rồi Kitô giáo ngày hôm nay phát triển.
Có một triết gia thuộc về trường phái nhân vị nói rằng là: Nếu một tảng đá mà được đặt đúng chỗ, thì nó sẽ chuyển đi Dòng Nước của một dòng sông. Và rồi thế giới này là dòng sông, tảng đá đó đặc ở đâu để mà thay đổi cái dòng nước.
Chúng ta thấy, thế giới này là dòng sông và tảng đá thay đổi cái nhìn, thay đổi dòng nước, thay đổi não trạng của con người: Hận Thù Ghen ghét chà đạp nhau thì thay vì hận thù, ghen ghét, chà đạp, có một trọng tâm đến trong thế gian này, đó chính là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã trả lời, cái câu hỏi mà nhiều người thắc mắc lâu rồi! Đó là gì? Đó là “Anh em hãy yêu thương nhau.” Đó là thông điệp, đó là sứ điệp, đó là sức mạnh để mà thế giới này thay đổi! Không phải là bạo lực, không phải là hận thù, không phải là vũ khí không phải là bom đạn.Vũ khí và bom đạn của Chúa Giêsu đó chính là “Anh em hãy yêu thương nhau.”
Nói tới đây con nhớ đến câu chuyện này: Cách đây chắc cũng phải mười mấy năm rồi! Khi mà cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng có một lần ngài kể cho anh em học viện sự kiện như thế này là:
Có một cái Đan viện kia, ngày xưa thì người ta tới đan viện tấp nập, vui lắm! Nhiều người tới với Đan viện. Thế rồi, bỗng dưng một thời gian đan viện vắng lặng.
Thế rồi, vị đan viện trưởng cảm thấy buồn và thắc mắc đi tìm đến một vị thánh và cái người thánh thiện này trả lời rằng là không phải rằng là ở cái đan viện này do tội lỗi của một người nào đó để mà gây ra cái chuyện rằng là người ta không đến đan viện, nữa, nhưng mà tội của Đan viện đó là tội tập thể, chính vì đan viện đã không nhận ra một Đấng Cứu Thế ở trong đan viện.
Đấng Cứu Thế đó đã đến với đan viện và đã ẩn thân trong một ông thầy. Nhưng mà chính vì nhà dòng đã đối xử tệ với ông thầy đó, và rồi không ai đến với đan viện nữa!
Đan viện trưởng về kể cho anh em nghe lời của một người thánh thiện đó! và thuật lại rằng có một Đấng Cứu Thế giả trang trong anh em và chính anh em đã cư xử không ra gì với cái Đấng đó! nên là người ta không đến với đan viện được.
Nghe như vậy thì người này nhìn người kia và tự hỏi rằng là không biết ai đối diện với mình là Đấng Cứu Thế và từ đó người ta đã dành cho nhau sự kính trọng và lòng yêu thương lẫn nhau. Cứ người này nhìn người kia không biết, Đây có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Và rồi người ta thay đổi cái nhìn, người ta thay đổi cái cách sống và từ đó bầu khí của Đan viện nó khác hẳn: bình an, vui tươi. Sau đó thì niềm vui nó trở về với đan viện. Và rất nhiều người đến thăm với đan viện.
Thật sự ra đây là một c&aa