Ngày 07/10: lược sử Kinh Mân Côi

LƯỢC SỬ KINH MÂN CÔI

Lm. Willy Raymond, C.S.C. – Dòng Thánh Giá, nói: “Ngoài Bí Tích Thánh Thể, không có kinh nguyện nào trên toàn thế giới phổ biến hơn Kinh Mân Côi”.

Mọi người ở mọi lứa tuổi và sắc tộc treo tràng hạt trên kính chiếu hậu ô tô và xe tải. Những người nổi tiếng Hollywood đeo tràng hạt quanh cổ như một biểu tượng thời trang. Hàng triệu người Công giáo đã được yên nghỉ với lòng thành kính siết chặt tràng hạt khi nằm dưới lòng đất chờ đợi tiếng gọi Vinh Quang Phục Sinh. Một số tu sĩ đeo tràng hạt Mân Côi lớn quanh thắt lưng như một phần của thói quen của dòng. Bệnh nhân tại các bệnh viện trên khắp thế giới lần hạt trong những giờ đêm đầy lo lắng, hy vọng có được sức khỏe hoặc chuẩn bị cho sự kết thúc cuộc đời trên trái đất.

Mọi người đều đọc Kinh Mân Côi: người hành hương đến Aparecida, Compostela, Lourdes, Fatima, Guadalupe, người đi ô tô, xe lửa, máy bay, tàu thủy, xe máy, chạy bộ, vận động viên marathon, chiến sĩ, nông dân, linh mục, vua chúa, hoàng hậu, thủ tướng, tổng thống, mọi người từ mọi tầng lớp xã hội và sắc tộc đều cầu Kinh Mân Côi. Đa số là người Công giáo, cũng có một số người Tin Lành theo giáo phái Phúc Âm.

Ngoài Bí Tích Thánh Thể, không có kinh nguyện nào trên toàn thế giới phổ biến hơn Kinh Mân Côi. Nguồn gốc từ đâu và tại sao Kinh Mân Côi lại trở nên phổ biến ở nhiều biên giới, nền văn hóa và thời đại như vậy? Lịch sử của Kinh Mân Côi chứa đầy những sự kiện, sự thật, truyền thuyết, huyền thoại và lòng đạo đức chân chính. Trong hơn 600 năm, Kinh Mân Côi trở thành dấu ấn của đời sống sùng đạo Công giáo, đã và đang là một hình thức cầu nguyện hấp dẫn nhất đối với vô số triệu người.

Nguồn gốc Kinh Mân Côi bắt nguồn từ hai nguồn riêng biệt: nguồn thứ nhất đã 3000 năm tuổi và tìm thấy trong các Thánh Vịnh được cho là của Vua Đavít trong Kinh Thánh Cựu Ước tiếng Dothái; thứ hai là thực hành theo dõi những lời cầu nguyện bằng cách đếm bằng hạt, đá cuội, dấu trên gỗ hoặc đá. Thực hành này thấy có trong các tôn giáo lớn trên thế giới như Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo và Hồi giáo.

Từ 150 Thánh Vịnh và từ các bản văn đầu tiên bằng tiếng Dothái vào khoảng thời gian của các vị vua Đavít và Salômôn. Vào thời Chúa Giêsu, người Dothái đã cầu nguyện bằng các Thánh Vịnh này, Ngài cũng đã cầu nguyện và trích dẫn chúng ngay trên thập giá khi hấp hối: “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” (Tv 22, 2a; x. Mt 27, 46; Mc 15, 34)

Các tu sĩ Kitô giáo thời kỳ đầu đã trốn vào sa mạc để thoát khỏi những phiền nhiễu của thế giới, để tìm kiếm Chúa và theo đuổi sự thánh thiện, đã cầu nguyện bằng các Thánh Vịnh theo từng bộ 50. Họ tưởng tượng mình đang cầu nguyện bằng các Thánh Vịnh cùng với Vua Đavít, các tiên tri và các thánh, những người lớn tuổi và cùng với Chúa Giêsu. Họ cùng nhau cầu nguyện bằng Thánh Vịnh viết trên giấy cói hoặc da cừu. Đầu thời Trung cổ, nhiều tu sĩ không thể đọc hoặc hiểu tiếng Latin – ngôn ngữ của Kinh Thánh.

Hầu hết những người bên ngoài tu viện không có cuộn giấy hoặc vật tương tự như vậy, họ chưa bao giờ học đọc và viết. Tuy nhiên, các tu sĩ mù chữ làm việc trên cánh đồng và nhiều giáo dân sùng đạo muốn chia sẻ đời sống cầu nguyện của các tu sĩ biết chữ và của Giáo Hội. Vì họ không biết tiếng Latinh và không thể ghi nhớ tất cả 150 Thánh Vịnh, nên họ dần dần bắt đầu thay thế các Kinh Lạy Cha (Paternosters) cho các Thánh Vịnh. Họ cần một cách để theo dõi xem họ đã đọc bao nhiêu lần, vì vậy họ đã gom những lời cầu nguyện thành bộ 50, giống như các Thánh Vịnh. Họ vẫn cần một cách để đếm, vì vậy họ đã lấy những viên sỏi nhỏ hoặc những vật dụng khác, cuối cùng trở thành chuỗi hạt, tương tự như những chuỗi hạt được sử dụng trong các tôn giáo khác để đếm những lời cầu nguyện và hành động sùng kính.

Có một câu chuyện thú vị về một ẩn sĩ tên là Paul của Aicập vào giữa những năm 300, người sẽ lấp đầy quần áo của mình bằng 300 viên đá nhỏ và ném một viên đi cho mỗi lời kinh mà ông đã đọc. Càng cầu nguyện, ông càng trở nên nhẹ nhàng. Câu chuyện này rất có khả năng là ngụy tạo, nhưng ở đây chúng ta thấy sự hợp nhất của hai nguồn cho Kinh Mân Côi: Thánh Vịnh của Vua Đavít và việc đếm hạt từ thời kỳ tiền Kitô giáo.

Một câu chuyện khác, được cho là có thật vào cuối thế kỷ 19 và 20, là câu chuyện Đức Mẹ hiện ra với Thánh Đaminh vào năm 1208 để trao cho ngài chuỗi Mân Côi như chúng ta biết ngày nay. Theo câu chuyện này, Đức Mẹ đã khuyến khích Đaminh và các tu sĩ Đaminh truyền bá lòng sùng kính Mẹ và Con của Mẹ qua Kinh Mân Côi với sự đảm bảo rằng nhiều ân sủng sẽ đem lại lợi ích cho tất cả những ai lần chuỗi Mân Côi.

Tuy nhiên, theo Lm. Richard Gribble, C.S.C., phải đến thế kỷ 15, Kinh Mân Côi mới bắt đầu hình thành như chúng ta biết ngày nay. Trong thời kỳ này, các bí ẩn và những lời cầu nguyện riêng lẻ bắt đầu kết hợp với nhau. Kinh “Lạy Cha” trích từ Phúc Âm Mátthêu, chương 6. Phần lớn kinh “Kính Mừng” cũng đến từ Kinh Thánh, là sự kết hợp của hai lời chào: lời chào đầu tiên của Tổng Thần Gabriel khi truyền tin và lời chào thứ hai của Bà Chị Êlidabét trong cuộc thăm viếng từ Phúc Âm Luca. Lời cầu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen” là từ một lời cầu phổ biến của các tín hữu vào thời đó.

Ngay sau Dấu Thánh Giá, Kinh Tin Kính của Các Tông Đồ đã có từ lâu đời. Một đề cập sớm về cụm từ “Kinh Tin Kính của Các Tông Đồ” xuất hiện trong một lá thư của Thánh Ambrôsiô năm 390 sau công nguyên, từ một công nghị ở Milan. Kinh Tin Kính của Các Tông Đồ có thể gắn liền với niềm tin, được chấp nhận rộng rãi vào thế kỷ thứ 4 rằng, dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, mỗi tông đồ trong Nhóm Mười Hai đã đóng góp một điều khoản vào 12 điều trong Kinh Tin Kính của Các Tông Đồ. Mặc dù không ở dạng như hiện nay cho đến năm 341 sau công nguyên, nhưng Kinh Tin Kính của Các Tông Đồ thể hiện một cách trung thực những lời giảng dạy mà các tông đồ đã mang đến Rôma và phần còn lại của thế giới được biết đến.

Kinh Salve Regina (Kính Chào Nữ Vương) có từ thế kỷ 11 và thường được cầu nguyện khi kết thúc việc đọc kinh Mân Côi. Mặc dù những lời cầu nguyện này đã thịnh hành trong 300 năm, nhưng cho đến Công Đồng Trentô (1545-1563) mới được sắp xếp theo hình thức cuối cùng mà chúng ta biết.

Tên của lời cầu này có nguồn gốc thực sự và thú vị. Đức Mẹ gắn liền với thời Trung cổ với hoa hồng và vườn hoa hồng. Hoa hồng tượng trưng cho Đức Mẹ. Do đó có tên là Kinh Mân Côi. Năm 1470, Giáo Hội công nhận Hội Mân Côi. Sự công nhận chính thức của Giáo Hội đã được giáo hoàng ban hành năm 1571.

Cùng năm đó, ĐGH Piô V yêu cầu tất cả các Kitô hữu cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi để giúp các Kitô hữu bảo vệ Âu châu Kitô giáo khỏi cuộc xâm lược của người Hồi giáo trong trận đại hải chiến Lepanto. Ngày 7 tháng 10, hạm đội nhỏ hơn của Kitô giáo đã giành được chiến thắng bất ngờ và ngoạn mục. Ngày đó đã được cử hành là Lễ Đức Mẹ Mân Côi.

Năm 1597, ĐGH Sixtô V đã thêm danh xưng “Giêsu” vào Kinh Kính Mừng để biến lời kinh đó thành hình thức cuối cùng. Thế kỷ 17, Thánh Louis de Montfort và “Bí Mật Kỳ Diệu của Kinh Mân Côi” đã đại diện cho một bước tiến lớn trong việc phổ biến Kinh Mân Côi. ĐGH Leo XIII (1878-1903) đã viết 12 thông điệp và 5 tông thư về Kinh Mân Côi. Ngài là người nhiệt thành ủng hộ sức mạnh của Kinh Mân Côi, thấy các Mầu Nhiệm Kinh Mân Côi tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô hơn là vào Đức Maria. Đấng đáng kính Piô XII (1939-1958), Thánh Gioan XXIII (1958-1963), Thánh Phaolô VI (1963-1978), Thánh Gioan Phaolô II (1978-2005) đều dạy về Kinh Mân Côi và khuyến nghị các tín hữu trong các tông thư chính thức hoặc tông huấn.

Đấng đáng kính Patrick Peyton, C.S.C., đã khuyến khích các Nghị Phụ Công Đồng Vatican II đưa việc cầu nguyện gia đình gọi là “Giáo Hội Tại Gia” vào Hiến Chế về Giáo Hội (Lumen Gentium) và linh đạo gia đình trong Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại (Gaudium et Spes). Ngài nói ngắn gọn: “Gia đình cầu nguyện bên nhau sẽ ở bên nhau.” Câu này đã trở thành một trong những phương châm phổ biến nhất trên thế giới.

Đấng đáng kính Fulton Sheen và Thánh Teresa Calcutta đều sử dụng cụm từ này thường xuyên và nhiều người đã gán sai cụm từ này cho mỗi người trong số họ. Bình luận về việc chỉ trích Kinh Mân Côi là lặp đi lặp lại vô ích, Đức TGM Sheen đặt câu hỏi: “Bạn có bao giờ mệt mỏi khi nghe người mình yêu nói ‘Anh yêu em’ hay không?”

Thánh Gioan Phaolô II đã nhiều lần nói rõ rằng Kinh Mân Côi là kinh nguyện ưa thích của ngài. Ngài ủng hộ Kinh Mân Côi như là Trường Học của Đức Maria, và vào năm 2002, ngài bắt đầu Tông Thư Về Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria bằng cách gọi lời cầu nguyện này là “đơn giản nhưng sâu sắc.” Với tông thư đó, ngài kêu gọi mở Năm Kinh Mân Côi và giới thiệu lần bổ sung quan trọng đầu tiên cho Kinh Mân Côi sau 430 năm. Ngài đã thêm năm Mầu Nhiệm Sáng, tập trung vào sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Các mầu nhiệm này hiện nay được chấp nhận như là một sự tiến hóa trong lịch sử lâu dài của Kinh Mân Côi.

Với tư cách là giáo hoàng, Thánh Gioan Phaolô II đã mời gọi các Kitô hữu chưa bao giờ lần chuỗi Mân Côi nên cân nhắc việc đọc Kinh Mân Côi và mời những người đã bỏ Kinh Mân Côi khám phá lại. Khi làm như vậy, ngài nhắc nhở mọi người rằng Kinh Mân Côi có một số lợi ích thiêng liêng mạnh mẽ:

1. Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện tập trung vào Chúa Kitô.

2. Kinh Mân Côi là phương thế hữu hiệu để chiêm ngắm Thánh Nhan Chúa Kitô.

3. Kinh Mân Côi là vật kỷ niệm mà Đức Mẹ không ngừng đặt trước mặt chúng ta các mầu nhiệm của Con Mẹ.

4. Kinh Mân Côi là nguồn vô giá để tự khám phá và hội nhập.

5. Kinh Mân Côi là cuộc gặp gỡ tuyệt vời của tình thân thiết.

6. Kinh Mân Côi liên kết chúng ta với mối liên kết giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria,

7. Kinh Mân Côi là nguồn an ủi tối thượng.

8. Kinh Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.

ĐGH Bênêđictô XVI đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày vào buổi chiều đến Vườn Vatican. ĐGH Phanxicô luôn lần hạt Mân Côi và viếng Đức Mẹ, Đấng bảo vệ công dân Rôma, tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả ở Rôma trước khi đi nước ngoài và khi trở về.

Khi thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo tiến về phía trước, chúng ta thấy Kinh Mân Côi một lần nữa biến thành phương thế “đơn giản nhưng sâu sắc” để mọi người ở mọi lứa tuổi bước qua những sự kiện tuyệt vời, cảm động và đầy cảm hứng trong cuộc đời của Chúa Kitô, được hướng dẫn bởi tình yêu thuần khiết, với niềm tin tưởng chắc chắn vào Đức Maria, Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, và Mẹ của chúng ta.

Tôi Tớ Chúa Romano Guardini nói: “Việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi là nán lại trong lãnh địa của Mẹ Maria. Ở đó bạn sẽ cảm nghiệm được sự thật, vẻ đẹp và sự tốt lành của Con Thiên Chúa, người mà trí nhớ của Người trở nên sống động và trở thành một kho tàng ân sủng.” Thảo nào Phúc Âm nói: “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, 51).

Hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày! Bạn sẽ nhận thấy Đức Maria sống động, sẽ trải nghiệm sự thay đổi trong cuộc sống đầy ân sủng và lòng thương xót.

 

bài liên quan mới nhất

Ngày 09/5: Thánh GIUSE NGÔ DUY HIỂN. Linh mục, Tử đạo(1769-1840)

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng