Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, năm A

CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU NĂM A

Lời Chúa: Đnl 7, 6-11; 1Ga 4, 7-16; Mt 11, 25-30 

1. Ách tôi êm ái, gánh tôi nhẹ nhàng _ Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

Khi quy hoạch thành phố tương lai, 
người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí. 
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng 
cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường. 
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc. 
Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn. 
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh 
giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen. 
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress. 
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống. 
Ðức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài, 
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. 
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ 
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại 
Gánh nặng phải mang vì người khác... 
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, 
chán chường và mệt mỏi. 
Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi. 
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh. 
Hãy mang lấy ách của tôi. 
Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài 
mà những kẻ đến với Ngài phải mang. 
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc, 
về con đường hẹp mà ít người muốn đi, 
về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài. 
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban 
đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ. 
Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt, 
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, 
vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa. 
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ, 
thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu. 
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ. 
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả; 
mà giả như có vất vả đi nữa 
thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh) 
Hãy học với tôi. 
Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài. 
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu. 
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài: 
“Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.” 
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu 
thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại. 
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời, 
cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, 
cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ. 
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải, 
và đưa vào thế giới của Thiên Chúa. 

Lạy Chúa Giêsu, 
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, 
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, 
dễ thấy Chúa hiện diện 
và hoạt động trong đời con. 
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, 
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, 
khép kín và nghi ngờ. 
Xin dạy con sự hiền hậu 
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. 
Xin dạy con sự khiêm nhu 
để con dám buông đời con cho Chúa. 
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, 
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, 
hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen. 

2. Tình yêu linh thánh _ Lm Gioan B. Trần Văn Hào SDB

“Hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29b)

Từ nguyên thủy, trước khi có thời gian và thế giới tạo thành, Thiên Chúa đã hiện hữu, và duy nhất chỉ có mình Ngài. Tình yêu Thiên Chúa cũng đã có từ đời đời, ngày hôm nay và cho đến mãi mãi, và cũng chỉ duy có tình yêu của Ngài hiện hữu mà thôi. Chúng ta là tạo vật, là người thụ lãnh và truyền tải tình yêu Chúa cho tha nhân. Nhưng chúng ta chỉ có thể thông truyền, bao lâu chúng ta biết đón nhận tình yêu đến từ Thiên Chúa. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa đã sai Con một Ngài đến trần gian. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Đức Giêsu chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Chỉ nhờ Người, và trong Người, chúng ta mới có thể đáp trả tình yêu linh thánh ấy.

Đức Giêsu là con Thiên Chúa, là ngôi vị thần linh trong Ba Ngôi. Đồng thời, Ngài đã mang thân phận con người, sinh ra làm con Đức Maria, sống kiếp người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài chính là ‘Lời’ mà Thiên Chúa ngỏ trao cho chúng ta. Ngài nói như một Thiên Chúa quyền năng, nhưng lại sử dụng ngôn ngữ của loài người. Ngài đã ngỏ lời bằng những ngôn từ giản đơn của những cư dân bình thường giống chúng ta. Ngài sử dụng những hình ảnh đời thường rất dung dị để diễn bày những chân lý cao siêu về mầu nhiệm nước trời. Từ những cánh chim trên bầu trời cao xanh, những bông hoa ngoài đồng nội, những hạt giống được gieo vãi, những cây nho xum xuê trĩu quả.. Khi muốn truyền đạt những sứ điệp quan trọng cho các học trò và đám đông, Ngài vay mươn những hình ảnh rất mộc mạc và bình dân, ví dụ: “Anh em là muối ướp mặn cho đời, anh em là đèn sáng đặt trên đế cao...” Đặc biệt, khi muốn khải thị về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, Ngài dùng hình tượng một trái tim nhân loại như một hình mẫu. Ngài nói: “Hãy học nơi ta, vì ta có một con tim hiền dịu và khiêm hạ. Anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi và an bình”.  
Những người đương thời của Đức Giêsu hiểu được những gì Ngài nói, đặc biệt nơi hình ảnh một trái tim yêu thương, một trái tim hiền dịu và khiêm tốn. Đó là một con tim nhân loại đã từng rung động trước cái chết của một thanh niên, con trai bà góa thành Naim, đã từng thổn thức và rơi lệ trước ngôi mộ của một người bạn thân, nhưng đồng thời cũng là một trái tim mang chở cả một bầu trời yêu thương cho đến vô tận. Hiểu được điều ấy, những chàng ngư phủ Galilê cho dù dốt nát và quê mùa nhưng đã dám bỏ lại tất cả, thuyền và lưới, cha mẹ và vợ con, để đi theo chúa. Các tiến sĩ luật thông thái đã ngồi lặng yên chăm chú để lắng nghe. Ngay cả một anh thu thuế oai vệ trước một núi tiền, đã dám quẳng lại tất cả để bước theo Ngài. Đám đông sau khi lắng nghe Ngài giảng đã quên đi tất cả mệt nhọc, gác lại những cơn đói cồn cào ruột gan, và bù lại, Đức Giêsu đã hóa bánh và cá ra nhiều để cho họ ăn. Những người đau yếu cố sức chen lấn để được sờ chạm đến Ngài, bởi vì tất cả những ai đến với Ngài đều có thể trải nghiệm sự bình an trong tâm hồn.

Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta rất cần phải hướng về tình yêu cao cả và tuyệt vời ấy. Chúng ta đang sống trong một thế giới quá ồn ào, ồn ào vì những thông tin hổ lốn tràn ngập trên mạng của thời đại kỹ thuật số, ồn ào vì quá nhiều những tiếng động ầm ĩ của giết chóc và bạo lực, và nhất là ồn ào vì những tiếng xào xạc của tiền bạc kéo lôi con người vào một lối sống ích kỷ và hưởng thụ. Chúng ta cần sự tĩnh lặng và nghỉ ngơi. “Hãy học với Ta, vì Ta có một con tim hiền dịu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi an bình.” Trái tim Đức Giêsu chính là chân trời rộng mở của tình yêu, một tình yêu sâu xa và cao cả nhất mà Thiên Chúa đã hiến trao cho nhân loại.

Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Ngài cũng không đến nhằm quảng bá một học thuyết hay cổ súy một chủ nghĩa. Ngài đến chỉ với một mục đích và một sứ mạng duy nhất mà Chúa Cha đã trao phó, đó là công bố cho nhân loại một Tin mừng : Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta. Cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá là cách diễn bày tình yêu Thiên Chúa một cách tròn đầy và hoàn hảo nhất. Trong cuộc sống tại thế, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, có tên gọi là ‘Mái trường tình yêu’. Ngài đã quy tập những người học trò để truyền thụ một môn học duy nhất, cũng chính là môn học về tình yêu. Ngài nhắc đi nhắc lại “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Cứ dấu này mọi người nhận biết anh em là môn sinh của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy được phác vẽ nơi Trái tim của Ngài, một trái tim bị đâm thâu trên Thập giá, tuôn chảy cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng để trao ban đến vô tận. Trong bữa tiệc ly, môn đệ Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa để lắng nghe từng nhịp đập nơi trái tim yêu thương của vị tôn sư khả kính. Cũng dưới chân Thập giá khi đứng bên Đức Maria, Gioan đã chứng kiến trái tim Chúa mở toang khi bị người lính đâm thủng, để ông có thể chiêm ngắm một dòng suối yêu thương tuôn chảy cho đến bất tận. Vì thế, trong sách Tin Mừng thứ tư và trong cả ba lá thơ Gioan để lại, hầu như Ngài chỉ nói về một chủ đề duy nhất : Tình yêu.

Thiên Chúa yêu thương từng mỗi con người chúng ta không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay yêu thương của cha nó ôm đón khi trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình lặng ngồi bên chân Chúa để được Ngài đưa dẫn vào thế giới ngập tràn yêu thương. Thậm chí một tên cướp khét tiếng với quá khứ đan kín tội ác, vẫn có thể là một vị đại thánh, được Đức Giêsu mở cửa Thiên đàng trực tiếp đưa đón vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc con người.

Con người ngày hôm nay dễ bị chết vì đột quỵ gây nên bởi suy tim. Con tim bị suy yếu do căng thẳng, do sợ hãi, do chán chường hay tuyệt vọng. Nơi mỗi người chúng ta đều có một quả tim dễ mang những mầm bệnh chết người này. Đây là những căn bệnh thể lý, nhưng có những căn bệnh của tâm hồn còn nguy hiểm hơn rất nhiều. Nếu chúng ta sống với một trái tim bế tắc trong cô đơn hay tuyệt vọng, nếu chúng ta mang chở nơi mình một trái tim nhét đầy dao găm và lưu đạn của oán thù, một trái tim rỗng tuếch sự cảm thương nhưng lại nhét đầy tiền bạc của tham lam và ích kỷ, chúng ta sẽ chết với một quả tim như thế. Chúng ta sẽ ngã xuống không phải vì heart-attack, vì đột quỵ hay suy tim, nhưng sẽ chết trong vũng bùn nhớp nhúa của tội lỗi.

Để tinh luyện con tim mình, chúng ta hãy nhìn lên Thập giá Đức Giêsu, chiêm ngắm trái tim của Đấng bị đâm thâu để học nơi Ngài bài học căn bản nhất như Ngài đã nói : “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có một trái tim hiền dịu và khiêm hạ”. Chúng ta phải học, học mãi, và ngồi học nơi ngôi trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp.   

 

 

3. Lòng mến của Thiên Chúa muôn đời tín nghĩa _ Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Yêsu mà cả trong ba bài đọc không có một lời nào trực tiếp nói đến Trái Tim Người! Ðiều đó không làm chúng ta buồn, vì tuy không có lời nhưng lại đầy ý; không có danh từ nhưng nội dung lại chan chứa. Và điều đó cho chúng ta hiểu lễ Thánh Tâm tuy rất mới, vì chỉ buộc trong cả Giáo hội từ năm 1856 và gần 200 năm sau những cuộc thị kiến và vận động của thánh Magarita Maria Alacoque, nhưng lại có nền tảng xa xưa và xa xưa đến nỗi thoạt đầu Giáo hội không thấy cần phải lập ra lễ này vì ý của nó vẫn được Giáo hội cử hành từ buổi đầu. Do đó việc lập ra lễ Thánh Tâm Chúa Yêsu chỉ có ý làm nổi bật lên một mầu nhiệm hằng tiềm ẩn trong Phụng vụ. Và chúng ta phải suy niệm về mầu nhiệm ấy trong ngày lễ hôm nay.

Ðó là mầu nhiệm về lòng Thiên Chúa yêu thương loài người, biểu lộ nơi lòng Chúa Yêsu yêu thương chúng ta, để chúng ta cũng có một trái tim giống như Người, tức là chia sẻ lòng Người yêu thương hết thảy.

A. Lòng Chúa Yêu Thương Loài Người

Tác giả sách Thứ luật là người thứ nhất có thể giúp đỡ chúng ta suy nghĩ về lòng Chúa yêu thương nhân loại nói chung và cá nhân nói riêng. Ông thuộc thời Cựu Ước. Nhưng tư tưởng của ông rất mới mẻ. Nhiều tác giả trước ông đã nói đến lòng Chúa thương dân. Ông đào sâu những tư tưởng ấy và viết nên đoạn văn chúng ta đọc hôm nay một cách sâu sắc.

Ta nên nhớ đây là thời gian sau Lưu đày. Lối nhìn của tác giả đã chịu ảnh hưởng của thời cuộc. Trước kia dân Dothái nhiều khi cho mình là lớn. Vào thời hoàng đế Salomon chẳng hạn, nữ hoàng phương Nam nghe tiếng đã phải đến thăm. Thành ra người ta tự phụ, coi mình là dân đông đảo. Nhưng sau Lưu đày, ai còn có những tư tưởng như vậy? Assyria đã đè bẹp dân cứng đầu cứng cổ như hòn đá đè trên trái trứng. Tuy nhiên chính lúc nhục nhã ấy, tác giả sách Thứ luật mới thấy tình Chúa đối với dân thật là thắm thiết.

Ông dùng những từ ngữ gợi lên những tương giao phu phụ mà Kinh Thánh vẫn dùng để nói về tương quan giữa Chúa với Dân Người. Ông viết: Người đã đem lòng quyến luyến các ngươi và đã chọn các ngươi... Người yêu mến các ngươi và giữ lời thề... Người trung tín, tín nghĩa với các ngươi... Những từ ngữ đó, đọc trong tương quan phu phụ, sẽ ý nghĩa biết bao và làm chứng Thiên Chúa là người hôn phu lý tưởng, tha thiết gắn bó với người mình thương.

Và như vậy, không phải Dothái là dân tộc to lớn. Ngược lại là dân ít người hơn mọi dân, là dân không ai để ý đến, giống như Ðavít khi còn là đứa trẻ nhỏ nhất, đang phải chăn cừu, không đáng cha sai người đi gọi về khi trong nhà có khách quý là Samuel đến xức dầu cho người Chúa chọn. Nhưng chính đứa bé tóc hoe đó mới là kẻ mà Chúa bảo Samuel: Hãy đứng lên xức dầu cho nó. Chúng ta gợi lại câu chuyện này là vì khi nói Chúa "chọn" Israel, tác giả sách Thứ luật hôm nay dùng chính từ ngữ trong câu chuyện Ðavít. Ông muốn nói lên lòng bao dung quảng đại chiếu cố của Thiên Chúa đối với một dân thật là bé nhỏ. Thế mà Người đã nâng lên bậc công nương và trở nên sản nghiệp hay "kho tàng" của Người, như viết trong giao ước: các ngươi sẽ là dân sở hữu của Ta.

Sách Xuất hành (20,5-6) cũng có đoạn nói đến giao ước giữa Chúa và dân với những lời lẽ như sau: Ta là Thiên Chúa hay ghen tương, phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời đối với những ai ghét Ta, và giữ nghĩa dư ngàn với những ai yêu mến Ta và giữ các lệnh truyền của Ta.

Còn ở đây trong đoạn văn Thứ luật này, sau khi nói Thiên Chúa đã gắn bó với dân bằng giao ước, mặc dầu nhỏ bé, tác giả viết: Ta là Thần trung tín, tín nghĩa với những ai yêu mến cho đến ngàn đời, Ðấng oán trả cho mỗi ai thù ghét Người nơi chính thân mình nó.

Thoạt nghe chúng ta không thấy khác bao nhiêu. Nhưng đọc kỹ lại, chúng ta sẽ thấy tác giả sách Thứ luật như đã biến đổi Dung Nhan của Thiên Chúa trong sách Xuất hành. Trước kia chúng ta thấy ngay Người là Ðấng hay ghen tuông phạt tội trên con cháu đến ba bốn đời; còn nơi sách Thứ luật trước hết Người là Thần trung tín, tín nghĩa đến ngàn đời và chỉ phạt tội chính người lỗi phạm.

Như vậy bài sách Thứ luật đã đưa chúng ta gần đến Tân Ước. Và nó cho chúng ta thấy lòng Chúa chan chứa tình thương. Người quyến luyến chiếu cố đến thân phận yếu hèn của chúng ta. Nâng chúng ta lên bậc nghĩa thiết. Trung tín thi thố tình thương cho đến ngàn đời và bất đắc dĩ mới phải phạt tội những ai thù ghét Người. Lời khuyên của sách Thứ luật dĩ nhiên là chúng ta hãy giữ lệnh truyền của Người để lưu lại mãi trong tình Người thương mến. Nhưng điều mà tác giả chưa thấy được là Người vẫn thương tội nhân nơi lòng Chúa Yêsu.

B. Tình Thương Biểu Lộ Nơi Lòng Chúa Yêsu

Ðiều này theo lời Chúa Yêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay, hạng khôn ngoan thông thái không hiểu được, vì Chúa Cha chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn. Thời Tân Ước cũng như Cựu Ước, tình thương của Chúa vẫn tìm đối tượng nơi những kẻ bé nhỏ. Hơn nữa, như Matthêô viết hôm nay, đối tượng ưu việt lại là những người lao đao vác nặng. Chắc chắn, Matthêô không nghĩ nguyên đến những người lam lũ vất vả về phần xác. Chữ "vác nặng" trong Kinh Thánh thường gợi đến gánh nặng của Luật pháp Dothái, của những sức mạnh gò bó con người. Ðó là hạng người được Chúa ưu đãi đến nỗi Người đã sai Con Một của Người xuống thế, để hôm nay tiếng người Con gióng lên: hết thảy hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức, tức là được cảm thấy nhẹ nhàng, tự do.

Người làm thế nào? Matthêô đã viết: Người mạc khải cho họ mọi sự đã được Chúa Cha trao phó cho Người, để họ biết Cha như Con biết Cha. Những lời tuy trừu tượng nhưng rất thâm sâu. Chính chữ mạc khải đã có nghĩa là vén màn, vén lòng mình ra cho người ta có thể thấy. Phải, ai đến với Chúa Yêsu sẽ được Người mạc khải cho, tức là vén lòng, vén trái tim Người ra cho người ấy được xem. Và xem gì? Người nói: xem tất cả mọi sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Và thử hỏi có gì mà Chúa Cha đã không trao phó cho Người? Với lại chúng ta đừng nghĩ ngay đến những sự tầm thường của thế giới chúng ta. Những sự mà Chúa Cha đã trao phó cho Chúa Yêsu để Người vén lòng cho chúng ta được thấy và được nhận lãnh, trước hết phải là những sự mà Phaolô nói: mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng trí loài người chưa bao giờ mường tượng được. Ðó chính là Trái tim của Chúa Cha, tình yêu của Người, sự sống và hạnh phúc vô biên của Thượng Ðế, là chính bản tính của Thiên Chúa. Ðó là những sự mà hạng khôn ngoan thông thái hết sức tìm mà chẳng bao giờ thấy. Và chỉ những ai bé mọn mới được Cha trên trời mạc khải cho, để họ "biết" Cha, như Con biết Cha, nghĩa là để họ mật thiết, thân cận, thắm thiết với Chúa Cha như Chúa Con.

Chúng ta không thể nói thêm, vì ai có thể nói được tình yêu mà chỉ một mình cảm thấy? Chúng ta có kinh nghiệm về tình yêu loài người mà có viết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết cũng hãy còn khách quan, nhạt nhẽo. Huống nữa là khi các thánh viết về tình yêu Chúa! Chúng ta chỉ biết rằng: Lời Chúa chân thật. Hôm nay chính Người nói: ai đến với Người, sẽ được Người vén lòng Người lên để thấy tất cả tình yêu của Chúa Cha đã trao phó cho Người, hầu "biết" Chúa Cha tức là hiểu và hiệp thông thắm thiết với Ðấng đã lựa chọn mình vì mình bé nhỏ.

Những lời Phúc Âm ấy thật hợp để suy nghĩ trong ngày lễ Thánh Tầm hôm nay. Và suy nghĩ phải dẫn đến hành động, khi đó những lời thư Yoan sẽ rất quý hóa.

C. Chúng Ta Hãy Yêu Thương Anh Em

Yoan là nhà thần học thâm thúy. Nghe đọc bài thư của ông hôm nay, không dễ hiểu tí nào. Phải đọc đi đọc lại, lượm ra những tư tưởng chủ yếu rồi xếp đặt lại, khi ấy ta sẽ thấy sung sướng.

Tư tưởng của ông thế này: Nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy, thì ta cũng phải yêu mến nhau (c.11). Lời khuyên có vẻ quen thuộc. Nhưng xét theo luận lý, dường như không chỉnh; vì nếu Thiên Chúa yêu ta dường ấy, thì ta phải đáp trả chứ sao lại phải yêu mến nhau? Ðặt vấn đề như vậy bó buộc ta phải căn vặn Yoan. Và ông sẽ khai triển cho ta lý luận của ông cũng là thần học về tình yêu.

Thiên Chúa là lòng mến (c.8). Ta biết được như vậy là vì Người đã yêu thương ta. Và không phải đã yêu thương ta bất cứ thế nào. Nhưng Người đã biểu lộ tình thương đặc biệt trong việc sai Con Một Người đến trong thế gian để ta được sống nhờ Ngài. Có thể nói Thiên Chúa đã gửi cả tấm lòng của Người xuống cho ta nơi Con Một Người nhập thể cứu đời. Hơn nữa phải nói mạnh hơn, Người đã gửi cả sự sống và hạnh phúc của Người xuống thế gian nơi Ðức Yêsu Kitô là Ðấng đã được Người "trao phó mọi sự" như Phúc Âm đã nói. Vì yêu thương ta, Thiên Chúa đã đến lưu lại nơi con người Ðức Yêsu Kitô.

Nhưng chưa hết, nơi Ðức Yêsu Kitô, Thiên Chúa còn yêu thương ta đến nỗi đã phó nộp mình vì ta để đền thay tội lỗi ta (c.10). Như vậy, tình yêu Thiên Chúa đã biểu lộ nơi thân hình tử nạn thập giá của Ðức Yêsu Kitô.

Rồi từ nơi cạnh sườn của Ðấng chịu đóng đinh, Nước Thánh Thần đã chảy đến thanh tẩy mọi tâm hồn khiến tình mến của Thiên Chúa đã chuyển đến chúng ta. Chính nhờ được Ðức Yêsu Kitô thông ban Thần Khí của Người cho ta (c.13) mà lòng mến của Thiên Chúa đã nên trọn ở nơi ta (c.12). Lòng mến ấy đã từ Ngôi Cha dàn sang Ngôi Con, dàn sang lòng Ðức Yêsu Kitô, dàn đến chúng ta khi Thần khí Ðức Kitô tràn ngập lòng ta qua cái chết vì yêu thương của Ngài.

Bây giờ mang lòng mến Chúa ở trong mình, chúng ta được ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa lưu lại ở nơi chúng ta. Chúng ta có thể "biết" Người theo nghĩa vừa hiểu vừa mật thiết kết hợp với Người, khiến Ðấng Thiên Chúa mà người thông thái khôn ngoan không thấy được, những kẻ bé mọn như chúng ta lại biết được vì Thiên Chúa đang lưu lại ở nơi chúng ta. Người là tình mến. Người hằng yêu mến. Ở trong ta Người cũng thương yêu. Yêu ai nữa bây giờ? Yêu tha nhân, yêu mọi người. Thế nên kẻ không yêu mến anh em, tất không có Thiên Chúa ở nơi mình, và không biết Người (c.8). Thành ra, nếu Thiên Chúa yêu thương ta dường ấy thì ta cũng phải yêu mến nhau.

Như vậy bài thư Yoan đã đưa tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay đến chỗ thực hành. Bài sách Thứ luật cho chúng ta thấy lòng mến của Thiên Chúa muôn đời tín nghĩa. Bài Tin Mừng biểu lộ lòng mến đó nơi Ðức Yêsu Kitô hầu thế gian thấy Thiên Chúa yêu thương loài người lao đao vác nặng qua Trái Tim nồng nàn của Chúa Cứu Thế. Thánh Yoan như trỏ cho chúng ta thấy lòng mến chan chứa của Thiên Chúa đang trào ra từ Thánh Tâm Chúa Yêsu Tử nạn Phục Sinh, để chúng ta đón nhận lấy hầu biết Thiên Chúa và biết yêu mến anh em.

Ngày lễ Thánh Tâm do đó là ngày chạy đến với Chúa Yêsu để được nhiều tình mến hầu chỉ còn sống bằng yêu mến. Cứ dấu này làm chứng ta biết Thiên Chúa là chúng ta yêu mến anh em. Vậy, nếu chúng ta chưa yêu mến anh em đủ, thì này thánh lễ đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá, nơi chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Con của Người đến làm hy sinh đền thay vì tội lỗi chúng ta. Chúng ta sẽ nhận được thêm tình mến nếu dự lễ sốt sắng. Và đã dự lễ sốt sắng thì chúng ta cũng phải ra về với nhiều tình mến hơn.

 

 

4. CHÚA LÀ TÌNH YÊU _ Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh tâm Chúa Giêsu. Mừng lễ Thánh Tâm là chúng ta nhớ đến Tình Yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. 

I.  THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU.

Tình yêu của Thiên Chúa vô tượng vô hình vô thanh vô sú. Tình yêu không có hình tượng, chẳng có hình dáng, không có âm thanh, cũng chẳng có mùi vị nhưng Tình yêu là cái gì rất thật.

Trong Thánh kinh chúng ta thấy có rất nhiều nơi nói về lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta: Cựu ước cũng trong Tân ước.

* Trong sách Ôsê, Thiên Chúa tự ví mình như một người mẹ âu yếm con cái. Chăm sóc con, bồng con, bồng con trên tay, ấp ủ trong lòng. Tập cho con đi. Đút cơm cho con ăn. Đó là  những cử chỉ quen thuộc của một người mẹ.

Thiên Chúa là một người cha, nhưng lại có tấm lòng của một người mẹ. Và lòng Ngài còn mênh mông hơn lòng một người mẹ. Ngài nói: “Dẫu người mẹ có quên con mình thì Ta cũng sẽ chẳng bao giờ quên các con. Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thếá đó.

* Thánh Phaolô trong thư Êphêsô xin Thiên Chúa mở lòng trí ta, giúp ta hiểu được phần nào tình yêu mênh mông vô tận của Chúa Kitô. Tình yêu đó vượt quá trí hiểu của chúng ta: nó vừa rộng vừa dài, vừa cao vừa sâu. Xin cho chúng ta hiểu để chúng ta được no thỏa và được tràn đầy sự viên mãn của Thiên Chúa.

* Và trong Tin Mừng của Gioan chúng ta thấy tình yêu thương đã được cụ thể một cách rõ rệt hơn cả bằng cái chết đau thương của Chúa Giêsu trên Thập giá. Sau khi chết, trái tim Chúa bị còn bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Từ đó nước và máu đã chảy ra cho tới giọt cuối cùng.

Trái tim đó bị đâm nát, đổ đến giọt máu cuối cùng có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương trọn vẹn, có thể thương bao nhiêu thì thương bấy nhiêu, cho đi tất cả, hiến dâng tất cả, không giữ gì lại cho  mình.

Quả thật Thiên Chúa đã yêu thương ta như vậy nên dầu chúng ta có như thế nào đi nữa chúng ta cũng vẫn có một chỗ an nghỉ trong trái tim của Chúa. Chúng luôn được Thiên Chúa yêu thương tối đa. Và cái tối đa của Thiên Chúa thì thật vô cùng vô tận.

II.  NHƯNG TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA LÀ TÌNH YÊU NHƯ THẾ NÀO?

* Thánh Phaolô khẳng định tình thương của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của con người. Tình yêu giữa người với người còn không thế hiểu nổi huống chi tình yêu của Thiên Chúa. Phải cảm nghiệm trước đã mới có thể hiểu được phần nào.

* Còn theo Thánh Gioan thì cái không thế hiểu nổi nơi Thiên Chúa là vì Ngài yêu thương đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho trần gian. Còn gì quý hơn Con Một Ngài, thế mà lại ban cho thế giới. Và khi ban Con Một, Ngài ban cho ta tất cả những gì có thể ban được. Mọi hồng ân của Thiên Chúa đều được thâu gồm trong Chúa Giêsu. Được Chúa Giêsu là được tất cả.

* Để thực hiện ý định yêu thương của Chúa Cha, Người Con Một ấy đã hiến thân làm lễ vật thay cho chúng ta. Đó là tình yêu hiến dâng và cứu chuộc. Một tình yêu đi tới cùng, không nửa vời. Ỳinh yêu chấp nhận mọi hậu quả. Đã yêu thương như vậy thì giá nào cũng sẵn lòng trả. Trong Kinh cầu trái tim Chúa Giêsu có một câu có vẻ mộc mạc nhưng lại rất sâu sắc: “Trái tim Chúa Giêsu tan nát vì tội lỗi chúng tôi”. Đó là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả trên Thập giá vì quá yêu thương.

Thực ra chỉ có Thiên Chúa mới có thể yêu thương tới mức độ như thế. Còn loài người chúng ta dầu có thề thốt gì với nhau đi chăng nữa cũng rất mong manh, chứa đầy bất trắc. Hoặc do lòng người thay đổi, hoặc hoàn cảnh bên ngoài cản ngăn. Tình yêu của loài người dầu mãnh liệt khiến sông sâu cũng lội, núi cao cũng trèo, vẫn tương đối, có giới hạn, nhiều kẽ hở, lắm rủi ro, có lúc yếu đuối. Biết bao tình yêu tưởng chừng thách thức thời gian, nhưng lại bị thời gian làm sói mòn, phai nhạt, rồi đi tới tan vỡ. Một nhà văn đã nhận định một cách chua cay: tình yêu cứ nhạt dần, rồi vữa ra, chua như mồ hôi.

Cuối cùng chỉ còn có tình Thiên Chúa yêu thương ta. Tình thương của Ngài chỉ có đầy mà không có vơi và lúc nào cũng đầy.

III.  KHI YÊU TA NHƯ VẬY CHÚA MUỐN GÌ NƠI TA?

Theo lời thánh Augustinô:

“Tình yêu kêu gọi tình yêu,

Tình thương Chúa kêu gọi tình yêu của loài người”

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13,34)

Vâng phải tập cho mình biết yêu như Chúa. Chúa yêu như thế nào chúng ta hãy biết bắt chước yêu như vậy.

Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tỳ vết hay rạn nứt nào. Đám đông người hiếu kỳ đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ chưa từng thấy.

Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim của tôi !”.

Chàng trai cùng đám đông ngám nhìn trái tim của cụ già. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần trái tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào, nhưng không vừa khít, nên tạo ra một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám vào để thay thế.

Chàng trai cười nói: “Chắc cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt”

Cụ già mới từ tốn nói: “Mọi vết sẹo trong trái tim tôi tượng trưng cho mỗi người mà tôi yêu. Người đó không chỉ là những cô gái, mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè . . . tôi xé một mẩu tim trao cho họ, thường thì họ cũng xé trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra của tôi. Thế nhưng những mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu của tôi trao cho các ngài, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi, chúng không bằng nhau nên chúng tạo ra những sần sùi nhưng tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ để lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.

Nghe thế, chàng trai đứng lặng yên không nói lên một lời nào. Những  giọt nước mắt chảy ra lăn trên má lúc nào mà anh cũng chẳng hay. Đột nhiên anh từ từ bước tới và xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho bà cụ: Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ và trao cho chàng trai. Khi ráp lại thì chúng vừa với nhau, nhưng lại không hoàn toàn ăn khớp nhau, cho nên trên trái tim chàng trai xuất hiện một đường lởm chởm. Giờ đây trái tim của anh không còn hoàn hảo nữa nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết, vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh.

Vâng mỗi người chúng ta hãy để cho trái tim của Chúa chảy qua trái tim của chúng ta để biến trái tim của chúng ta trở nên giống trái tim của Người. Chỉ có con đường đó chúng ta mới có thể có được một tình yêu như Chúa.

Lạy Chúa xin cho con một trái tim biết mở rộng để thay vì chỉ đóng khung trong quan điểm của mình, con biết đón nhận những khuyết điểm nơi người khác, những anh em của con.

Xin hãy cung cấp máu cho con tim của chúng con để chúng con biết sống hy sinh quên mình mà không tính toán hơn thiệt.

Xin hãy cùng cảm xúc theo nhịp đập với trái tim của chúng con để chúng con biết “vui với người vui, khóc với người khóc”

Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa khắp mọi nẻo đường chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con  để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng một cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa.

 

 

5. TÌNH YÊU CỰC THÁNH _ P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng thưa quý vị, thưa các ban, đứng sau Thánh Thể là Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch tình yêu bởi Thiên Chúa. Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. như chúng ta biết tình yêu là trạng thái siêu nhiên, vì không ai nắm bắt được tình yêu, nếu có biểu lộ tình yêu, hoặc trao ban tình yêu, cũng chỉ được bày tỏ qua cử chỉ, thái độ, hành động, biều tượng, chứ không ai có thể lấy tình yêu “ bỏ vào túi áo”, hay bỏ vào bàn tay. Vì vậy, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại được cụ thể hóa, được trở nên hữu hình, được chứng kiến bằng xương bằng thịt qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, qua cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ, và qua chính một biểu tượng hữu hình của Người là Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Nói đến “chữ Tâm” là nói đến tình yêu, như vậy, “Thánh Tâm” có nghĩa là tình yêu của Thiên Chúa. Vậy Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải là tình yêu của riêng Chúa dành cho nhân thế, mà là tình yêu hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa trong Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng hữu hình một “ Trái Tim”.

Vâng, hình ảnh “Trái Tim” là biểu tượng của tình yêu, điều nầy quá quen thuộc, không ai mà không biết. Chức năng của trái tim là cơ quan ở giữa, khi nói đến “tâm” phải nhất định là ở giữa, như là tâm điểm. Người ta nói :” Vòng tròn có một cái tâm”, vâng, vì “cái tâm” ở giữa vòng tròn. Như vậy, cái tâm thật quan trọng, người ta muốn định vị hình tròn thì người ta phải tìm cái tâm của nó.

Vâng, một chút vòng vo để hiểu về “chữ tâm”, đại thi hào Nguyễn Du cũng đã nhận ra tầm quan trọng của “chữ tâm”. Cụ nói :” Chữ tâm bằng ba chữ tài”, tức là con người có lương tâm mới đáng quý hơn người có tài năng . Rõ ràng, nếu có  “tài” mà không có ” tâm” rõ ràng là một tên cướp, còn có “tâm” dù chưa có “tài”, thì cũng được là một ông sư ( thầy tu). Nói vậy, không phải khinh thường tài năng, mà là  so sánh giữa “tài “ và ”đức ”. Nếu có tâm, thì sẽ có đức, còn nếu có tài thì sẽ “tự cao”. Như vậy, “tài”  và “ đức” phải song hành.

Trong xã hội, mọi ngành nghề, mọi công việc đều được phục vụ bằng “cái tâm”, thì xã hội ấy mới có “phúc”. Ví dụ: một người thẩm phán không có “ tâm”, chắc chắn sẽ có một bản án bất công. Một bản án bất công sẽ dẫn đến một cuộc đời bất hạnh, một cuộc đời bất hạnh là một nỗi đau cho xã hội, chứ không riêng cho người bất hạnh đó. Một xã hội có nhiều nỗi đau là một xã hội bại hoại, một xã hội không lành mạnh tất sẽ mất nước, dân lành oán thán. Ngoại bang xâm chiếm, đất nước bị nô lệ ngoại bang, như vậy, thật đáng sợ, theo đó, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là như vậy.

Theo đó, chữ “TÂM” trong xã hội là một nền tảng luân lý, đạo đức tối quan trọng.Vì thế, tất cả các tôn giáo trong xã hội luôn luôn đề cao chữ “ TÂM “. Chẳng hạn như Đạo Phật , họ cũng đề cao “chữ Tâm”, vì tâm không có thì làm sao “tu”. Vì, “Tu” thì giống như một cái vòng tròn, muốn cho tròn thì phải có tâm điểm, nếu không có tâm điểm thì làm sao định nghĩa được “đời tu” là cái vòng tròn. Vì rõ ràng, ai cũng biết “tu” là “sửa”, sửa lại cho đúng như thuở ban đầu, nhờ vào cái “tâm” thì ta mới sửa được đời tu là cái “vòng tròn”. Vì, tu là “ tâm”, cái tâm phải ở trong con người, vì vậy, người ta gọi là ”nhân tâm”, còn tài năng, thì phải do thực hành,mới có được, vì sự giỏi giang , thì gọi là “ nhân tài”.

Vâng, đó là “ chữ tâm “ trong đời sống con người thật quan trọng và cần thiết biết bao!

Theo đó, “cái tâm” trong đạo càng cao hơn, nhưng phải có người hướng dẫn, đó là :“ĐẠO“. Vâng, Đạo là con đường hướng đến điều trọn hảo, để “cái tâm” của nhân thế quay đúng tâm điểm của nó. Muốn vậy, “cái tâm” của người hướng dẫn phải cao cả , vĩ đại biết là dường nào, đó là ”TRÁI TIM” của Đức Kitô. Như vậy, Đức Kitô – Giêsu là Thiên Chúa, vì vậy, được gọi là “THÁNH TÂM”.

Vâng, Thánh Tâm là Trái Tim cực Thánh của Chúa Giêsu, đó là ý nghĩa thứ nhất, nhưng căn cứ vào Lời Chúa Giêsu hôm nay ( Mt 11, 25) : “Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói : Lạy Cha là Chúa tể Trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng , lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. ( c 25 -26), chúng ta cũng có thể hiểu “Thánh Tâm” là “Con Người” có Trái Tim của Thiên Chúa. vâng, một trái tim tốt lành, thánh thiện, thì được gọi là “Thánh Tâm”. Vậy, bất cứ ai, được Chúa Cha mặc khải cho biết những điều cao siêu từ trời và thực thi, thì người ấy có Trái Tim của Thiên Chúa. Vì , Thiên Chúa là Đấng siêu nhiên, vì vậy, không ai có thể nhìn thấy “Trái Tim” hữu hình của Thiên Chúa được. vì vậy, chỉ có Chúa Giêsu mới biểu lộ “Thánh Tâm” hữu hình của Người cho nhân thế.

Vậy, điều mà Chúa Cha mặc khải là cho những kẻ bé mọn chính là “Trái Tim “ của Thiên Chúa qua sự hữu hình của Chúa Giêsu. Từ đó, tất cả những ai có “Trái Tim” của Thiên Chúa qua nghĩa cử và hành động như Chúa Giêsu, thì người ấy cũng có một “Thánh Tâm”, nghĩa là “Trái Tim” của Thiên Chúa. Đó chính là những vị thánh, vì Chúa Giêsu khi biểu lộ Thánh Tâm của Người cho thánh nữ Magaritta vào thế kỷ 16 đã nói  :“ Nầy là Trái Tim đã yêu dấu loài người quá bội, đến nỗi chẳng tiếc sự gì cùng nó”.

Vâng, để hiểu rõ hơn ý trên, chúng ta suy niệm tiếp câu 27: “Cha Ta đã giao phó mọi sự cho Ta. Và không ai biết rõ Người Con trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ Người Con, và những kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho”.

Như vậy, rõ ràng, dù Thánh Ý Chúa Cha muốn mặc khải cho những kẻ bé mọn biết những điều sâu kín, nhưng tất cả mọi điều mặc khải ấy, đều bày tỏ qua Chúa Giêsu, vì mọi điều mặc khải không có điều mặc khải nào lớn hơn chính “Người Con “, là Chúa Giêsu. Như vậy, ai nhận biết và tin vào Chúa Giêsu  ,chính là điều được mặc khải của Chúa Cha.

Điều nầy có ý nghĩa với Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như thế nào? Thưa, chính là mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Người. Vì, Chúa Cha đã mặc khải chính tình yêu của Người qua Đức Kitô, chính tình yêu ấy được mặc khải qua biểu tượng hữu hình là ”Trái Tim” của Chúa Giêsu.

Trái Tim ấy luôn yêu thương loài người hết sức, hết lòng, đến nỗi chẳng tiếc sự gì cùng nó.

Vậy, Đạo công giáo là một mầu nhiệm yêu thương từ siêu nhiên, từ Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu thương ấy qua biểu tượng hữu hình của Chúa Giêsu là THÁNH TÂM của Người . Theo đó, không thể có bất cứ thế lực chính trị nào đứng trên tình yêu thương của Thiên Chúa được.

Qua bài chia sẻ hôm nay, con xin quý vị góp lời cầu nguyện cho linh hồn cha cố Giuse Đinh Quang Thịnh, theo con, cha GIuse như một mẫu gương của Thánh Tâm Chúa Giêsu, hay ít ra cha cố cũng có lòng ước ao nên giống Thánh Tâm Chúa.

Kính lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đấng nhân từ và dịu dàng, xin hãy uốn lòng chúng con nên như Rất Thánh Trái Tim Chúa, để chúng con trở nên “lò lửa“ hằng hừng lên sự kính mến Chúa, cùng Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần./. Amen.

 

 

 

6. LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU _ Lm. Antôn Phạm Văn Tịnh 

Nói về Thánh Tâm Chúa Giêsu là nói về Tình Yêu của Chúa Giêsu, Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu được thể hiện qua việc Thiên Chúa tuyển chọn dân, quyến luyến dân, không phải do ta tốt, ta hay, “không phải do anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân” {bđ1}, Thiên Chúa thương dân, thương anh em chỉ vì Ngài là Thiên Chúa {bđ2} “Thiên Chúa là tình yêu, ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Lẽ ra khi nói “Thiên Chúa yêu thương chúng ta, chúng ta phải yêu Thiên Chúa”, đàng này Sách Thánh lại nói “Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, chúng ta phải yêu thương nhau”. Thiên Chúa coi việc chúng ta yêu thương nhau là thước đo việc chúng ta yêu Thiên Chúa. Trong 1Ga 4, 20 nói “nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”.

Hơn bao giờ hết, ngày nay chữ “Tình yêu” bị lạm dụng rất nhiều, người ta nói nhiều về tình yêu, chúng ta nói nhiều về tình yêu, nại vào tình yêu để giết nhau, để bớt người, bớt con cái, để loại trừ người không cùng phe, không cùng nhóm; bởi vì tình yêu của chúng ta chỉ là sự yêu mình: “tôi trên hết”, “tôi trước hết”, còn Thiên Chúa lại nói: Thiên Chúa trên hết, “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”.

Tình yêu như vậy, thế gian đã không hiểu, cũng chẳng muốn hiểu mà chỉ có những ai được Thiên Chúa tỏ ra, những ai khiêm tốn đón nhận mới hiểu, mới thấy nhẹ nhàng, êm ái. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh: “khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, vì một con người đã sinh ra trong thế gian” {Ga 16,21}.
Chính Tình yêu: tình yêu Thiên Chúa, tình yêu thương nhau, đã làm cho những gánh vất vả, những ách nặng nề lại trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin Chúa ban cho chúng con ơn huệ hiểu biết mầu nhiệm nước Trời, xin Chúa ban cho chúng con chính Chúa.

 

 

 

 

7. SUY NIỆM LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU _ Lm. Anthony Trung Thành

Một câu chuyện tình có thật đã được dựng thành phim và được chiếu trên đài truyền hình Pháp năm 1996, câu chuyện có nội dung như sau:

Có một chàng trai tên là Antôn người Phi châu, mồ côi mẹ, sống với cha trên đất Pháp. Không giấy tờ cũng chẳng có việc làm, nơi ở chỉ là một góc tối trên căn gác chật hẹp. Điều trớ trêu là Antôn lại yêu Valery, một cô gái người pháp thuộc gia đình giàu có, nặng óc kỳ thị. Tình yêu của hai người rất bấp bênh vì màu da chủng tộc. Nhiều lần cha mẹ của Valery đã đến nói rõ với cha của Antôn rằng, họ không bao giờ để cho con gái của họ sống chung với người da đen.

Đau khổ và tuyệt vọng, hai người đành quyết định đi tìm khung trời riêng cho chính họ. Thế là cô gái lấy cắp tiền của cha mẹ và lên đường đi xa, nhưng họ đã bị cảnh sát bắt ngay trong chính đêm họ muốn trốn đi. Quá xúc động bởi nhiều biến cố dồn dập, Valery bị nhồi máu cơ tim phải vào bệnh viện. Gia đình cô lợi dụng cơ hội này để cắt đứt mối liên lạc giữa hai người, và để ngăn ngừa hậu hoạ, cha mẹ Valery đã báo cho cảnh sát biết về tình trạng cư trú bất hợp pháp của hai cha con Antôn, nhưng cảnh sát đã không bắt được Antôn, vì hôm ấy chàng trai thất tình còn mãi lang thang ngoài đường phố. Nhiều tuần lễ sau, các bác sĩ cho biết Valery phải được thay tim mới có hy vọng sống còn. Tình cờ biết được tin này, Antôn đã ghé thăm người yêu đang đau nặng.

Trở về căn nhà của anh, vắng bóng cha chàng trai đau khổ khóc suốt đêm cho đến khi cảnh sát ập đến để bắt chàng, họ thấy chàng mê man bất tỉnh, thay vì đưa chàng vào nhà tù, họ đã chở chàng đến bệnh viện và chỉ vài tiếng sau Antôn tắt thở, trong túi áo của chàng người ta chỉ tìm thấy vỏn vẹn một tờ di chúc với dòng chữ: “Xin được trao tặng trái tim này cho Valery, người yêu của tôi” và Valery đã được cứu sống nhờ trái tim của người tình da đen bất hạnh và đau khổ ấy (nguồn: Internet).

Tình yêu của Antôn dành cho Valery trong câu chuyện trên đây phần nào phản ánh tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ trọng thể Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch của tình yêu. Tình yêu của Ngài được khởi đi từ việc vâng lời Đức Chúa Cha để sinh xuống làm người, sống cuộc đời ẩn dật đơn hèn ở Nazareth trong suốt 30 năm. Sau thời gian sống ẩn dật đó, Ngài bắt đầu ra đi thi thố tình yêu của mình cho nhân loại. Ngài rao truyền giáo huấn tình yêu của Ngài cho mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Ngài gặp gỡ hết mọi hạng người trong xã hội. Ai gặp được Ngài cũng được biến đổi, được chữa lành hay lãnh nhận một điều gì đó. Ngài hóa bánh ra nhiều cho dân chúng đang đói được ăn no nê. Ngài chữa lành người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã 12 năm. Ngài chữa lành người bất toại. Ngài chữa lành cho người bị câm, bị điếc, bị mù, bị què quặt…Người gặp gỡ và biến đổi những người tội lỗi như Lê-vi, Gia-kêu, Maria Madalena… Ngài tha thứ cho ông Phê-rô, kẻ trộm lành, ông Saolô…Vì yêu nhân loại nên Ngài đã lập các Bí tích, nhất là Bí tích Truyền chức và Bí tích Thánh Thể để ở lại cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Đúng như lời Thánh Gioan nói: “Ngài yêu thương họ cho đến cùng” (x. Ga 13,1), và chóp đỉnh của tình yêu đó là cái chết trên thập giá. 

Khi cảm nghiệm được tình yêu của Thánh Tâm Đức Giêsu đối với nhân loại như thế, mỗi chúng ta được mời gọi đến với Ngài, nhất là những lúc gánh gồng của cuộc sống đè nặng, để múc lấy sức mạnh nơi suối nguồn yêu thương: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân tình yêu của Thánh Tâm Chúa trong thế giới hôm nay. Trong bài đọc II, Thánh Gioan Tông đồ đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8). Chính Đức Giêsu cũng đã dạy: Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (x.Ga 15, 12). Để yêu thương, chúng ta hãy lấy lòng nhân từ biến đổi những người tội lỗi giúp họ trở về nẻo chính đường ngay. Để yêu thương chúng ta hãy tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho kẻ làm hại chúng ta. Để yêu thương, chúng ta hãy đóng góp phần mình để cứu chữa, hoặc làm giảm bớt những cơn đau của những người bệnh tật. Để yêu thương, chúng ta hãy sẵn sàng săn sóc và đóng góp công, của để cứu chữa những người gặp nạn như người Samaritanô nhân hậu. 

Trong thực tế cuộc sống hôm nay, vẫn còn rất nhiều người sống thiếu yêu thương. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến biết bao cảnh bạo lực xảy ra trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội. Từ cảnh học sinh đánh nhau trước sự chứng kiến của bạn bè, thầy cô, đến cảnh vợ chồng “hạ cẳng tay, thượng cẳng chân” trước sự khóc lóc kêu la của con cái. Rồi, những cảnh bạo lực xảy ra nơi đường xá, chợ búa, thậm chí tại các cơ quan công quyền. Gần đây, theo dõi báo chí chúng ta biết, nhiều nạn nhân chết một cách đầy bí ẩn tại các trụ sở công an.

Bên cạnh đó, biết bao cảnh đời bất hạnh diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta: nghèo đói, bệnh tật, áp bức, tù tội, các nạn nhân của thảm họa môi trường, của bão lụt do thiên tai và nhân tai… Có thể người ta vẫn biết, vẫn thấy, vẫn nghe tiếng kêu gào đau đớn của họ. Nhưng người ta cứ làm ngơ, hoặc vì người ta bất lực, hoặc vì người ta sống vô cảm sợ liên lụy đến sự an toàn của bản thân. Như thế, người ta đang tiếp tay cho kẻ xấu, cấu kết và đồng lòng với họ như lời vua Napoleon I đã nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không chỉ vì tội ác của những kẻ xấu, mà còn là vì sự im lặng của những người tốt”. Vì vô cảm nên người ta vẫn chứng kiến cảnh đánh nhau nhưng không can ngăn. Vì vô cảm nên người ta vẫn thấy cảnh đói nghèo, bệnh tật nhưng không cứu giúp. Đó là hành động đi ngược lại với tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Xét mình lại, có lẽ nhiều lần chúng ta cũng đã trở thành những con người vô cảm như thế. Vì vậy, chúng ta hãy xin Thánh Tâm Chúa thứ tha và xin Ngài ban cho chúng ta một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết thổn thức, biết rung động, biết đập với nhịp đập của Thánh Tâm Chúa.

Hôm nay cũng là ngày xin ơn thánh hóa các linh mục: Linh mục là hiện thân của Đức Kitô, là Alter Christus (Đức Kitô thứ hai hay Đức Kitô khác). Nên Linh mục phải có lòng thương xót như Đức Giêsu. Lòng thương xót đó được thể hiện qua việc rao giảng, qua việc cử hành các Bí tích nhất là Bí tích Giao Hòa. Lòng thương xót đó còn được thể hiện qua việc thăm viếng mục vụ, quan tâm đến những người nghèo khổ về vật chất cũng như tinh thần. Linh mục phải như chủ chiên đi tìm con chiên lạc, như người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị đánh mất, như người cha chờ đợi đứa con đi hoang trở về. Nhưng vì linh mục cũng là một con người với những yếu đuối, lầm lỗi và thiếu xót. Để thực hiện được vai trò “Kitô thứ hai”, và trở nên mục tử nhân lành, bản thân linh mục cần phải cố gắng không ngừng, đồng thời cần lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa. Cần sự cố gắng của bản thân để linh mục hoàn thiện mình, cần lời cầu nguyện của giáo dân để Chúa thánh hóa linh mục. Ước mong rằng, tất cả các linh mục trong Giáo Hội thực sự trở nên những linh mục như lòng Chúa mong muốn.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

 

 

8. TÌNH THA THIẾT _ Trầm Thiên Thu 

THÁNH TÂM CHÚA – CÕI AN BÌNH MIÊN VIỄN

LÒNG XÓT THƯƠNG – NƠI TÍN THÁC SUỐT ĐỜI

Thiên Chúa mời gọi và hứa: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22:17).Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ và động viên: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Phàm nhân thật là hạnh phúc, bởi vì thân phận bụi tro chẳng đáng gì mà vẫn được Thiên Chúa ưu ái quá đỗi!

Thánh TâmvàLòng Thương Xót không thể tách rời, vĩnh viễn chỉ là MỘT.Thánh Tâm chứa đựng Lòng Thương Xót, và Lòng Thương Xót là nhịp đập yêu thương của Thánh Tâm.Trái tim nằm trong cơ thể, vì thế mà Thánh Tâm cũng bất khả phân ly đối với Thánh Thể. Đó là mối liên kết mầu nhiệm trong mối tình tha thiết của Chúa Giêsu.

Cơ thể con người là một kỳ công của Thiên Chúa. Cả cơ thể con người là một khối tổng hòa kỳ diệu. Mỗi cơ phận đều là một thế giới diệu kỳ, nhưng trái tim là cơ phận đặc biệt nhất. Tim có nhiệm vụ phân phối máu đi khắp các mạch máu, kể cả trung tâm não bộ. Nếu mắc nối tiếp các mạch máu trong cơ thể sẽ thành một đường dài 96.559 km. Tim còn có điểm đặc biệt là tự đập nhịp, không nhờ sự giúp đỡ của não hoặc cột sống, vì khi lấy tim ra thì nó vẫn “nhảy nhịp”. Và mỗi cơ tim đều tự đập được.

Tim điều phối máu. Trong máu có sự sống. Máu còn được chia thành nhiều nhóm – dựa theo một số chất cacbohydrat và protein đặc thù trên hồng cầu. Có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng các nhóm chính là O, A, B và yếu tố Rhesus (Rh). Máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu, gây tác hại cho cơ thể. Đặc biệt máu O có thể nhận thêm nhóm máu hiếm 2 là OA. Nghiên cứu thấy có 1-7 người trong nhóm này thuộc hệ nhóm máu người được ghi nhậnbởi Tổ chức Quốc tế về Truyền máu (ISBT – International Society of Blood Transfusion, thành lập năm 1935, có khoảng 1700 thành viên ở 97 quốc gia).

Trái tim đặc biệt cả về lý tính và hóa tính. Không chỉ vậy, tim còn là “trung tâm tình cảm” (đầy đủ thất tình của con người).Tim là trung tâm sự sống, tim chết thì người ta chết. Não chỉ là trung tâm điều khiển. Vì thế, tim rất quan trọng, nó cần duy trì khỏe mạnh ổn định chứ không thể yếu hoặc thất thường. Tim mà đau thì cả thân xác rời rã. Cơn đau tim có thể xảy ra với bất kỳ ai, dù già hay trẻ, dù nam hay nữ, và cơn đau tim thường xảy ra vào buổi sáng (từ khoảng 6 giờ tới trưa). Khi lên cơn đau tim, người ta có thể tử vong trong vòng bốn giờ.

Người ta thường dùng hình trái tim có lưỡi gươm đâm thâu để diễn tả tình yêu. Điều đó cho thấy “yêu là khổ”, vì yêu phải CHO nhiều hơn NHẬN. Như vậy, yêu không chỉ “khổ” mà còn “lỗ” to! Thế nhưng không ai lại không thích yêu. Đó là loại thuốc “đắng” vô cùng mà ai cũng thích sử dụng. Tim có lý lẽ riêng mà chính lý lẽ cũng không thể lý giải. Lạ quá chừng! Và quả thật, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con yêu dấu của Ngài là Đức Kitô (Ga 3:16), chính Chúa Giêsu cũng yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5:8), Ngài còn si tình đến mức chịu khổ nạn và chịu chết để chứng minh tình yêu Ngài dành trọn cho chúng ta.

Thế kỷ XVII, khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque, một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ởParay-le-Monial, Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh, và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể vào ngày 16 tháng 6, Chúa Giêsu nói: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Ngài yêu cầu Thánh nữ vận động thành lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Tình Thương Tha Thiết, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước. Dù chỉ là tội nhân, nhưng chúng ta được diễm phúc trở thành con cái của Thiên Chúa, là “dân riêng” của Ngài: “Anh em là một dân thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7:6).

Chăc chắn nhân loại không thể nào hiểu thấuLòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đúng là Ngài si tình thực sự. Tại sao? Đây là lý do: “Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharaô, vua Ai Cập” (Đnl 7:7-8).Thánh Vịnh gia đã cảm nghiệm: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, nhưng Chúa hằng nghĩ tới” (Tv 40:18). Còn chúng ta quá tệ bạc, vẫn không ngừng vô ơn bội nghĩa!

Phân tích tỉ mỉ hơn, Kinh Thánh nhắc nhở: “Anh em phải biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người. Còn ai thù ghét Người thì Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người, Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa” (Đnl 7:9-10). Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Cựu Ước có “tính hù dọa”, nhưng thời đó là thời “mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, chỗ gãy đền chỗ gãy” (Xh 21:24; Lv 24:20; Đnl 19:21), nên ngôn ngữ diễn tả “thô” và thẳng thắn như vậy thôi. Ông Mô-sê kết luận rạch ròi: “Vậy anh em phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi truyền cho anh em đem ra thực hành” (Đnl 7:11). Và chắc chắn chúng ta không thể không thực hiện. Cựu Ước vẫn luôn cần cho thời đại ngày nay. Chúa Giêsu cũng không hủy bỏ luật Mô-sê, mà Ngài kiện toàn lề luật (Mt 5:17).

Được làm người, bổn phận của chúng ta không chỉ có vậy, một trong các bổn phận quan trọng khác là chúc tụng và tạ ơn Chúa. Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2).Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta, nghĩa là chúng ta phải làm vậy vì nhiều lý do: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng. Chúa phân xử công minh,bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:3-7). Chúng ta được chữa lành quá nhiều, thế thì lẽ nào lại vô ơn bạc nghĩa? Chắc chắn không tạ ơn là không thể được!

Tình yêu là bản chất Thiên Chúa. Ngài cũng là hiện thân của lòng thương xót, luôn chạnh lòng và động lòng trắc ẩn với những kẻ khốn cùng:“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm”(Tv 103:8 và 10).Kẻ khốn cùng đó là ai? Còn ai trồng khoai đất này ngoài chúng ta? Và rồi Ngài còn “chắc cú” để chúng ta được an toàn bằng cách “ném tội lỗi thật xa chúng ta” (x. Tv 103:12). Chúng ta sướng rơn rồi còn gì!

Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không chỉ mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải yêu thương nhau. Cũng là điều hoàn toàn hợp lý thôi. Tông đồ Tình yêu Gioan lý luận: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thươngthì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!

Còn nữa, người-môn-đệ-Chúa-yêugiải thích: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10).

Và chính vị tông đồ trẻ này đã đưa ra cái “nếu” khiến chúng ta phải “đâu cái điền”, nhưng đây cũng là lời mời gọi: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. NẾU chúng ta yêu thương nhauthì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta. Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đếnlàm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 4:11-14).

Thật là chí lý với hệ lụy lô-gích và minh nhiên: “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:15-16). Tin vào tình yêu Thiên Chúa là tín thác vào lòng thương xót của Ngài, tin bằng cả con người của chúng ta chứ không bằng môi miệng hoặc theo phong trào – qua việc tham gia các hội đoàn.

Sau khi quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài đã làm mà không sám hối, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11:25). Và Ngài nói với họ: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27). Họ là ai? Là những người “chứng kiến phép lạ mà không sám hối”. Và họ cũng chính là chúng ta, vì chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều phép lạ trong đời thường mà đức tin vẫn xơ cứng, tệ hơn nữa là lại cứ “đua nhau” tìm kiếm các “sự lạ” ở nơi kia hoặc nơi nọ, còn chính mình hàng ngày vẫn nhận lãnh phép lạ mà lại coi như là chuyện tất nhiên. Hãy cẩn trọng!

Kiên trì, nhẫn nại và mong chờ mòn mỏi, Chúa Giêsu vẫn không ngừng mời gọi:“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Hiền hậu và khiêm nhường liên quan chặt chẽ với nhau, êm ái và nhẹ nhàng cũng có liên quan lẫn nhau. Lời mời gọi đó không chỉ dành cho ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hoặc tháng Sáu, mà dành cho mọi lúc với tần suất 24/7.

Thật vậy, từng giây từng phút,Chúa Giêsu vẫn tha thiết mời gọi mỗi chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Về “tình trạng”ở-lại-trong-tình-thương đó, chính Ngài cũng đã giải thích: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Không còn mơ hồ, và cũng không thể hiểu theo cách khác. Yêu ai thì “chiều” theo người đó, muốn làm vừa lòng người đó và muốn nên giống người đó.

Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy có nhiều loại trung tâm để cứu vớt người ta về thể lý hoặc tinh thần. Các trung tâm đó được thành lập để “cấp cứu”. Nhưng có lẽ Trung Tâm Cấp Cứu thể lý được chú ý nhiều. Mỗi khi nghe tiếng còi hú của xe cứu thương, chúng ta cảm thấy có điều gì đó sâu lắng. Tuy nhiên, có một Trung Tâm Cấp Cứu quan trọng nhất và cần thiết nhất, độc nhất vô nhị, đó chính là Trung Tâm Thương Xót: Thánh Tâm Chúa Giêsu.Đến bất cứ trung tâm nào thì người ta cũng phải trả phí, nhưng người ta vẫn phải đến, còn ai đến Trung Tâm Thương Xót của Siêu Bác Sĩ Giêsu thì đều được miễn phí hoàn toàn – dù bệnh nhân giàu hay nghèo, già hay trẻ.Thế mà tại sao chúng ta lại ngại đến? 

Ngày xưa, Thiên Chúa đã phải thốt lên: “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy!” (Hs 11:7).Ôi, tình thương thật tha thiết. Và ngày nay, Ngài cũng vẫn đang nói với những con người của thế kỷ XXI như vậy.

Kính lạy Thiên Chúa Tình Yêu,Thánh Tâm Chúa Giêsu đã yêu thương chúng con đến cùng, được minh chứng quahai Dòng Tình là Máu và Nước tuôn trào từ vết thương nơi Thánh Tâm Ngài. Đólà vết đâm của lưỡi giáo, nhưng vết thương đó đã hóa nên Dấu Tình và Cửa Lòng Thương Xót dành cho chúng con. Xin giúp chúng con biết vào Cửa Lòng Thương Xót để được đóng Dấu Tình của Ngài,nhờ đó chúng con được sống dồi dào trong tình yêu vĩnh hằng. Ngài là Đấng cứu độ chúng con, là Đấng hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

 

 

9. YÊU THƯƠNG NHƯ GIÊ-SU _  LM ĐAN VINH -  HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 11,25-30

(25) Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai  biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.

2. Ý CHÍNH: 

Đức Giê-su dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa Cha, vì Người đã giấu không cho những kẻ học thức quyền thế biết chân lý, nhưng lại tỏ mình ra cho những người nghèo khó, yếu đuối và tội lỗi. Tiếp đến, Đức Giê-su bày tỏ về bản tính Thiên Chúa của Người ngang bằng Chúa Cha, và dạy môn đệ hãy sống gắn bó với Người, để biến ách lề luật và gánh nặng bổn phận trở nên nhẹ nhàng và sau này sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời.

3. CHÚ THÍCH:

- C 25: + Lạy Cha: Khi cầu nguyện, Đức Giê-su thường xưng tụng Thiên Chúa là “Cha”, một tiếng gọi thân thương mới lạ đối với người Do thái, vì họ không bao giờ dám gọi Thiên Chúa là Cha. + “Chúa Tể trời đất”:là một lời xưng hô có tính trang trọng. + Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn: “Giấu” ở đây không phải vì Chúa Cha không muốn mặc khải, nhưng vì những người kia tự mãn, cho mình là khôn ngoan thông thái, nên không muốn đón nhận chân lý mặc khải. Trái lại, những người bé mọn vì có tinh thần khó nghèo, nên được Thiên Chúa tỏ mình để họ biết Người, như Đức Giê-su đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39). Câu này gợi lại câu chuyện về các thiếu niên Do thái trong sách Đa-ni-en: Tất cả các bậc khôn ngoan thông thái Ba-by-lon không ai hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chỉ có các thiếu niên Do thái là được Thiên Chúa mặc khải cho (x. Đn 2,27.30). Cũng vậy, Đức Giê-su ngợi khen Thiên Chúa vì Người đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn, tức là những kẻ chỉ biết tin cậy phó thác vào sự phù trì của Thiên Chúa.

- C 26-27: + Đó là điều đẹp ý Cha: Đức Giê-su luôn làm đẹp lòng Cha (x. Mt 3,17 ; 26,42 ; Ga 4,34). + Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Ngôn sứ Đa-ni-en được mặc khải chuyện Con Người được Đấng Cao Niên (Thiên Chúa) ban tặng tất cả mọi sự (x. Đn 7,14). Ở đây, Đức Giê-su cho thấy Thiên Chúa đã giao phó mọi sự cho Người (x. Mt 28,18). Nhất là cho Người biết rõ về Chúa Cha để mặc khải cho lòai người, hầu ban cho lòai người được sống đời đời (x. Ga 17,2-3). + Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha. Cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho: “Biết” ở đây không phải chỉ là sự hiểu biết tri thức thông thường, nhưng là hiểu biết thâm sâu cả về tâm hồn và thể xác.

- C 28: + Tất cả hãy đến với tôi: Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy theo làm môn đệ của Người, tức là vâng nghe lời Người dạy và sống theo gương mẫu tốt lành của Người. + Những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Chính Đức Giê-su là Con Người được đề cập trong sách Đa-ni-en, ở đây lại xuất hiện dưới danh xưng Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những người bé mọn. Họ là những kẻ vất vả và mang gánh nặng nên được Người kêu gọi hãy đến với Người. Đó là những người Do thái đang sống dưới ách của Luật cũ có nhiều tập tục nặng nề (x. Mt 23,4). Những kẻ mang gánh nặng còn là những người gặp nhiều gian nan thử thách.

- C 29-30: + Hãy mang lấy ách của tôi: “Ách” hay “gánh” của Đức Giê-su chính là đạo lý Tin Mừng mà Người rao giảng. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Đạo lý của Đức Giê-su được tóm lại trong ba điều chính sau: Một là Tin, nghĩa là trở thành môn đệ của Người. Hai là khiêm nhường, nghĩa là hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Ba là hiền lành, nghĩa là đối xử khoan dung nhân hậu với tha nhân. + Vì ách tôi êm ái: Đức Giê-su đòi môn đệ phải giữ luật theo tinh thần của Tám Mối Phúc (x. Mt 5,17.20), thay cho thái độ vụ Lề Luật và nặng hình thức (x. Mt 5,21-22). Đức Giê-su cũng dạy môn đệ đừng bắt chước các đầu mục Do thái là các kinh sư và người Pha-ri-sêu, vì họ “nói mà không làm” (x. Mt 23,2-7). + Và gánh tôi nhẹ nhàng: Khi tuân giữ các điều Luật dạy với lòng yêu mến, thì bất cứ điều khoản nào dù khó giữ đến đâu, cũng trở nên nhẹ nhàng đối với người yêu mến Chúa.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).

2. CÂU CHUYỆN:

1) LỊCH SỬ LỄ THÁNH TÂM:

Khi Chúa Giê-su bị treo trên thập giá, thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh tới vết thương ở cạnh sườn Người: “Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,33-34).

Trước thế kỷ 12, Hội Thánh có thói quen tôn kính các vết thương của Chúa Giê-su. Nhưng từ thế kỷ 13, Hội Thánh bắt đầu tôn kính Trái tim Chúa, là cơ quan diễm tả Tình yêu của Người. Đến năm 1695, nữ tu Mác-ga-ri-ta thuộc dòng Đức Mẹ Thăm Viếng ở Pháp, đã được Chúa Giê-su hiện ra phán bảo rằng: “Đây là Trái Tim đã yêu mến loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi”. Rồi Chúa truyền phải phổ biến lòng tôn sùng Trái Tim Chúa trên khắp thế giới. Giáo Hội cổ động việc tôn sùng này như một phương thế chống lại lý thuyết sai lầm thời đó, chủ trương Thiên Chúa là Đấng nghiêm minh công thẳng, không xót thương và sẽ trừng phạt các tội nhân. Vì thế Giáo Hội thấy cần đề cao lòng thương xót của Chúa. Nên đến cuối thế kỷ thứ 18, Giáo Hội đã thiết lập lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su.

Phương thế để tôn sùng Trái Tim Chúa Giê-su là siêng năng làm việc đền tạ. Việc đền tạ gồm hai phần: Một là gia tăng lòng kính mến Chúa, thay cho những kẻ đã vô tình tệ bạc với Người. Hai là dâng những lời ngợi khen, ăn năn và cầu xin Chúa tha thứ cho những kẻ đã cả lòng xúc phạm đến Thánh Tâm Chúa.

2) LUÔN VUI TƯƠI VÌ CÓ TÂM HỒN HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG:

Nhà văn TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện để khuyên người ta sống lạc quan:

Một hôm, một con chó sói kia gặp thấy con sóc có bộ lông màu nâu đang nhởn nhơ ngồi gặm củ cà rốt trên một cành cây gần mặt đất, sói liền nhe hàm răng nhọn hoắc ra, gầm gừ đe dọa và hỏi sóc nâu rằng: “Này tên sóc nâu khốn kiếp kia. Tại sao tao thấy họ hàng bọn sóc các ngươi lúc nào cũng nhảy nhót ăn uống vui vẻ như thế ? Bộ chúng bay không thấy ông nội của chúng bay đang bị rầu thúi ruột đây hay sao ?” Bấy giờ chú sóc nâu kia vội leo lên một cành cây cao hơn để đề phòng bất trắc, rồi trả lời chó sói rằng: “Thưa ông sói. Sở dĩ ông luôn cảm thấy buồn thúi ruột vì ông là kẻ gian ác, lúc nào cũng để lòng giận hờn, luôn tìm cách bắt nạt và giết hại những kẻ yếu đuối hơn mình. Còn họ sóc nhà chúng ta đây luôn vui tươi nhảy nhót suốt ngày, là do chúng ta hiền lành, luôn sống hòa thuận với mọi loài vật khác và không làm hại bất cứ ai”.

Câu trả lời của chú sóc nâu rất phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su là một người lạc quan. Dù vừa bị các đầu mục Do thái chống đối ở các thành ven Biển Hồ (x. Mt 11,20-24), nhưng Người đã nhận ra đó là thánh ý Chúa Cha và cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mầu nhiệm này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).

Còn chúng ta, sau khi gặp một vài sự chống đối hay thất bại trong việc truyền giáo, chúng ta thường cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi. Chúng ta hãy xin Chúa ban tinh thần lạc quan, để dù gặp phải đau khổ thất bại, vẫn dâng lời ngợi khen cảm tạ, vì biết rằng sự thất bại chỉ là nhất thời, là dịp để chúng ta rút kinh nghiệm. Hy vọng sẽ tới ngày chúng ta sẽ gặt mùa lúa bội thu như lời Đức Giê-su tiên báo hôm nay.

3) KINH NGHIỆM CỦA MỘT NGƯỜI GẶP CHÚA:

Một cô sinh viên Công giáo kia vừa bắt gặp quả tang người yêu lừa dối phản bội mình nên mang tâm trạng buồn chán. Rồi khi về đến nhà, cô lại bị mẹ rầy la vị sự ngây thơ khờ dại của mình. Cô liền chạy xe đi tìm mấy người bạn thân, để tâm sự mong nhận được lời động viên an ủi. Nhưng thật không may: đứa thì đi học, đứa thì đi làm, đứa khác đang đi chơi với bạn trai… Trời đã về chiều và đường phố đang giờ tan tầm, cô chạy lòng vòng và bị mắc kẹt tại giao lộ, phải chịu đựng những tiếng ồn ào và hít mùi khói xăng khó chịu. Gần đó có một thánh đường đang mở cửa, cô liền đem xe vào chỗ gửi và vào trong nhà thờ. Bầu khí nơi đây thật trang nghiêm yên tĩnh. Cô đến quỳ ở hàng ghế đầu sát gian cung thánh nhìn lên Chúa Giê-su và thầm thì tâm sự với Người. Nói đến đâu nước mắt tuôn trào đến đó. Sau một hồi lâu, cô cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản. Hình như tâm tư của cô đã được Chúa nghe và cảm thông rồi. Cô đã được bình an trong tâm hồn và quên đi những gì đã gây đau khổ cho mình. Cô hy vọng một tương lai tốt đẹp đang chờ đón mình. Rồi cô ra lấy xe về nhà như không có chuyện gì xảy ra trước đó.

Thật đúng như lời Đức Giê-su mời gọi trong Tin Mừng hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được rằng: Chỉ nơi Chúa con mới tìm thấy niềm vui và sự bình an.

4) SỐNG YÊU THƯƠNG:

Trong quyển nhật ký, mục sư MÁC-TIN LU-THƠ KINH (Martin Luther King), người đã hy sinh mạng sống để đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen có đoạn như sau:

“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi chết, được ai đó kể lại rằng: Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong các bạn có thể nói rằng: tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi công bình, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói ăn, và kẻ rách rưới có đồ mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng: Lu-thơ Kinh đã xả thân để thăm viếng những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người, nhất là những nạn nhân của sự kỳ thị chủng tộc… Còn tất cả những thứ khác, như giải No-bel Hòa Bình 1964 không quan trọng nên chẳng cần phải nhắc lại…”

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con giống hình ảnh yêu thương của Chúa. Chúa đã phú ban cho con một trái tim biết yêu thương. Xin cho con biết luôn tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong sự hòa thuận tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhất là xin cho con biết yêu thương những người nghèo khổ đang sống bên con, vì họ chính là hiện thân của Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi khi xưa.

5) SẴN SÀNG TẶNG TRÁI TIM DUY NHẤT CHO NGƯỜI YÊU:

Một chuyện tình có thật đã được dựng thành phim và được chiếu trên đài truyền hình Pháp trong năm 1996 như sau:

Có một chàng trai tên là ANTÔN người Phi châu, mồ côi mẹ, sống với cha trên đất Pháp. Không giấy tờ cũng chẳng có việc làm, nơi ở chỉ là một góc tối trên căn gác chật hẹp. Điều trớ trêu là Antôn lại yêu VALERY, một cô gái người pháp thuộc gia đình giàu có, nặng óc kỳ thị. Tình yêu của hai người rất bấp bênh vì khác màu da chủng tộc. Nhiều lần cha mẹ của Valery đã đến gặp và nói rõ với cha của Antôn rằng, họ sẽ không bao giờ chấp nhận cho con gái của họ sống chung với một tên da đen.

Đau khổ và tuyệt vọng, đôi thanh niên nam nữ quyết định sẽ đi tìm khung trời riêng cho mình. Thế là cô gái lấy cắp tiền của cha mẹ và lên đường đi xa, nhưng họ đã bị cảnh sát bắt lại ngay trong đêm sắp trốn đi. Quá xúc động bởi nhiều biến cố dồn dập, Valery đã bị nhồi máu cơ tim phải nhập viện chữa trị. Gia đình cô lợi dụng cơ hội này để cắt đứt liên lạc giữa hai người. Để ngừa hậu hoạ, cha mẹ Valery còn gọi điện báo cho cảnh sát biết tình trạng cư trú bất hợp pháp của hai cha con Antôn. Nhưng cảnh sát đã không bắt được Antôn, vì lúc đó chàng trai thất tình đang đi lang thang ngoài đường phố. Nhiều tuần lễ sau, các bác sĩ cho biết Valery phải được thay tim, mới có hy vọng sống sót. Tình cờ biết được tin này, Antôn đã ghé thăm người yêu đang đau nặng. Trở về nhà đã vắng bóng cha, chàng trai đau khổ khóc suốt đêm. Đến khi cảnh sát ập đến bắt chàng thì họ thấy chàng đã bị mê man bất tỉnh. Thay vì đưa chàng vào nhà tù, họ đã chở chàng đến bệnh viện và chỉ vài tiếng sau thì Antôn tắt thở, trong túi áo của chàng người ta tìm thấy một tờ giấy di chúc với dòng chữ: “Xin được trao tặng trái tim này cho Valery, người yêu của tôi” và sau đó Valery đã được cứu sống nhờ trái tim của người tình da đen bất hạnh và đau khổ ấy. (nguồn Internet).

3. SUY NIỆM:

1) Hôm nay, cùng với Hội Thánh, chúng ta mừng lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su – là nguồn mạch của tình yêu. Tình yêu của Đức Giê-su bắt đầu từ việc Chúa Con vâng lời Chúa Cha xuống nhập thể làm người, sống ẩn dật 30 năm ở Na-da-rét. Sau đó, Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời gần 3 năm. Người trình bày tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người, không phân biệt giàu nghèo, tiếng nói hay màu da chủng tộc... 

2) Người sẵn sàng gặp gỡ tiếp xúc với mọi hạng người trong xã hội. Ai gặp được Người cũng đều được Người ban ơn cứu độ cả về thể xác cũng như tâm hồn như sau: 

- Về thể xác: Dân chúng đang đói được ăn no nhờ phép lạ Đức Giê-su nhân bánh ra nhiều; Một phụ nữ bị bệnh loạn huyết 12 năm được ơn chữa lành; Kẻ tê liệt nằm trên chõng được ơn trỗi dậy vác chõng về nhà; Những người cùi hủi, câm điếc, đui mù, què quặt đều được ơn chữa lành; La-da-rô chết 4 ngày được ơn phục sinh ra khỏi mồ... 

- Về tinh thần, Đức Giê-su cũng biến đổi nhiều tội nhân nên người tốt như: Lê-vi nhân viên thu thuế được nên môn đệ Chúa, Gia-kêu thủ lãnh thu thuế được ơn sám hối thực sự, Ma-ri-a Ma-da-le-na tội lỗi được ơn hoàn lương... Người phụ nữ ngoại tình được Người bênh vực và tha tôi; Phê-rô, kẻ trộm lành, Sao-lô được ơn sám hối và biến đổi...

Tin Mừng Gio-an đã tóm lược tình yêu của Đức Giê-su như sau: “Ngài yêu thương các môn đệ và yêu thương họ đến cùng” (x. Ga 13,1), mà tột đỉnh của tình yêu đó là hy sinh chết trên thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài người. 

3) Trong lễ kính Thánh Tâm hôm nay, chúng ta được nghe Lời Chúa mời gọi như sau:

a) “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28): Gánh nặng ở đây là gánh nặng của đau khổ, hậu quả của những lần vấp ngã, gánh nặng trách nhiệm, của sự nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân… Tất cả những ai đang bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi, hãy đến gặp gỡ tâm sự với Chúa Giê-su, thì sẽ tìm thấy sự bình an cho tâm hồn.

b) “Anh em hãy mang lấy ách của tôi” (Mt 11,29): Đức Giê-su không giấu chúng ta về đòi hỏi nghiêm túc của Người là đi con đường hẹp và leo dốc ít người muốn đi. Người đòi ta phải vác thập giá là các vất vả hy sinh mà theo Người. Như thế, sự an bình thư thái Người hứa ban, không phải thứ bình an dễ dãi, nhưng là bình an nội tâm: Dù đang bị đau khổ, vẫn ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương và quyết tâm vâng theo ý Thiên Chúa như Đức Giê-su xưa: “Đừng theo ý Con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39b).

c) “Hãy học với tôi”: Đức Giê-su kêu gọi chúng ta hãy trở thành môn đệ của Người, hãy học sống yêu thương với lòng “hiền hậu và khiêm nhường” như Người. Khi mang trong lòng những tâm tình của Đức Giê-su, thì tâm hồn chúng ta sẽ được thư thái bình an. Chính khi chúng ta biết loại bỏ thái độ tự mãn của các Biệt Phái để biết ăn ở khiêm hạ hiền hòa như trẻ thơ, thì chúng ta sẽ được Người mặc khải những điều lớn lao.

d) “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,30): Ách của Đức Giê-su sẽ trở nên êm ái và gánh của Người sẽ hóa thành nhẹ nhàng, nếu chúng ta biết đón nhận chúng với tình yêu thương. Chính tình yêu mến Chúa sẽ biến những đau khổ vất vả ta gặp phải, trở nên êm ái và nhẹ nhàng, như thánh Au-gút-ti-nô viết : “Nơi đâu có tình yêu, thì sẽ không còn vất vả. Mà giả như có vất vả, thì người ta cũng ưa thích sự vất vả đó”.

4. THẢO LUẬN: 

Theo bạn, các việc dự lễ cầu nguyện sớm tối có phải là gánh nặng không ? Làm thế nào để các việc đạo đức ấy trở thành ách êm ái và gánh nhẹ nhàng như lời Chúa dạy hôm nay ?

5.  NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con luôn sống đơn sơ bé nhỏ, để có thể nghe được tiếng Chúa, để cảm thấy Chúa đang ở trong con. Con đang sống giữa một thế giới đầy những cạm bẫy và gian dối lừa lọc, xin cho trái tim con đừng hóa ra sơ cứng như đá, ích kỷ khép kín và nghi ngờ tha nhân. Xin dạy con sống hiền hòa như Chúa, để cảm thông với nỗi đau của tha nhân và sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của kẻ khác. Xin dạy con luôn vâng theo ý Chúa qua ý bề trên, và khiêm tốn đón nhận những góp ý chân thành của anh em. Cuối cùng, xin giúp con luôn dấn thân đi con đường hẹp và leo dốc, chấp nhận những đau khổ thử thách gặp phải với lòng tin yêu phó thác. Nhờ đó, con hy vọng sẽ nên giống Chúa ở đời này và sẽ được Chúa ban hạnh phúc thiên đàng đời sau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Sưu tầm

bài liên quan mới nhất

Giáo xứ Cao Bình: Mừng lễ thánh Giuse Thợ, cùng nhiều anh chị em sắc tộc khai mạc tháng hoa kính Mẹ

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng