Các bài suy siệm Chúa Nhật XX Thường niên A



Is 56,1.6-7; Rm 11,13-15.29-32; Mt 15,21-28

MỤC LỤC

1. Lòng tin của bà mạnh thật.

2. Lòng tin của bà lớn thật.

3. Những mảnh vụn.

4. “Đến với muôn dân”.

5. Những bia đá niềm tin – ViKiNi

6. Niềm tin.

7. Ơn Cứu Độ.

8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

9. Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!

10. Củng cố đức tin

11. Chúa Nhật 20 Thường Niên.

12. Dân ngoại cũng là dân của Chúa

13. Mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin.

14. Sức mạnh của lòng tin.

15. Lời nguyện chân thành.

16. Tình mẹ thật bao la.

17. Lòng tin của bà mạnh thật

18. Lòng tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

19. Mọi người đều “thuộc về”.

20. Niềm tin chịu thử thách.

21. Bà muốn sao thì được vậy.

22. Tình Chúa bao la không bến bờ.

23. Chó con cũng được ăn

24. Suy niệm của Lm. Anmai

25. Thử thách dường như quá sức.

26. Hành trình gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin.

27. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty.

28. Lòng tin của người đàn bà xứ Canaan.

29. Đức tin là một lộ trình.

30. Chúa Giêsu đã thua một đức tin tuyệt vời

31. Lòng tin của bà lớn thật

32. Những ân tình thường tình.

33. Sống niềm tin – Radio Veritas Asia.

34. Bài học về đức tin.

35. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương.

36. Ai là người Israel – Lm. Vũ Đình Tường.

37. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang.

38. Kỳ thị – Lm. Vũ Đình Tường.

39. Tâm hồn khiêm tốn – Radio Veritas Asia.

40. Lòng tin và tình yêu.

41. Ơn đức tin trong cơn hoạn nạn khốn khó.

42. “Sự chiến thắng của đức tin”.

43. Chúa Nhật 20 Thường Niên.

44. Câu chuyện của một sự dịch chuyển.

45. Người nghèo.

46. Một con chó biết ơn.

47. Bước đột phá của lòng tin.

48. Ơn cứu độ được ban cho mọi người

49. Chúa cần một tấm lòng.

50. Lòng tin của người đàn bà xứ Canaan.

51. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

52. Ơn Cứu Độ phổ quát.

53. Đức Kitô không để người nào ở ngoài.

54. Tin Mừng Cứu Độ được loan báo cho mọi người

55. Chúa Nhật 20 Thường Niên.

56. Nỗi lòng người mẹ.

57. Một đức tin mới mẻ và mãnh liệt

58. “Để bà ấy về đi….”.

59. Lời cầu xin của bà được toại nguyện.

60. Chúa Nhật 20 Thường Niên.

61. Đau khổ.

62. Chúa Nhật 20 Thường niên.

63. Hành trình gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin.

64. Lòng thương xót

65. Vững vàng tin tưởng.

66. Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi

67. Lòng tin.

68. Lòng tin.

69. Sứ điệp Tin mừng dành cho tất cả mọi người

70. Những nghi ngờ của bà lão.

71. Chúa Nhật 20 Thường Niên.

72. Chú ý! Chú ý! Thiên Chúa hằng sống!

73. Trừ quỷ ám trong đời nhờ kết hiệp với Chúa.

74. Chứng nhân bằng cuộc sống.

75. Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc.

76. Người nghèo.

77. Những bia đá niềm tin.

78. Người ngoại ở cửa bên cạnh.

79. “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.

80. Một đức tin mạnh và tâm thành.

81. Suy niệm của Lm Đinh Minh Tiên.

82. Chú giải theo Fiches Dominicales.

83. Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về – Noel Quesson.

84. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long.

85. Chúa Nhật 20 Thường Niên.

86. Cầu nguyện thế nào để được chấp nhận?

87. Chúa muốn cứu rỗi mọi người

88. Ơn cứu độ đến với dân ngoại

89. Vững vàng tin tưởng.

90. Lời cầu xin kiên định – Huệ Minh.

91. Suy niệm của John Nguyễn.

92. Suy niệm của Jos Vinc. Ngọc Biển.

93. Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách.

94. SNLC. các ngày trong tuần 20 TN.

95. Hai đoản khúc suy tư.

96. Chuyện Phiếm.

 

 

 

 

1.Lòng tin của bà mạnh thật.

 

Suy Niệm

Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Đức Giêsu. Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến, con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.

Đức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao. Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.

Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.

Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được? Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?

Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.

Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Đức Giêsu. Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, và nài xin Ngài cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.” Bà có bị sốc không khi Đức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà không đáng được hưởng phần bánh của con dân Israel? Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.

Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.

Bà chấp nhận lối so sánh của Đức Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con. Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.

Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa, và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.

Đức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài: Ngài chỉ được Cha sai đến với người Israel thôi. Nhưng Đức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ, nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra, ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ. Ngài để cho mình bị chinh phục và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.

Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí. Thay đổi là trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.

Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày, và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.

Gợi Ý Chia Sẻ

Lòng tin lớn lao của người phụ nữ dân ngoại đã khiến Đức Giêsu đổi ý. Ngài đổi ý vì Ngài nghe thấy một lời mời gọi mới của Cha. Bạn là người uyển chuyển hay là người có tính nguyên tắc? Làm sao để uyển chuyển không trở thành thiếu kiên định, và tính nguyên tắc không trở thành cứng nhắc?

Bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn hiện nay? Bạn có còn tin vào Thiên Chúa không? Theo bạn, tin là gì?

Cầu Nguyện

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

 

 

 

 

 

2. Lòng tin của bà lớn thật - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

 

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,

tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.

Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.

Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.

Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.

Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.

Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.

***

Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:

“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”

Người mẹ đau vì con của mình đau.

Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.

Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.

Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.

Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.

Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.

“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”

Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.

Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.

Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.

Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.

Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:

“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”

Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.

Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.

Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.

Chị không phải là chiên của nhà Israel.

Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,

vì Cha tôi chưa sai tôi đến.

***

Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.

Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,

và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.

Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.

Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.

Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:

“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);

khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).

Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.

Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.

Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,

vì tình yêu nối kết cả hai nên một.

Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ

dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.

Người đưa ra lời từ chối thứ hai

quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:

“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”

Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.

Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.

Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.

Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.

Họ tự hào về tính ưu việt của mình

trong tư cách là Dân riêng của Chúa.

Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.

***

Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu

Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.

Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:

“Thưa Ngài đúng thế.

Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”

Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,

không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.

Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách

để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,

bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.

Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.

Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.

***

Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.

Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”

Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).

Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.

Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,

khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.

Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.

Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,

và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.

Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…

***

Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”

Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.

Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà

chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:

“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.

***

Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.

Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.

Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.

Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.

Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.

Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.

Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:

“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”

để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”

***

Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.

Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.

Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.

Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.

Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,

tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng

và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.

***

Lời nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

*

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

*

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

*

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thương của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

 

 

 

 

 

3. Những mảnh vụn - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

 

Người phụ nữ dân ngoại là mẫu mực của những ai cầu xin.

Bà là một người mẹ có một cô con gái bị quỷ ám.

Quỷ hành hạ cô này một cách khủng khiếp

khiến trái tim của người mẹ nhói đau, nhưng bất lực.

Chúng ta không rõ tại sao bà quen biết Đức Giêsu,

và tin Ngài là Đấng Mêsia, có quyền năng trừ quỷ.

Khi thấy Đức Giêsu, bà mừng quá, chỉ la thật to để Ngài chú ý.

“Xin thương xót tôi!”

Bà xin Ngài thương xót một người mẹ đang đau khổ vì con.

Đức Giêsu xem ra không màng đến tiếng kêu của bà.

Ngài thinh lặng, chẳng nói một lời đáp lại.

Nhưng còn hy vọng, bà cứ lẽo đẽo đi theo Đức Giêsu và các môn đệ,

vừa đi vừa kêu to, nài nẵng, kể lể, than van thống thiết.

Các môn đệ không thể chịu được tiếng kêu này,

nên xin Thầy mau đáp ứng yêu cầu của bà, để họ được yên.

Thầy Giêsu đã thẳng thắn từ chối.

Ngài cho biết hiện nay Chúa Cha chỉ sai Ngài đến với dân Ítraen thôi.

Bây giờ chưa phải là lúc để đến với dân ngoại.

Cần phải ưu tiên cho người Do-thái trước đã.

Chính Ngài đã từng nhắc nhở các môn đệ như vậy (Mt 10,5-6).

Câu trả lời của Thầy Giêsu như đặt một dấu chấm hết.

Các môn đệ hiểu là họ không thể làm Thầy đổi ý,

vì Thầy chỉ làm điều Thầy tin là ý muốn của Cha.

Nhưng người phụ nữ vẫn chưa mất niềm hy vọng.

Bà không đi phía sau mà kêu nữa,

nhưng đến ngay trước Đức Giêsu, và quỳ gối trước mặt Ngài.

Cuộc đối thoại thật sự bắt đầu khi bà có thể nhìn thẳng vào Ngài,

và nói với Ngài một câu ngắn gọn: “Lạy Ngài, xin giúp tôi!”

Câu trả lời của Thầy Giêsu như dập tắt mọi hy vọng còn lại.

Một câu từ chối lạnh lùng, dứt khoát, và có thể gây tổn thương:

“Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.”

Phúc lành dành cho Ítraen, Ngài không muốn chia sẻ cho dân ngoại.

Nghe câu này, người phụ nữ có thể nổi nóng và căm giận bỏ đi.

Nhưng lạ thay, bà lại thấy mở ra một lối thoát.

Bà khiêm tốn nhận mình chỉ là chó con, quanh quẩn dưới gầm bàn,

còn người Do-thái là con cái trong nhà, được ngồi nơi bàn của chủ.

Chó con đâu dám đòi ăn bánh của con cái,

nhưng ai cấm chó con được hưởng những vụn bánh rơi từ bàn?

Người phụ nữ khiêm tốn cũng chỉ dám xin vụn bánh thôi.

Bà chỉ cần chút vụn bánh cho cô con gái mình yêu quý.

Lòng Đức Giêsu tan chảy khi nghe câu nói của bà.

Ta có thể nói dường như Ngài chịu thua sự kiên trì của bà,

dù bao lần bị Ngài thẳng thừng từ chối.

Ngài nể phục sự khiêm tốn của bà, khi có vẻ bà bị coi khinh.

Ngài quý niềm hy vọng của bà, khi mọi sự dường như sụp đổ.

Ngài ngỡ ngàng trước lòng tin lớn của bà, khiến Ngài đổi ý,

vì qua đó Ngài nghe tiếng mời của Cha.

Cha vẫn nói với Con qua những biến cố đời thường,

qua môi miệng những người nghèo hèn bé nhỏ.

Đối với Con, tiếng của Cha vẫn luôn luôn mới mỗi ngày.

“Bà muốn sao thì được vậy. Từ giờ đó, con của bà được khỏi.”

Như thế Đức Giêsu đã nhận lời bà, đã thương xót và cứu giúp bà.

Ngài hiểu phía sau lòng tin khiêm hạ và kiên trì của bà

là cả một tình yêu bao la của tấm lòng người mẹ.

Chỉ ai yêu mới dám đi tới cùng.

Bây giờ bà đã được ăn bánh, không chỉ ăn vụn bánh thôi.

Bây giờ chúng ta là dân ngoại, đã được ngồi vào bàn tiệc thánh rồi.

Chỉ mong chúng ta được ngổi ăn trong bàn tiệc thiên quốc

vào ngày cánh chung, cùng với muôn người trong khắp cả thiên hạ.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa,

Xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô Hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ sát đau thương của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

 

 

 

 

 

4. “Đến với muôn dân” - ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

 

“Đến với muôn dân” là tựa đề của một Sắc lệnh trong văn kiện của Công đồng Vatican II. Nội dung Sắc lệnh này là lời mời gọi mọi thành phần Dân Chúa cộng tác vào sứ mạng truyền giáo, theo lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt 28,16-20).

Khi xác định “đến với muôn dân”, Giáo Hội không còn là một cơ chế hành chính khép kín, đóng khung trong một nền văn hoá riêng biệt hoặc một châu lục hay một quốc gia. Trái lại, Giáo Hội có sứ mạng đi đến với mọi dân tộc để giới thiệu Chúa, làm cho chất men Tin Mừng thấm nhập vào mọi nẻo đường của cuộc sống, xây dựng Nước Trời ở trần gian. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần mời gọi Giáo Hội hãy đi ra, hãy mở cửa, hãy đến vùng ngoại vi để loan báo Tin Mừng.

Một trong những chủ đề chính trong Lời Chúa hôm nay là lời khẳng định: Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Bất kể ai, nếu có Đức tin sẽ được chữa lành và cứu rỗi.

Cũng như lòng nhân hậu, tình mẫu tử, sự tha thứ luôn là chuẩn mực cho con người dù họ thuộc về bất kỳ nền văn hóa nào, khái niệm về Thiên Chúa diễn tả Đấng là nguyên lý của mọi loài và là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ. Ngài là Cha của người da trắng cũng như da đen da vàng. Ngài dựng nên những người thánh thiện cũng như những người tội lỗi. Ngài đổ ơn mưa móc xuống cho người công chính cũng như cho kẻ bất lương. Như thế, bất cứ ai sống dưới gầm trời này mà cậy tin vào Chúa và kêu cầu Ngài thì đều được Chúa thương, vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Chúa sẽ dẫn họ lên núi thánh và ban cho họ tràn đầy niềm vui (Bài đọc I).

Thánh Matthêu kể lại: hôm đó Chúa Giêsu đi đến miền Tia và Siđôn. Hai địa danh này diễn tả miền đất của dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan cũng là một người ngoại. Bà đang đau buồn vì con gái bà bị quỷ ám. Chúng ta lưu ý đến hai lời cầu nguyện của người phụ nữ này. Đó cũng là hai lời cầu nguyện trong Phụng vụ, xưa cũng như nay: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lời kinh trong phần sám hối mở đầu thánh lễ); “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Lời mở đầu giờ kinh Phụng vụ). Lời van xin của bà chứng minh một nhu cầu khẩn thiết và một niềm hy vọng sâu xa. Tuy vậy, lời van xin thống thiết này ban đầu đã bị Chúa Giêsu khước từ, kèm theo một lời nói xem ra rất “khó nghe”. Cuộc đối thoại giữa người phụ nữ này với Chúa được thánh sử Mátthêu trình bày như tiến trình của lời cầu nguyện nơi người tín hữu: có vẻ như lời cầu nguyện bị khước từ lúc ban đầu, nhưng sự kiên trì và phó thác sẽ làm thay đổi mọi sự. Không thể cầu nguyện trong sự nóng vội với một loạt những nhu cầu cấp bách và đòi Chúa phải chấp thuận ngay theo như ý mình. Bởi lẽ lời cầu nguyện không chỉ đơn giản là những lời xin, mà còn là tâm tình yêu mến tạ ơn, còn là sự diễn tả nỗi lòng của người con thảo đối với cha mẹ mình. Người phụ nữ xứ Canaan đã hiểu điều đó. Bà đã kiên trì và khiêm tốn, do đó lời cầu xin của bà đã được Chúa nhận lời. Ước vọng của bà đã được đáp ứng. Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta hãy kiên trì trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu mến thiết tha chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Có những khi chúng ta không đạt được ngay tức khắc những điều chúng ta xin, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Ngài muốn những điều thực sự là tốt và đem lại ích lợi lâu dài cho chúng ta.

Chúa Giêsu đã đến trần gian để quy tụ muôn người thành gia đình của Thiên Chúa. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa người Do Thái với dân ngoại. Đối với Chúa, người Do Thái hay người ngoại không phải là điều kiện để Người thực hiện những phép lạ, mà điều quan trọng là lòng tin. Lòng tin đôi khi phải trải qua thử thách. “Này bà, bà có lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Lòng tin là điều kiện để con gái bà được khỏi quỷ ám. Lòng tin cũng giúp bà kiên trì trong lời van xin, mặc dầu cảm thấy mình bị chối từ. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần khen lòng tin vững vàng của những người ngoài Do Thái, như trong trường hợp vị sĩ quan đến xin Ngài chữa cho con trai mình: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10).

Tưởng cũng nên tìm hiểu đôi chút về khái niệm “chó con” được Chúa Giê-su dùng để chỉ về người phụ nữ dân ngoại. “Con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. “Chó con” cho ta hình ảnh con vật nuôi trong nhà, mặc dù không được coi trọng như con người, nhưng cũng được quý mến chăm sóc và thương yêu. Lời tuyên bố của Chúa có thể hiểu như một sự thử thách lòng tin của bà. Lập luận của bà chứng tỏ sự kiên trì và cậy trông, chấp nhận chỉ là một con chó con chực chờ những mụn bánh nhỏ rơi xuống trong khi người thực khách đang dùng bữa trên bàn. Sự kiên trì đã đem lại phần thưởng cho bà.

Ngỏ lời với giáo dân Rôma, là những người nguồn gốc dân ngoại, Thánh Phaolô chứng minh cho họ thấy lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài không khước từ ai. Những ai kêu cầu Ngài đều được Ngài thương nhận lời. Chính vì lòng thương xót đối với muôn dân, mà Chúa đã dùng thánh nhân như một tông đồ của dân ngoại. Thánh Phaolô hiểu sứ mạng của mình và ngài đã đi đến mọi nơi, xây dựng các cộng đoàn đức tin và giúp họ nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu (Bài đọc II). Như thế, mỗi chúng ta cũng đã là những “người thuộc dân ngoại”, nhưng nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta trở thành “con cái trong nhà”, là những người “đồng thừa kế với Đức Giêsu”, nhờ tình thương của Thiên Chúa.

Qua người tín hữu, Đức Giêsu hôm nay vẫn đang đến với muôn dân. Người là Ánh sáng muôn dân, đem ơn Cứu độ cho đến tận cùng trái đất. Mỗi chúng ta như cánh tay nối dài của Người, để đem ánh sáng ấy chiếu soi cuộc đời. “Ở đâu có cộng đoàn Kitô hữu, ở đó có linh địa của lòng thương xót” (ĐTC Phanxicô). Thực thi lòng thương xót trong nội bộ cộng đoàn cũng như đối với anh chị em không cùng niềm tin, đó chính là lời loan báo Tin Mừng hiệu quả nhất.

 

 

 

 

 

5. Những bia đá niềm tin – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba Chuông, Sàigòn, người ta thấy những tấm bảng đá gắn đầy tường. Phần đông người tạ ơn đề tên gọi, không có tên thánh, chứng tỏ người lương được ơn cứu giúp nhiều hơn người Công giáo.

Tại sao vậy?

Chúng ta thật khó trả lời. Có lẽ câu trả lời của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa rồi. Còn họ bây giờ mới được! Có lẽ Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.

Không, đó là câu trả lời của ta, ngầm chứa một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho mình là hơn người ngoại.

Chỉ có Chúa mới trả lời thật chính xác: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy, ngay lúc đó con bà được khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ được ơn cứu giúp chính vì họ có lòng tin mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu giúp, vì ta kém lòng tin, không xứng đáng nhận được ơn Chúa.

Ơn Chúa dồi dào cho mọi người, như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến cho họ được sống và được sống dồi dào” Người còn giải thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5,45).

Ơn Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh sáng mặt trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như mưa sa. Công thần Nguyễn Công Trứ ở thời cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy “Của trời trăng gió kho vô tận” hay: “Của trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Đúng vậy, của trời thì vô tận chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì được ơn dồi dào, người kia thì không được, chứ không phải mang danh có đạo là được ơn. Tiên tri Isaia đã được Chúa tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào gắn bó cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh Người, thì được nên tôi tớ của Người… “Ta sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của Ta…” (Bài I – Is. 56,6-7).

Thế là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ nể vì: “Bà có lòng tin mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng.

Lý do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói ra, nhưng sau này Thánh Phaolô đã nêu trong bài đọc II:

“Trước kia anh em không vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương… để cho chính họ cũng được xót thương” (Rm. 15,30-31). Họ đây là dân mới có đạo, tức là: dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót, để cho dân Do Thái, dân đã có đạo lâu đời, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải lo có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.

Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh thật của dân ngoại, đánh thức lòng tin của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp như bà dân ngoại xứ Canaan.

Lòng tin mạnh thật của bà thế nào?

Trước nhất, bà cầu nguyện với Đức Giêsu bằng nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”. Người Do Thái mong đợi con vua David đến giải phóng đế quốc hơn là đến cứu độ. Vì thế khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ đã hoan hô Ngài như một David chiến thắng dũng tướng Goliad (Mt. 21,9). Còn bà dân ngoại, bà tin Đức Giêsu là Đấng Cứu thế đến “Đem Tin mừng cho người khốn khó, ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc. 4,18-19). Lòng tin của bà giống như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên tri Elisa và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.

Như vậy lòng tin của bà vào lòng thương của Thiên Chúa, chứ không phải vào tài thao lược của một tướng quân như David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót của Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên giới Israel mà bà đã đến với Đức Giêsu, dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.

Thứ đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ ra rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài đến nỗi môn đệ không thể chịu đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã đuổi bà đi nhiều lần mà không xong, đành phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà quyết tâm kêu nài bằng được, đến nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi họ như chó má: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà đang sụp lạy trước mặt Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.

Lòng tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã sai khiến được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà được khỏi quỷ ám.

Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương lòng tin mạnh mẽ, kiên trì, khiêm tốn sâu thẳm của bà dân ngoại xứ Canaan. Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy của Chúa, đúng là “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Xin đánh thức lòng con biết nhiệt tâm tin mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa, biết luôn luôn sấp mình trước tôn nhân hiền từ của Chúa để van nài: Lạy Chúa, xin cứu con như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị khổ sở của quỷ ám.

 

 

 

 

 

6. Niềm tin

 

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về đức tin của người đàn bà xứ Canaan, một đức tin đã từng làm cho Chúa Giêsu xúc động và chiếm được tình thương của Ngài. Vậy thì đức tin ấy như thế nào?

Trước hết đức tin ấy là một đức tin khiêm tốn

Thực vậy, người phụ nữ bất hạnh có đứa con gái đau yếu, và bà đã kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà không có vẻ hiếu thắng. Bà không ý thức là mình đang nêu lên một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là Người chỉ muốn hoạt động ở Israel chứ không muốn hoạt động nơi người ngoại giáo, thì bà đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ khiêm nhường của lời cầu xin. Bà cầu xin và đặt mình ngang hàng với đàn chó con, sống bằng những mẩu bánh vụn từ bàn rơi xuống. Bà đã gắn cho đức tin cái tính chất khiêm nhường khiến cho Chúa Giêsu cũng phải cảm động và xiêu lòng.

Tiếp đến đức tin ấy là một đức tin van xin

Thực vậy, trước mặt Chúa, bà đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố. Cái ngoan cố đặc biệt của một bà mẹ. Trên bình diện tâm lý thì đức tin này mang tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn bà một ơn riêng để bà bám chắc và tin tưởng mãnh liệt vào Chúa.

Sau cùng đức tin ấy là một đức tin mới mẻ và vươn xa

Với các tông đồ thì hành động của bà chỉ là một sự quấy rầy, còn với Chúa Giêsu thì Người đã dành quyền ưu tiên cho dân Israel, thế nhưng người đàn bà xứ Canaan đã lật đổ các vấn đề đó để đi thẳng tới đối tượng. Chính điều này đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, đã từ lâu chúng ta được nuôi dưỡng bằng biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa, thế nhưng đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm nhường mà nó phải có hay không?

 

 

 

 

 

7. Ơn Cứu Độ

 

Ý tưởng chính của phần phụng vụ sáng hôm nay đó là Thiên Chúa mong muốn cho mọi người được cứu độ, không phân biệt chủng tộc, màu da và tiếng nói. Thực vậy, trong một thị kiến, tiên tri Isaia đã mở rộng cửa đền thờ cho tất cả những tâm hồn thiện chí. Ngay đến những người xa lạ cũng được mời gọi. Kể từ nay sẽ không còn rào chắn, sẽ không còn vách ngăn bởi vì mọi cánh cửa đã được rộng mở, để đón nhận những kẻ tìm kiếm Chúa.

Rồi trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy người đàn bà ngoại giáo có đứa con bị quỷ ám, đã tin tưởng vào Chúa Giêsu. Bà gọi Ngài là con vua Đavít. Bà đã sụp lạy Ngài và xin Ngài giúp đỡ. Tuy nhiên thái độ của Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta sững sờ và ngạc nhiên. Dường như Ngài muốn dành ưu tiên cho dân Do Thái và dường như muốn thử thách lòng tin của bà. Lần thứ nhất Ngài đã yên lặng. Lần thứ hai Người đáp: Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi. Lần thứ ba, Ngài lại bảo: Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó. Thế nhưng bà vẫn một niềm cậy trông. Bà sẽ không ra về bao lâu đứa con gái của bà chưa được chữa lành. Bà đã chấp nhận lời nói có vẻ sỉ nhục của Chúa, nhưng rồi lợi dụng nó để đem lại lợi ích cho mình bà nói: Nếu thế thì những con chó cũng sẽ được hưởng những mẩu vụn từ bàn rơi xuống. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và làm phép lạ cứu chữa đứa con gái của bà. Là một người ngoại đạo bà đã làm gương cho các môn đệ về một niềm tin khiêm nhường và kiên vững.

Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô đã gióng lên một tiếng chuông và Ngài cho chúng ta được biết: có một mối liên hệ mật thiết giữa người Do Thái và dân ngoại. Dân ngoại đã không vâng lệnh Chúa và cuộc đời họ thì chồng chất tội lỗi, thế nhưng người Do Thái cũng không hơn gì. Bởi thế Ngài đã tỏ lòng nhân từ cho cả hai. Ngài đã không bỏ rơi dân Do Thái, dân mà Ngài đã đổ xuống biết bao nhiêu ơn lành quý giá. Thế nhưng tội lỗi đã làm cho họ thực sự xa cách Chúa và làm cho Ngài nổi giận. Dầu vậy lòng thương xót của Ngài vẫn không hề thay đổi. Đối với dân ngoại cũng vậy, Ngài luôn sẵn sàng giơ tay nâng đỡ họ, bởi vì ơn cứu độ chính là một hành động nhân từ và thương xót mà Ngài đã thực hiện cho chúng ta.

Bởi đó chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương của Chúa và hãy kiên tâm bền chí cho đến cùng vì ai kiên tâm bền chí cho đến cùng thì người ấy sẽ được cứu chuộc.

 

 

 

 

 

8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

 

Chủ đề: Thiên Chúa là Chúa của mọi người, yêu thương mọi người (Mt 15,22)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Trong khi chúng ta đang tập họp nhau trong nhà thờ này để thờ phượng Chúa, thì có nhiều người khác, tuy cũng là kitô hữu, không có mặt; và còn biết bao anh chị em người lương chưa biết Chúa.

Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, yêu thương hết mọi người và muốn ban ơn cứu độ cho hết mọi người.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các kitô hữu nguội lạnh trở về với tình thương của Chúa, và cho anh chị em người lương có dịp cảm nếm tình thương của Chúa.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta có thành kiến coi thường những người ngoài tôn giáo của chúng ta.

Chúng ta không quan tâm giới thiệu Chúa cho lương dân.

Nhiều khi cuộc sống của chúng ta còn thua kém người lương nữa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Is 56,1.6-7)

Phần thứ ba của sách Isaia gồm các chương 56-66, được gọi là Ðệ Tam Isaia. Phần này được viết sau khi dân Israel thoát ách lưu đày Babylon, hồi hương về thánh địa.

Ðoạn được trích đọc hôm nay mở đầu phần này. Ðại ý: Thiên Chúa đã đưa dân Ngài hồi hương từ chốn lưu đày. Ngài muốn mở rộng dân này, để không chỉ có người Israel mà có cả lương dân nữa, vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.

2. Ðáp ca (Tv 66)

Ðây là một Thánh vịnh tạ ơn. Nhưng lời tạ ơn này đặc biệt do hai điểm:

Tác giả kêu mời các “dân ngoại” cùng hợp tiếng với mình mà tạ ơn Chúa: “Chư dân hãy ca tụng Ngài”

Tác giả cầu xin Chúa tỏ mình ra cho mọi dân tộc trên địa cầu nhìn biết Ngài.

3. Tin Mừng (Mt 15,21-28)

Câu chuyện xảy ra ở miền Tyrô và Siđon, tức là ngoài lãnh thổ Palestina. Nên nhắc lại là dân Israel nghĩ rằng Thiên Chúa là Chúa của riêng họ, Ngài không ban ơn cho dân ngoại. Người phụ nữ trong chuyện là một người ngoại. Chắc bà cũng chia sẻ quan niệm trên. Vì thế khi đến với Ðức Giêsu, bà rất khiêm tốn, tự nhận mình là “chó con” và chỉ dám xin ăn những vụn bánh thừa từ bàn ăn của con cái trong nhà rớt xuống.

Nhưng Ðức Giêsu, sau khi làm ra vẻ lạnh nhạt để thử đức tin của bà, đã phải nhìn nhận bà có đức tin rất mạnh. Và chính vì có đức tin cho nên bà được kể là con cháu của Abraham và do đó đáng được Ðức Giêsu ban ơn.

Qua chuyện này, Ðức Giêsu cho thấy: con cháu đích thực của Abraham -mà cũng là dân Thiên Chúa đích thực – không phải là những người cùng huyết thống với Abraham, nhưng là những người có đức tin như Abraham, kẻ được gọi là “Cha của những người tin”.

4. Bài đọc II (Rm 11,13-15.29-32)

Thánh Phaolô nói với những tín hữu Rôma vốn trước kia là lương dân nay đã tin vào Ðức Kitô:

Tôi là tông đồ dân ngoại

Do việc đi rao giảng cho dân ngoại, nếu Phaolô có làm cho đồng bào Do Thái của ông phải phân bì, thì ông cũng chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.

5. Gợi ý giảng

5.1 Tin và yêu

Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”

Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng giống Bà mẹ Armenia trong chuyện trên. Vì thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Ðức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị Ðức Giêsu nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản.

Những sự kiên trì và khiêm tốn ấy chẳng những chứng tỏ một tình yêu mãnh liệt mà còn chứng tỏ một đức tin không gì lay chuyển nổi. Chính Ðức Giêsu đã đánh giá sự kiên trì của bà là một bằng chứng đức tin: “Này bà, bà có lòng tin mạnh. Bà muốn sao thì được như vậy”.

Tin và Yêu đi đôi với nhau ban cho người ta một sức mạnh vô địch giúp người ta can đảm, kiên trì và khiêm tốn.

5.2 Ðức tin của một người phụ nữ ngoại

Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm, vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên.

Ðây là cuộc gặp gỡ do Chúa Quan Phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Ðức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Ðức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.

Ðứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Ðức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ ấy chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tưởng sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.

Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa, sát bên Người.

Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu diếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Ðâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể? (F. Declos, được trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 262-263)

5.3 Còn hơn là truyền giáo

Giáo huấn Chúa nhựt hôm nay có vẻ như mời gọi chúng ta truyền giáo, đem Tin Mừng của Chúa đến những anh em lương dân.

Thực ra nó còn hơn là truyền giáo nữa. Vì khi truyền giáo, chúng ta muốn dẫn người khác vào đạo của chúng ta. Ðối với những người nào mà ta thấy không có hy vọng đem vào đạo thì chúng ta “dừng bước”.

Giáo huấn hôm nay không “dừng bước” trước bất cứ người nào, cho dù họ nhất định không theo đạo Chúa, cho dù họ còn không cảm tình với đạo Chúa. Cho dù họ thế nào đi nữa, ta vẫn xác tín rằng Chúa cũng thương yêu họ như thương yêu chúng ta. Từ niềm xác tín ấy, chúng ta không loại trừ họ, không khinh bỉ họ, không coi họ là “người khác hệ”. Trái lại chúng ta tôn trọng: tôn trọng suy nghĩ của họ, tôn trọng chọn lựa của họ. Chúng ta cũng yêu thương: yêu thương họ như Chúa yêu thương họ.

5.4 Chuyện minh họa

a. Tôn giáo nào có Chúa?

Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.

Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Ðấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.

Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.

Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.

Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”

Chúa nói: “Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”.

b. Các tôn giáo

Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Ðó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.

Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Ðiều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: “Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào?”

Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời: “Tôi hả? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.

Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười: “Hừ, kẻ vô thần”.

Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác”.

Chúa Giêsu đồng ý: “Ðó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát”.

Một người trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng: “Ngài phải thận trọng. Ngài phải biết là đã một lần Ngài bị đóng đinh vì nói như thế”.

5.5 Một lời cầu nguyện của dân Ai-len

Chúa tốt lành với bạn trong suốt mọi ngày

Chúa nhân ái với bạn trên mọi nẻo đường

Chúa ban sức mạnh cho bạn lúc thánh giá đè nặng trên vai.

Chúa gửi ánh sáng cho bạn lúc mây mù vây phủ

Chúa ban bình an trong những cơn xung đột

Chúa chúc phúc cho đời bạn chan chứa ơn lành

Chúa gửi niềm vui trong những lúc ưu phiền

Chúa dẫn đường bạn đến tận cửa thiên đường (Brian O’ Higgins)

5.6 Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Thiên Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc. Ngài yêu thương tất cả và muốn cứu độ tất cả. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin Chúa.

a. Hội Thánh là ánh sáng của muôn dân, Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giúp Hội Thánh biết cách giới thiệu hình ảnh Thiên Chúa yêu thương cho tất cả mọi người trong thế giới hôm nay.

b. Trên thế giới, có nhiều nơi đang xảy ra chiến tranh, nhiều nơi nghèo túng khốn khổ. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo những nơi ấy tìm ra những biện pháp hữu hiệu để tái lập hòa bình và giúp dân mình được no cơm ấm áo.

c. Ðất nước chúng ta có nhiều tôn giáo và nhiều người không tôn giáo nào cả. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người đối xử với nhau trong tinh thần tôn trọng và yêu thương.

d. Do thành kiến đạo mình là tốt nhất, nhiều kitô hữu có thái độ khinh miệt những người khác không cùng tín ngưỡng, khiến cho hình ảnh của Thiên Chúa và của Giáo Hội trở thành méo mó xấu xa trước mặt người khác. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta sống hòa thuận, tôn trọng và tương thân tương ái với hết mọi người trong phạm vi giáo xứ của mình.

CT: Lạy Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành người dữ, cho mặt trời mọc lên trên tất cả mọi người. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại bao la của Chúa, để chúng con có thể tôn trọng và yêu thương hết mọi người như Chúa đã yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

6. Trong Thánh Lễ

Kinh Tiền Tụng: Nên đọc Kinh Tiền tụng Chúa nhật thường niên III, nói tới ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Trước kinh Lạy Cha: Trong lời kinh Lạy Cha hôm nay, chúng ta đặc biệt cầu xin cho “Nước Cha trị đến” nơi tâm hồn tất cả mọi người và mọi dân tộc trên khắp thế giới.

VII. Giải tán

Tuần này, khi gặp gỡ những người khác tôn giáo, những người chưa biết Chúa, chúng ta hãy đối xử tôn trọng và yêu thương họ như Chúa yêu thương.

 

 

 

 

 

9. Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! - Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

 

Đọc Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu khen thì ít, mà chê thì nhiều. Tuy khen ít chê nhiều, nhưng lời khen chê của Chúa đều rất xác đáng.

Những người bị Chúa chê là giới chức đạo Dothái, các tông đồ, như tông đồ Phêrô chẳng hạn (x. Mt 14,31; 16,8).

Những người được Chúa khen duy nhất có mình ông Na-tha-na-en là người Israel (x. Ga 1,47), còn toàn là những người ngoại giáo, như viên sĩ quan Rôma (x. Mt 8,10) và người đàn bà xứ Ca-na-an trong Tin mừng hôm nay.

Người đàn bà Ca-na-an hôm nay đến xin Chúa trừ quỷ cho con mình: “Lạy con Vua Đavid, xin thương xót tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Nhưng Chúa làm thinh, chẳng đáp lời nào. Thấy thế bà càng năn nỉ kêu xin, năn nỉ đến nỗi làm cho các môn đệ phải thưa với Chúa rằng: “Xin Thầy thương giúp bà ấy, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi!”

Chúa liền bảo: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel mà thôi!”

Không ngã lòng, bỏ cuộc, người đàn bà vẫn kiên trì kêu xin: “Lạy Ngài, xin hãy đến cứu giúp tôi!”

Chẳng cần úp mở nữa, Chúa bèn nói một cách cửng cỏi, sỗ sàng: “Không thể lấy bánh của con cái mà ném cho chó!”

Không phật lòng, không tự ái trước lời nói của Chúa, người đàn bà nhã nhặn khiêm nhường đáp lại: “Đúng vậy, thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ.”

Thật độc đáo! Hiếm thấy người đàn bà nào như thế! Thái độ của bà khiến Chúa phải ngỡ ngàng và cất lên lời khen ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy!”

Không biết trong cộng đoàn chúng ta có người đàn ông đàn bà nào như người đàn bà Ca-na-an hôm nay hay không? Nếu có thì xin cho biết?

Người đàn bà ngoại giáo đã vượt qua được thử thách mà Chúa đưa ra, để bày tỏ lòng tin chân thành vào Chúa và được Người khen ngợi. Còn chúng ta thì sao? Trong mọi thử thách, đau thương của cuộc đời, chúng ta có vượt qua được không?

Chắc chắn nhiều lúc chúng ta đã ngã lòng và oán trách Chúa khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chứ không vững lòng tin tưởng như người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an.

Ý thức mình yếu đuối như vậy, chúng ta hãy cùng nhau xin Chúa tha thứ, cùng nhau tuyên xưng đức tin, để niềm tin của chúng ta được ngày thêm vững vàng và được Chúa khen ngợi như người đàn bà xứ Ca-na-an hôm nay.

 

 

 

 

 

10. Củng cố đức tin.

 

Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?

Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.

Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.

Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”, Dostoevski, kể lại rằng: Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến một vị linh mục. Cuối cùng vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng cố niềm tin của mình, đó là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu thương láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin của bà càng lớn lên và những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.

Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.

Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.

Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta.

Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta thu dọn những đổ vỡ và người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau đây của một người Do Thái đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do Thái ấy đã viết như thế này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.

 

 

 

 

 

11. Chúa Nhật 20 Thường Niên - Lm. Ignatiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A nầy đều có chung một đề tài: mở rộng lòng mình để đón tiếp muôn dân nước, tức là bất kỳ ai, dù thuộc dân tộc nàò, nếu bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa chân thật.

Is 56: 1,6-7

Bài Đọc I là sứ điệp loan báo ơn cứu độ phổ quát: mời gọi cộng đồng Giê-ru-sa-lem đón nhận vào cộng đồng mình những kiều cư, những ai kính sợ Thiên Chúa Ít-ra-en.

Rm 11: 13-15,29-32

Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc lại sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của thánh nhân, vì dân Do thái, dân Chúa chọn, từ chối nên lời loan báo cứu độ được gởi đến cho muôn dân.

Mt 15:21-28

Tin Mừng Mát-thêu tường thuật câu chuyện Đức Giê-su với một người đàn bà xứ Ca-na-an. Cuối cùng Đức Giê-su nhận lời khẩn cầu của người đàn bà ngoại giáo nầy và ca ngợi đức tin của bà.

I. BÀI ĐỌC I (Is 56:1,6-7)

Đoạn trích nầy mở ra phần thứ ba của sách I-sai-a. Phần thứ ba nầy, xét toàn bộ, được gán cho vị ngôn sứ biệt danh là I-sai-a đệ tam (ch. 56-66), vì người ta không biết tên ông. Cũng như vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), ông kín đáo ẩn mình dưới danh nghĩa của vị ngôn sứ I-sai-a vĩ đại (ch. 1-39).

Ngôn sứ I-sai-a đệ tam thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, trong những thập niên sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về, và nhất là vào thời kỳ tái thiết Đền Thờ (521-515 trước Công Nguyên). Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố sứ điệp gởi đến muôn dân nước.

1. Những kiều cư.

Chắc chắn vào lúc nầy có một số lượng khá lớn những “kiều cư” ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đê. Chúng ta nghĩ đến những người ngoại bang đã đến định cư ở đây trong khi một phần dân cư bị đưa đi lưu đày. Đối với những người ngoại bang đến định cư lập nghiệp, luật dự kiến một quy chế thuận lợi; họ được hưởng một số lượng quyền lợi nào đó. Sách Lê-vi đồng hoá họ với “những người thân cận” và đòi hỏi phải “yêu thương họ như chính mình” (Lv 19:33-34).

Trái lại, những những người “nhập cư”, tức những người ngoại quốc sinh sống trong một thời gian hạn định nào đó, không hưởng được bất kỳ một quyền lợi nào khác ngoài phong tục tập quán của lòng hiếu khách. Đơn giản là những người này được cư xử với lòng khoan dung độ lượng, đôi khi bị đồng hóa với những kẻ thù; họ bị cấm không được tham dự phụng tự và bị tước đoạt nhiều quyền lợi.

“Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,

thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,

và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1).

Qua những lời này, vị ngôn sứ, “nhân danh đức công chính và điều chính trực”, tố cáo những kỳ thị như thế. Đức Chúa phán: “Vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới”, diễn ngữ nầy muốn nói rằng Đức Chúa sẵn sàng can thiệp bởi vì Ngài là Đấng bảo vệ những người thân cô phận hèn.

2. Yêu mến Danh Người.

Ngôn sứ liệt kê những điều kiện khái quát để đón nhận những kiều cư vào cộng đoàn Ít-ra-en:

“Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa

để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,

cùng trở nên tôi tớ của Người,

hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm,

cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta” (Is 56:6)

Theo văn hóa Do thái, tên chính là người, vì thế, “Yêu mến Thánh Danh” đồng nghĩa “yêu mến chính Thiên Chúa”. Diễn ngữ: “Yêu mến Thánh Danh”, không gặp thấy nơi nào khác ngoài đoạn văn Cựu Ước nầy. Nhưng thật có ‎ý nghĩa khi vị ngôn sứ đòi hỏi trước tiên lòng yêu mến đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Kiểu nói: “Để phụng sự”, không gợi lên bất kỳ phụng sự tôn giáo nào; thành ngữ “tôi tớ” chỉ chung các tín hữu.

Trong câu nói: “hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm”, điểm nhấn được đặt trên việc tuân giữ “ngày sa-bát” rất có ý nghĩa. Trong thời lưu đày, việc tuân giữ ngày sa-bát đã mang lấy một tầm quan trọng lớn lao. Ngày sa-bát đã trở nên dấu hiệu biệt phân, nhờ đó người Do thái bị tản mác ở giữa dân ngoại khẳng định căn tính của mình.

Câu nói: “cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta”, tóm gọn những đòi hỏi được liệt kê ở trên. Trong số những đòi hỏi nầy, phép cắt bì không được kể ra. Vả lại, phép cắt bì chỉ đòi hỏi những tân tòng, chứ không “những người kính sợ Thiên Chúa”, tức là những người thiện cảm với Do thái giáo, như viên bách quản Rô-ma, ông Co-nê-li-ô.

3. Sứ điệp phổ quát.

Vị ngôn sứ công bố nhân danh Đức Chúa. Việc phục hồi quyền lợi của những kiều cư và tháp nhập họ vào dân Chúa chọn là sáng kiến của Thiên Chúa:

“Đều được Ta dẫn lên núi thánh

và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56:7a).

Trong Kinh Thánh, chúng ta thường gặp thấy niềm vui được phụng thờ Đức Chúa. Các “thánh vịnh lên Đền” ca ngợi tâm tình hân hoan tôn giáo nầy, ví dụ như Thánh Vịnh 43:

“Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa,

tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con” (Tv 43:4),

Chúng ta cũng gặp thấy như vậy trong lời khẳng định của Thiên Chúa qua vị ngôn sứ của mình:

“Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận,

những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,

vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56:7b).

Lời khẳng định nầy mang một cung điệu đặc biệt, một cung điệu mang chiều kích phổ quát nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Đức Giê-su sẽ lập lại lời khẳng định nầy khi Ngài xua đuổi những người buôn bán ra khỏi khuôn viên Đền thờ, chính xác là nơi dành cho dân ngoại mong ước cầu nguyện với Thiên Chúa Ít-ra-en. Hành vi của Đức Giê-su không chỉ muốn nói rằng tất cả điều nầy rồi sẽ sớm biến mất, nhưng nơi nầy phải được dành cho muôn dân nước.

II. BÀI ĐỌC II (Rm 11: 13-15,29-33)

Đoạn trích thư của thánh Phao-lô hôm nay hòa hợp với các bài đọc khác của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy: cả ba bài đọc đều nói về việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân.

Việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân nầy càng khẩn thiết hơn khi dân Do thái, nói chung, cố chấp trong sự mù quáng của mình. Đó là nguyên do tại sao thánh Phao-lô ưu phiền. Thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu Rô-ma, những người Ki-tô hữu gốc dân ngoại: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại”.

Thánh Phao-lô tự đặt mình lần lượt vào trong hai viễn cảnh: viễn cảnh của chính ngài, vị Tông Đồ dân ngoại, và viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương.

1. Viễn cảnh của vị Tông Đồ dân ngoại (Rm 11:13-15)

Đọc đoạn văn này lần đầu, chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô hiến trọn cuộc đời mình cho sứ vụ tông đồ dân ngoại với một hậu ý: làm cho đồng bào Do thái của mình ganh tị khi thấy việc dân ngoại mỗi ngày mỗi thêm đông được dự phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thế chỗ cho dân Chúa chọn. Chắc chắn đây không là mục đích hàng đầu trong hoạt động truyền giáo của thánh nhân, nhưng là ý định kèm theo của thánh nhân: ở đây thánh nhân bày tỏ nỗi lòng của mình: ơn cứu độ của dân Ít-ra-en ám ảnh thánh nhân. Thánh nhân mong muốn cảm hóa đức tin của “một ít người” như mầm mống và bảo chứng cho việc cảm hóa đức tin của tất cả mọi người. Nếu dân Do thái bị gạt ra bên lề, đó lại là cơ hội cho thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, tức là cuộc hoán cải của dân ngoại. Nếu giai đoạn đầu tiên là ơn cứu độ phổ quát cho muôn người, thì giai đoạn thứ hai sẽ là tuyệt vời biết mấy khi mà toàn thể dân Ít-ra-en được tái tháp nhập vào cộng đồng đức tin, tức là “từ cõi chết bước vào cõi sống”.

2. Viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương (Rm 11:29-33)

Đối với vị Tông Đồ dân ngoại, Thiên Chúa không thể bỏ rơi dân riêng của Ngài: ơn gọi của dân Chúa chọn không thể nào đổi thay: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý”.

Cả dân ngoại lẫn dân Do thái đều đã “không vâng phục Thiên Chúa”. Ở đầu bức thư của mình, thánh nhân đã cho thấy rằng dân ngoại đã đón nhận đủ ánh sáng để có thể cư xử với nhau một cách chính trực và nhân ái, nhưng họ đã lún sâu vào trong sự bất chính và tôn thờ ngẫu tượng: theo nghĩa nầy, họ đã không vâng phục Thiên Chúa. Đến phiên mình, dân Do thái, đến thời Thiên Sai, đã không thấy ánh sáng và cũng đã không vâng phục Thiên Chúa.

Thánh Phao-lô thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa việc bất phục tùng của dân Ít-ra-en và sự hoán cải của dân ngoại. Chắc chắn đây là quan hệ nhân quả lịch sử. Trước việc dân Do thái chống đối có hệ thống, thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và các Tông Đồ khác đã quyết định quay về phía dân ngoại. Nhưng, còn sâu xa hơn, thánh nhân cho thấy mối quan hệ nhân quả thuộc trật tự tâm lý trong ‎ý định Thiên Chúa. Lúc đó, theo lối hành văn biền ngẫu đặc thù của dân Do thái, thánh nhân mô tả chuyển động kép của lòng Chúa xót thương: chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân ngoại đã có thể trở lại cùng Thiên Chúa, thì cũng chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân Ít-ra-en cũng sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Cuối cùng, thánh nhân tóm lược kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, trong một biểu thức thấm thía: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”.

III. TIN MỪNG (Mt 15:21-28)

Câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an được định vị trong bối cảnh đặc thù: kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều và việc đám đông dân chúng không nhận ra sứ điệp của Ngài, Đức Giê-su quyết định tập trung sứ vụ của mình vào việc đào tạo các môn đệ của mình. Thế nên, “Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn”. Hiện thời, Ngài đang ở miền đất dân ngoại sau khi đã vượt qua biên giới phân chia giữa miền Ga-li-lê và xứ Phê-ni-xi, xa khỏi đám đông dân Do thái và những luật sĩ, những người đã đặt ra nhiều câu hỏi để tìm cớ hãm hại Ngài. Trong bầu khí thanh bình của miền đất dân ngoại, Ngài dành hết thời giờ cho các môn đệ để chuẩn bị sứ vụ tương lai của họ.

Dân Ca-na-an là tên gọi cổ xưa của dân Phê-ni-xi. Thánh Mát-thêu sử dụng cách nói “người đàn bà Ca-na-an” không vì quan tâm đến tên gọi cổ xưa, nhưng vì tên gọi nầy nhắc lại quá khứ thù địch giữa dân Ca-na-an và dân Ít-ra-en, cũng như thánh Gioan nói “người đàn bà Sa-ma-ri” để gợi lại ở nơi tên gọi nầy những thù hiềm thâm căn cố đế giữa hai dân tộc nầy (Ga 4:8). Thêm nữa, khi nói: “người đàn bà Ca-na-an” chứ không “người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu muốn xác định nguồn gốc của bà: bà nầy là dân ngoại, chứ không phải là một người Do thái đến sinh sống ở miền đất Ca-na-an.

1. Cuộc gặp gỡ của người đàn bà Ca-na-an với Đức Giêsu:

Người đàn bà Ca-na-an đã nghe người ta đồn thổi về Đức Giê-su và bà đã biết Đức Giê-su hiện đang có mặt ở trong miền. Vì thế, không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này, bà đã vội vả đến gặp Ngài để khẩn khoản van xin Ngài, không phải cho bà nhưng cho đứa con gái bệnh hoạn của bà. Bengel đã nói về bà: “Bà đã xem nỗi bất hạnh của con gái bà như của chính bà”, còn William Barclay thì xoáy sâu vào tình mẫu tử ở nơi người đàn bà ngoại giáo nầy: “Chính bởi tình yêu khiến bà đến gần người ngoại quốc nầy, chính tình yêu khiến bà cam chịu sự nín lặng, lạnh nhạt của Ngài mà vẫn tiếp tục kêu xin, chính tình yêu mà bà cam chịu đau khổ vì lời từ chối tàn nhẫn, chính tình yêu mà đã khiến bà có thể thấy được niềm thương cảm phía sau những lời nói của Chúa Giê-su” [1]

Trong lời kêu xin của mình: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”, bà khẩn cầu Đức Giê-su với tước hiệu thiên sai: “con vua Đa-vít”. Phải chăng thánh Mát-thêu đã muốn nhấn mạnh sự bạo dạn của người đàn bà Ca-na-an nầy khi dùng tước hiệu đặc thù của Do thái giáo cho Đức Giê-su? Hay đúng hơn thánh ký muốn ghi nhận ở nơi người đàn bà nầy một tấm lòng tin tưởng không hề lay chuyển ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên? Lời khẩn cầu nầy vang lên như cung điệu phụng vụ: “Xin Chúa, xin thương xót chúng con” (“Kyrie Eleison”). Thánh Mát-thêu chuẩn bị cho chúng ta tham dự vào chiều kích phổ quát vĩ đại của câu chuyện.

2. Thái độ của Đức Giê-su.

Để khơi dậy đức tin ở nơi người đàn bà Ca-na-an, Đức Giê-su sử dụng khoa sư phạm có thể được gọi phương pháp thử thách. Phương pháp nầy bao gồm hai giai đoạn: trước hết, thinh lặng: “Người không đáp một lời nào”; đoạn, từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Người đàn bà không hề nhụt chí vẫn một mực bám riết theo Ngài mà kêu xin đến mức các môn đệ cũng phải cảm thương.

3. Một đức tin chịu thử thách.

Cảm thương người phụ nữ này vừa lẻo đẻo theo sau vừa khẩn khoản van nài đến độ các môn đệ không thể nín lặng được nên cầu xin Đức Giê-su lên tiếng bảo bà ấy về đi cho xong chuyện. Đức Giê-su đáp lại bằng cách từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Cũng một cách như vậy, vào lúc sai nhóm Mười Hai đi truyền giáo, Đức Giê-su đã chỉ thị: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.” (Mt 10:5-6).

Quả thật, Đức Giê-su đặt ưu tiên sứ vụ của Ngài cho “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Tuy nhiên, Ngài đã động lòng xót thương trước lời khẩn cầu của viên bách quản ngoại giáo tại Ca-pha-na-um cho người đầy tớ đau nặng của ông được lành bệnh. Có biết bao nhiêu sự việc tương tự như thế giữa câu chuyện của viên quan ngoại giáo và câu chuyện người đàn bà Ca-na-an. Ngài không khíp kín từ tâm đối với dân ngoại. Họ là hoa trái đầu mùa của sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, đó là thời gian của các môn đệ Ngài, họ sẽ thực hiện tất cả mọi chiều kích rộng mở cho muôn dân nước.

Lời từ chối thẳng thừng của Đức Giê-su cũng không làm người phụ nữ này chùn bước. Bà đến sụp lạy mà van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Đức Giê-su nói thẳng với bà để bà hiểu ra rằng bà không thuộc dân của Ngài: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dân Do thái thường khinh bỉ dân ngoại là “Đồ lũ chó dân ngoại!”. Tuy nhiên, trong lời nói của Đức Giê-su “lũ chó con” từ Hy lạp “kunaria” gợi lên chó cưng nuôi trong nhà, đối lập với chó hoang lang thang ngoài đường. Vì thế, thánh Mác-cô, trong câu chuyện song đối của mình, đặt bối cảnh nầy vào “trong một nhà nọ” (Mc 7:24). Quả thật, câu nói của Đức Giê-su và câu đáp trả của người đàn bà rất đối xứng với nhau theo từng từ và được định vị trong cùng một bối cảnh trong nhà: bánh, chó con, bàn ăn, những mảnh vụn.

4. Đức tin rực sáng của người đàn bà Ca-na-an.

Người đàn bà Ca-na-an đáp trả với tất cả tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà đã nhận ra rằng sứ điệp của Đức Giê-su gởi đến trước tiên cho dân Do thái và tất cả phép lạ mà Ngài đã thực hiện, trước hết trong quê hương của Ngài: “Thưa Ngài, đúng thế”. Nhưng với một ‎trực giác tuyệt vời, bà tin rằng lòng xót thương của Thiên Chúa chắc hẳn vượt ra bên ngoài khung cảnh dân Do thái, vì thế, bà cũng có thể đón nhận những mảnh vụn lòng xót thương của Thiên Chúa.

Đức Giê-su thán phục đức tin của người đàn bà Ca-na-an như Ngài đã thán phục đức tin của viên quan ngoại giáo. Ngài nhậm lời khẩn cầu của bà.

5. Dấu chỉ của bánh.

Chính dưới dấu chỉ của bánh mà Đức Giê-su ngỏ lời với người đàn bà xứ Ca-na-an. Thật khó mà nghĩ rằng đây chỉ là một sự ngẫu nhiên. Theo lời Đức Giê-su, bánh trước hết được dành riêng cho “con cái”, nghĩa là cho dân Do thái, dân Chúa chọn, đám đông nầy mà Đức Giê-su đã nuôi dưỡng no nê bánh vật chất, nhưng chỉ là tiên báo bánh thần linh, như bánh man-na trong sa mạc tiên báo những thiện hảo của thời Mê-si-a. Chính từ bánh nầy mà người đàn bà Ca-na-an đã đón nhận những mảnh vụn. Bà đã nhận được bảo chứng của những phúc lộc Vương Quốc mà các môn đệ sau biến cố Phục Sinh nhận được chỉ thị của Đấng Phục Sinh là phân phát trọn vẹn cho muôn dân.

____________________

[1] W. BARCLAY, The Gospel of Matthew, bản dịch tiếng Việt tập, nhà xuất bản Đức Bà Hòa Bình, tập II, tr. 100.

 

 

 

 

 

12. Dân ngoại cũng là dân của Chúa - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

 

Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, cũng không chỉ là Thiên Chúa của các Kitô-hữu, nhưng Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người, dù họ có nhận biết Ngài hay không.

1. Dân ngoại sẽ được thờ phượng Thiên Chúa

Đối với người Do Thái, những người không thuộc chủng tộc Do Thái đều là dân ngoại. Với nhiều người Do Thái, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người Do Thái, nên Thiên Chúa không là Thiên Chúa của dân ngoại. Trong bài đọc sách tiên tri Isaya hôm nay Thiên Chúa đã đối xử với dân ngoại như dân của Ngài, nghĩa là, họ được vào đền thờ Thiên Chúa, được dâng lễ vật trên bàn thờ ở Yêrusalem. Đền thánh được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, chứ không còn chỉ riêng của người Do Thái nữa.

Người Việt Nam mới được nghe rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô vào thế kỷ thứ 17 (1615) hoặc trước đó một chút, tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tổ tiên chúng ta trước đó. Hiện tại khoảng hai phần ba loài người không là Kitô-hữu, tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của những người đó. Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, của những người nhận biết Ngài, và của cả những kẻ chưa và không nhận biết Ngài nữa.

Như người cha người mẹ sinh ra con cái. Người cha người mẹ vẫn là cha là mẹ, dù người con có nhận biết, có chấp nhận người cha người mẹ hay không. Cũng tương tự vậy với Thiên Chúa. Thiên Chúa như người cha, cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ lành người dữ. Ngài yêu thương tất cả mọi người. “Như trời cao hơn đất, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi.” Tất cả những gì tốt đẹp con người làm được, là đều nhờ bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài giúp con người làm những điều thiện hảo, Ngài ban cho họ tìm được niềm vui và hạnh phúc trong Ngài khi làm những điều tốt lành.

2. Bài học khiêm tốn từ dân Do Thái

Dân Do Thái được Thiên Chúa thương yêu và tuyển chọn; Ngài đã dẫn dắt Abraham, đưa dân ra khỏi Aicập về đất hứa, dạy dỗ dân trong đường lối của Ngài qua các thẩm phán, qua các tiên tri. Thật sự Thiên Chúa đã yêu thương dân Do Thái cách đặc biệt, đặc biệt đến độ người Do Thái diễn tả như thể Thiên Chúa không yêu thương các dân tộc khác.

Ấy thế nhưng theo quan điểm của nhiều Kitô-hữu, khi người Do Thái từ chối không tin Đức Giêsu, thì tình yêu và ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa được chuyển cho người Kitô. Kitô-hữu là những người tin vào Đức Giêsu, và được trở nên con Thiên Chúa một cách đặc biệt. Thánh Phaolô là người Do Thái, rất xác tín tình yêu của Thiên Chúa đối với người Do Thái, cũng phải chấp nhận điều này.

Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục nói với con người. Con người, nhất là Kitô-hữu, cần có thái độ rộng mở để đón nhận Thánh Thần vẫn đang làm việc nơi con người trong thế giới này, qua trung gian Kitô-hữu và cả qua trung gian những người khác, ngay cả khi họ không là Kitô-hữu. Bài học của người Do Thái dạy Kitô-hữu rằng, không được đóng lòng trước mặc khải của Thiên Chúa, không được giới hạn tự do và ân sủng của Thiên Chúa, không được bắt Thiên Chúa làm theo ý mình hoặc chỉ theo những điều hiểu biết của mình. Thiên Chúa có tự do của Ngài. Gió muốn thổi đâu thì thổi, Thánh Thần muốn tác động nơi ai tùy Ngài. Không được đòi Thánh Thần phải làm theo trí ý giới hạn của mình. Thiên Chúa là Thiên Chúa, tư tưởng của Ngài vượt trên tư tưởng của con người, hãy lắng nghe Thiên Chúa nói qua những tác động của Ngài trên hoàn vũ này, dù qua bất cứ ai, bất cứ tôn giáo nào, bất cứ thể chế nào. Ngày xưa, vua dân ngoại Cyrus cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng, trở thành Đấng Massiah của Thiên Chúa để dẫn đưa dân Do Thái từ đất lưu đày trở về, thì có gì cấm cản Thiên Chúa dùng những thể chế này thể chế nọ diễn tả ý định của Thiên Chúa. Bài học khiêm tốn mở lòng lắng nghe, cần cho Kitô-hữu học trong suốt đời mỗi người. Nếu không mở lòng lắng nghe, thì sẽ phản ứng giống người Do Thái trước Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.

3. Đức Giêsu cũng đổi ý

Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay cho thấy Đức Giêsu đổi ý, hoặc cái nhìn của Đức Giêsu được mở ra, hoặc Đức Giêsu cũng lắng nghe tiếng Thiên Chúa qua những biến cố trong cuộc sống hằng ngày. Thoạt đầu Đức Giêsu không muốn chữa lành con gái người phụ nữ Canaan, vì Ngài cho rằng “Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel,” cho dù ngay cả các tông đồ cũng muốn Đức Giêsu cho chị ta điều chị ta xin vì chị ta cứ theo làm phiền các ngài hoài.

Đức tin của chị phụ nữ vào Đức Giêsu “con chó cũng được ăn đồ rơi rãi từ bàn ăn của chủ,” làm Đức Giêsu phải đổi ý và đổi quan điểm cái nhìn. Đức tin của chị phụ nữ lớn thật, điều chị xin thì chị được. Lời nói diễn tả đức tin của chị phụ nữ có tính cách quyết định.

Một vài suy nghĩ xin được chia sẻ. Thứ nhất, chính Thiên Chúa đã tác động nơi chị phụ nữ, làm chị ta tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Nếu chị phụ nữ không tin vào Đức Giêsu, vào lòng tốt của Ngài, thì chắc chị ta đã không nài nỉ như vậy. Thứ hai, Đức Giêsu đã nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi chị phụ nữ; Ngài đã nhận ra ý định của Thiên Chúa Cha, và Ngài đã đổi ý. Thứ ba, giá trị con người không phải là “quân tử nhất ngôn” kiểu của vua Hêrôđê; khi lỡ hứa sẽ cho con gái của Hêrôđia điều cô xin, thì khi cô xin đầu Gioan Tẩy Giả, ông cũng làm. Dám làm theo điều mình thấy đúng lúc này, mới là con người có bản lãnh, mới là người tuyệt vời. Thứ tư, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục nói với chúng ta qua những biến cố hằng ngày, qua người này người kia, qua cả những người đang làm phiền chúng ta hoặc không cùng quan điểm với chúng ta. Thứ năm, Ngôi Lời Thiên Chúa một khi đã làm người, thì Ngài chia sẻ thân phận con người của chúng ta mọi đàng, ngay cả những giới hạn về tri thức, Ngài cũng cần phải lắng nghe và học hỏi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Giữa một Kitô-hữu, một người ngoại, và Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu ai hơn? Xin bạn chia sẻ lập trường quan điểm của bạn.

2. Khi nói Đức Giêsu cũng cần lắng nghe và vâng theo ý Thiên Chúa Cha, có làm giảm giá trị của Đức Giêsu không? có sai thần học không? Tại sao?

3. Quan niệm nào chi phối đời sống của bạn nhất? Xin bạn chia sẻ quan niệm này, và cho biết tại sao.

 

 

 

 

 

13. Mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin - Lm. Giuse Trương Đình Hiền

 

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Thiên Chúa muôn đời vẫn là một “ẩn số” mà nhân loại cứ phải khao khát kiếm tìm trong khắc khoải khôn nguôi, như Thánh Augustinô đã từng thốt lên: “Chúa đã dựng nên con, nên lòng con mãi khắc khoải kiếm tìm cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”. Một thái độ tự hào, tự mãn, cho rằng mình đã chiếm được Thiên Chúa, đã nắm bắt chân lý, để rồi không còn biết vươn mình lên đi tới hay khiêm hạ khát khao kiếm tìm lại chính là một thái độ phản lại niềm tin, hay một niềm tin, nếu có, đã trở nên nghèo nàn và rỗng tuếch.

Nhưng nếu đức tin là một cuộc lên đường tìm kiếm, thì, tiên vàn đó lại là cuộc kiếm tìm của chính Thiên Chúa.

Nếu khởi đầu lịch sử, khi Thiên Chúa đến kiếm tìm và gặp gỡ nhân loại “trong cơn gió nhẹ ban chiều” ở nơi vườn diệu quang (St 3,8) để hàn huyên tâm sự lại đã gặp một A-đam, E-va trần truồng đang núp trốn, thì Ngài đã không thất vọng nản lòng để quay mặt đi xa; nhưng rồi sau đó đã tiếp tục lên đường không mệt mõi, kêu gọi, ước giao, hẹn thề hết Áp-ra-ham, đến Gia-cóp, hết I-sa-ac đến Giuse…sau đó là Mô-sê với bao chịu đựng nhọc nhằn của 40 năm trường hành về Đất Hứa, cũng chỉ để hình thành một Dân Tộc của niềm tin, một Dân của Giao ước. Mà đâu chỉ có dân ít-ra-en; cho dù trong phương án cứu độ, đó chính là Dân ưu tuyển. Thiên Chúa kiếm tìm tất cả mọi người, mở lối đưa đường cho tất cả những ai thành tâm thiện chí khát khao Ngài, kiếm tìm Ngài và chân chất sống theo những chỉ dạy của Ngài khắc ghi trong đáy thẳm tâm hồn, như lời sứ ngôn I-sa-i-a trong BĐ 1 hôm nay: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người…”

Và cuộc kiếm tìm của Thiên Chúa đã đến đỉnh điểm khi “Ngài ban Con Một, để ai tin vào Người con đó sẽ không phải chết nhưng được sống vĩnh hằng” (Ga 3,16).

Quả thật, trong cuộc hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Kitô Con Một Thiên Chúa đã từ Bắc xuống Nam, từ Đông lên Tây, dọc ngang khắp vùng Palestina để “kiếm tìm” những con chiên lạc mà đưa về cho Thiên Chúa một đàn chiên và một chủ chiên.

Ngoài những con chiên lạc “con giòng cháu giống thuộc dân ưu tuyển Ít-ra-en, Chúa Giêsu lại bôn ba sang các miền ngoại giáo lân cận để tìm kiếm nơi cộng đồng dân ngoại những tâm hồn khao khát chân lý cứu độ để dẫn họ về trong chân lý và tình thương.

Tin mừng Matthêu hôm nay đã tường thuật những bước chân tiến về vùng ngoại giáo Tyrô và Siđon của Chúa Giêsu; và chính nơi vùng ngoại đạo nầy, Ngài đã gặp được một người đàn bà ngoại giáo Canaan nhưng “mạnh tin”.

Bà mạnh tin khi bà nhận ra chàng thợ mộc đến từ Na-da-rét kia chính là “Con Vua Đa-vít”, một danh xưng mà vào thời điểm đó, chỉ có những tấm lòng khát mong và đầy tràn niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai đang đến mới sử dụng.

Bà mạnh tin khi bà xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng chữa con bà khỏi quỷ ám, một quyền năng chỉ dành cho Thiên Chúa.

Bà mạnh tin khi vững vàng trông cậy vào tình yêu vô biên của chính Chúa Giêsu bất chấp những thử thách nặng nề là sự làm ngơ, chối từ và cả khinh miệt.

Chính ở nơi tâm hồn cương nghị và đầy khiêm hạ của người phụ nữ ngoại giáo Canaan nầy, Chúa Giêsu đã tìm được niềm an ủi trong công cuộc “đi bủa lưới giăng câu” các linh hồn trên những nẻo đường đất lạ.

Và khởi đi từ đó, Ngài đã truyền cho các Tông Đồ hãy mạnh dạn “đưa thuyền ra chỗ nước sâu”, “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng Tin Mừng.”

Thế nhưng, chúng ta cũng đừng quên, Chúa Giêsu đã không ít lần đã thất bại thảm thương; mà cuộc thất bại cay đắng nhất trên con đường rao giảng Tin Mừng lại xảy ra trên chính quê hương Na-da-rét của Ngài. Chính tại nơi đây, Ngài đã “không làm được phép lạ nào” chỉ với lý do: “Vì họ cứng lòng tin”.

Nếu ở tại đất ngoại giáo có được một tâm hồn phụ nữ Canaan sẵn sàng đánh đổi niềm tin vào Ngài bằng mọi giá, thì tại Giê-ru-sa-lem, đã có hàng trăm người đã sẵn sàng chối từ Ngài để chọn Ba-ra-ba, vì họ không thể đánh cược niềm tin vào một con người rách nát thảm thương sắp bị Philato tuyên án tử.

Họa hằn lắm mới có một Lê-vi giã từ bàn đếm tiền của người thu thuế để bỏ lại đằng sau tất cả sự giàu có trần tục mà lên đường làm môn đệ của Ngài; hay một Gia-kê lùn tịt về thân xác và cả nhân phẩm hay đức độ, sẵn sàng cho đi tất cả của cải trần gian để sống cho những giá trị của cái nghèo Nước Trời.

Vâng, những người ở Na-da-rét hay Giê-ru-sa-lem đó cùng với các tư tế và biệt phái, hay những người quyền cao chức trọng lúc bấy giờ họ tin rằng họ đã có sắn một đức tin chân truyền đúng mực, họ không cần phải mở lòng ra để đón nhận hay khát mong một “tin mừng” huyển hoặc nào nữa, nhất là một “Tin Mừng” gần như đối nghịch hẳn với tâm thức và sự kiếm tìm của họ mà ông Giêsu kia đã loan báo như “khó nghèo, hiền lành, trong sạch, yêu thương kẻ thù, tha thứ luôn luôn, chọn đường thập giá…”

Đặc biệt, “giải pháp thập giá” quả là một thử thách quá lớn mà họ không dễ gì vượt qua hay chọn lựa, bởi họ đã quen chọn cho mình con đường dễ dàng, nhung lụa, vinh quang…

Tuy nhiên, cũng giống như người đàn bà Canaan khi đối diện với những thử thách nghiệt ngã, người trộm bên hữu đã mở lòng để tin vào một con người chỉ còn tấm thân tàn ma dại: “Lạy Thầy, khi nào Thầy về Vương Quốc của Thầy, xin nhớ đến tôi”.

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay gần như truy vấn tất cả mọi người chúng ta về hành trình đức tin của chính mình.

Chúng ta gần như sống và thực hành đức tin như một chuyện “đã rồi”, một “chọn lựa dễ dàng và không hề thử thách”.

Vẫn còn đó nhiều người trong chúng ta sẵn sàng quay lưng lại với Giáo Hội với nhà thờ, chỉ vì một tự ái không đâu trước một lời quỡ trách.

Vẫn còn đó nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh chã còn thiết tha cầu nguyện và trung thành đến với Chúa chỉ vì Chúa chưa đáp ứng những khát vọng và lời nguyện xin.

Vẫn còn đó những người mang tâm trạng oán trách và cả hận Chúa vì phải đương đầu với những khổ đau, thất bại, bệnh tật hay đói nghèo…

Và chung chung, chúng ta muốn giữ “nguyên trạng đức tin” mà không cần phải đặt lại, kiếm tìm hay hoán cải…

Trên những nẻo đường thế giới hôm nay Chúa vẫn sục sạo đi tìm. Nhưng con đường Chúa đề nghị để theo Ngài không bao giờ tầm thường và dễ giải.

Câu trả lời của người phụ nữ ngoại đạo Canaan hôm nay và thái độ đức tin đầy khiêm nhu tín thác của bà mãi mãi là một điểm quy chiếu cho mọi cuộc lên đường tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa. Vâng, đó là một mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Amen.

 

 

 

 

 

14. Sức mạnh của lòng tin

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn “sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.

Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào? Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.

Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi. Câu đó là: “nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được.” (Mt 17,20)

Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:

Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu và thống thiết nài xin Người: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.

Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan đụng phải, nhưng bà không thối lui.

Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”

Chúa Giêsu lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel”.

Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel mà thôi. Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.

Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Người cách thành khẩn: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”.

Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con”. Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn. Con gái bà đã được cứu chữa.

Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an”, nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”.

Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58) hay như tường thuật của thánh Máccô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6,5-6)

Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì. “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17,20)

Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giêsu chấp thuận. Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi!” (Mt 14,22–33).

Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.

 

 

 

 

 

15. Lời nguyện chân thành

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người ngoại đạo như sau: “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ở trên cao”. Lời hát thật đơn sơ nhưng nói lên niềm tin chân thật của một người ngoại đạo. Anh công nhận mình ngoại đạo. Nhưng anh cũng không chối cãi niềm tin vẫn có trong lòng mình. Anh công nhận mình vẫn ở ngoài đạo nhưng anh lại gắn bó mật thiết với Chúa. Bằng chứng là anh đã cầu nguyện với Chúa. Anh nói với Chúa về sự thật của anh, một người ngoại đạo. Anh nói với Chúa về niềm xác tín của anh, anh tin có Chúa ở trên cao. Anh giải bày với Chúa những khúc mắc trong cuộc đời anh. Anh đang trình bày với Chúa về nhu cầu của mình. Anh cần Chúa cho anh niềm tin để anh không còn nghi ngại một điều gì nữa! Anh đang cần có một đức tin đủ để tin vào sự hiện diện của Chúa.

Lời Chúa hôm nay cũng tường thuật về cách thức biểu lộ niềm tin chân thành của một người đàn bà ngoại đạo miền Canaan. Bà là người ngoại đạo nhưng bà lại kêu cầu Chúa là Con Vua Đavit, nghĩa là bà đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng đối với Chúa niềm tin chân thành thôi chưa đủ để nhận ơn lành từ Chúa, mà còn phải kiên nhẫn, phải khiêm tốn, và nhất là phải có một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng mà mình kêu xin.

Người đàn bà này đã trải qua những giai đoạn đó:

Trước tiên bà kiên nhẫn kêu xin. Xin lần thứ nhất chưa được, bà liền xin lần thứ hai và mãi cho tới lần thứ ba bà mới được toại nguyện.

Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.

Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: “đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn sao được vậy”. Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết mình vì con.

Vâng, lòng tin thường là điều kiện cần thiết để Chúa thi thố tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Lòng tin càng lớn thì ân ban càng nhiều. Lòng tin càng được tôi luyện trong gian nan thử thách thì càng thấy rõ hơn tình thương của Chúa khi được Ngài giải thoát khỏi mọi hiểm nguy. Lòng tin cần phải kiên nhẫn mới có thể thấy sự bất lực của con người trước sự dữ và quyền năng cao vời của Thiên Chúa luôn sẵn lòng bảo vệ con người khỏi mọi sự dữ.

Lòng tin này đã được thánh nữ Monica thực hiện suốt 18 năm ròng rã. Thánh nữ Monica luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustino. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Người đời nhìn bà là một người phụ nữ bất hạnh vì chồng khô khan, và con truỵ lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay. Bà muốn bỏ cuộc, nhưng thánh Ambrosio đã nói với thánh nữ: “Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất”. Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi phận số của người con. Thánh Augustino đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống đời thánh thiện. Thánh nhân đã bỏ con đường con công danh để tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã không tìm kiếm thú vui thể xác nhưng tìm kiếm hạnh phúc Nước trời.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen.

 

 

 

 

 

16. Tình mẹ thật bao la - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Có một lời kêu cứu của người mẹ có con mắc bệnh hiểm nghèo, được chia sẻ rất nhanh trên mạng. Riêng trên Facebook Jack Mummy, có tới 16.000 lượt chia sẻ. Đằng sau lời kêu cứu này, là câu chuyện số phận buồn của người phụ nữ khát khao làm mẹ đã 2 lần mất con.

Đó là chuyện đau lòng của Chị Hà Thị Quỳnh Nga (Đông Anh, Hà Nội) hạ sinh người con thứ 3 vào lúc 14g30 ngày 3.6 tại bệnh viện Bạch Mai. Nhưng niềm hạnh phúc mong manh bỗng nhiên sụp đổ khi sáng ngày hôm sau, bác sĩ chuẩn đoán bé trai Nguyễn Hà Hải Đăng bị nhiễm độc do nhóm máu hiếm ORh-.

Cùng ngày hôm đó, bác sĩ huy động người nhà truyền máu cho Hải Đăng, nhưng không ai thuộc nhóm máu này. Gượng dậy sau nỗi đau mới mổ khi sinh, chị Nga vội vã lên mạng nhắn tin cho người em với những dòng vội vàng, nhờ chia sẻ lên Facebook: “Mình mới sinh con được một ngày, con thuộc nhóm Rh-, cần được truyền máu. Mình đang ở Bệnh viện Nhi Hà Nội, cầu xin mọi người giúp mẹ con mình. Mình mới mất 2 cháu rồi, đây là cơ hội làm mẹ còn lại duy nhất của mình. Xin mọi người giúp mẹ còn mình với, mọi người liên hệ số điện thoại….”. Chị gửi tin và hi vọng, cuộc sống luôn có phép nhiệm màu.

Nhờ thông tin lan nhanh trên mạng, một số người có cùng nhóm máu đã nhanh chóng đến viện hỗ trợ máu cho bé Hải Đăng. Hiện tại, nhờ sự giúp đỡ của cộng đồng Facebook, cháu Hải Đăng đã thay máu 3 lần, qua được cơn nguy kịch.

Quả là tình mẫu tử đã khiến chị Nga đầy khôn ngoan và kiên trì để cầu cứu cho đứa con. Dù mong manh. Dù tỉ lệ rất thấp, nhưng nếu cứu được con, chị sẵn lòng làm tất cả. Chị đã biết sử dụng thông tin hiện đại để viết lên lời kêu cứu của mình. Chị đã được toại nguyện. Tình mẫu tử cao sâu đã cứu con chị khỏi lưới hái tử thần.

Đó cũng là hình ảnh kiên cường của người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã mang con đi vái tứ phương, nhưng vô vọng. Bệnh tật vẫn bám chặt đời con bà. Sự sống như đang dần trôi qua với con bà. Bà vẫn quyết chí dành giựt lại sự sống cho con bà. Bà đã khiêm tốn đến với Chúa, dù rằng bà là người ngoại đạo. Bà đã van xin Chúa, dù rằng lời van xin tưởng chừng như Chúa bỏ ngoài tai. Bà vẫn không ngã lòng. Bà vẫn níu kéo Chúa bằng những mẩu đối thoại thật khiêm tốn và kiên trì. Bà chỉ nhận mình là một thân phận thấp hèn, nhưng vẫn ao ước được đón nhận hồng ân từ Chúa.

Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin không thay đổi của bà. Chúa đã thấy sự chân thành của bà. Chúa cũng thấy một tình mẫu tử thật cao cả của bà đã dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin và sự can trường của bà đã được Chúa đền đáp bằng phép lạ tình thương của Ngài.

Con người chúng ta khi đứng trước khó khăn, vẫn mong cầu phép lạ. Phép lạ là điều ai cũng mong đến với mình. Nhưng không mấy ai hiểu rằng: phép lạ chỉ đến sau những nỗ lực của con người. Phép lạ không bổng dưng đến với chúng ta như kiểu “ngồi chờ sung rụng”. Phép lạ đòi hỏi niềm tin bằng hành động của con người được biểu lộ một cách chân thành và khiêm tốn. Đó là điều tối cần thiết để Thiên Chúa có thể thi ân cho con người.

Thế mà vẫn còn đó, những người mong được phép lạ chữa lành bệnh tật mà lại chẳng bao giờ bày tỏ lòng thành qua những giờ kinh, qua thánh lễ hay cầu nguyện riêng với Chúa hay Đức Mẹ. Vẫn còn đó, những người muốn được phép lạ có cuộc sống sung túc, thế mà chẳng bao giờ chú tâm vào công việc. Vẫn còn đó, những người muốn Chúa giúp vượt qua hoạn nạn, nhưng chẳng bao giờ nỗ lực đứng lên để Chúa dìu bước.

Quyền năng Chúa vẫn bao trùm trên con người. Phép lạ của Chúa vẫn tiếp diễn trong cuộc sống hôm nay. Nhưng để đón nhận phép lạ của Chúa, đòi hỏi con người nỗ lực vươn lên và bày tỏ lòng tín thác nơi Chúa. Như người phụ nữ trong Tin Mừng, bà chỉ có thể đón nhận phép lạ của Chúa sau bao nhiêu những nỗ lực phấn đấu, cùng với niềm tin trung kiên.

Cuộc sống luôn có những khó khăn, xin cho chúng ta biết chạy đến với Chúa trong niềm tin phó thác. Ước gì chúng ta không bao giờ bỏ cuộc trước gian nguy, nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.

 

 

 

 

 

17. Lòng tin của bà mạnh thật - Lm. Trầm Phúc

 

Đôi khi Chúa Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc cho thấy một trong những thái độ lạ kỳ của Chúa. Ngài là con người đầy lòng nhân hậu, Ngài đoái thương mọi người và dùng quyền năng của Ngài để cứu giúp mọi người, nhưng sao đứng trước nỗi thống khổ của một bà góa, Ngài xem như không màng tới mà có thái độ như dửng dưng. Tại sao? Chúng ta không thể hiểu. Có người cho rằng Ngài muốn thử thách lòng tin của bà. Có lẽ cũng có lý, nhưng chưa hẳn là như thế. Có thể có một lý do nào khác.

Miền Tia và Xiđôn là miền mà người Do Thái là thiểu số, Ngài đến đó như muốn yên nghỉ một lúc và để có thể gần gũi với các môn đệ và huấn luyện họ, sau khi đã chạm trán với những người lãnh đạo Do Thái. Thánh Maccô nói rõ hơn, Ngài không muốn ai biết Ngài. Nhưng rồi người đàn bà ngoại giáo này đã khám phá ra Ngài và đến cầu cứu trong cơn hoạn nạn thống khổ của mình. Bà dùng một tước hiệu mà chỉ có người Do Thái mới biết là gọi Chúa bằng tước hiệu Con Vua Đavít, tức là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế của người Do Thái. Bà cũng nói rõ là con gái của bà đang bị quỉ ám. Những người mù ở Giêricô cũng gọi Ngài như thế. Đó là điều đáng chú ý nhất đối với Chúa Giêsu. Nhưng lạ lùng thay, Ngài lại làm ngơ, không trả lời.

Chúng ta không thể biết Chúa muốn gì khi tỏ thái độ như thế? Ngài là Đấng nhân hậu vô biên làm sao Ngài dửng dưng trước nỗi thống khổ của một bà mẹ như thế? Chúng ta có thể nghĩ rằng, Chúa biết rõ tâm hồn của bà mẹ khốn khổ đó, nhưng cũng muốn dùng dịp này cho các môn đệ một bài học. Có lẽ cũng thử thách đức tin của người mẹ đó, nhưng Ngài cũng chú tâm đến các môn đệ, cho họ một bài học rất quí báu.

Ngài đi từ cách đối xử của người Do Thái đến cách đối xử của Ngài. Người Do Thái kỳ thị những người ngoại đạo. Ngài cũng làm như thế đối với người phụ nữ ngoại giáo này. Ngài tỏ ra dửng dưng, không hề để ý tới lời cầu khẩn của bà. Nhưng bà không nản vì thái độ chối từ đó, bà tiếp tục nài nĩ mãi đến nỗi các môn đệ bực bội và xin Ngài cho bà ấy về đi. Ngài lại dùng cách nói của người Do Thái để trả lời cho bà và các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Hai lần bị xua đuổi, nhưng người mẹ này không nản chí và tiếp tục nài xin. Lần thứ ba Ngài vẫn như không màng gì đến lời cầu khẩn của bà và khẳng định quyền lợi của người Do Thái: “Không nên lấy bánh trên bàn của con cái mà ném cho chó”. Đây là một cách nói của người Do Thái, xem người ngoại như loài chó thôi. Người mẹ đau khổ này vẫn bền chí, bám vào hy vọng cuối cùng: “Thưa Thầy, lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Và đây chính là kết cuộc. Chúa Giêsu ngỡ ngàng trước lòng tin can đảm của người đàn bà đau khổ: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được như vậy”.

Nói rằng Chúa muốn thử thách lòng tin của người phụ nữ này cũng đúng, và khi thấy bà mạnh tin Chúa đã đáp lời bà. Nhưng đối với các môn đệ, đây là một bài học khác. Chúa Giêsu cho thấy cần phải có một cái nhìn mới chứ không chỉ khư khư trong những quyền lợi của mình, của nhóm đặc quyền của mình. Chúa Giêsu cho thấy Ngài vẫn tôn trọng quá khứ nhưng Ngài nhìn về tương lai. Phải vượt qua những rào cản của thủ tục, của những thói quen lâu đời. Ngài nhìn mọi người như nhau, lương hay giáo. Mọi người đều được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời. Tuy người Do Thái là ưu tiên, nhưng không chỉ là Do Thái. Thánh Phaolô phải đương đầu với những người Kitô hữu đầu tiên thân Do Thái và phải vất vả lắm mới có thể chấp nhận người ngoại vào đạo. Đối với Ngài, không còn ranh giới giữa Do Thái hay Hy Lạp, mà mọi người đều được quyền thừa hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Thánh Phêrô cũng gặp khó khăn khi chấp nhận người ngoại trở về với Chúa. Từ khi ngài được thị kiến từ trời những người quanh ngài mới chấp nhận cởi mở. Việc truyền giáo mới bắt đầu đi vào một đường lối mới.

Công Đồng Vatican II đã mở rộng con đường đối thoại với các tôn giáo và đã cho thấy quyền tự do tôn giáo của mọi người, vì con người có một phẩm giá cao cả. Không ai được quyền xem người khác là “chó” như người Do Thái xưa. Chúa Giêsu phá đổ mọi ranh giới ngăn cản con người hiệp thông với con người. Ngài từ từ giúp các môn đệ hiểu đường hướng mới của Ngài bằng cách chấp nhận một cách rõ ràng đức tin của người phụ nữ ngoại giáo kia.

Chúa Giêsu cũng muốn cho thấy rằng đức tin không là của riêng ai, hay của một dân tộc nào mà của mọi người. “Những con chó con” trở thành thực khách trong bàn tiệc cứu độ của Chúa. Đức tin cũng không là những tập tục tôn giáo hẹp hòi, mà là một hướng đi nhắm thẳng vào Chúa. Nhiều cộng đoàn Kitô hữu hẹp hòi vẫn còn giữa những tập tục xưa cũ, rườm rà, trở thành những chướng ngại cho người khác tìm về với Chúa. Nhiều linh mục vẫn còn óc hẹp hòi đòi hỏi những thủ tục rườm rà, những điều kiện gắt gao khiến nhiều người rời bỏ đức tin.

Một đám cưới. Khi đàng trai Công giáo đến rước dâu. Đàng gái là gia đình ngoại đạo chấp nhận cho con theo đạo. Khi bước vào nhà gái, thấy trên bàn tiệc có thắp mấy cây nhang. Cả bên đàng trai bỏ ra khỏi nhà vì nói rằng họ không ăn đồ cúng. Chủ nhà giải thích: “Chúng tôi không có cúng mà vì ruồi quá chúng tôi dùng nhang để đuổi ruồi thôi”. Nhưng đàng trai không chịu nghe lời giải thích và bỏ ra về. Chúng ta nghĩ sao? Đó chỉ là một ví dụ. Sự hẹp hòi đã đưa đến những hậu quả tai hại.

Chúa Giêsu đã bị người Do Thái lên án vì Ngài đã sống cho con người chứ không cho một thủ tục nào. Ngài đã từng tuyên bố: “Ngày sabat được tạo cho con người chứ không phải con người được tạo nên cho ngày sabat”.

Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy những ranh giới, màu da, sắc tộc, xã hội, tôn giáo, kinh tế… Con người hôm nay chỉ biết sống cho quyền lợi cá nhân hay phe nhóm của mình và loại trừ tất cả những người không cùng chung chí hướng với mình, đã tạo nên một tình trạng căng thẳng trong tất cả mọi lãnh vực. Có những nơi bách hại tôn giáo cực kỳ dã man. Chúa Giêsu luôn chủ trương hiền lành và khiêm nhượng. Người Công giáo chúng ta cần can đảm không nhượng bộ về đức tin, nhưng vẫn luôn chấp nhận mọi người nhất là những người thiện chí để cùng nhau xây dựng một xã hội nhân đạo hơn.

Chúa Giêsu muốn cho thấy, Kitô giáo là không có ranh giới. Mọi người là con của Cha trên trời. Giáo hội vẫn là gia đình của mọi dân tộc. Những lễ hội như những Đại Hội Giới Trẻ thế giới là những dịp để mọi người thấy rằng Giáo hội là của mọi người, phục vụ mọi người, và mọi người là anh em, không còn phân biệt chủng tộc màu da, nam hay nữ. Tất cả đều cùng nhau vui mừng trong tình yêu của Cha trên trời, cùng nhau ca tụng Cha bằng ngôn ngữ của mình, bằng tiếng hát, bằng nền văn hóa đặc thù của mình.

Chúa Giêsu nhậm lời người phụ nữ ngoại giáo kia, cho chúng ta thấy rằng phải xóa bỏ những rào cản của chính chúng ta, những thói quen kỳ thị, những tiên kiến, những tị hiềm của chúng ta để hướng tới những người anh em khác đang cần được che chở, được ủi an, được khích lệ, để gieo niềm vui cho một xã hội đã tiều tụy vì tham lam và đầy gian ác. Hãy làm sao cho con tim chúng ta luôn rộng mở để biết lắng nghe những tiếng gọi của biết bao nhiêu người đang bập bềnh trong một cuộc sống không còn hy vọng.

Muốn thế, chúng ta cần trở về với Chúa, với tình yêu vô biên của Ngài, vì chúng ta luôn hẹp hòi, bảo thủ trong pháo đài cá nhân của chúng ta. Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ra khơi”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng bảo: “Hãy ra đi”.

Chúng ta ngại chăng? Vì chúng ta không dám ra khơi, chúng ta sợ mất mát không dám cho đi. Làm sao Chúa Giêsu được yêu thương nếu chúng ta ngại ngùng không dám dấn thân? Có muôn ngàn cách dấn thân. Có những người rời bỏ gia đình để đi phương xa rao truyền Danh Thánh Chúa, có những người dấn thân giúp đỡ người cùng khốn, những nạn nhân của những bệnh ngặt nghèo, tranh đấu cho những mục tiêu nhân đạo… Nhưng cũng có những cách dấn thân khác. Dấn thân không có nghĩa là phải chỉ là đi xa hay bỏ việc gia đình, mà là đem vào cuộc sống thường ngày tình yêu của Chúa thay vì chỉ nghĩ đến đồng tiền hay lợi nhuận. Dấn thân trong cầu nguyện liên lỉ, bằng những hy sinh nhỏ bé, những việc phục vụ đơn thường và vui tươi, trong gia đình cũng như trong mọi môi trường khác. Là người tin Chúa, chúng ta không thể không làm gì cho Chúa hay cho anh em. Chúng ta có rất nhiều công việc phải làm, tùy theo khả năng, môi trường của mỗi người. Điều quan trọng là chúng ta có thực sự muốn làm việc cho Chúa hay không.

Chúa Giêsu, con người đã triệt để dấn thân vào trần gian, đã mở cho chúng ta con đường mới, con đường của tình yêu. Ngài vẫn còn tiếp tục công việc của Ngài qua những con người hèn kém của chúng ta và muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Ngài vẫn tiếp tục nuôi chúng ta bằng chính thịt máu Ngài để chúng ta can đảm hơn. Ngài bảo chúng ta: “Hãy đến”, như đã bảo Phêrô đi trên mặt nước. Hãy đến ăn lấy tấm bánh thần linh, hãy là thực khách của bàn tiệc tình yêu để dám cho đi, cho đi tất cả cuộc đời trong khiêm nhu và tin yêu.

 

 

 

 

 

18. Lòng tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Lời rao giảng của các tiên tri trong thời Cựu Ước được dành cho người Do-thái trước tiên. Họ là Dân đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang ơn cứu độ cho nhân loại. Dân Do-thái là một dân tộc văn minh có lề luật hướng dẫn và có cơ cấu tổ chức chu đáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn lại hơn hai ngàn năm về trước, cuộc sống của dân làng rất đơn sơ mộc mạc. Ngày đó, họ chưa có các phương tiện văn minh kỹ thuật về các phương diện khoa học trong đời sống. Nhất là về vấn đề thông tin, in ấn và truyền thông. Các tiên tri đã nỗ lực rao giảng và luôn nhắc nhở con dân quay về với Thiên Chúa: Đây Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện (Is 56,1). Sự rao giảng bằng cách truyền đạt rỉ tai và âm thầm loan truyền sứ điệp một cách rất chậm rãi qua các thế hệ. Lời rao giảng được ghi chép bằng tay cuộn thành từng cuốn sách được cất giữ và lưu truyền.

Lịch sử ơn cứu độ đi vào hành trình cuộc sống cụ thể của xã hội. Dân bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng của các dân tộc lân bang tôn thờ các tượng thần gỗ đá vô cảm. Các vị Thần này do con người làm nên, tặng ban và phong thần để có thể đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Nhiều người đã ưa thích chạy theo thói đời dễ dãi, buông thả và thụ hưởng. Các Vị Thần như các bình phong để con người tự điều khiển theo ý muốn của mình. Các nhà cầm quyền dựa vào uy tín của thần minh để thống trị và cai quản dân chúng. Các tôn giáo ngoại bang chủ trương thờ cúng các thần minh theo nhu cầu của cuộc sống, tạo nên các thần mưa, gió, bão, núi, sông, mặt trời, mặt trăng, thần bò vàng, thần cây cối… và các thần vô danh. Gọi chung là Đa Thần Giáo. Các nghi lễ cúng bái thờ lạy các Thần chỉ là những hình thức bề ngoài trống rỗng. Các Thần chỉ là gỗ đá, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và chỉ trơ trọi như một xác không hồn.

Trong bài phúc âm kể câu truyện người đàn bà quê ở Canaan, vùng đất của dân ngoại, đến kêu van Chúa Giêsu trừ quỷ cho con gái của bà. Con người thường bị ma quỷ quấy phá và ám ảnh. Tự sức con người đành bó tay. Các Thần Minh cũng chẳng có quyền hành gì trên ma quỷ. Người đàn bà đã chạy đến với Chúa xin cứu giúp: Bà kia đến lạy Người mà nói: Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Mt 15,25). Chúa đã thử thách bà về lòng tin. Bà tỏ ra có đủ sự khiêm nhượng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa. Bà không ngại nhận mình chỉ là ‘chó con’, cũng được thừa hưởng ân lộc của Thiên Chúa: Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc ấy, con gái bà đã được lành (Mt 15,28). Tuy sống chung đụng giữa những người dân ngoại, nhưng không phải mọi người đều lệ thuộc hay tỏ lòng thờ kính những vị Thần vô tri vô giác. Nhiều người vẫn muốn đi tìm sự thật và nguyên nhân cùng đích của cuộc đời. Trên thực tế, có biết bao nhiêu người bị hướng dẫn lầm lạc trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Họ tôn thờ những vị thần mà họ không biết. Thật đáng thương!

Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa mạc khải và hướng dẫn sống trong lề luật và huấn lệnh. Chúng ta biết rằng sống trong khuôn khổ của các giới răn cũng không phải là dễ dàng. Vì tâm lòng con người mong muốn được cuộc sống tự do không bị ràng buộc. Trải qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện biết bao sự lạ lùng và ưu đãi dân hết mực, vậy mà dân chúng cứ chứng nào tật đó. Sự cám dỗ của cuộc sống vô thần hay đa thần giáo luôn kéo lôi con người trở lại sự vô tri. Vì nhiều người tin vào Đa Thần sẽ tự tìm thỏa mãn mọi khát vọng thấp hèn của bản năng, mà không bị lương tâm cắn rứt. Nhưng dân Do-thái được hướng dẫn để đặt niềm tin vào Thiên Chúa độc thần. Một Thiên Chúa có uy quyền và yêu thương con dân của Người. Thiên Chúa nhân từ, công bằng và thưởng phạt công minh.

Qua hơn hai ngàn năm, Tin mừng tiếp tục được rao truyền khắp nơi. Số người tin Chúa có gia tăng nhưng so với dân số thế giới, số tín hữu không tăng thêm. Giáo Hội có nhiều phát triển không đồng đều như những sóng triều khi thịnh khi suy tùy thuộc vào mỗi địa phương, văn hóa, chủng tộc và ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn chung chung qua những sinh họat của Giáo Hội Công Giáo tại Giáo Đô, tại các Nước thứ ba và trong các Nước đang phát triển, chúng ta thấy có tia hy vọng và lạc quan. Các cuộc tổ chức Đại hội, đại lễ và các cuộc hành hương rất hoành tráng, qui tụ đông người và long trọng. Các nhà thờ tiếp tục được xây dựng mới và sửa chữa tu bổ rất khang trang. Số giáo dân vẫn sinh hoạt sầm uất và mỗi năm có thêm nhiều các tân tòng. Có nhiều ơn gọi dâng mình cho Chúa trong các Dòng tu đạo đời.

Tuy nhiên, thực tế tại các nước văn minh, nhất là Âu Châu, niềm tin tôn giáo đã dần bị phai mờ. Ngay tại nơi Chúa Giêsu giáng trần, con số Kitô hữu rất khiêm nhượng. Tại Belem, Giêrusalem và Nazarét, những nơi thánh trở thành các di tích làm chỗ cho khách hành hương kính viếng. Các đền thờ, nhà thờ và hội đường ít người lui tới. Giáo dân thưa thớt và bị chia năm sẻ bảy, mỗi nhóm tôn giáo sở hữu một khu vực. Đa số các tín hữu bị ảnh hưởng bởi các trào lưu trong xã hội. Nhiều người đang chạy theo cuộc sống thực tế mong tìm cái ăn, cái uống, hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi. Không còn quan tâm nhiều đối với đời sống tâm linh và sự sống ngày sau.

Đôi khi chúng ta cảm thấy hơi bi quan vì nhiều người Kitô hữu không còn muốn thực hành đạo. Các nhà thờ bị trống vắng nhiều. Con số tín hữu tham dự lễ Chúa Nhật giảm sút đáng kể. Thờ ơ với các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Hôn Phối. Ơn gọi dâng hiến phục vụ thiếu hụt. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa vì thiếu tài chánh nâng đỡ. Tin đạo, nhưng không muốn sống và thực hành các giới răn của Chúa hay huấn quyền. Rất nhiều tín hữu cấp tiến đồng ý chấp nhận những điều nghịch với giáo huấn của Giáo Hội về đạo đức luân lý như vấn đề công bằng xã hội, quyền sự sống, quyền lao động, về hôn phối của các cặp đồng tính, ngừa thai, phò phá thai, trợ tử và tử hình… Có nhiều tín hữu không chống đối hay từ bỏ niềm tin, họ vẫn mang danh Kitô hữu, nhưng sống theo chủ nghĩa tương đối. Quan niệm sống đạo một cách cởi mở và dễ dàng. Đây là vấn đề nhức nhối trong mục vụ. Một số các thành viên vẫn tham dự đầy đủ các sinh họat tôn giáo, nhưng không muốn thay đổi cuộc sống nội tâm. Nhất là sự liên hệ trong đời sống gia đình như ly dị, tái hôn và sống chung bất hợp pháp. Đời sống luân lý bị tụt dốc gây rất nhiều những khó khăn trong vấn đề giáo dục con cái và xây dựng gia đình, cộng đoàn.

Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để thể hiện ơn cứu độ. Chúa tiếp tục ban ơn: Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc (Rm 11,29). Dân Do-thái vẫn được Thiên Chúa chúc phúc qua các thế hệ. Người Do-thái có một sức mạnh phi thường. Họ phải đối đầu với cả khối Ả-Rập ở Trung Đông, nhưng vì sống còn, họ vẫn hiên ngang chiến đấu. Họ là những người đi tiên phong trong các lãnh vực về chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học. Dân Do-thái là dân tộc thông minh và mạnh mẽ. Nguồn gốc của Đạo Công Giáo do chính người Do-thái dựng xây. Chúng ta có Đức Maria, Phêrô, các Tông đồ, môn đệ và các Giáo đoàn tiên khởi đều là người Do-thái. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho họ, vì đôi khi: Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người (Rm 11,32). Thánh Phaolô đã có những suy tư rất chân thật và hoàn toàn đặt niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.

Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con. Giữa cơn phong ba bão tố của niềm tin, cậy và mến, xin cho chúng con biết chạy đến với Chúa xin ơn phù trợ. Chúa có lời ban sự sống đời đời.

 

 

 

 

 

19. Mọi người đều “thuộc về”

(John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

 

“Hãy đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đi theo và quấy rầy chúng ta” (Mt 15,23)

Có nhiều người không thuộc về ai, cũng chẳng thuộc về một tổ chức nào hay một đoàn thể nào. Họ thình lình xuất hiện, có thể chỉ để phá đám, hoặc gây rối. Họ không giống ai, có chăng chỉ là thứ người ương ương, dở dở. Thiết tưởng rằng, bạn có thể suy đoán tôi đang nói tới loại người nào. Quả đúng như vậy, rất có thể trong loại người đó có bạn, và có cả chính tôi nữa. Giáo hội ngày nay đa phần gồm những con người chẳng đáp ứng đúng theo quy chuẩn mà các môn đệ đã đề ra, khi các Ngài nhìn vào người phụ nữ Canaan đã đến xin Chúa chữa lành cho con gái bà bị quỷ ám. Các môn đệ nói với Chúa hãy “quát bảo để đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đeo bám chúng ta mãi”. Tuy nhiên Chúa đã không xua đuổi, và Ngài nói với người phụ nữ: “Ta chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”.

Tại sao bà ta không “thuộc về”? Chúng ta khởi đầu với 3 lý do: hoặc bà ta chỉ là một phụ nữ, hoặc bà ta là một người Canaan- gốc dân ngoại, hoặc bà ta chỉ đến để nhũng nhiễu và gây rối, vì bà cứ đeo bám một cách dai dẳng. Ấy vậy mà, một nửa trong chúng ta lại là phụ nữ, đa phần chúng ta cũng là gốc dân ngoại, và nói một cách công tâm, tất cả chúng ta đều đã từng nhũng nhiễu và gây bao phiền toái cho người khác. Đức Giêsu tuyên bố Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel, không có dân ngoại trong đó. Ngài còn so chiếu người phụ nữ Canaan với một con chó, có vẻ như thật khinh suốt, nếu đúng ngôn từ đó ám chỉ đến một con vật quen thuộc mà người ta vẫn thường nuôi trong nhà. Rõ ràng, người phụ nữ này không “thuộc về”, nhưng tại sao một kiều cư gốc dân ngoại lại không được Đức Giêsu quan tâm đến, khi Ngài thực thi sứ vụ chữa lành và rao giảng.

Đức Giêsu đã đến “miền Tyre và Sidon”, một vùng đất dân ngoại. Chắc chắn Ngài sẽ gặp những kiều dân ở đó. Điều này đánh đố chúng ta khi nêu vấn nạn tại sao Đức Giêsu lại tuyên bố “Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”, cũng như Ngài đã từng chỉ thị cho các môn đệ giống như vậy khi sai các ông đi truyền giáo (Mt 10,6). Tuy nhiên, chúng ta phải qui chiếu một cách hài hòa những lời tuyên bố trên với sứ vụ rộng khắp, mà Đức Giêsu đã chuyển giao cho các môn đệ trước khi về trời “Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Điều này gợi mở cho chúng ta hai thực tại song chiếu trong lịch sử cứu độ. Một là dòng dõi Abraham, tức dân Israel-một dân tộc ưu tuyển, được lựa chọn cách riêng để thực hiện giao ước thân tình với Thiên Chúa, và mặt khác, giao ước này trong tương lai sẽ được dàn trải đến khắp muôn dân.

Ngôn sứ Isaia đã nêu lên khía cạnh thứ hai này theo truyền thống cựu ước. Vị ngôn sứ tiên báo rằng “Những dân ngoại giữ ngày sabat mà không vi phạm, và những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỉ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56,6-7). Isaia và nhiều tiên tri khác cũng nói rằng sẽ tới lúc mọi dân tộc sẽ được đón nhận giao ước. Điều đó xảy ra bao giờ và như thế nào, chúng ta phải nhìn xuyên suốt trong lăng kính của lịch sử ơn cứu độ mới có thể lãnh hội được. Trong sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu và của cả Giáo hội, chúng ta sẽ thấy lời tiên báo của Isaia đang trở thành hiện thực.

Có thể, thái độ và lời nói của Đức Giêsu đã chạm đến lòng tự ái của người phụ nữ Canaan. Nhưng các học trò của Ngài trong khoảnh khắc lạ kỳ đó của lịch sử cứu độ, đã khơi dậy lòng tin của bà đặt để nơi Thiên Chúa, là Chúa của người Israel. Thoạt đầu, Đức Giêsu đã im lặng, không đáp trả trước lời cầu ngỏ của người thiếu phụ. Kế đến Ngài tuyên bố là Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel, với người nhà mà thôi. Và cuối cùng Ngài còn nói một cách mạnh mẽ thẳng thừng “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó.” Trong cơn thử thách, người phụ nữ gan lì này đã không tuyệt vọng, nhưng vẫn tin. Bà ta vẫn tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể ra tay hành động để cứu chữa con gái bà.

Đức tin của bà không bị lung lay và chẳng suy chuyển chút nào.

 

 

 

 

 

20. Niềm tin chịu thử thách - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

 

Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn giữ điểm trên trung bình.

Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc lãnh về những con điểm không tốt.

Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng” hay “Em không đồng ý.”

Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và “cáo già” của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều này khiến người ta suy nghĩ.

Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô không thể sống theo kiểu “nín thở qua cầu”. Thấy thế, các bạn cô cũng tìm cách khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.

Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khoá đã đến. Giây phút nhận kết quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm. Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: “Điểm A”.

Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối đa.

Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện?

Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa giá trị Phúc âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên trên tất cả không?

Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tư lợi, hay địa vị tôi dễ rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy.

Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó:

Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Siđôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám.

Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh Thánh kể, Chúa Giêsu “không đáp lại một lời nào”.

Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế.

Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng. Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỷ để làm phép lạ (Mc 3:22). Có khi người ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa là cái máy cung cấp. Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6:15) hoặc cấm không cho họ nói lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8:26).

Thái độ dè dặt của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là tìm kiếm chiên lạc của Israel.

Yvon Daigneault có viết: “Israel của Chúa Giêsu là Israel của lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israel đó ta nhìn thấy một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng, một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của Abraham.

Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israel này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thách đố bà tiến đến đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm nhượng”.

Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu nói “Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó”, bà đã khiêm tốn thưa: “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó” (Mt 15,26-27).

Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ Chúa mất.

Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã được điểm “A”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được như vậy” (Mt 15,28).

Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa: “Kyrie eleison – Xin Chúa thương xót con”.

 

 

 

 

 

21. Bà muốn sao thì được vậy

 

Đoạn Phúc Âm nầy được viết khi trong Giáo Hội đã có bắt đầu với những người Kitô giáo Do thái của Đấng Messia, con vua Đavít và rất đông người Kitô giáo Hy Lạp (ngoại giáo) của Đức Kitô. Vì số người Do thái Kitô giáo ít còn Hy Lạp thì đông nên Đức Giêsu trong Phúc Âm và Giáo Hội là Đức Kitô.

Điểm của đoạn Phúc Âm là “lòng tin”. Không phải do thái hay dân ngoại. Lòng tin làm phép lạ. Chúa nhậm lời vì thấy lòng tin. Có lòng tin là tín hữu, là môn đệ, là được Chúa quan tâm, là được nhậm lời. Nhưng đức tin phải tự chứng minh qua nhiêu thử thách. “Thiên Chúa thử thách Abraham đủ cách để coi ông có thật lòng thờ Chúa hay không”.

CHÚ GIẢI

– Có một người đàn bà Canaan: bà ngoại đạo, không phải Israel.

– Kêu lên rằng: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi: Kêu theo kiểu Israel. Bắt chứoc người Israel, họ đang mong đợi một Đấng Messia, con vua Đavít…

– Nhưng Người không đáp lại một lời: kêu chưa đúng. Messia là của Do thái. Bà nầy không phải Do thái. Giáo Hội không kêu vậy mà kêu “Đức Kitô” của mọi người không phân biệt Israel hay Hy Lạp (khi viết Phúc Âm thì các Kitô hữu đầu tiên là Israel rồi Hy Lạp đông dần lên).

– Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Israel: Con vua Đavít là của Israel, là danh xưng quen thuộc của ngưòi Israel với niềm hy vọng Người sẽ tái lập nhà Đavít và một triều đại thịnh vượng cho Israel.

– Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi: Lời cầu xin mà mọi tín hữu thường dùng không phân biệt Israel hay dân ngoại. Đúng rồi.

– Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn: Thử thách cuối cùng làm phát sinh đức tin. Thiên Chúa thử thách vì muốn ban ơn chứ không vì sở thích. Không có lòng tin thì không thể có gì. Thử thách có bài bản chứ không lung tung không biết đâu mà rờ. Ngưòi chỉ lập lại cái cách mà người Do thái coi dân ngoại là chó, heo. Ngưòi không như vậy. Bà nầy biết nên không tự ái. Thử thách là để cho thấy đức tin. Thấy đức tin mới cho.

– Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con cũng được hưởng những mảnh vụng từ bàn ăn chủ rơi xuống: Chó con sẽ chết. Một cách trả lời thản nhiên, chấp nhận. Ơn cứu độ bắt đầu từ ngưòi Do thái, nhưng không chỉ cho thiểu số Do thái mà phải lan rộng đến mọi người.

– Lòng tin của bà mạnh thật: Bà hiểu vấn đề và Lời Chúa và đã áp dụng đúng. Vấn đề trước hết là hiểu bản văn Lời Chúa để áp dụng đúng như Chúa muốn. Đó là tin.

– Bà muốn sao thì được vậy: Tin sao thì được vậy. Tin không đúng thì không được. Hãy để ý điều nầy. Phải hiểu đúng để tin đúng. Không phải cứ tin mà phải tin cho đúng.

Cách đọc Lời Chúa đơn giản nhất và hiệu quả nhất là nghiên cứu chuyên môn để hiểu đúng bản văn rồi áp dụng dúng thì chắc chắn hiệu quả vì là Chúa muốn vậy. Nhưng không dể. Các công trình nghiên cứu cho tới nay chỉ tham vọng tìm được nghĩa gần nhất với ý tác giả Phúc Âm.

Đoạn Phúc Âm nầy không khó. Điểm cốt yếu dể nhận ra. Đó là: Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao được vậy. Thiên Chúa muốn ban ơn, sẳn sàng ban ơn. Nhưng điềư kiện rất rõ ràng là lòng tin. Là điều kiện tất yếu, không thể thiếu. Là điều kiện đủ không cần gì thêm. Phải biết đúng diều Chúa muốn để tin cho đúng và làm cho đúng. Phải nhờ những nhà chuyên môn hướng dẫn. Nhưng ngừơi ta lại sợ học Phúc Âm. Tự đọc làm sao hiểu. Tại sao có hiện tượng “tôn giáo cực đoan”? Vì hoặc không đọc hoặc tự đọc không hiểu đúng ý Chúa. Biết đúng ý Chúa thì tin rất dễ.

Phêrô sợ và chìm. Theo suy nghĩ riêng thì sợ. Thầy đây đừng sợ. Suy nghĩ theo ý Chúa thì không chìm. Người Do thái coi ngưòi ngoại là chó, heo. Nhưng Thiên Chúa thì không. Hiểu mới tin. Fides clamat intellectum. Intellegas ut credas (Augustin). Nguời ta không tin vì không hiểu vì con ngưòi có trí khôn để hiểu. Hiểu mới có xác tín. Phải chịu khó nghiên cứu. Phải làm hết sức để hiểu Lời Chúa. Còn lại Thánh Thần sẽ bổ khuyết cho. Không thể chỉ xin “ban cho con một đức tin anh dũng” mà có.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con chịu khó nghiên cứu và suy niệm để hiểu Lời Chúa vì như thế mới có được lòng tin mạnh thật và được như ý.

 

 

 

 

 

22. Tình Chúa bao la không bến bờ - AM Trần Bình An

 

Một người đàn ông Hồi giáo ở Ai-cập giết vợ vì chị này đọc Kinh Thánh, rồi đem chôn cùng với hai đứa con gái, một còn đang bú và một đã lên tám. Cả hai bé gái đều bị chôn sống! Sau đó anh ta đến báo với cảnh sát là một ông chú đã giết chết hai đứa bé. Mười lăm ngày sau, một thành viên khác trong gia đình qua đời. Khi đưa người chết đi chôn, người ta tìm thấy hai bé gái bị vùi dưới cát vẫn còn sống!

Toàn quốc Ai-cập đều căm phẫn sâu sắc về vụ việc xảy ra, và kẻ sát nhân bị hành hình vào cuối tháng Bảy, 2008. Người ta hỏi bé gái 8 tuổi làm cách nào để có thể sống sót được và em đã trả lời: “Một người đàn ông mặc áo trắng rực rỡ, cùng với các vết thương trên hai bàn tay, hằng ngày đến nuôi sống chúng cháu. Người ấy đánh thức mẹ cháu dậy để mẹ cháu có thể cho em bú”. Cô bé đã được phỏng vấn bởi một phụ nữ Hồi giáo mang mạng che mặt phụ trách kênh tin tức trên Đài Truyền Hình Ai-Cập. Người này đã nói công khai trên truyền hình: “Đó chính là Đức Giêsu, bởi chẳng một ai khác có thể làm được những việc như thế!”

Những người Hồi giáo tin rằng Isa (tức là Chúa Giêsu) đã thực hiện việc đó, các vết thương có nghĩa là Người thực sự đã chịu đóng đinh, và rõ ràng là Người đang sống! Đằng khác, cũng hết sức rõ ràng là đứa bé không thể bịa ra được một câu chuyện như thế, và hai đứa trẻ không thể nào sống sót nếu không có một phép lạ thực sự. Các nhà lãnh đạo Hồi giáo đang phải trải qua một thời khắc khó khăn chưa biết xử trí ra sao về việc này, và việc phổ biến các phim ảnh “Chết Vì Đạo” cũng chẳng giúp được gì! Ai-cập là một quốc gia nằm ở trung tâm của việc truyền thông và giáo dục tại vùng Trung Đông, các bạn có thể tin chắc là câu chuyện này sẽ được phổ biến rộng rãi. Đức Kitô vẫn đang kiểm soát và biến đổi thế giới. Hãy sẵn lòng chia sẻ câu chuyện này với mọi người. Đức Chúa phán: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa.” (Gr. 17) (CBS)

Người mẹ đã chịu tử vì đạo vì tin, cậy, mến Lời Chúa và Ngôi Lời đã thương xót cứu hai bé gái. Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, cũng một người mẹ dân ngoại, hết lòng cầu xin Đức Giêsu cứu chữa con bà khỏi quỷ ám. Người động lòng cứu giúp, và còn ca ngợi đức tin vững mạnh của bà.

Tình mẹ biển cả

Lòng mẹ thắm thiết và sâu lắng, thường được ví von bao la như biển Thái Bình. Hình tượng người mẹ luôn sáng lạn, rạng ngời trong tâm khảm dân Việt cũng như nhân loại từ ngàn đời.

Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao,

Đố ai đếm được những vì sao,

Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.

Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, đã can đảm vượt qua cái hố ngăn cách bất thân thiện, thậm chí thù hận giữa dân Chúa và dân ngoại, hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ Chúa đoái thương cứu giúp.

Bà công khai tuyên xưng đức tin, khi xướng lên thánh danh Đấng Messia. Rồi kể sự tình, không phải cầu xin cho bà, mà thành tâm khẩn khoản xin cho con gái đáng thương: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Mặc dù Người tảng lờ, như không nghe, không biết, không hề đáp lại, bà vẫn khiêm nhường, nhẫn nhục, vẫn không hề chao đảo, nhụt chí trước thái độ ghẻ lạnh của các môn đệ: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15,23)

Vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan cứ mãi kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Đức Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Người, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài. Mặc dù “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi!” Vượt qua thái độ từ khước công khai của Đức Giêsu, bà mẹ kính cẩn khấu đầu, quỳ sụp xuống, van lạy tha thiết khẩn cầu, càng mạnh dạn hơn nữa bà mẹ hoàn toàn tin cậy vào lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu.

Khi nghe lời từ chối quá phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!” bà mẹ liền tìm ngay được mẩu phao cứu sinh. Nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà chẳng hề mơ được nguyên tấm bánh, mà khiêm tốn chỉ dám mong đợi một chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Chẳng lẽ Ông Chủ giàu có và hào phóng lại nỡ từ chối?

Cuối cùng trái tim thắm tình mẫu tử được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời giải thoát quỷ dữ khỏi con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15,28)

Tình Chúa vô bến bờ

Dù tình mẫu tử dạt dào biết bao đi nữa, thì cũng có giới hạn nhất định, như biển rộng bao la vẫn có bến bờ. Hiện nay, tại các bảo sanh viện, còn rất nhiều người mẹ trẻ vẫn đang nhẫn tâm phá thai, với sự đồng lõa của những đao phủ áo trắng, được mệnh danh thật khôi hài và mỉa mai là “lương y như từ mẫu.”

Trong khi Thiên Chúa luôn mãi nhân từ vô biên, vô hạn, đã khẳng định qua lời ngôn sứ Isaia: “Có người phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49,15)

Tình Yêu Thiên Chúa không hạn hẹp, không phân biệt, không kỳ thị sắc tộc, cũng không hề có ranh giới như con người: “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Lc 6,35) Thiên Chúa vô cùng quảng đại, rộng lượng, chí công, chí ái, chí tình: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5,45)

Không những xót thương cứu giúp những người bệnh liệt, đau ốm, tàn tật thân xác, Đức Giêsu còn tìm đến những bệnh nhân tâm hồn. Người từng hung hồn khẳng định đến thế gian để tìm lại những gì đã hư mất, những người lầm lạc, những con chiên ham vui, đi hoang lạc bầy: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32)

“Con thấy quả tim con yếu đuối. Các thánh cũng như con. Nhưng nhờ vậy họ mới làm thánh: Nhờ ơn Chúa và ý chí.” (Đường Hy Vọng, số 181)

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã thử thách niềm tin, cậy, mến của bà mẹ Canaan, xin Chúa ban ơn cho chúng con luôn mãi tín thác, kiên trì, vững vàng, mạnh mẽ tin yêu vào Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã luôn đồng hành với Chúa Giêsu từ khi Mẹ thọ thai, đến khi Người khôn lớn, đi rao giảng, chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Tình Yêu Mẹ dành cho Chúa Con chẳng thế lấy gì sánh nổi. Kính xin Mẹ thương ban, san sẻ cho chúng con Tình Yêu cao sang vĩ đại đó, để chúng con được thánh hóa, trở nên đồng dạng, đồng hình với Người giữa tha nhân. Amen.

 

 

 

 

 

23. Chó con cũng được ăn… - Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.

Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn – “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.

 

 

 

 

 

24. Suy niệm của Lm. Anmai

 

“Dân ngoại” có lòng tin mạnh hơn quân “Giudêu”

Tất cả những người “bén duyên” với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những “người ngoại” ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những “người ngoại” tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người “ngoại” bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người “ngoại” xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.

Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi: “Thưa Cha! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon!”. Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một “dân ngoại” thời hiện đại.

Nếu có dịp, ai muốn “tai nghe mắt thấy” thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những “dân ngoại” khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.

Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết: “Cha Bửu Diệp mắc cười lắm! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người “lương” (“ngoại giáo”) không à! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít”. Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của “người ngoại” vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà “có đạo” mà ta thường thấy.

Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho “dân ngoại” nhiều hơn con nhà “có đạo”. Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà!

Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị “ném đá” vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho “người ngoại” đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha – con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.

Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó! Chúa Giêsu kỳ quá! Không! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ “ngoại giáo” này! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này đã phá vỡ được sự “cứng cỏi” của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người “ngoại” này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.

Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe: Đây Thiên Chúa phán: “Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. “Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.

Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là “con nhà có đạo”, là quân “Giudêu”. Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào? Nó còn nồng thắm như cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi mới theo Chúa hay không?

Phải nói rằng như người ta vẫn nói: “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu? sâu baon nhiêu? rộng bao nhiêu? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào?

Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được?

Chẳng nói đâu xa, trong giới “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của “luật sĩ và biệt phái” đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính “luật sĩ và biệt phái” không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.

Hình ảnh người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.

Chúng ta – quân “Giudêu” – có dám tin vào Chúa như người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay không? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như “người ngoại” thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.

 

 

 

 

 

25. Thử thách dường như quá sức - Lm. Xuân Hy Vọng

 

Trong đời sống hằng ngày, một cách nào đó thách đố luôn diễn ra. Đặc biệt, tại những giai đoạn cột mốc, bước ngoặt cuộc đời, luôn có mặt của thách thức. Nó khiến chúng ta mạnh mẽ, quyết đoán, trưởng thành hơn; và ngược lại, nó cũng khiến chúng ta chùn bước, thất vọng với bản thân, có khi tự trách mình!

Đời sống đức tin cũng không nằm ngoài việc luôn có thử thách song hành. Nhiều người lớn tự mình muốn học đạo và theo đạo thường nghĩ: khi trở thành người Công giáo rồi, sẽ không có, hoặc ít đau khổ, gian nan hơn! Tuy nhiên trên thực tế, đôi lúc, họ lại gặp quá nhiều thử thách kể cả sầu khổ sau khi được gia nhập đạo. Một câu nói đâu đó khiến chúng ta cần suy nghĩ, và thật sự đánh động “con không xin Chúa cất hết khổ đau, thử thách, nhưng xin ban cho con sức mạnh vượt thắng”. Nếu là những người không có đức tin, họ sẽ không biết bám víu vào ai mỗi khi gặp khốn khó, có lẽ họ chạy đến ông thần này, bà bụt kia, vái lạy tứ phương tám hướng. Nhưng chúng ta tin thờ Chúa, thì chúng ta đã biết trông cậy vào ai và chạy đến với ai lúc gặp nguy nan, thử thách.

Trong Tin Mừng, hầu hết đức tin của những người không phải Do thái được Đức Giê-su khen ngợi, và một trưng dẫn điển hình được sử dụng như một lời tuyên xưng đức tin trước khi rước lễ, đó là lời tuyên tín của viên đại đội trưởng Rô-ma: “Lạy Thầy, con chẳng đáng rước Thầy vào nhà con, nhưng xin Thầy phán một lời thì tôi tớ tôi được lành mạnh” (x. Lc 7,6-7). Đoạn Tin Mừng hôm nay vẫn nói tới đức tin của một người ngoại từ miền Ca-na-an (nghĩa là không phải người Do thái), tuy nhiên, thử thách cho bà dường như quá lớn. Lẽ nào Đức Giê-su thử thách quá sức chịu đựng của bà, với câu chữ đanh thép “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15,24), và có vẻ nặng nề “không nên lấy bánh dành cho con cái mà vứt cho lũ chó con” (Mt 15,26). Ở đay, dân Do thái được ưu tuyển và được gọi là “con cái”, còn bà miền Ca-na-an, vốn là người không được ưu tiên như người Do thái, lại được ví như “lũ chó con” hoặc “cún con”. Nếu chúng ta thử đặt mình vào vị thế của bà ấy, có lẽ chúng ta khó lòng nào chấp nhận lời nói đầy ẩn ý thách thức của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta sẽ bỏ cuộc, ra về với lời cầu xin chẳng được thành sự! Tuy nhiên, như đã tường thuật, bà ta không dễ dàng nản lòng nhục trí khi nghe lời có vẻ khó nghe của Đức Giê-su, bà đủ bình tĩnh, nhẫn nại và kiên định với lòng van xin Người ngay từ đầu. Sự kiên nhẫn này đã giúp bà đáp lời một cách khôn ngoan sáng suốt và không kém phần đơn sơ, khiêm hạ, tin tưởng “thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27). Nói một cách rõ ràng hơn, lời bà ấy có thể được diễn giải chi tiết như: với thân phận không được ưu tuyển như người con, mà cũng chẳng phải tôi tớ của ông chủ, đơn thuần chỉ là chú chó con thôi, thì dĩ nhiên sẽ không được ăn bánh nguyên phần dành cho con cái, nhưng chó con cũng được lượm lặt, ăn những mảnh vụn rơi từ bàn ông chủ một cách vô tình hay chủ ý”. Lời thưa của bà tuy ngắn ngủi, nhưng thiết nghĩ là một bài học lớn lao cho chúng ta – những người có đức tin và đang sống đức tin.

Thật vậy, nếu đức tin chỉ tựa bằng hạt cải với kích cỡ nhỏ nhất trong các loại hạt, cũng trở nên cây cao lớn sum suê rậm rạp, muôn chim đến làm tổ trú ngụ; nếu đức tin chỉ tựa bằng một đấu bột cũng làm dậy cả khối men. Vì lẽ, đức tin khiến chuyển núi dời non; đức tin chữa lành, làm cho người chết sống lại, trừ quỷ; đức tin sinh ra lòng kiên nhẫn, kiên định, hy sinh; đức tin đón nhận thử thách vui tươi, không hờn trách, đổ lỗi hay buông trôi cho dòng đời xô đẩy; đức tin chịu đựng, vượt thắng và cư xử khôn ngoan ngay cả khi cơ hàn, khốn khó.

Chúng ta có lẽ đôi lần thốt lên: thử thách dường như quá nặng, quá sức. Thánh giá của bản thân quá cỡ, quá lớn, quá mức chịu đựng…! Tuy nhiên, sự thật về những thử thách trong đời sống đạo của chúng ta không phải thế, mà được sáng tỏ hơn qua lời quả quyết của Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô: “không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người”; Ngài nói tiếp “Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (x. 1Cr 10,13).

Nói như vậy, không có nghĩa Thiên Chúa là tác nhân của rủi ro, gian nan, đau khổ con người như chúng ta quen nói và tự hỏi: “sao Chúa trao thánh giá cho tôi, cho gia đình tôi, cho vợ chồng tôi…nặng thế!” Làm sao như vậy được? Vì lẽ thường tình, chẳng ông bố bà mẹ nào lại muốn con cái mình vất vả, gian nan, huống chi trao khổ đau cho chúng! Còn đây, Thiên Chúa không những yêu thương chúng ta mà còn thương yêu chúng ta hơn cả tình yêu cha mẹ dành cho con cái và vượt trên hẳn hành vi yêu thương chính bản thân của chúng ta nữa.

Theo thánh ý trọn hảo (perfect will) của Thiên Chúa, mọi điều, mọi sự, mọi việc mà Người ban cho chúng ta đều tốt lành, nhưng Người vẫn cho phép (permissive will) sự vật, sự thể xảy ra theo nguyên lý của nó vì Người đã đặt để chúng từ thuở ban đầu. Hơn nữa, Người hằng tôn trọng những gì đã trao ban cho con người (như: tự do, ý chí, nhân vị, tình yêu, lòng khao khát liên lỉ….) và cho cả tạo vật (như: định luật xoay vần, nguyên lý chuyển động, …). Người cho phép chúng diễn ra vì lợi ích cho chúng ta “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (x. Rm 8,28) và “vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc” (Rm 11,29).

Như vậy, thử thách cần thiết cho đời sống đức tin chúng ta không? hoặc mục đích của các thử thách trong đời sống đạo là gì? Lời giải đáp rõ ràng và đầy thuyết phục được tìm thấy trong thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ: “những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội – vàng là của phù vân hay hư mất chóng quá mà còn phải chịu thử lửa…” (x. 1Pr 7). Vàng thật hay giả còn cần đến lửa, huống chi đức tin chúng ta quý giá hơn mọi châu báu, kim cương, vàng bạc phù hoa, chắc hẳn cần đến lửa thử thách tinh luyện.

Sau cùng, không gì xác đáng hơn lời Thánh Gia-cô-bê nhắn nhủ chúng ta: “đức tin có vượt thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo (thực thi bác ái, tha thứ, trông cậy, hy sinh…), để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (x. Gc 1,3) và “phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách (đặc biệt trong đời sống đức tin, đời sống đạo), vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa an cho những ai yêu mến Người” (x. Gc 1,12).

Chúa mời con nên Ki-tô hữu

Chẳng muốn con sống khác Ki-tô.

Muôn vàn ân sủng Ngài không tiếc

Nhưng cần thử luyện với lửa thiêng

Cho con một lòng luôn kiên định

Vượt qua thử thách với đức tin. Amen!

 

 

 

 

 

26. Hành trình gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin - Lm. Antôn Hà Văn Minh

 

Mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa đức tin và tình yêu.

Trước tiên là tình yêu của người mẹ đối với đứa con gái. Chỉ một mẫu đối thoại ngắn giữa bà và Chúa Giêsu người ta đọc được chữ yêu to tướng trong trái tim của bà dành cho cho đứa con gái tật nguyền. Nhà văn Agatha Christie đã trình bày: “tình yêu của mẹ dành cho con chẳng giống thứ gì trên thế giới này. Nó không có quy tắc, không có thương hại, nó vượt qua và nghiền nát tất cả mọi thứ chắn lại đường đi của nó”. Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã nghiền nát sự tự ái, đạp đổ cái tôi, vượt thắng sự e ngại để cuối cùng bà đã mang lại niềm vui cho đứa con gái của bà. Nó được Chúa chữa lành khỏi bị quỷ ám.

Phải chăng tình mẫu tử của người đàn bà xứ Canaan đã khuất phục được Đức Kitô, để Ngài rộng tay chữa lành cho đứa con của bà? Thưa không phải thế, nhưng tình mẫu tử là con đường dẫn đến gặp Chúa với một điều xác tín: chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được cho con gái. Và chính niềm xác tín này đã hình thành nơi bà đức tin, và đây là điểm cốt lõi để Chúa thực hiện điều bà xin.

Đối với người Kitô hữu chúng ta, đức tin là một ân ban của Chúa, nhưng ân ban này là một quà tặng vô giá vì nhờ đó mà chúng ta nhận được ơn cứu sống, không có ân ban này chúng ta mãi mãi sống trong u tối, xa cách với Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống và hạnh phúc của chúng ta. Thế nhưng hồng ân đức tin chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi chúng ta thực sự tín thác trọn vẹun cuộc sống của chúng ta vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

Sự tín thác đòi hỏi chúng ta đi ra khỏi cái tôi chính mình, bởi đó là thành trì ngăn cản chúng ta gặp ân sủng Thiên Chúa, vì “cái tôi” luôn loại trừ dấn thân mà chỉ là đòi hỏi cho những quyền lợi vị kỷ, trong khi đức tin là một hành vi dấn thân để gặp gỡ với Đấng mình tin, một cuộc gặp gỡ để thanh luyện con tim và khối óc, để hoán cải hầu có thể đáp ứng yêu cầu của đức tin. Nói như đức Giáo hoàng Benêđictô XVI, đức tin ra đi ra khỏi chính mình đến “gặp gỡ với một Đấng thật gần gũi, một Đấng đỡ nâng chúng ta, tặng ban cho chúng ta một tình yêu bất hoại, vượt lên trên mọi gặp gỡ bất cập trong cõi nhân sinh, một tình yêu không những khao khát vĩnh cửu mà còn mang lại vĩnh cửu”.

Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã được hoán cải từ một hành trình đến gặp Đức Kitô vì đứa con gái thành một con người khiêm cung, nhận ra sự hèn kém của mình để việc van xin sự cứu chữa không còn là nài xin một sự thương hại, nhưng là kêu cầu đến lòng thương xót của một Đấng mà bà nhận ra rằng, chỉ có Ngài mới có thể cứu con bà không phải do lời van xin của bà, nhưng do chính tình yêu thương mà Ngài dành cho bà vì đức tin của bà.

Thật kỳ diệu về cuộc gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin. Người đàn bà xứ Canaan đến gặp Chúa vì tình mẫu tử, và Chúa Giêsu chữa con gái của bà lành mạnh vì tình thương dành cho bà bởi bà tin.

Lạy Chúa, trong cuộc hành trình trên đường về nhà Cha, đức tin là đuốc sáng chỉ đường, nhưng đức tin chỉ cháy sáng khi chúng con thực sự tín thác vào Chúa, một sự tín thác vì lòng mến yêu. Để được như thế xin Chúa giúp chúng con nhận ra rằng, lòng mến yêu chỉ có được khi chúng con luôn tìm gặp Chúa, cũng có nghĩa là chúng con phải ra khỏi cái tôi ích kỷ, đừng để đức tin chỉ là phương thế phục vụ cho những nhu cầu riêng tư của chúng con, nhưng đức tin là cách thể để chúng con gặp được Chúa, đối thoại với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Thánh ý Chúa. Ước gì chúng con có tâm tình của người phụ nữ trong đoạn Tin Mừng: khiêm cung và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

27. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Lời cầu xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phê-rô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn tin mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.

Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn – “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Ca-na-an hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.

 

 

 

 

 

28. Lòng tin của người đàn bà xứ Canaan - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

 

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do Thái, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.

Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy? Vì bà có một đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy vào Chúa Đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm hạ và kiên trì.

Bà đã can đảm, bởi vì bà là người ngoại giáo mà dám đến xin phép lạ cho con mình. Vào thời Chúa Giêsu người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách lại càng xa hơn, thế mà người phụ nữ này đã vượt qua mọi rào cản để đến với Chúa

Bà đã kiên trì và khiêm nhường xin cho được một ân huệ, bất chấp sự hững hờ của Chúa Giêsu.Các Tông đồ muốn đuổi bà đi, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chờ chực vụn bánh từ trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa:

“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. “Con cái” ở đây được hiểu về dân Do thái, “chó con” được hiểu về dân ngoại.

Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do Thái chứ không có ý mỉa mai. Chúa dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” xuông. “Chó con” là giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó chạy lang thang ngoài đường phố mới có nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” nàyđã gợi cho bà một lời thỉnh cầu đầy khiêm nhường và tin tưởng.

“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh từ trên bàn rơi xuống”.

Sở dĩ người đàn bà Canaan có lòng can đảm khiêm nhu và kiên trì như thế bởi vì bà rất thương yêu đứa con của bà. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, bất chấp sự dửng dưng lạnh nhạt và ngay cả sự khinh khi nhục mạ nữa.

Tôi còn nhớ một câu chuyện xảy ra ở Đông Âu vào tháng 2 năm 2002: Có hai mẹ con chưa thật sự thấu hiểu nhau. Đứa con gái 13 tuổi luôn cho rằng địa vị người mẹ thấp hèn, có người mẹ như vậy không thể ngẩng đầu lên nhìn ai được. Một ngày kia, người mẹ rủ con gái đi trượt tuyết trên núi Alpes. Trong lúc trượt tuyết, do thiếu kinh nghiệm, hai mẹ con đã lạc đường, rồi một trận lở tuyết dữ dội xảy đến. Mẹ con họ chống chọi hai ngày hai đêm trên núi tuyết, mấy lần trông thấy trực thăng cứu hộ đang đi tìm họ, nhưng đều không thể phát hiện ra họbởi vì cả hai mẹ con đều mặc bộ đồ màu trắng bạc như tuyết. Cuối cùng, người con gái ngất đi do sức yếu, khi tỉnh dậy cô bé thấy mình đang nằm trong bệnh viện, còn người mẹ của cô đã qua đời. Các bác sĩ nói với cô rằng, người mẹ đã dùng cả sinh mạng để cứu cô. Thì ra, người mẹ đã tự cắt động mạch lấy máu nhuộm đỏ một vùng tuyết trắng để các trực thăng cứu hộ phát hiện ra con gái mình.

Tình thương của người mẹ là như thế đó, và tình thương của người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy.

Bà yêu thương đứa con nhỏ yếu đuối, không tự làm được gì để cứu mình, nên bà đã làm mọi cách để cứu đứa con của mình. Yêu con nên bà đã tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Yêu con nên bà đã tín thác vào Chúa. bà tin chắc chắn Chúa sẽ cứu chữa con bà. Một đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm nhu và kiên trì và đức tin mạnh mẽ ấy đã khiến Đức Giêsu không thể từ chối.

Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

29. Đức tin là một lộ trình

 

Tháng 12 năm 1987 một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Armênia, đã cướp đi sinh mạng hàng ngàn người, trong số những người bị chôn vùi trong đống đổ nát có mẹ con bà Suzanna may mắn nằm gọn trong một khoảng trống của những bức tường sụp đổ. Lương thực họ có được là một hủ mứt nhỏ, nhưng chẳng bao lâu hủ mứt hết sạch, đứa con nói với bà mẹ: “mẹ ơi con khát”, bà mẹ không biết tìm đâu ra nước cho đứa con, nhưng tình mẫu tử đã thôi thúc bà nẩy ra một hành động táo bạo, bà đưa tay nhặt lấy miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay cho máu chảy ra rồi đưa lên miệng cho đứa con 4 tuổi mút, nhưng không lâu thì đứa con lại kêu lên nữa, bà cắt ngón thứ hai, rồi ngón thứ ba… nhưng may mắn lại đến với mẹ con bà là đội cứu hộ tìm đến và đưa hai mẹ con ra khỏi đống đổ nát an toàn, nhiều người đến chúc mừng và hỏi thăm động lực nào khiến bà làm chuyện đó? Bà chỉ trả lời “tôi muốn con tôi được sống”. Báo chí đã nhiều ngày ca tụng tình mẫu tử và sự hy sinh của bà mẹ xứ Armênia này.

Hôm nay thánh Matthêu cũng giới thiệu cho chúng ta một người mẹ xứ Canaan chấp nhận và hy sinh mọi sự chỉ vì đứa con, nhưng Chúa Giêsu không khen ngợi tình mẫu tử, mà Ngài lại khen ngợi về đức tin. Tại sao một người ngoại giáo mà lại được Chúa Giêsu khen ngợi về đức tin?

Thật vậy, Đức Giêsu khen ba ta vì những nguyên nhân sau:

1. Đức tin đến từ việc nghe nói

Điều chắc chắn người phụ nữ Canaan này đã nghe nói về Con Người Giêsu, về những phép lạ Ngài làm, về những lời rao giảng của Ngài… vì danh tiếng của Người lan rộng ra khắp vùng (Mc 3,8). Người phụ nữ này với một tia hy vọng là gặp được ông Giêsu để xin một phép lạ cho con gái bà. Còn chúng ta có được đức tin là ngay từ nhỏ đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu từ trong gia đình, từ trong khu xóm, họ đạo… nhưng tôi có nói cho những người ngoại giáo dang sống chung quanh tôi biết về Chúa Giêsu không? Họ chính là những người Canaan thời đại ở quanh ta.

2. Đức tin có được là nhờ sự kiếm tìm

Người phụ nữ Canaan sau khi nghe về Chúa Giêsu, bà luôn luôn nghe ngóng về tin tức với hy vọng sẽ gặp để xin một phép lạ cho con gái bà. Khi Chúa Giêsu tới Tyr và Sidom thì bà vội vã ra khỏi Canaan mà đến để xin Người “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi…” danh hiệâu này bà biết được cũng là nhờ nghe nói. Trước lời kêu xin của người phụ nữ này, Chúa Giêsu không những lặng thinh mà con lên tiếng chối từ “Ta được sai đến với những con chiên lạc nhà Ísrael mà thôi”. Sự thinh lặng và thái độ chối từ của Chúa Giêsu đã làm cho các tông đồ phải thắc mắc, vì thầy mình vừa dạy “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho” thế mà hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà này thì thầy mình lại chối từ. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Hằng ngày tôi chạy đi tìm Chúa để xin hết ơn này đến ơn khác, nếu được nhận lời thì coi như là việc của Chúa phải làm, còn Chúa thinh lặng, hay chối từ thì ta buồn phiền, giận ghét, bỏ đạo hay chạy theo những thế lực trần gian, hay còn tệ hơn nữa là chạy theo tà thần. Riêng người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay thì vẫn khiêm tốn, không tuyệt vọng, không than phiền, không thắc mắc…bà không những kêu xin bằng miệng, mà bà còn kêu xin bằng cả con người. Trước sự khiêm tốn đó làm cho Chúa Giêsu không thể chối từ được, nên Ngài dẫn bà vào cuộc thử thách.

3. Đức tin cần được thử thách

Trước sự kiên trì của người phụ nữ, Chúa Giêsu lên tiếng “không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”, một thử thách dường như quá nặng, quá khó đối với người ngoại giáo này. Nếu người mẹ xứ Armênia chỉ hy sinh những giọt máu để cứu đưa con, thì bà mẹ Canaan lại hạ mình xuống ngang với “con cho” cũng vì đứa con. Nhưng chính lòng khiêm tốn của bà lại làm cho các tông đồ phải ngạc nhiên “Thưa Thầy đúng lắm, nhưng mà chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ trên bàn của chủ nó rơi xuống”. Trước câu trả lời đầy khiêm tốn này đã làm cho Chúa Giêsu “phải bó tay” mà thốt lên “Đức tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”.

Đứng trước những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có chấp nhận hay kêu ca? Phải chăng nhiều lần tôi có thái độ hoán hận Thiên Chúa vì những khó khăn tôi gặp phải. Lúc đó tôi không đủ khiêm tốn để nhận ra ý Chúa trong những thử thách, mà tôi muốn Chúa phải làm theo ý của tôi. Chúng ta đã nghe nói nhiều về Chúa, đã đi tìm Chúa trong suốt thời gian qua, nhưng tôi có hiểu được ý Chúa chưa? Trong đời sống, tôi có đủ khiêm tốn để chấp nhận cho Chúa thử thách không? Mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình và hãy tín thác đời mình cho Chúa. Chúng ta phải tin rằng: “Chúa không bao giờ chơi xấu” Ngài biết sức chịu đựng của ta. Vậy mỗi người hãy biết sống khiêm tốn như người phụ nữ Canaan và dùng lời kêu xin như một lời nguyện tắt để ta có thể kêu lên Chúa bất cứ lúc nào trong ngày: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, “Lạy Chúa, xin thương gia đình con”, “Lạy Chúa, xin thương xót họ đạo con”, “Lạy Chúa, xin thương xót Giáo Hội Việt Nam chúng con”. Amen!

 

 

 

 

 

30. Chúa Giêsu đã thua một đức tin tuyệt vời - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” (Mt 15,22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.

Sự thinh lặng của Chúa Giêsu

Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15,24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israel, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.

Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là “bức tường hận thù” (x. Eph 2,14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện “đừng có lải nhải như dân ngoại” (Mt 6,7). Và nếu ai đó muốn nhục mà người nào trong dân Israel, thì hãy “đối xứ với họ như dân ngoại ” (x. Mt 18,17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.

Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít” (Mt 15,22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.

Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” (Mt 15,23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15,26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, “vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” (Mt 15,27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.

Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi: điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.

Giao ước và đức tin

Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, “vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Is 56,7); để “hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài” (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó: “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót” (Rm 11,32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11,13-15.29-32)

Bài học cho chúng ta

Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta! Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn, vì: “Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3,28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.

Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới đẹp làm sao.

Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như: người bạn đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người chiến thắng. Amen.

 

 

 

 

 

31. Lòng tin của bà lớn thật

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Ngay sau những tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và các Pharisêô về truyền thống của tiền nhân của người do thái, mà các môn đệ của Chúa Giêsu đã không tuân giữ (15,1-20), Matthêô đưa vào đây trình thuật về người phụ nữ Canaan (15,21-28). Trong trình thuật nầy, Matthêô cho thấy Chúa Giêsu đi ra ngoài biên giới do thái, và Ngài ca ngợi lòng tin của một phụ nữ dân ngoại; điều nầy hoàn toàn khác với việc Ngài phê bình cách các vị lãnh đạo tôn giáo do thái thờ phượng Thiên Chúa (15,7-9).

Chủ đề chính của đoạn nầy là nói về đức tin mạnh mẽ của người phụ nữ Canaan. Các từ vựng trong đoạn nầy có thể phân làm hai nhóm tương phản nhau. Một bên là thuộc về do thái, như: “Con vua Đavít” (c. 22), “Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel” (c. 24), “bánh của con cái” (c. 26). Bên kia là nhóm thuộc về dân ngoại: “Tyrô và Siđôn” (c. 21), “phụ nữ Canaan” (c. 22), “đàn chó” (c. 26). Tuy nhiên, “đức tin lớn” lại thuộc về người phụ nữ Canaan (c. 28). Hạn từ Iēsous (cc. 21 và 28) đóng khung đoạn nầy. Đoạn nầy có thể phân chia thành ba phần: – Bối cảnh trình thuật (cc. 21-22a), – Cuộc đối thoại (cc. 22b-27), – Kết luận (c. 28).

Bối cảnh trình thuật (cc. 21-22a)

Khung cảnh thay đổi ngay từ đầu trình thuật. Chúa Giêsu đã rời “nơi đó”, ekeithen, có thể là Gennesareth hay một nơi không xác định trước, và đi đến vùng Tirô và Siđôn (c. 21). Ngài không còn đứng trước các Pharisêô và kinh sư để tranh luận, mà là người phụ nữ Canaan. Matthêô không đề cập đến “cái nhà” Chúa Giêsu vào trong đó, và người phụ nữ nầy tìm đến như trong Marcô (x. Mc 7,24), vì người ta sẽ nghĩ đó là nhà của dân ngoại. Nếu làm như thế, Chúa Giêsu sẽ xúc phạm đến tâm thức của người do thái (x. Cv 10,28). Bởi đó, Matthêô chỉ thuật lại là Chúa Giêsu vào vùng ấy và người phụ nữ tìm đến Ngài (c. 22). Tyrô và Siđôn là hai thành dân ngoại được Chúa Giêsu đề cập một lần khác trong 11,21 khi nói về sự hoán cải. Nơi đây đã không được Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ. “Tyrô và Siđôn” và người phụ nữ Canaan gắn liền với nhau.

Cuộc đối thoại (cc. 22b-27)

Phần chính của trình thuật nầy là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ và đặc biệt là với người phụ nữ Canaan (cc. 22b-27). Cứ sau mỗi lời ngỏ với Chúa Giêsu là một lời đáp lại của Ngài: Người phụ nữ nài xin (c.22b) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 23a), ho de apokrinomai; – Các môn đệ cầu xin (c.23b) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 24) ho de apokrinomai; – Người phụ nữ cầu xin (c. 25) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 26), ho de apokrinomai; Người phụ nữ cầu xin (c. 27) – Chúa Giêsu đáp lại (c. 28), ho de apokrinomai.

Trước tiên bà nài xin “Xin thương xót tôi, lạy Chúa, con vua Đavít” (c. 22b). Câu nầy không có trong trình thuật song song nơi Marcô. Tước hiệu “Con vua Đavít” là một tước hiệu thiên sai (1,1). Chúa Giêsu nhiều lần chữa bệnh với tước hiệu “Con vua Đavít” (9,27; 12,23; 15,22; 20,30-1). Ngay từ câu nài xin đầu tiên nầy, người phụ nữ gọi Ngài là “Chúa”, kyrie. Bà nhận biết sự cao cả của Ngài. Bà kiên tâm với cách gọi nầy cho đến cùng (cc. 25.27), mặc dù Chúa Giêsu tỏ vẻ từ chối điều bà nài xin bằng ba mệnh đề phủ định (cc. 23.24.26).

Chúa Giêsu không đáp lại (c. 23). Ngài làm như thể không có gì liên hệ với người dân ngoại nầy (x. Lc 10,31tt). Thái độ của Ngài lúc nầy khác hẳn với cách Ngài đối xử với dân chúng đang đói trong trình thuật trước. Chính Ngài có sáng kiến và tự tay làm nên bánh cho dân chúng ăn, mà không đợi họ kêu xin. Về phía các môn đệ, họ luôn nghĩ đến điều thực tiễn. Họ muốn Ngài “giải tán”, apoluō, bà nầy đi cho khỏi bị quấy rầy (c. 23), như họ đã đề nghị với Chúa Giêsu về dân chúng trong trình thuật trước (14,15). Matthêô vẫn dùng động từ “bà kêu lớn tiếng”, krazō + phân từ của động từ legō, như trong các trình thuật phép lạ khác (9,27; 14,26.30; 15,22tt; 20,30tt). Lần nào người kêu cứu cũng được nghe, và chỉ lần nầy là Chúa “không đáp lại”. Hơn nữa, các môn đệ nói với Chúa Giêsu (c. 23) là ekrasen opisthen hymōn, “bà kêu lớn tiếng sau (lưng) chúng ta” (x. 9,20; Kh 1,10); opisthen ở đây được dùng như giới từ sở hữu cách (DBF § 215,1). Như thế không phải Chúa Giêsu không nghe tiếng kêu của người phụ nữ nầy.

Đáp lại lời nài xin của các môn đệ, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ và người phụ nữ nầy biết sứ mạng của Ngài là chỉ trong vòng các chiên lạc nhà Israel (c. 24). Cách diễn tả apostellō + eis, “sai đến trong”, chỉ vòng giới hạn. Ở đây là giữa “chiên lạc nhà Israel”. Chúa Giêsu đã nói điều nầy với các môn đệ (10,5-6). “Các chiên lạc nhà Israel” là những người cần một mục tử tốt lành (9,36) để họ khỏi bị phân tán và thất lạc (x. 18,12; 26,31).

Tiếp đến, người phụ nữ nầy không còn nài xin từ đằng sau nữa, mà đến quỳ trước mặt Chúa Giêsu (c. 25). Bà quỳ gối trước mặt Ngài và gọi Ngài là “Chúa” (2,11; 14,33; 28,9) vì bà vẫn tin vào quyền năng của Ngài (8,2; 9,18). Lời nài xin lần nầy, dùng động từ boētheō, “đến cứu giúp”, nhắc lại lời nài xin ở c. 22b, và có tâm tình của những lời cầu xin tìm thấy trong Sách Thánh, nhất là các thánh vịnh (Tv 40,3, 43,27, 85,17, 93,17, 18, 108,26; Is 50,9).

Bà càng nài nỉ, Chúa Giêsu càng tỏ ra từ chối cách dứt khoát. Ngài nói: “Không nên lấy bánh của con nhỏ mà quăng cho chó con” (c. 26). Với câu đáp nầy, Chúa Giêsu muốn khẳng định thêm lần nữa cách gián tiếp là Ngài chỉ được sai đến để ban bánh cho con cái trong nhà mà thôi (x. 14,13-21; Rm 15,8-9). Ngài dùng cách nói của người do thái phân biệt mình với người khác niềm tin, “chó”, chứ không có ý miệt thị người dân ngoại. Chữ kynariōn được dùng ở đây là “chó con”, “chó nhà”, khác với kyōn“chó ngoài đường” (7,6).

Người phụ nữ nầy vẫn kiên trì nài xin: “Vâng, lạy Chúa, chó con cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống từ bàn chủ chúng rơi xuống” (c. 27). Lần nầy bà không nài xin thương đến sự thống khổ của bà, mà là tuyên xưng lòng tin vào Ngài. Bà tuyên xưng Ngài là “Chúa”, và bà diễn giải đức tin của bà vào Ngài. Một đàng bà nhận biết sứ mạng của Chúa Giêsu lúc nầy là dành ưu tiên cho dân Israel: “bánh cho con cái” (c. 26). Đàng khác, bà mạnh dạn khẳng định là dân ngoại cũng có một chỗ đứng trong sứ mạng của Ngài: “chó con ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Từ kyriōn, “chủ”, số nhiều, tương ứng với teknōn, “con cái” (c. 27), chỉ dân Israel. Chỗ đứng của dân ngoại tuy là thứ yếu, nhưng họ được ở chung, “chó con dưới bàn”, trong nhà của dân Israel, và được ăn bánh đồng thời với dân Israel. Động từ esthiō, “ăn” ở thì hiện tại, và phân động từ piptō, “rơi xuống” cũng ở thì hiện tại chỉ sự kiện đang diễn ra đồng thời với hành động chính là “ăn”. Vậy người phụ nữ nầy đã tin vào sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu

Lời Ca Ngợi của Chúa Giêsu (c. 28)

Chúa Giêsu thán phục lòng tin của bà: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!” (c. 28). Ō gynai, “Này bà!” diễn tả sự kinh ngạc. Ngài ca ngợi bà có “lòng tin lớn”, megalē + pistis; tương phản với lòng tin của các môn đệ (8,23), của Phêrô (14,31). Bởi lòng tin của bà, con gái bà được chữa lành, như câu chuyện chữa lành người tôi tớ của viên bách quản (8,10). Cả hai đều được ca ngợi về lòng tin. Vậy vì bà tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai không chỉ của dân Israel (c. 22) mà cả dân ngoại, bà được ca ngợi có lòng tin lớn lao.

Đi tìm sự chữa lành cho con gái, người phụ nữ Canaan nầy đã gặp được Đấng Thiên Sai. Bà đã tin vào Ngài và sứ mạng của Ngài, và chính con gái bà nhận được phúc lành bởi lòng tin lớn lao của bà. Bất cứ ai tin vào Chúa Giêsu Kitô đều được cứu độ.

 

 

 

 

 

32. Những ân tình thường tình - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Phải vào đạo Công giáo mới được được lên thiên đàng sao? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách đây gần 300 năm không chỉ xác quyết như trên mà còn nói thêm rằng mọi người không vào đạo Công giáo đều xuống hỏa ngục. Một bà vương tộc nước Việt chúng ta, người đặt câu hỏi trên đây đã nhất quyết không vào đạo Công giáo vì một chức sắc của đạo ấy quả quyết tiên tổ của bà đều xuống hỏa ngục tất. Và chính bà ta đã thẳng tay đuổi vị thừa sai ra khỏi nhà.

Cần khiêm tốn thú nhận rằng đã một thời Kitô hữu chúng ta tự nhốt mình trong tháp ngà tự kiêu chủ quan: Chỉ có đạo ta mới là đạo thật, chỉ có chúng ta mới nắm trọn chân lý, ngoài đạo ta, anh em lương dân, bà con khác đạo đều là sai lạc sạch sành sanh và không thể được cứu rỗi.

Thử hỏi chân lý ta có được do bởi đâu, phải chăng là nhờ sự truy tìm của trí khôn? Không loại trừ sự góp phần của lý trí, nhưng nguyên lý trí vẫn chưa đủ. Chân lý ta thủ đắc là nhờ lòng tin dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa. Đức tin là ân sủng nhưng không do Chúa ban tặng. Thiên Chúa lại là Đấng giàu lòng từ bi, nhân ái. Người muốn mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định sự thật này với môn đệ Timôtê (x. Tim 2,3-4). Thiên Chúa, Đấng chẳng nể vì hay tây vị một ai, Đấng rộng tay cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương, chắn chắn Người chẳng hẹp hòi với bất cứ ai. Tiên tri Isaia công bố rằng mọi người sẽ được Chúa dẫn lên Núi thánh, cho họ hân hoan bước vào Nhà cầu nguyện, vì Nhà Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân nước (x. Is 56,6-7).

Đức tin là do Chúa ban tặng. Thế nhưng đức tin không phải là một món quà cụ thể được trao ban một lần tức thời, nhưng thường là dần dần qua những điều kiện tự nhiên khách quan lẫn chủ quan. Một trong những điều kiện tự nhiên ấy chính là những mối tình chân chính bình thường của kiếp người: Tình phụ tử, mẫu tử, tình phu thê, tình bằng hữu… Một người mẹ, một phụ nữ xứ Canaan, một lương dân hay ngoại giáo đã bày tỏ niềm tin sắt đá khiến Chúa Giêsu phải khâm phục. Đấng Thiên sai cũng đã từng khâm phục lòng tin của một viên sĩ quan bách quản đến nỗi Người khẳng định rằng chưa thấy có lòng tin nào mạnh mẽ như thế trong Israel (x. Mt 8,10).

Viên sĩ quan bách quản và người mẹ xứ Canaan trên đã sớm chân nhận căn tính Thiên Sai của Chúa Giêsu chăng? Điều này chúng ta không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng một điều thật hiển nhiên ta có thể khẳng định, đó là tấm lòng của người phụ nữ ngoại giáo dành cho đứa con và tấm lòng của viên sĩ quan bách quản dành cho người đầy tớ thật sâu đậm và dạt dào. Vì thương con, chị phụ nữ kiên trì lẽo đẽo theo chân Thầy Giêsu. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua chướng ngại của sự tự ái, đồng thời bày tỏ sự khiêm nhu: “Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mãnh vụn từ bàn rơi xuống” (Mt 15,27). Vì thương người đầy tớ, viên sĩ quan bách quản không ngại ngần đến gặp Chúa Giêsu, một người Do Thái vốn là dân đang bị cai trị, đồng thời lại bày tỏ sự khiêm nhu: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi…” (Mt 8,8).

Theo tiến trình tự nhiên, thì không phải nhờ đã có lòng tin nên ta biết yêu, mà ngược lại nhờ biết yêu thương thì lòng tin của ta dần dà nên vững mạnh. Chúng ta dễ nhận ra hiện thực này qua tương quan đôi lứa. Vì yêu nhau nên đôi bạn trẻ ngày càng tin tưởng nhau hơn là vì đã tin tưởng nhau nên họ yêu nhau. Như thế niềm tin thường khởi đi từ trái tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng rằng người ta đến với đức tin thường là do cảm nhận một mối tình, một nghĩa cử nào đó hơn là do “bị thua lý”. Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một Kitô hữu ngã nghiêng, chao đảo hay khô cằn, thì lý do thường thấy là vì đời sống luân lý sa sút hơn là do thiếu hiểu biết, mặc dù ta không thể loại trừ hay giảm nhẹ vai trò của lý trí trong việc gìn giữ và củng cố đức tin.

Trong thời gian rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thường bày tỏ tình yêu của Người qua việc thi ân giáng phúc rồi sau đó mời gọi người ta tin vào Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi no đủ gần cả vạn người cũng như nhiều phép lạ khác như chữa lành người mù từ thưở mới sinh… là một minh chứng (Ga 6,35; 9,35). Ngay đêm Tiệc lý, sau khi cử hành “Lễ tạ ơn” và rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu tha thiết: “Anh em hãy tin vào Thầy…” (Ga 14,1).

Là những người đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được xem là người có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin của mình bằng chính những nghĩa cử bác ái yêu thương. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gia 2,17). Khi khẳng định chân lý này thánh Giacôbê tông đồ trước tiên muốn nói đến hành vi bác ái mà Kitô hữu cần thường xuyên thực thi. Vì trước đó Ngài nói: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hằng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gia 2,15-16).

Một sứ vụ gắn liền với căn tính của Kitô hữu, đó là rao giảng tin mừng, là chia sẻ niềm tin mình đã lãnh nhận. Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng truyền giáo, tuy nhiên cách thế xem ra thiết thực nhất, để khởi đầu việc gieo hạt giống đức tin đó là rộng tay chia sẻ tấm lòng của mình qua các mối tình nhân loại chính đáng và phải đạo. Dĩ nhiên không phải dùng của cải vật chất như chiêu bài để câu tín hữu như đã có một thời với “chuyện đạo gạo, đạo bộp bắp, bột xép…”, nhưng phải phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật.

Biết yêu thương, dù với những nghĩa cử thường tình của tình nhân loại, thì niềm tin sẽ được củng cố. Được yêu thương thì niềm tin sẽ được gợi mở và dệt xây. Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận những ân tình bình thường của ta để tuôn ban ân sủng đức tin. Có đức tin thì sẽ có sự sống đời đời. Xin đừng quên lời cảnh báo của Thầy chí thánh: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến cùng dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac va Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt 8,11-12).

 

 

 

 

 

33. Sống niềm tin – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.

Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.

Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.

Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.

Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.

 

 

 

 

 

34. Bài học về đức tin

 

Đã đành đức tin là một ân ban, một tặng phẩm mà Chúa trao cho con người một cách nhưng không. Nhưng đức tin ấy có lớn mạnh và vững vàng hay không là tùy thuộc chính yếu vào con người. Hạt giống đức tin mà Chúa gieo trong tâm hồn chúng ta thì cũng rất cần sự cộng tác của ta trong việc làm cho nó lớn lên và trổ sinh hoa trái. Cũng như vàng cần được lửa thử luyện để đạt tới độ tinh khiết của vàng ròng, thì đức tin của con người cũng cần được thanh luyện qua những thử thách và gian nan trong cuộc đời này để có được đức tin chân thật và trưởng thành. Ta hãy nhớ lại hành trình đức tin của các tổ phụ chúng ta để rút ra bài học cho mình.

Câu chuyện người đàn bà Canaan ngoại giáo trong Tin mừng hôm nay để lại cho chúng ta nhiều bài học thâm thúy về một đức tin trưởng thành, mạnh mẽ và chân thật.

1. Lòng tin lớn lao và chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng.

Ta không biết được nhờ đâu mà người đàn bà dân ngoại có đứa con gái bị quỷ ám biết được Đức Giêsu. Tin mừng không nói đến điều đó, nhưng có lẽ bà đã biết được Danh Đức Giêsu nhờ những lời truyền khẩu về Ngài qua những phép lạ Ngài làm. Bởi lẽ, Bà là người Canaan, thuộc Dân ngoại. Còn Đức Giêsu là người Do thái, nên ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Nhưng khi thấy Đức Giêsu, bà tin rằng cơ may đã đến với bà. Con gái bà hoàn toàn có hy vọng được khỏi bệnh.

Với tất cả tấm lòng thành, bà đến với Đức Giêsu để xin Ngài nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ. Bà đau vì nỗi đau của đứa con mà bà đã cưu mang và sinh hạ. Tấm lòng mẫu tử thôi thúc bà vượt qua bao nhiêu rào cản để đến với Đức Giêsu, để đặt hy vọng vào Ngài. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp lại một lời. Một thử thách quá lớn đối với một người mới có đức tin. Rất nhiều người trong chúng ta thắc mắc: “Tại sao Chúa lại hành động như vậy? Đâu rồi hình ảnh một Thiên Chúa tình thương mà biết bao người đã ca tụng như thế?” Phải chăng Chúa Giêsu vô cảm và lạnh lùng trước nỗi đau của người khác? Phải chăng Ngài vô tâm và lãnh đạm trước những việc Ngài có thể làm được? Và chắc chắn còn rất nhiều những câu hỏi rất hợp lý được đặt ra trước thái độ im lặng của Đức Giêsu trước lời kêu xin của người đàn bà ngoại giáo này. Lắm khi, chúng ta cũng gặp sự thinh lặng nặng nề như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: “Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?” Nhưng đức tin chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng. Không kiên trì sẽ mất đức tin, mất tất cả.

2. Lòng tin lớn lao là biết kiên trì khi bị từ chối.

Người đàn bà ngoại giáo này không nản lòng trước thái độ im lặng của Chúa Giêsu. Bà đã vượt qua được một giai đoạn quan trọng để làm cho hạt giống đức tin của bà lớn lên. Dù Chúa Giêsu im lặng, người đàn bà cứ đi theo sau Ngài mà kêu xin. Bà kêu xin hoài, kêu mãi khiến các môn đệ Chúa Giêsu cảm thấy bực bội: “xin Thầy bảo bà ấy về đi”. Chắc bà cũng nghe được những lời bực bội ấy của các môn đệ, nhưng bà không nản lòng và không chịu thua. Bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin Ngài cứu giúp. Nhưng kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng, nếu không muốn nói là làm xúc phạm đến người xin: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”. Bà có sốc không khi Chúa Giêsu ví Dân ngoại, ví bà với chó con nuôi trong nhà, không đáng được hưởng phần ăn của con dân Israel? Điều đáng khen và đáng mừng là bà đã không thất vọng trước lời từ chối này. Bà đã vượt qua được một giai đoạn cực kỳ quan trọng trong hành trình đức tin. Đây là một giai đoạn khó khăn vô cùng. Đã có rất nhiều người không thể vượt qua được giai đoạn này nên bỏ cuộc. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta để cho cái tôi của mình quá lớn, chúng ta sẽ có nguy cơ mất đức tin. Thực tế là đã có nhiều người bỏ đạo vì cha sở, cha phó hay ông thầy nói những lời làm họ tự ái.

3. Lòng tin lớn lao là biết khiêm tốn, khiêm hạ:

Bà mẹ này đã chấp nhận lối so sánh của Chúa Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con và chỉ dám trông chờ những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ. Bà không dám mong được ăn phần ăn của các con cái trong nhà. Sự khiêm hạ của bà đã giúp bà về đích cách thành công. Trong cuộc hành trình đức tin, sức mạnh của lòng tin nằm ở sự khiêm tốn. Với sự khiêm tốn của người đàn bà dân ngoại này, Chúa Giêsu đã ngạc nhiên về bà và khen bà là người có đức tin lớn lao. Lòng tin lớn lao của bà khiến bà: “muốn sao thì sẽ được như vậy” Xin chúc mừng bà. Bà là người đã giành được “vòng nguyệt quế” chiến thắng.

Qua hành trình đức tin gian khó của người đàn bà ngoại giáo này, chúng ta thấy được rằng: tin thật sự không phải là đòi hỏi Chúa làm điều này điều nọ cho chúng ta, nhưng là chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón nhận tất cả như quà tặng tình yêu của Chúa. Tất cả là hồng ân, là tình thương của Chúa.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là làm theo ý của Chúa Cha. “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Nhưng Chúa Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin rằng: Cha vẫn ở với Ngài và nói với Ngài qua những hoàn cảnh khác nhau, nên Ngài đã để cho trái tim của Ngài được tự do vươn rộng ra. Ngài tin rằng điều Ngài sắp làm cho người đàn bà có lòng tin mạnh mẽ là hợp với thánh ý của Chúa Cha. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, đã rất trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được thánh ý của Chúa Cha vừa hé lộ cho Ngài.

Ước gì chúng ta luôn có được lòng tin sắt đá vào Thiên Chúa qua từng ngày sống của chúng ta. Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho chúng ta biết để Chúa Cha dẫn chúng ta đi từng ngày và mở lòng chúng ta ra với những chân trời mới của lòng tin yêu và phó thác.

 

 

 

 

 

35. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương

 

KHÔNG AI BỊ LOẠI TRỪ KHỎI TRÁI TIM CỦA THIÊN CHÚA

Không ai xa lạ, không một ai bị loại trừ khỏi trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là chủ đề chính mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta.

Extra ecclesiam nulla salus? (Ngoài Giáo hội không có sự cứu rỗi?)

Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ” (san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.

Trong hiến chế Lumen Gentium Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.

Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ.

Và đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, Isaia cho biết: Thiên Chúa không chỉ muốn cứu độ Israel – Dân riêng, Ngài còn muốn đón nhận và cứu độ tất cả những ai “giữ luật và thực thi công bình”, cả những người “ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và yêu mến danh Người vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Nói như Thánh vịnh là: Thân Lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (Tv 66,6). Thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc” (Rm 11,13-15).

Đức Giêsu trong bài Tin Mừng cũng xác nhận Ngài được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, nhưng Ngài cũng đến để cứu độ Dân Ngoại, khi Ngài công khai khen ngợi đức tin của người đàn bà Canaan và nhờ đức tin mạnh mẽ và kiên nhẫn của Bà, Chúa chữa lành con gái của bà bị quỷ ám. Đức tin đó mang lại ơn cứu độ, Đức tin đó khiến Chúa thực hiện những điều kỳ diệu cho Bà.

Vâng, chúng ta phải xác tín rằng: ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến là cho tất cả, không lại trừ ai, không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai. Đó là niềm hy vọng lớn lao nhất cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội. Thiên Chúa không loại trừ ai, chỉ có con người loại trừ nhau. Thiên Chúa không có kỳ thị và phân biệt ai, chỉ có con người mới kỳ thị nhau và tạo ra những hàng rào ngăn cách. Vì thế hôm nay, tất cả chúng ta được mời gọi mở rộng cái nhìn của mình theo cách nhìn của Thiên Chúa, là biết kính trọng và biết đón nhận sự khác biệt và sự đa dạng phong phú của những người khác, của tôn giáo khác. Đồng thời tất cả chúng ta cũng được mời gọi truyền giáo và rao truyền những gì tốt đẹp của Tin Mừng cho những người xưng quanh, nhất là những người chưa biết Chúa.

Câu chuyện sau đây cũng diễn tả được điều mà chúng ta vừa nói: Ngày nọ, Chúa đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.

Tại quầy hàng của người Do thái, người ta treo quảng cáo: “Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ”.

Tại quầy hàng của người Hồi giáo, thì rao rằng: “Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa”.

Tại quầy hàng của người Kitô giáo, thì trưng bày: “Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập Giáo hội hoặc là mất linh hồn đời đời”.

Trên đường trở ra, có người hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”

Chúa trả lời: “Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”!!!

 

 

 

 

 

36. Ai là người Israel – Lm. Vũ Đình Tường

 

Nếu mỗi lần muốn sao được vậy có lẽ cuộc đời sẽ không lắm ưu phiền vì muốn thế nào thì được như thế ấy. Suy nghĩ như thế có vẻ không ổn thoả chút nào vì điều ước muốn thì vô vàn, không bao giờ cùng. Những gì vô cùng thì không thể thoả mãn. Vì thế tư tưởng muốn sao được vậy có lẽ làm cho cuộc đời phiền toái nhiều hơn là làm cho cuộc đời đơn giản hơn. Cái nghịch lí thứ hai trong việc muốn sao được vậy là vấn đề ai đủ khả năng thoả mãn điều ước muốn. Ngoài Chúa ra, mọi người phàm đều có giới hạn nên điều ước muốn không thể thực hiện. Vừa lo thoả mãn ước muốn của mình vừa lo thoả mãn ước muốn của người quả là một việc làm ngoài khả năng.

Ước muốn vì thiếu thốn, khao khát, muốn có điều chưa có hay có nhưng chưa cảm thấy đủ. Ước muốn theo nghĩa đó nói lên cái nghèo nàn trong cuộc sống hay cái nghèo trong tâm hồn hoặc cả hai cùng. Nghèo từ trong ra ngoài. Một khi đầy đủ thoả mãn, đâu cần ước muốn. Trường hợp bà mẹ thành Canaan là trường hợp bà ước muốn điều cao thượng. Cao thượng vì bà không ước muốn cho chính mình nhưng vì tình thương mến cho người con. Lòng mến của bà mãnh liệt đến độ không nề hà, sẵn sàng van nài nơi công cộng. Bà dẹp bỏ tự ái, danh dự cá nhân vì hạnh phúc của người con. Phúc âm thuật lại bà van nài mãi mà Đức Kitô không đáp lại. Lời van nài khẩn thiết, dai dẳng đến độ các tông đồ không vì ngại ngùng cũng vì ngượng ngập, hoặc ngay cả muốn được yên thân. Cũng có thể các ngài nghe lời van xin cảm động chạnh lòng thương lên tiếng xin dùm bà ta.

Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.c.23

Đức Kitô giải thích lí do tại sao Ngài không đáp lại lời bà kêu cầu, van nài.

Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel.c.24

Câu trả lời khá mạch lạc, rõ ràng. Bà không phải là chiên lạc nhà Israel nên chưa đến lượt bà xin. Bà là dân ngoại. Ưu tiên một dành cho chiên lạc nhà Israel.

Nghe lời đó bà không nản lòng, chán nản, tiếp tục van xin. Từ van xin câu chuyện chuyển sang đối thoại. Sự việc diễn tiến có nhiều hy vọng hơn. Từ im lặng không đáp, chuyển sang đáp. Từ đáp chuyển sang đối thoại. Từ đối thoại chuyển sang giúp chỉ còn là một bước nhỏ.

Nơi đây chúng ta tìm gặp một tấm lòng chân thành, khiêm nhường hết mực. Bà đáp, Thưa Ngài đúng lắm. Ưu tiên một dành cho con cái trong nhà, chiên lạc nhà Israel. Mẹ con chúng tôi không dám xin chia phần dành riêng đó. Chúng tôi chỉ dám xin mảnh vụn, phần dư thừa, phần không dùng đến cũng chẳng để lại tích trữ. Phần đó xin dành cho mẹ con chúng tôi.

Điểm thứ hai, ngôn từ bà xử dụng cho biết bà có một tâm hồn trong sáng, kính trọng người khác hết lòng. Bà luôn đáp lại Đức Kitô bằng câu ‘Thưa Ngài’, ‘Lậy Ngài’. Từ nói lên lòng kính trọng, tôn kính.

Điểm thứ ba, ‘Lậy Ngài’, xin cứu giúp tôi. Bà vừa bái, lậy, vừa xin cứu vừa xin giúp. Chỉ một câu ngắn gọn trên cho chúng ta hình dung ra một người đàn bà, trên đường phố, giữa đám đông người chân quì, tay chắp bái, lậy, miệng van xin điều muốn xin.

Thứ tư, đau đớn, bệnh tật, khổ sở của con bà được bà coi như của chính cá nhân mình. Bà không phải xin cứu giúp con bà nhưng xin cứu giúp tôi. Chữ tôi cho biết bà sẵn sàng mang lấy bệnh tật, khắc khoải của con bà.

Thứ năm, Đức Kitô nhìn bà với con người đức tin, người có lòng tin mãnh liệt, vững vàng trong cơn thử thách. Cơn thử thách đây lại đến từ chính Đức Kitô.

Bấy giờ Chúa trả lời cùng bà ấy. Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.c.28.

Bà là người ngoài, là dân ngoại không thuộc vào chiên lạc nhà Israel. Những người ngoài Israel không được Đức Kitô cứu chữa. Nhưng trường hợp của bà Đức Kitô cứu chữa. Như vậy câu hỏi đặt ra cho chúng ta. Ai là người Israel? Thưa dân Israel là dân Chúa chọn. Một dân Chúa mong muốn họ sống đời sống hết mực khiêm nhường, đầy yêu thương, giầu bác ái. Một dân đặt trọn niềm tin vào Chúa. Bà phụ nữ thành Canaan đang từ dân ngoại biến thành dân Israel, dân Chúa chọn, nên Ngài chữa bệnh cho con bà theo lời bà cầu xin.

Như thế dân Israel là bất cứ ai sống đời sống hết mực khiêm nhường, đầy yêu thương, giầu bác ái và có lòng tin vững mạnh đều là dân Chúa chọn. Những người đó khi kêu cầu Chúa sẽ nhận lời cầu xin. Chúng ta cầu xin sống trung thành điều Chúa mong muốn, mời gọi.

 

 

 

 

 

37. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

 

TRỪ QUỶ ÁM TRONG ĐỜI NHỜ KẾT HIỆP VỚI CHÚA

Người công giáo chúng ta có tin có ma? Tin có quỷ ám không? Thế thì ma là gì? Và quỷ là gì? Ma và quỷ có khác nhau không? Cuốn từ điển bách khoa toàn thư Việt nam định nghĩa rằng khi con người chết, linh hồn xuất khỏi thể xác thành ma hoặc quỷ. Quỷ là oan hồn (linh hồn người chết oan) vất vưởng lâu năm, chất chứa nhiều nỗi oán hận thù. Còn tờ Báo An ninh Thủ đô nói ma là linh hồn của những người chết vì lí do nào đó đã “lạc lối” vào trần gian khi đang trên đường sang thế giới bên kia. Và theo quan điểm của một số tôn giáo, quỷ dùng để gọi một số sinh vật (thuộc về cõi siêu hình) có những khả năng siêu phàm, độc ác và xấu xa. Từ những định nghĩa trên chúng ta thấy ma thì hiền quỷ thì dữ phải không? Ma thì có hình bóng, còn quỷ thì siêu hình. Đúng thế, Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng nên Thiên Thần mà Thiên thần là thụ tạo thiêng liêng. Thiên Chúa tạo dựng nên Thiên thần để phụng sự Ngài và phục vụ con người theo ý Ngài cùng hưởng hạnh phúc đời đời. Trong số các Thiên Thần có một số Thiên Thần không tuân theo lệnh Chúa truyền, tự ý tách mình không muốn lệ thuộc Thiên Chúa. Ta gọi các Thiên thần sa ngã ấy là quỷ. Cho nên, quỷ không hình không bóng nên nó thấy con người có hình bóng hơn nữa hình bóng của Chúa nữa nên nó tức, muốn ám hay nhập vào con người, và luôn làm hại con người bằng mọi cách, cám dỗ con người phạm tội, chống lại ý Thiên Chúa, làm ta mất ơn nghĩa với Chúa. Và các hoạt động của quỷ là cho con người bị mù quáng và tê liệt trước những giá trị tinh thần, giá trị của Tin Mừng của Chúa.

Các nhà chú giải Thánh kinh bảo rằng thời Chúa Giêsu vấn đề ma và quỷ có thực cho nên thời bấy giờ chuyện ma và quỷ đó là niềm tin mang tín phổ quát. Cụ thể, Tin Mừng hôm nay kể rõ rằng: “khi ấy, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Và với lòng tin sắc đá của bà, Chúa Giêsu đã trừ được tên quỷ đó. Điều đáng chú ý ở đây là tại sao giả Chúa trừ quỷ tên quỷ đó, bởi vì Chúa Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa có thể khống chế quỷ vì Ngài là Thiên Chúa.

Hôm nay chúng ta đang sống trong một thời đại bị thống trị bởi một văn hoá tính dục, nền văn hoá tôn thờ tiền bạc và đòi hỏi tự do tuyệt đối đến nỗi cắt đứt nó khỏi tương quan với những giá trị luân thường đạo lý, chẳng hạn người ta coi phái thai, giết người là nhỏ như giết một con vật, rồi nạn bạo lực học đường xảy ra khắp đó đây, các em đánh người bạn của mình như đánh một con vật; mà con người đâu phải con vật, con người có xác và hồn linh thiêng lắm mà cho nên Khổng tử nói: con người là linh ư vạn vật. Vì vậy, có người và từ người mới thành thần thánh chứ. Vậy trong thời đại này, chúng ta có chắc rằng mình không bị quỷ ám, quỷ dụ dỗ không? Chắc chắn không, lúc này lúc khác chúng ta bị quỷ vô hình ảm, cám dỗ chúng ta phạm tội với Chúa và với tha nhân. Nhưng chúng ta luôn có Chúa Giêsu, Ngài có mặt trong cuộc đời chúng ta để không chế quỷ ám hay cám dỗ và Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để chống trả quỷ dữ. Chính vì vậy, chúng ta chiêm ngắm hình tượng người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng hôm nay như một người cộng tác với Chúa Giêsu để trừ cái ác quỷ trong cuộc sống của con bà. Người phụ nữ đã cộng tác với Chúa Giêsu bằng cách đi vào trong cuộc chiến đấu chống lại quỷ ám bằng cách nào?

Bà Canaan là người ngoại đạo nhưng bà đã chiến đấu mãnh liệt thể hiện qua tiếng gào thét để nài xin Chúa Giêsu cứu chữa đứa con gái của mình. Bà kiên trì kêu cứu, bà kêu nhiều đến nỗi các môn đệ Chúa Giêsu có ác cảm với bà, cho nên các môn đệ đến nài xin Chúa Giêsu cho bà ấy đi về cho khỏi phiền toái. Thế nhưng, bà không nản chí bà tiếp cuộc chiến đấu và vượt qua rất nhiều thử thách trong đó có thứ thách đớn đau nhất là thử thách của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, câu này khó nghe thật! Nhưng Bà vẫn bình tâm nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi”.

Thử hỏi bà lấy sức mạnh ở đâu để vượt qua những thử thách ấy? Trước hết là tình yêu của người mẹ dành cho con, chính tình yêu ấy mà bà lấy nỗi đau của đứa con làm nỗi đau của chính mình và vẫy vùng bằng mọi cách để thoát ra khỏi nỗi đau đớn quỷ ám này. Tình yêu đó làm nên sức mạnh, nghị lực, nhiệt tình để bà chịu đựng vượt qua bao thử thách. Cùng với tình yêu bà có niềm xác tính mãnh liệt vào Chúa Giêsu, dù bà là người phụ nữ ngoại giáo nhưng bà vẫn xác tín mãnh liệt rằng chỉ có mình ông Giêsu mới có thể cứu đứa con bà. Tình yêu cộng niềm tin làm nên một sức mạnh phi thường khiến bà xung vào cuộc chiến chống quỷ ám và cuối cùng bà chiến thắng nó.

Cuộc đời chúng ta cũng bị khống chế bởi quỷ dữ. Quỷ ám chúng ta và làm cho chúng ta không thấy giá trị Tin Mừng cứu độ và hằng sống của Chúa Giêsu mà chỉ thấy được giá trị vật chất, danh lợi thú mà cuộc đời này đề cao. Có khi chúng ta thấy giá trị Tin Mừng đó nhưng mình quỷ ám không đủ sức để sống những giá trị đấy bằng chứng là mình biết rõ phạm tội nói tục, chửi bới, nói hành nói xấu, ăn cắp, bất hiếu… là không đúng nhưng vẫn phạm tội như thường. Rồi, ngay chính chúng ta nhìn thấy con cái mình, học trò mình, giáo dân của mình, em mình, bạn mình hay chính mình… bị quỷ ám lôi theo những xu hướng xấu nhưng lao theo mà bỏ Chúa, bỏ giá trịn Tin Mừng cứu độ nên không còn tha thiết với những giá trị của thánh, thiện, bác ái, từ tâm, nhân hậu…

Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cần phải bắt chước người phụ nữ xông vào cuộc chiến đấu với Chúa để khống chế áp lực của quỷ dữ để quay trở về với Thiên Chúa. Cuộc chiến chúng ta phải mãnh liệt và kiên trì vì sự dữ xem ra càng thống trị nhiều hơn. Chúng ta phải có đức tin và tình yêu chính mình, yêu mọi người. Chúng ta phải có sự tha thiết với giá trị của Tin Mừng và niềm xác tín rằng chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể là Đấng ban tặng cho chúng ta ý nghĩa của đời sống và làm cho cuộc sống chúng ta có giá trị và hạnh phúc đáng sống. Chỉ mình Chúa Giêsu mới giúp chúng ta có sức mạnh sống Lời Chúa mạnh mẽ và một khi sống Lời Chúa mạnh mẽ đương nhiên sẽ trừ được mọi mưu ô chước độc của quỷ ám. Vì vậy, càng sống trong thời đại có nhiều cám dỗ của quỷ dữ, chúng ta phải càng có tâm tình cầu nguyện mãnh liệt tha thiết qua việc kinh nguyện qua việc tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài nhờ đó Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chiến đấu chống lại quỷ ám hay cám dỗ ta trong ngay đời sống thường ngày. Amen.

 

 

 

 

 

38. Kỳ thị – Lm. Vũ Đình Tường

 

Dân Israel kì thị dân thờ ngẫu tượng, cho họ là những người tội lỗi và coi họ như kẻ thù. Câu chuyện Đức Kitô chữa con gái bà goá thành Canaanite cho biết Đức Kitô không kì thị bất cứ ai. Trong quá khứ bà thờ ơ tôn thờ Thượng Đế nhưng tôn trọng thờ thần ngoại bang. Con gái bà bệnh không thuốc chữa bà van nài ngẫu thần đến mệt mỏi vẫn không được đáp trả. Cuối cùng không còn cách nào khác bà đến nài xin Đức Kitô chữa và Đức Kitô đáp lời bà nài van sau cuộc đối thoại giữa Ngài và bà.

Khởi đầu cuộc đối thoại người ta có cảm tưởng như Đức Kitô từ chối, xua đuổi bà. Nhận xét đó đến từ phán đoán cục bộ, nhìn từ bên ngoài. Người ta phải đợi đến cuối cuộc đàm thoại mới biết rõ. Kết quả cho thấy Đức Kitô đón nhận bà với tình yêu của một Thiên Chúa đầy yêu thương. Qua cuộc đối thoại Đức Kitô muốn cho mọi người tại hiện trường nhận biết sức mạnh của lòng tin. Những ai đặt trọn vẹn niềm tin nơi Đức Kitô sẽ không bao giờ phải thất vọng, dù họ phải trải qua thử thách nhưng thử thách làm cho đức tin phát triển, lớn mạnh trong Ngài. Bà nhận biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavid và bà may mắn cũng đến từ dòng dõi vinh quang đó và là con dân của đức vua. Vì thế bà tin rằng con dân, dù hoang đàng, khi trở lại, thống hối, cũng đáng hưởng ân lộc vua ban.

Bà rất kiên nhẫn xin Đức Kitô cứu con bà. Kiên nhẫn nài van đến độ làm cho các môn đệ Đức Kitô phải lên tiếng. Có thể các ông cảm thấy phiền toái nhưng với Đức Kitô ơn kiên nhẫn trên lại là bằng chứng rõ ràng cho biết niềm tin trọn vẹn của bà. Bà thực sự từ bỏ ngẫu thần và đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa. Việc chữa lành cho con gái bà là khởi đầu việc giao hoà rạn nứt giữa người Israel and dân tôn thờ ngẫu tượng. Ngoài Đức Kitô ra không một ai khác có thể đong đầy hố ngăn cách lịch sử này. Bà goá tin một mình Đức Kitô có thể làm được việc đó và bà đặt trọn niềm tin vào Ngài. Việc dân Israel coi bà là người ngoài không làm bà chùn bước trong việc xin Đức Kitô chữa cho con bà; trái lại bà tin là những ai đặt niềm tin vào Đức Kitô đều là con cái Chúa và con cái thì nhận đuợc yêu thương từ cha mẹ.

Dân Israel là dân tuyển chọn nhưng chính dân này lại từ chối đón nhận Đức Kitô là Đấng Thiên sai và còn mong đợi một đấng khác sẽ đến; trong khi bà goá bị coi là người ngoại bang lại vui lòng đón nhận Đức Kitô là Đấng Thiên Sai và đặt trọn niềm tin vào Đấng đó. Có lẽ bà goá được nghe ít nhiều về phép lạ Đức Kitô hoá bánh ra nhiều. Điều này càng làm cho bà vững tin hơn con bà sẽ được Đức Kitô chữa lành bệnh.

Chia rẽ hoặc đòi đặc quyền, đặc lợi và kì thị xuất hiện khắp nơi nhưng điều này trở nên khủng khiếp khi nó xảy ra trong gia đình hay trong chủng tộc. Kì thị tôn giáo hiện đang hoành hành gây tai hại ở thời đại chúng ta sống. Mãnh liệt và kinh khủng nhất là nó đang xảy ra tại Iraq nơi nhiều ngàn người là nạn nhân của kì thị tôn giáo. Thật là tệ hại khi người ta nhân danh Thượng Đến giết chết những người tin theo Thượng Đế. Nhà thờ, nơi thờ phượng bị phá tan tành, ảnh tượng các thánh và ảnh Chúa bị chà đạp dưới gót giầy của kẻ có vũ khí trong tay. Trường học bị phá sập, nhà cửa bị đốt cháy thành tro bụi và đoàn người tay xách, nách mang kéo nhau chạy trốn trong vùng xa mạc ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương, không lương thực. Tai hoạ đến chỉ vì kì thị tôn giáo. Nó xảy ra khi một cá nhân hay một nhóm người tự nhận mình là công chính, còn kẻ không theo họ là bất chính và kẻ công chính thì tự cho quyền chà đạp kẻ cưỡng lại họ. Tự nhận mình công chính để hại người khác. Đức Kitô có lần cho biết trên cõi đời này không ai công chính trừ một mình Thiên Chúa. Mat 19,16. Tự nhận nhóm mình là công chính là một sai lầm và kẻ lầm đường, tương tự như người say, thường không bao giờ nhận mình lầm.

Đức Kitô đón nhận và tha cho bà goá khi bà tỏ lòng thống hối ăn năn, đón nhận bà vào gia đình Chúa. Điều này cho biết Chúa đến để thu tóm không phải chia rẽ.

 

 

 

 

 

39. Tâm hồn khiêm tốn – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: “Lạy Ngài, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Đấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: “Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.

Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: “Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa”. Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: “Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.

Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: “Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi”. Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: “Xin Ngài thương xót con”. Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó”. Đây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống”. Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: “Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.

Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.

Lạy Chúa,

Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.

Lạy Chúa,

Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.

 

 

 

 

 

40. Lòng tin và tình yêu - Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.

Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.

Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.

Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.

Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.

Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.

Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn. Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.

Thương con, bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.

Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.

Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”

Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.

Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.

Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.

Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.

Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.

Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.

Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).

Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?

Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Tình mẹ cha yêu thương với tất cả hy sinh chịu đựng luôn đóng ấn và trải dài suốt những năm tháng của cuộc đời con.

Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.

Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời. Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở. Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.

 

 

 

 

 

41. Ơn đức tin trong cơn hoạn nạn khốn khó - JB. Lê Ngọc Dũng)

 

Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay kêu xin Chúa Giêsu: “Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15,22). Bà đã rất đau lòng với nỗi “khổ sở” của con gái mình. Mỗi ngày bà thấy đứa con gái mình bị ma quỹ dằn vặt, bà rất đau đớn. Bà cảm thấy đau đớn, khổ sở như là con gái mình đau đớn khổ sở. Vì vậy, nghe nói về Chúa Giêsu có thể cứu chữa, bà vội vã tìm đến Ngài.

Câu chuyện chữa lành này lại không giống như những câu chuyện chữa lành khác trong Kinh Thánh. Người cầu xin chữa lành đã bị chối từ. Chúa Giêsu đã im lặng, trước lời van xin của bà. Ngài còn nói: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi” (Mt 15,24). Chắc hẳn khi bị chối từ, bà ấy cảm thấy đau lòng, và như bị xúc phạm. Chúa Giêsu lại có vẻ coi thường bà ta khi nói: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26). Tuy nhiên vì yêu thương con gái mình bị khổ sở bà cũng chấp nhận mình như những con chó, mong được mẫu bánh vụn trên bàn rơi xuống. Cuối cùng, Chúa Giêsu đáp lời bà ta: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15,28). Thánh sử Matthêu ghi lại: “Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh” (Mt 15,28).

Người đàn bà xứ Canaan, là một người ngoại giáo, nhưng được có đức tin trong sự đau khổ, khốn khó. Một hoàn cảnh đau khổ khốn khó lại là một cơ hội để bà đi tới đức tin.

Trận đại dịch Covid đã và đang gây ra biết bao là đau khổ, khốn khó. Nó có thể là dịp để người ta đi tới đức tin không; là dịp chúng ta tìm đến hay trở về với Chúa không?

Có sự kiện vừa mới xảy ra là, bác sĩ Julian người Ý, 38 tuổi, từ một bác sĩ vô thần đã trở về với Chúa, đã cầu nguyện mỗi ngày và vui vẻ dấn thân phục vụ bệnh nhân.

Trước những ca nhiễm bệnh mỗi ngày mỗi nhiều, số người chết mỗi ngày một gia tăng, bác sĩ Julian đã bị áp lực nặng nề. Anh đã trãi qua cơn ác mộng nhất của đời mình. Anh nói: “Ngay cả trong những cơn ác mộng nhất của đời mình, tôi cũng không bao giờ tưởng tượng rằng, tôi sẽ phải chứng kiến và trải qua những gì đang diễn ở Ý, ngay cả ở trong bệnh viện của chúng tôi trong ba tuần qua”.

Anh vô cùng choáng ngợp và bất lực trước những gì xảy ra trước mắt anh mỗi ngày. Quá nhiều bệnh nhân chết trong đau đớn; bệnh viện thiếu những trang thiết bị cho họ sử dụng. Các bác sĩ phải chủ động đánh giá khả năng sống sót của mỗi bệnh nhân, để đặt nội khí quản cho họ hay tiếp tục chữa trị.

Trong nước mắt và tuyệt vọng Julian bất chợt nhớ đến Chúa, một vị mà anh chưa bao giờ tin rằng tồn tại. Sau đó anh bắt đầu cầu nguyện: “Xin Chúa thương xót cho chúng con. Chúng con đã đạt đến giới hạn của mình. Chúng con không thể làm gì hơn. Số người chết tăng lên mỗi ngày. Chúng con hoàn toàn kiệt sức rồi!”.

Sau lời cầu nguyện tha thiết, Julian cảm thấy mọi áp lực ban đầu của mình như nguôi ngoai phần nào. Julian tâm sự: “Bất chợt chúng tôi nhận ra rằng trong thời khắc gian nan này, hãy thành tâm cầu nguyện, để xin Chúa chỉ dẫn vượt qua giai đoạn khó khăn”. “Khi rảnh rỗi chúng tôi dành ra vài phút cúi đầu cầu nguyện. Tôi còn nhớ, đến tận hai tuần trước, tôi và những bạn đồng nghiệp vẫn còn là những người vô thần. Chúng tôi đã được nhồi nhét rất nhiều kiến thức khoa học mang hệ tư tưởng chủ nghĩa duy vật, luôn tin tưởng rằng Thiên Chúa không hề tồn tại. Tôi cười nhạo khi bố mẹ tôi đi đến nhà thờ. Bây giờ, chúng tôi cầu nguyện mỗi ngày, xin Chúa ban cho bình an và sức mạnh để giúp chúng tôi có niềm tin, kiên trì chăm sóc tốt cho bệnh nhân của mình”.

Anh cũng bày tỏ sự biết ơn của mình đối với Chúa. “Tôi biết mình chỉ là hạt bụi nhỏ bé trong thế giới bao la, rộng lớn này. Nhưng tôi muốn sử dụng hơi thở cuối cùng của mình để giúp những người khác. Trong lúc bế tắc nhất, đau khổ chứng kiến cái chết của những người dân nước mình, tôi hạnh phúc vì giờ đây tôi được trở về với Chúa.”

Cả hai người, người đàn bà xứ Canaan ngày xưa và bác sĩ người Ý Julian ngày nay, đều rơi vào hoàn cảnh gian nan khốn khó, một hoàn cảnh dễ đi tới khủng hoảng và tuyệt vọng. Sau đó cả hai người được có đức tin mạnh mẽ và tìm được niềm vui trong Chúa.

Điều đáng suy gẫm ở đây là lòng yêu thương và sự khiêm tốn. Nơi người đàn bà xứ Canaan, ít ra, là tình yêu thương mạnh mẽ đối với đứa con gái bị quỷ ám và nhận mình như là thân phận như con chó dưới gầm bàn. Nơi bác sĩ Julian, ít ra, là tình yêu thương đối với những bệnh nhân Covid và thấy mình rất là giới hạn, như là hạt bụi bé nhỏ trong thế giới rộng lớn. Cả hai đều thấy mình hèn mọn và bất lực và chạy đến kêu xin Chúa. Họ đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa để Ngài cứu giúp.

Thực tế, cho chúng ta thấy, không phải tất cả mọi người trong hoàn cảnh gian nan khốn khó, hay phải chịu những đau khổ những mất mát, cụ thể như do trận đại dịch, đều có thể lãnh nhận được ơn đức tin. Chỉ có những người khiêm tốn và lòng bác ái yêu thương mới có thể đón nhận ơn đức tin và niềm vui an bình trong Chúa.

 

 

 

 

 

42. “Sự chiến thắng của đức tin” - Lm. Hiền Lâm

 

Bài Tin Mừng hôm nay kể việc Chúa Giê-su mở rộng việc truyền giáo xuống miền duyên hải – địa hạt Tyrô và Siđôn. Tại đây, Người gặp một người đàn bà ngoại giáo đến xin người trừ quỷ cho con gái của bà. Cuộc đối thoại và việc chữa lành trong câu chuyện làm nổi bật lên hai đặc tính: Niềm tin và ơn cứu độ phổ quát:

1. Sự thử thách niềm tin

Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do-thái giáo), câu trả lời đầu tiên của Chúa Giê-su nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.

“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.” Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự (điều này chúng ta sẽ bàn sau), nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giê-su đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do-thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.

Lại nữa, xác tín mạnh mẽ vào quyền năng và vào lòng tốt của Chúa Giê-su, cùng với tình yêu mãnh liệt đối với đứa con gái khốn khổ, chính là những yếu tố chính yếu làm cho người đàn bà ngoại giáo thành công trong lời cầu nguyện tha thiết của mình.

Chúng ta cũng thế, trong cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, nên rất cần sự kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm. Càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa.

2. Ơn cứu độ phổ quát.

Trở lại với vấn đề ở trên: Liệu câu nói của Chúa Giê-su có mang tính miệt thị không?

Sứ mạng của Chúa Giê-su được khẳng định từ đầu là ưu tiên tìm kiếm con chiên lạc nhà Israel trước: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Cũng như Chúa đã chỉ thị khi sai nhóm mười hai “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn, là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,5-6). Mãi cho đến thời các Tông Đồ, chính thánh Phêrô vẫn không dám đến với dân ngoại sau khi nhận được thị kiến về cái khăn buộc túm bốn góc chứa đầy những rắn rết bọ cạp mà Chúa bảo thánh nhân làm thịt mà ăn (x. Tđcv 10,9-16). Thánh Phaolô và Barnaba cũng từng khẳng định sứ mạng này (x. Tđcv 13,46-47). Đây là chương trình của Thiên Chúa qui tụ dân Israel trước rồi mới đến muôn dân thiên hạ. Vì thế, câu nói của Chúa Giê-su: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con” không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Người đối với người khác đạo; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do-thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do-thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do-thái nhiều đến đâu, Chúa Giê-su cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Người vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.

Tuy vậy tấm lòng của Chúa Giê-su vẫn hằng rộng mở trước lời cầu xin của người dân ngoại như viên đại đội trưởng thành Caphanaum và người đàn bà ngoại giáo miền Tyrô. Họ là hoa quả đầu mùa sứ điệp của Người, sau đó các môn đệ Người sẽ tiếp nối để mở rộng cửa tiếp đón muôn dân nước vào Nước Trời. Có thể nói, khi người đàn bà ngoại giáo với niềm tin mãnh liệt vượt qua cả sự ngăn cách tôn giáo và sự kỳ thị dân tộc để đến với Chúa, thì Chúa Giê-su cũng sẵn sàng vượt qua sứ mạng ban đầu để đến với bà và chữa lành cho con gái bà.

Sự từ chối bên ngoài của Đức Giê-su đối với lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo mang ý nghĩa như là một sự mạc khải trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: chính lòng tin làm cho con người trở thành “con cái” thay vì là “chó con” và đáng được hưởng tất cả những lời hứa dành cho Abraham và dòng dõi người. Chính sự xem ra từ chối của Chúa Giê-su lại là dịp để người đàn bà đi từ chỗ chấp nhận chỉ là “chó con” đến chỗ được hưởng ân huệ dành cho “con cái” nhờ lòng tin. Nay không chỉ có “Dân Chúa” được sinh ra từ dòng dõi Abraham theo huyết nhục nữa, mà có một “Dân Thiên Chúa” rộng lớn hơn nhiều được sinh ra bởi lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là tất cả mọi Ki-tô hữu trên toàn thế giới.

Trong thực tế cuộc sống, lắm lúc tưởng chừng như Thiên Chúa “phớt lờ” khi làm như “thinh lặng” không quan tâm gì đến lời van xin và tình cảnh bi đát của chúng ta. Nhưng có thể đó là vì Thiên Chúa đang muốn dẫn chúng ta đến một chân trời mới, lớn lao và thực chất có giá trị hơn hẳn những gì chúng ta xin mà chúng ta không thể hiểu được. Ước gì khi gặp những tình cảnh như vậy, chúng ta có được niềm tin như người đàn bà Canaan – ngoại giáo trong bài Tin Mừng hôm nay.

Lạy Chúa xin ban cho mọi người chúng con có một đức tin vững chắc, luôn trung thành với Chúa, luôn tin tưởng cậy trông vào Chúa là Đấng duy nhất có quyền năng làm được mọi sự, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến cho chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

43. Chúa Nhật 20 Thường Niên - Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM

 

ĐỨC TIN MẠNH, ĐỨC TIN YẾU. LÀM SAO ĐỂ YẾU THÀNH MẠNH.

Có một lời ca mà ta nghe rất quen, của Y-Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào, Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.” Lời ca đó có thể dẫn ta đến một người mẹ mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc tới: bà mẹ người ngoại, người Canaan. Bà bất chấp tất cả, bất chấp nhục nhã để đi van xin cho con gái của bà bị quỉ ám được chữa lành. Chắc bà này đã đi nhìều thầy, chạy nhiều thuốc mà tiền mất tật mang. Cứ xem cách mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay thì rõ. Bởi vì lần đến với ông thầy Giêsu này, bà đã tỏ ra lão luyện trong nghề van xin đến độ Chúa phải khen: “Lòng tin của bà mạnh thật!” Thật đẹp, thật phúc biết bao nếu Đức Giêsu cũng nói câu đó với tôi, “Lòng tin của con mạnh thật!” Nói như thế, tức là có những người “lòng tin của ngươi yếu quá!” Vậy ta sẽ trả lời 2 câu hỏi: (1) Tại sao có người lòng tin mạnh, có người lòng tin yếu; và câu (2) quan yếu hơn: nếu lòng tin yếu, có cách nào làm cho mạnh không?

1. Tại sao có người lòng tin mạnh, có người lòng tin yếu.

Ta phải giới hạn để nâng câu hỏi này lên hàng “thiêng liêng.” Đức tin khác lòng tin. Giữa người với người là lòng tin. Giữa người với đấng Tối Cao là đức tin. Tại sao có những người đức tin thật mạnh mà có những người đức tin yếu kém. Hỏi đổi lời: “Tại sao có những người dễ dàng tin vào Chúa vào Mẹ. Còn có những người cảm thấy rất khó khăn để tin Chúa tin Mẹ?”

Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi: Tại sao có những người thật mập mạp khoẻ mạnh lại cũng có những người khẳng khiu ốm yếu?

Họ khẳng khiu ốm yếu là do cha mẹ họ. Họ thừa hưởng một thân xác eo xèo của mẹ của cha. Cha nào con nấy. Cha gầy gò, con ốm yếu. Nhưng cũng có những người ốm yếu vì chính họ không biết chăm sóc sức khoẻ cho chính mình.

Điều đúng cho sức khoẻ thể lý thế nào thì cũng gần đúng cho sức khoẻ tâm linh, tức đức tin của chúng ta thể ấy. Một số người đức tin yếu kém là do cha mẹ tổ tiên của họ. Cha mẹ có đức tin loại ba cọc ba đồng thì đức tin của con cái làm sao mạnh mẽ được. Đức tin của cha là loại “con quì lạy Chúa Ba Ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ” thì con cái họ sinh ra làm sao có được lòng tin vào Chúa vào Mẹ vững mạnh được. Người ta nhận xét, những Giáo hội có tổ tiên là những vị tử đạo, thì đức tin của Giáo hội đó vững mạnh. Giáo hội Việt Nam thừa hưởng đức tin 117 vị thánh Tử đạo, 2000 người tử đạo khác đã có hồ sơ chờ xin phong thánh và cả trăm ngàn người chưa có hồ sơ. Đại Hàn với 103 vị thánh tử đạo là tổ tiên, và cách đây 3 năm, 16-8-2014, đức giáo hoàng Phanxicô đến Đại Hàn để phong chân phước cho 124 vị tử đạo nữa, khiến con dân Giáo hội Đại Hàn có một đức tin kiên vững, bậc nhất ở Á Châu này. Đức tin cũng như sức khoẻ phải vun đắp. Thừa hưởng đức tin bất khuất từ cha ông, mà không tài bồi vun đắp thì đức tin cũng lung lay yếu ớt. Đến đây ta qua câu hỏi 2.

2. Nếu đức tin yếu, có cách nào làm cho mạnh không?

Thưa có, và phải như vậy. Một cơ bắp nếu không hoạt động không tập luyện thì sẽ yếu dần, có thể đi đến co rút lại. Một đức tin không củng cố sẽ lắc lư giữa dòng đời đầy cạm bẫy làm mình xa Chúa. Vậy đức tin năng tập luyện cũng sẽ thành đức tin mạnh. Học hỏi bàn luận suy niệm về Lời Chúa như chúng ta đang làm đây; tham dự thánh lễ với phần dâng lễ ít phút nữa cách chăm chú sốt sắng hơn; cầu nguyện mỗi ngày để trở thành thói quen trong đời sống… tất cả đều có thể làm đức tin mạnh hơn. Và còn một cách tập luyện đức tin xem ra hữu hiệu hơn. Đó cũng là cách chúng ta muốn nói hôm nay, Dostoievski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có bàn tới cách này.

Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến một bà lão, sức khoẻ thiêng liêng (đức tin) suy thoái cùng với sức khoẻ thể xác (càng già đức tin càng yếu…). Ngày nọ bà bàn luận vấn đề này với một vị linh mục cũng già tên là Zossima. Bà nói với linh mục về đức tin yếu kém và những ngờ vực của bà mới phát sinh khi … già: “Thiên Chúa có hay không? Ngài có quan tâm đến tôi? Có gì sau khi chết không?”

Linh mục già lắng nghe, cảm thông và nói với bà: Chẳng có cách nào chứng minh rõ ràng những điều bà thắc mắc. Nhưng bà vẫn có thể tin những điều đó cách vững vàng hơn.

– Bằng cách nào? bà giả hỏi.

– “Bằng yêu thương. Hãy cố gắng yêu người láng giềng của bà thật tình và bà sẽ nhận thấy có Chúa thật. Có một tương lai huy hoàng sau khi chết. Đây là điều chắc chắn, đã được thể nghiệm và đã có kết quả”.

Linh mục già Zossima nói thật chí lí. Càng yêu nhiều thì càng tin mạnh. Tin và yêu đi đôi với nhau như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này là thấy rõ cái kia. Người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng hôm nay mà Chúa khen đức tin mạnh thật cũng là người yêu thật mạnh. Bà không xin Chúa cho bà mà bà xin cho con bà. Lòng mẹ bao la. Bà đã vượt qua cả 3 cửa ải, 3 bước khó để xin cho bằng được:

– Bước 1: Bà xin Chúa, Chúa nín thinh!

– Bước 2: Môn đệ nhắc khéo Chúa để đuổi bà về, Chúa bỏ lửng một câu: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel thôi”

– Bước 3: Khi bà cố nài van nữa để chữa lành cho đứa con bị quỉ ám, thì Chúa cho một cú “ân huệ” (tức phát súng kết liễu kẻ bị án tử hình): “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó ăn.” Tưởng rằng cú ân huệ này sẽ hạ gục bà mẹ. Ai ngờ bà vẫn sống: “Đúng thế thưa Ngài, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.

Đức Giêsu thua. Lòng tin bà mạnh thật. Bà tin mạnh vì bà yêu con bà quá sức. Yêu là việc làm của Tin. Đức tin không việc làm là đức tin (yếu). Tin mà không yêu là tin yếu. Muốn tin mạnh thì cũng hãy yêu nhiều. Chắc chắn như vậy. Amen.

 

 

 

 

 

44. Câu chuyện của một sự dịch chuyển - Lm. Minh Anh

 

“Chúa thương xót hết mọi người”

Kính thưa Anh Chị em,

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay có chung một chủ đề: lòng thương xót của Thiên Chúa cũng dịch chuyển, người lương kẻ giáo, ai ai cũng được Thiên Chúa xót thương. Isaia linh cảm tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa sẽ ban cho mọi nước mọi dân; thánh Phaolô nói, Chúa thương xót hết mọi người, con trong nhà, con người ngoài; và qua Chúa Giêsu, Tin Mừng xác nhận ý định ngàn đời của Thiên Chúa, ai ai cũng được Thiên Chúa xót thương.

Bàn tiệc Lời Chúa hôm nay thịnh soạn một cách bất ngờ. Vì lẽ thường, vào các Chúa Nhật thường niên, liên quan đến bài Tin Mừng, chỉ có bài đọc một; thế mà hôm nay, cả ba bài đều có chung một chủ đề.

Qua bài đọc thứ nhất, Isaia tiên báo về sự hào hiệp đại lượng của Thiên Chúa vì rồi đây, Người sẽ gửi giấy mời dự tiệc Nước Chúa đến tận các dân ngoại. Isaia trực giác về lòng xót thương của Thiên Chúa vốn sẽ được tỏ cho muôn dân; ông linh cảm về tính phổ quát của ơn cứu độ vốn sẽ được dịch chuyển, mở rộng. Qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa nói về dân ngoại rằng, “Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện”; “Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ. Vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Rõ ràng, ý định ngàn đời của Thiên Chúa đã được hé lộ, lòng thương xót của Người dịch chuyển, người lương kẻ giáo, ai ai cũng được Thiên Chúa xót thương.

Dân ngoại hỷ hoan phớn phở, họ sẽ vui mừng khoái trá vì biết Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người đã ban cho họ ơn cứu độ. Niềm vui nhận biết Người vỡ oà qua Thánh Vịnh đáp ca, “Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài”.

Tường tận hơn, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, giải thích với anh em tân tòng qua thư Rôma rằng, “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được xót thương”. Ngài muốn nói, vì người đạo dòng cứng lòng, nên dân ngoại được kêu gọi; để một khi thấy dân ngoại được kêu gọi, may ra người đạo dòng dịch chuyển mà ăn năn trở về cùng Chúa để lại được thương xót, “Nếu do việc họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì việc họ được thâu nhận lại sẽ thế nào, nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết?”.

Đặc biệt với bài Tin Mừng, một phụ nữ ngoại giáo được Chúa Giêsu thương chữa lành cho con gái mình. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rõ ràng là câu chuyện của một sự dịch chuyển, dịch chuyển từ vùng đất Israel sang vùng đất dân ngoại; dịch chuyển từ sự bất xứng đến với sự xứng đáng của người ngoại giáo; dịch chuyển từ niềm tin của bà đến với lòng thương xót Chúa và cuối cùng, dịch chuyển từ lòng thương xót Chúa đến phép lạ con gái bà được mạnh lại.

Và để có thể hiểu cũng như nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa của tiến trình dịch chuyển này, một lần nữa, chúng ta lùi lại một chút trước đó với thánh Matthêu. Ở đó, Matthêu cho thấy dân Chúa chọn từ chối Con Thiên Chúa và dân ngoại được vui hưởng Ngài. Ở vùng đất ngoại giáo Tyrô và Sidon ấy, Chúa Giêsu được chào đón với tước vị con vua Đavít bởi một phụ nữ ngoại giáo. Bà cầu xin một phép lạ mà thoạt đầu Chúa Giêsu lờ đi, nhưng bà cứ nài nỉ đến nỗi các môn đệ xin Ngài can thiệp kẻo bà cứ quấy rầy. Chúa Giêsu nói với bà, Ngài đến để chỉ lo cho các chiên lạc Israel. Tương phản với dân Chúa chọn, người phụ nữ chấp nhận sự hư không của mình, chấp nhận ngang hàng với chó con để được nhặt những gì từ bàn chủ rơi xuống. Chúa Giêsu đầu hàng trước niềm tin và sự khiêm hạ của bà, Ngài khen ngợi và ban cho bà điều bà xin.

Anh Chị em,

Chúng ta, dân được chọn, đến với Chúa là Đấng ban cho chúng ta của ăn mỗi ngày như thế nào? Chúng ta cảm thấy mình công chính vì đã giữ luật Chúa để cảm thấy như Thiên Chúa đang mắc nợ chúng ta? Hay qua thái độ của người phụ nữ này, đức tin dẫn chúng ta đến một chỗ thấp hơn dưới gầm bàn của chủ nơi chúng ta chấp nhận một sự tuỳ thuộc tuyệt đối vào sự chăm sóc của Người, đồng thời, chờ đợi những miếng vụn rơi xuống từ bàn Người. Đừng quên, ngay chỉ với những mảnh vụn này thôi cũng đủ nuôi sống chúng ta, cho chúng ta no nê hơn những gì người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay ao ước. Như một người nghèo, bất xứng và vô dụng, hãy đến với Thiên Chúa và lòng nhân lành của Người sẽ nâng chúng ta lên. Người nâng lên, ban cho chúng ta điều này điều kia vì Người nhân lành chứ không vì chúng ta có công trạng này, công nghiệp nọ.

Mahatma Gandhi còn được gọi là thánh Cam Địa, người có công dành độc lập cho đất nước Ấn Độ, có lần tuyên bố, “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của vị thủ tướng, người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng cho chúng ta suy nghĩ.

Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét mình, chúng ta mắc nợ Thiên Chúa hay Người mắc nợ chúng ta? Chúng ta có xứng đáng với ơn lành của Người không? Là con cái trong nhà, có bao giờ chúng ta để cho ơn Chúa qua đi không? Hay là chúng ta đang dịch chuyển đời sống ân sủng của con cái Chúa đến với một đời sống mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là những “Kitô hữu vô thần”?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, lòng thương xót Chúa đổ xuống trên con vượt quá sự hiểu biết của con, một tội nhân nghèo hèn. Xin cho con biết dịch chuyển đến gần Chúa mỗi ngày làm sao để bớt bất xứng hơn”, Amen.

 

 

 

 

 

45. Người nghèo

 

Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon – ngày nay là miền nam Libăng – được xem là miền đất dân ngoại. Vì thế, việc Chúa Giêsu và các môn đệ lui về đây không chỉ để tránh tai mắt của nhóm Biệt phái hay tránh sự cuồng nhiệt của dân chúng muốn tôn Ngài làm vua ngay sau sự kiện hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6,15), mà còn mang một ý nghĩa thần học theo dụng ý của tác giả Mátthêu. Theo đó, ơn cứu độ lẽ ra chỉ dành cho Israel, nhưng vì họ từ chối, thì nay ơn cứu độ đó được mang đến cho dân ngoại mà người phụ nữ Canaan là một đại diện.

Trước khi đến gặp Chúa Giêsu, chắc hẳn người phụ nữ Canaan đã lường trước những thách đố mà mình sẽ gặp khi “chạm trán” với những người mà bà biết họ chẳng ưa thích gì khi có sự hiện diện của mình. Nhưng biết làm sao được. Bởi động cơ dẫn lối đưa đường bà đến gặp Chúa Giêsu chính là cô con gái yêu quý của bà đang ngày đêm khổ sở vì bị quỷ ám. Vì tình mẫu tử, bà đã vượt qua mọi cản ngăn để đến gặp Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ cứu giúp con bà. “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Không một lời lên tiếng. Im lặng bao trùm. Quả đúng như những gì bà đã lường trước. Người bà đang cần sự giúp đỡ chẳng mặn mà gì. Sự im lặng của Người đến khó hiểu. Còn các môn đệ của Chúa Giêsu xem ra cũng khó chịu khi có sự hiện diện của bà, nên không ngừng hối thúc Thầy mình đuổi bà ấy về cho khỏi chướng tai gai mắt. Mặc dù vậy, người phụ nữ Canaan vẫn kiên trì. Bà biết mình phải làm gì trong trường hợp không lấy gì làm dễ chịu này.

“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Tiếng bà lại vang lên khi toàn thân bà phục xuống bái lạy Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ đoái thương. Phủ phàng thay, câu trả lời của Chúa Giêsu, vô hình trung, như gáo nước lạnh giữa trời đông xối vào mặt bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Cho đến lúc này, Chúa Giêsu vẫn trung thành với điều mà Người đã nói trong lúc khai mạc sứ vụ rao giảng Tin mừng. Theo đó, sứ mệnh của Người chỉ dành cho “con chiên lạc nhà Israel” mà thôi. Vì thế, câu nói của Chúa Giêsu xem ra sỗ sàng, khiến người khác phật lòng nhưng lại nói lên lòng mong mỏi của Người dành cho nhà Israel.

Liên tiếp phải hứng chịu sự thật phủ phàng, người phụ nữ Canaan không mảy may dao động hoặc tức giận tháo lui. Trái lại, bà còn dùng ngay chính sự thật phủ phàng này để trả lời Chúa Giêsu một cách hết sức khôn khéo và tế nhị. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Câu nói của bà như một lời tuyên xưng niềm tin của bà đối với người mà bà đang đối diện. Chính niềm tin mãnh liệt của bà đã làm cho Chúa Giêsu kinh ngạc nếu không nói nó gây nên một cú xốc cho Người. Và Đức Giêsu chỉ còn cách bằng lòng “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Lời của Chúa Giêsu không chỉ là lời tán thưởng, lời ban bình an và xua đuổi tà thần mà còn là lời xoá đi mọi ngăn trở, mọi thứ lề luật nhỏ nhen thấp hèn do con người tạo nên. Từ đây, nhờ niềm tin, người phụ nữ Canaan, dân ngoại, một kẻ dơ bẩn được Thiên Chúa đón nhận, cho làm bạn nghĩa thiết với Người. Niềm tin mãnh liệt đó đã làm cho bà trở nên người đáng được tôn vinh, làm cho bà từ một khách lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa và còn hơn thế nữa.

Lạy Chúa, trong cuộc sống Ngài ban cho con rất nhiều ơn lành, nhưng đôi lúc con lại không biết quý trọng. Chắc chắn những hành động của con như thế đã làm cho Chúa buồn. Xin cho con biết nhận ra những ơn lành của Chúa như một ơn ban không thể thiếu. Amen.

 

 

 

 

 

46. Một con chó biết ơn.

 

Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trênbàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15,25-28)

Thái độ của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này không được đáng mền. Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.

Thánh Mátthêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Có óc kinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”

Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.

Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.

Chó con trong nhà.

Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.

Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.

Chúng ta hãy thành khẩn.

Còn chúng ta ngày nay thì sao?

Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.

Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.

 

 

 

 

 

47. Bước đột phá của lòng tin

 

Người ta thường nói “có gan mới làm giàu”. Đúng vậy, trong đời sống khi muốn tốt hơn thì lắm lúc ta cần phải có sự liều lĩnh. Liều lĩnh để vượt qua những khó khăn thử thách. Liều lĩnh để có thể vượt qua những rào cản của dư luận… Dĩ nhiên, sự liều lĩnh ấy cần được đặt trên một tiêu chuẩn nào đó. Một trong những tiêu chuẩn cần thiết là lòng tin. Khi có lòng tin người ta mới dám thực hiện bước đột phá.

Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho ta chiêm ngắm một bước đột phá của người đàn bà xứ Canaan. Như ta biết, thời Chúa Giêsu người Do thái và người ngoại giáo có một sự ngăn cách rất lớn. Họ rất ngại tiếp xúc với nhau. Thế nhưng người đàn bà này dường như không cần chú ý đến điều ấy. Bà ta đến thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Sau một hồi thinh lặng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.”. Bà ta vẫn tiếp tục nài xin “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Như một gáo nước lạnh Chúa Giêsu tiếp tục nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Nếu như với người khác, có thể họ đã bỏ ra về. Nhưng bà không ngần ngại trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”. Với câu trả lời này có thể nói được là Chúa Giêsu phải “tâm phục khẩu phục” nên đã nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

Như thế, ta thấy nếu không có lòng tin mạnh vào Chúa thì người đàn bà này đã không thể nào thực hiện được bước đột phá này. Nhờ đó, con của bà đã được chữa khỏi.

Những ngày gần đây, ở miền Bắc nước ta xảy ra nhiều thiên tai do bão và lũ gây ra. Thông thường những cây nào sau những trận mưa bão mà còn trụ lại được thì những cây đó mới thực sự có giá trị. Thánh Giacôbê đã nói: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1,2–3).

Có thể nhiều lúc trong đời sống đức tin ta thấy dường như Chúa hoàn toàn thinh lặng thậm chí không ngó ngàng gì tới mình. Hãy tin là những lúc ấy chính là những cơ hội Chúa đang chờ ta thực hiện những bước đột phá như người đàn bà này. Chắc chắn Chúa sẽ không quên ta trong những lúc ấy.

 

 

 

 

 

48. Ơn cứu độ được ban cho mọi người - Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã kể lại một câu chuyện: Một người bạn tù với Ngài là người ngoại giáo, nhưng ông ta rất cảm mến Đức Hồng Y. Ông ta được ra tù trước và sau này kể lại: Nhà ông ở gần Trung tâm Lavang, vì thế mỗi ngày, ông đều đến với Đức Mẹ Lavang để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Thuận. Khi được hỏi: Ông là người ngoại, ông cầu nguyện thế nào? Ông đáp: Tôi nói với Bà Ấy (Đức Mẹ) rằng: Thưa bà, tôi chưa biết Bà là ai, song tôi đến đây để cầu xin Bà thương đến một người bạn của tôi là ông Thuận còn ở trong tù, xin Bà thương cứu giúp ông ấy. Thế là không bao lâu sau, Đức Hồng Y Thuận cũng được ra tù và hai người gặp lại nhau trong sự xúc động.

Người ngoại có tin Chúa và có cầu nguyện không? Trong thực tế, có nhiều người được gọi là ‘bên lương”, là dân ngoại, song họ lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thực sự theo Chúa. Đối với những người dân ngoại này, chỉ cần một lòng tin đơn sơ chân thành, thì Thiên Chúa vẫn ghi nhận sự chân thành ấy và ban ơn trợ giúp cho họ. Nếu có dịp đến Lavang, Tàpao, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thành tâm của những người ngoài Công Giáo. Họ đến đây với lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Đức Mẹ. Họ thành tâm xin Chúa và Đức Mẹ che chở, chữa lành.

Có một suy nghĩ thường xảy ra nơi người Do Thái và nơi chúng ta hôm nay, đó là chúng ta thường đóng khung Thiên Chúa trong những người có đạo, cho mình là những người độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa và loại trừ người khác ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không hề giới hạn tình yêu của Ngài. Bất cứ ai, dù là là dân ngoại hay Do Thái, nếu tin tưởng vào Thiên Chúa, thì đều được Ngài ra tay cứu độ. Tiên tri Isai đã loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, không chỉ người Do Thái, mà người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ của Người. Những ai tuân giữ lề luật, thì cũng được lên núi thánh của Chúa… và Thiên Chúa sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu của họ. Với lời này của Isai, quả thật đã phá đổ hoàn toàn suy nghĩ của người Do Thái, vì họ tự hào mình là dân riêng của Chúa, và ngược lại, Chúa là của riêng Israel mà thôi. Isai cho thấy, Thiên Chúa không hề bị giới hạn, hay nói đúng hơn, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng không chỉ cho Israel, mà là cho tất cả nhân loại. Những ai tin và tuân giữ giới răn lề luật của Chúa thì trở thành dân của Chúa.

Câu chuyện Thánh Matthew thuật lại hôm nay khiến cho nhiều người thắc mắc: Chúa Giêsu đi về vùng Tia và Sidon, tức là vùng đất của dân ngoại, thì có một người đàn bà chạy đến và kêu lên: Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm. Với lời kêu cầu này, bà đã thể hiện lòng tin vào Đức Giêsu. Bà tin Đức Giêsu là Con vua Đavít, tức là Đấng cứu thế. Tuy nhiên Thánh Matthew cho thấy, Chúa Giêsu dường như dửng dưng trước lời kêu cầu này. Khi các môn đệ lên tiếng giùm bà, thì Chúa Giêsu còn trả lời: Thầy chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel thôi. Đến khi bà ấy nài nỉ thì Chúa đã nói với bà: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.

Có nhiều nhà chú giải đã cố gắng giải thích những lời lẽ xem ra từ chối nặng nề này của Chúa Giêsu. Chúng ta không đi sâu và những giải thích này, nhưng chúng ta nhìn vào đức tin và sự kiên nhẫn của người phụ nữ trong khi cầu xin. Người đàn bà này đang gặp đau khổ, đó là con bà đau bệnh gần chết. Trong lúc tuyệt vọng, bà chỉ còn biết chạy đến với Thầy Giêsu, mà có lẽ bà đã từng nghe biết về Ngài. Tuy nhiên khi đến với Chúa Giêsu, bà dường như lại gặp một thử thách khác, đó là sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa trước lời cầu xin của bà. Người phụ nữ này vẫn không thất vọng, dù có lúc bà như bị Thiên Chúa không chỉ im lặng mà còn từ chối thẳng thừng lời cầu xin của bà. Thế nhưng, bà vẫn kiên trì trước câu trả lời của Chúa, bà thưa lại với Chúa: Thưa Ngài đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Với câu trả lời này, bà đã thể hiện lòng tin của bà nơi Chúa Giêsu dù trước đó bà đã bị từ chối.

Người phụ nữ Canaan không hề tự ái trước lời từ chối của Chúa. Trái lại, bà càng khiêm tốn hơn để “lý lẽ” với Chúa như thế, vì tin rằng con của bà chỉ có thể được chữa lành nhờ quyền năng “dư thừa” của Thầy Giêsu. Bà còn nhận mình không xứng đáng được đồng bàn hoặc được chia sẻ tấm bánh ân phúc của Chúa, mà chỉ dám nhận mình là đám chó con, chờ đợi và cầu xin một chút ân lộc dư thừa từ bàn ăn của chủ rơi xuống, chứ cũng không dám mong được ông chủ ném cho một miếng bánh. Chúa Giêsu hết sức ngạc nhiên trước lý lẽ và lòng tin của bà và ngài đã không thể không đáp ứng lời cầu xin của bà: Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Có thể nói, Chúa Giêsu đã phải xiêu lòng và chịu thua trước đức tin mạnh mẽ của một người phụ nữ như thế.

Thánh Phaolô đã nhận ra sự kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi dân ngoại được mời gọi chia sẻ niềm tin và thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho người Do Thái. Mặc dù dân Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn để thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, thế nhưng dường như, họ đã coi thường ân phúc này. Họ đã từ chối ân huệ của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã dành ân huệ ấy cho dân ngoại và cho tất cả những ai có lòng tin. Phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái qua các tổ phụ, giờ đây lại được ban cho dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, những người Do Thái muốn được hưởng ân phúc này đòi phải có một điều kiện tiên quyết, đó là quay trở lại với thái độ vâng phục Thiên Chúa.

Thưa quý OBACE, cũng đã có một thời, vì tự mãn với ơn gọi làm con Thiên Chúa, được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Giáo Hội, chúng ta cũng rơi vào tình trạng cực đoan, loại trừ những người dân ngoại, khi tuyên bố rằng: Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi. Từ quan niệm này, nhiều người sống đạo không khác gì dân Do Thái, tức là giữ đạo thụ động, không cố gắng, không hoán cải. Nhiều người khác rơi vào tình trạng giữ đạo theo công thức, theo thói quen, thiếu chiều sâu của đức tin, không thực hành đạo, vì thế khi gặp khó khăn thử thách, họ thất vọng oán trách Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.

Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.

Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.

Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Amen.

 

 

 

 

 

49. Chúa cần một tấm lòng

 

Trình thuật Chúa Giêsu chữa khỏi quỷ ám cho con gái người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao hàm hai ý nghĩa: một đàng Chúa Giêsu xác nhận Dân Israel chính là dân được tuyển chọn, dân của Lời hứa (x. Mt 15,24); đàng khác, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, dành cho tất cả những ai có lòng tin vào Người (x. Mt 15,28).

Là Đấng Thiên sai, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử duy nhất được Chúa Cha sai đến để chăn dắt Israel (x. Ez 34,23). Nhưng thái độ của Dân Do Thái làm cho Chúa thất vọng. Họ tự phụ vào truyền thống là dân riêng, dân được chọn của Chúa, nên thường không tin Ngài.

Chúng ta cũng thường tự hào mình là người Công giáo, những người nắm giữ đức tin chân thật. Lý lịch công giáo của chúng ta được xác nhận qua Sổ Rửa Tội, Thêm sức, Hôn phối. Chúng ta thuộc về một cộng đoàn Họ đạo. Chúng ta giữ Lễ Chúa Nhật hàng tuần… rồi thôi. Chúng ta cho rằng mình chỉ cần giữ một số Luật quy định thì đã xong bổn phận giữ đạo của mình rồi. Ngoài ra thì cuộc sống của chúng ta chẳng thể hiện một đức tin tích cực nào cả: thiếu một tấm lòng với Chúa và với anh em. Tóm lại, chúng ta là người Công giáo theo sổ sách, nhưng không phải trong đời sống.

Chúa cần nơi mỗi người chúng ta một tấm lòng: “yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình”. Chỉ có tấm lòng mới thể hiện đích xác chúng ta là con cái Thiên Chúa. Bởi vì tin Chúa, có nghĩa là gắn bó toàn vẹn con người chúng ta vào Chúa, sống theo và cho Chúa.

Người đàn bà Canaan được Chúa ban phép lạ theo lời khẩn cầu, vì bà đã tin. Biết bao anh em lương dân chung quanh chúng ta, chưa nhận biết Chúa, nhưng đời sống luân lý của họ nhiều khi tốt hơn chúng ta. Họ ăn ngay, ở lành, thờ Trời và được bình an. Đời sống trong sáng của họ nên như nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta. Cánh cửa ơn cứu độ của Chúa vẫn dành cho họ. Trách nhiệm của chúng ta là phải sống xứng đáng, vì là con cái Thiên Chúa, và đem Tin Mừng Chúa đến cho những ai chưa được diễm phúc biết Người.

Xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình. Amen.

 

 

 

 

 

50. Lòng tin của người đàn bà xứ Canaan - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

 

Tin Mừng Mt 15:21-28: Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do Thái, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.

Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy?

Vì bà có một đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy vào Chúa. Đức Tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm hạ và kiên trì. Bà đã can đảm, bởi vì bà là người ngoại giáo mà dám đến xin phép lạ cho con mình.

Vào thời Chúa Giêsu người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách lại càng xa hơn, thế mà người phụ nữ này đã vượt qua mọi rào cản để đến với Chúa. Bà đã kiên trì và khiêm nhường xin cho được một ân huệ, bất chấp sự hững hờ của Chúa Giêsu.

Các Tông đồ muốn đuổi bà đi, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.

Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chờ chực vụn bánh từ trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”.

“Con cái” ở đây được hiểu về dân Do Thái, “chó con” được hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do Thái chứ không có ý mỉa mai. Chúa dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” xuông. “Chó con” là giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó chạy lang thang ngoài đường phố mới có nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” này đã gợi cho bà một lời thỉnh cầu đầy khiêm nhường và tin tưởng.

“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh từ trên bàn rơi xuống”.

Sở dĩ người đàn bà Canaan có lòng can đảm khiêm nhu và kiên trì như thế bởi vì bà rất thương yêu đứa con của bà. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, bất chấp sự dửng dưng lạnh nhạt và ngay cả sự khinh khi nhục mạ nữa.

Tôi còn nhớ một câu chuyện xảy ra ở Đông Âu vào tháng 2 năm 2002: Có hai mẹ con chưa thật sự thấu hiểu nhau. Đứa con gái 13 tuổi luôn cho rằng địa vị người mẹ thấp hèn, có người mẹ như vậy không thể ngẩng đầu lên nhìn ai được. Một ngày kia, người mẹ rủ con gái đi trượt tuyết trên núi Alpes. Trong lúc trượt tuyết, do thiếu kinh nghiệm, hai mẹ con đã lạc đường, rồi một trận lở tuyết dữ dội xảy đến. Mẹ con họ chống chọi hai ngày hai đêm trên núi tuyết, mấy lần trông thấy trực thăng cứu hộ đang đi tìm họ, nhưng đều không thể phát hiện ra họ bởi vì cả hai mẹ con đều mặc bộ đồ màu trắng bạc như tuyết. Cuối cùng, người con gái ngất đi do sức yếu, khi tỉnh dậy cô bé thấy mình đang nằm trong bệnh viện, còn người mẹ của cô đã qua đời.

Các bác sĩ nói với cô rằng, người mẹ đã dùng cả sinh mạng để cứu cô. Thì ra, người mẹ đã tự cắt động mạch lấy máu nhuộm đỏ một vùng tuyết trắng để các trực thăng cứu hộ phát hiện ra con gái mình. Tình thương của người mẹ là như thế đó, và tình thương của người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Bà yêu thương đứa con nhỏ yếu đuối, không tự làm được gì để cứu mình, nên bà đã làm mọi cách để cứu đứa con của mình. Yêu con nên bà đã tin Chúa.

Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ.

Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa.

Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo.

Yêu con nên bà đã tín thác vào Chúa. Bà tin chắc chắn Chúa sẽ cứu chữa con bà.

Một đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm nhu và kiên trì và đức tin mạnh mẽ ấy đã khiến Đức Giêsu không thể từ chối.

Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

 

 

 

 

51. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

 

TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ

Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.

Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.

Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.

Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.

Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.

Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.

Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.

Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.

Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.

Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.

Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.

Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.

Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?

2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?

3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?

 

 

 

 

 

52. Ơn Cứu Độ phổ quát.

 

Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân chúng.

Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.

Người này nói với Chúa:

– Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.

Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu nguyện.

Khi người này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.

Ông bèn thưa với Chúa:

– Lạy Chúa, con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.

Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.

Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ trong rừng lại cũng chẳng thuộc lời cầu nguyện.

Ông đã thưa Chúa:

– Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.

Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:

– Lạy Chúa, Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn làm gì thì làm.

Nói xong ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được. Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa còn nghe lời kêu xin của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan, vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại đạo nên bà không phải là người mà Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho người Do Thái. Chúa làm thinh. Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho chúng tôi điếc tai mất, xin Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời của Đức Giêsu “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” xem ra ăn khớp với yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các con chiên lạc của nhà Israel có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là những con chiên xa lạ trong dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã không từ chối người này hay người kia.

Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát, người đàn bà không ngã lòng và cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến đây câu trả lời của Chúa lại có vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy, nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ là một thử thách lòng tin. Người đàn bà ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như thế, bà đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó con” trong nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con mình được khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm ngạc nhiên về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con người và Ngài muốn tìm ở đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì bất cứ ai, dù là người ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Ngài là ơn phổ quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức Kitô để cứu độ nhân loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ chung và duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay cũng đã cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để đem lại cho Tin Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong Giáo Hội của Đức Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.

Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nhớ đến tình thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua Đức Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương đến với hết mọi người, để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi dân tộc trên thế giới.

 

 

 

 

 

53. Đức Kitô không để người nào ở ngoài.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của – Charles E. Miller)

 

Đôi khi có vẻ như thời đại này có nhiều cuộc tranh cãi nhất bên trong Giáo Hội. Những người Công giáo tranh cãi với nhau về nhiều điều và phương tiện truyền thông đại chúng giống như thế gian tin rằng nước Mỹ chống lại mọi điều Đức Thánh Cha đã nói. Khi những cuộc tranh cãi kết thúc trong oán ghét và chia rẽ, chúng ta biết rằng chúng thật tai hại.

Thật sự là không có gì trong Giáo Hội hiện nay của chúng ta có thể so sánh với sự tai hại và cay đắng trong cuộc tranh cãi nơi Giáo Hội tiên khởi giữa người Do thái và dân ngoại trở lại với đức tin. Những người Kitô hữu Do thái, những người được gọi là “những người nhiệt thành” tin rằng những người dân ngoại muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải được cắt bì và theo luật Môisen. Nói cách khác, họ phải trở thành người Do thái trước đã. Những người dân ngoại thì nhấn mạnh là Chúa Giêsu đã thực hiện mọi việc mới rồi. Người đã mở rộng sự mời gọi cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc để thân mật với Thiên Chúa của Israel, Đấng là Thiên Chúa thật.

Sự mời gọi của Người đã được tiên báo trong sách tiên tri Isaia. Bài đọc chúa nhật hôm nay được lấy từ phần thứ ba trong sách tiên tri Isaia. Đoạn văn ấy nói về những người Do thái trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị những người ngoại quốc xâm chiếm và họ rất phẫn nộ. Những người Do thái trở về luôn bị cám dỗ phải đánh đuổi những người ngoại quốc hoặc họ phải nghe theo lời giảng dạy của tiên tri isaia, lời ấy nói rằng những người ngoại quốc ấy có thể hợp làm một với họ và đáng được Thiên Chúa chấp nhận. Chúa nói qua miệng tiên tri rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân nước”.

Chủ nghĩa đại kết là một bài học khó nhai đối với người Do thái. Đó là lý do vì sao vào thời Chúa Giêsu và ngay sau đó diễn ra một cuộc tranh cãi mạnh mẽ về chỗ của người dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là người Do thái, bà ta là người dân ngoại. Các môn đệ của Chúa Giêsu muốn Người đừng làm gì cho bà ta và muốn đuổi bà ấy đi. Khi người đàn bà cự lại và xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con gái bà, Chúa Giêsu đáp: “Không lý gì lại lấy thức ăn của con cái mà ném cho chó”. Tại sao Chúa Giêsu lại nói nặng lời như thế và điều đó có ý nghĩa gì? Thật ra những lời của Người chỉ là tiếng vang của những người Giuđa không muốn Người làm gì cho dân ngoại và coi dân ngoại như chó vậy. Thánh Mathêu khi viết Phúc Âm, ngài đã hy vọng rằng khi nghe những lời nặng nề khó nghe trên môi miệng của Chúa Giêsu sẽ làm cho những người nghe bị sốc vì sự loại bỏ dân ngoại đến cỡ nào. Người đàn bà với đức tin của mình đã chiếm được ân sủng nơi Chúa Giêsu.

Ngày nay, chúng ta không nghĩ rằng mọi người phải trở thành người Do thái trước khi trở thành người Công giáo nữa. Nhưng chúng ta có thể thực hành những hình thức khác của sự loại trừ. Trong một số vai trò hình thức cũ đã trở lại “chống chủ nghĩa Semit” ngày nay đã thay thế “chủ nghĩa bài dân ngoại” của thế kỷ Kitô giáo đầu tiên. Chủ nghĩa chủng tộc là một vấn đề nghiêm trọng nơi xã hội của chúng ta ngày hôm nay. Oán ghét dân nhập cư, nhiều người trong những phong trào đó, mang danh là người công giáo, đã được gán cho một từ rất lạ, chủ nghĩa “bài ngoại”.

Từ mà chúng ta sẽ tập trung chú ý là “người Công giáo”. Từ đó nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là một Giáo Hội toàn cầu, bao gồm cả thế giới, Giáo Hội thân thiết với mọi dân tộc. Mọi nhà thờ công giáo đều là nhà cầu nguyện cho tất cả mọi người. Ở đó Thiên Chúa đã tự hiến vì tất cả chúng ta, không phải là những bánh vụn rơi từ bàn ăn nhưng là Thịt và Máu Chúa. Chúa đã đến với chúng ta trong Bánh Thánh, là Chúa của mọi dân tộc. Trở nên tín hữu của Người là chấp nhận tất cả mọi người không loại trừ một ai hết.

 

 

 

 

 

54. Tin Mừng Cứu Độ được loan báo cho mọi người

- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng -

 

Tin Mừng Mt 15:21-28: Tấm gương người đàn bà này là một lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Có tin tưởng là có phép lạ; mạnh mẽ tin thì sẽ muốn sao được vậy.

Cả ba bài đọc Kinh thánh trong Chúa nhật XX này mở ra đề tài về tính phổ quát của dân Tin mừng. Ơn cứu độ của Đức Kitô không là đặc quyền, đặc lợi của một dân tộc hay của một ai. Ơn cứu độ được ban tặng cho hết thảy mọi người.

Danh xưng Công giáo của Giáo hội nói lên đặc tính phổ quát này: nghĩa là yêu thương, đón nhận, phục vụ tất cả mọi người không phân biệt nguồn gốc, văn hóa, chủng tộc… Vì đối với Thiên Chúa không có dân ngoại hay người ngoài mà tất cả đều là con cái của Người.

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1. Bài đọc I: Is 56,1.6-7

Thiên Chúa đón nhận mọi người

Chính Đức Chúa loan báo Ngài sẽ dành cho mọi người cùng một sự đón nhận như dân được tuyển chọn. Tất cả sẽ nhận biết một Thiên Chúa Duy Nhất, Chân Thật và gắn bó với Ngài.

Bản văn trích trong sách Isaia này ra đời sau thời kỳ lưu đày ở Babylone. Đền thờ Giêrusalem đã tìm lại thời huy hoàng của mình, là nơi tập trung tất cả đời sống quốc gia và tôn giáo của dân Do Thái.

Ở đây Tiên tri suy tư về ơn gọi phổ quát của nhà cầu nguyện: tất cả mọi người không phân biệt nguồn gốc, văn hóa, tình trạng xã hội đều được Thiên Chúa đón nhận như Ngài đã đón nhận dân Do Thái.

Giáo hội sẽ chính là nơi thực hiện trọn vẹn sứ mạng phổ quát này. Chính trong Giáo hội, nhờ niềm tin vào Đức Kitô, sẽ tạo lập lại một giống nòi duy nhất, trở nên dân của Thiên Chúa.

2. Bài đọc II: Rm 11,13-32

Thiên Chúa tỏ lòng xót thương với con cái Israel

Mặc dù người Do Thái cố chấp trong sự hoài nghi, từ chối đón nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, nhưng Thánh Phaolô vẫn không thất vọng vì anh em đồng bào của mình: Ngài tin rằng một ngày nào đó, họ sẽ nhận ra lỗi lầm của mình và hoán cải.

Trong suốt những hành trình sứ vụ Tông đồ, Phaolô luôn vấp phải nỗi thương tâm: Khi mà phần đông những người ngoại tin nhận Đức Kitô, thì dân Do Thái lại chống đối Người, từ chối Người hàng loạt.

Tin mừng khởi đi từ dân Do Thái, nhưng họ đã không đón nhận. Tin mừng đã được loan đến anh chị em dân ngoại. Sự việc ấy, Thánh Phaolô mong rằng sẽ làm dân tộc của Ngài để ý đến Đức Kitô.

Dân Do Thái chắc chắn không bị loại bỏ vĩnh viễn. Dân ngoại xưa kia đã không tin, mà nay lại tin. Dân Do Thái cũng vậy, bây giờ họ không tin, ngày mai họ sẽ tin. Dân ngoại được cứu độ không có nghĩa là dân Do Thái bị loại trừ. Thiên Chúa yêu thương cứu độ hết thảy mọi người.

3. Tin mừng: Mt 15,21-28

Niềm tin lớn lao của người phụ nữ Canaan

Chúa Giêsu cứu chữa con gái người đàn bà xứ Canaan, ngoại giáo, vì bà có một lòng tin mạnh mẽ. Sự kiện này cho thấy giá trị cũng như vai trò của niềm tin. Thiên Chúa yêu thương cứu độ con người không hệ tại ở việc họ là ai, làm gì mà hệ tại ở chính niềm tin của họ. Chúa Giêsu đã khẳng định chân lý này khi nói với người đàn bà: “Này bà, bà có lòng tin mạnh, bà muốn sao thì được vậy”.

Mặc dù, Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng của mình chủ yếu nơi dân Do Thái, theo như lời Kinh thánh. Tuy nhiên, Người không từ chối thực thi tình yêu của Người đối với dân ngoại, nhất là khi họ tin tưởng vào Người.

Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ sau khi đã chối từ lời khẩn cầu của người đàn bà nhiều lần. Và Người cũng khẳng định việc tuyển chọn Israel trước hơn mọi dân khác: “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel thôi”. Tin mừng phải loan báo cho con cái trong nhà trước đã.

Tuy nhiên, câu chuyện đã dẫn dắt đến cao trào là đức tin của người đàn bà. Chính nhờ đức tin mà người ta trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa, thuộc dòng dõi Abraham. Người đàn bà khiêm tốn nhận ra thân phận mọn hèn của mình trước những người Do Thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nên có ưu tiên hơn. Bà không xứng đáng, nhưng vẫn van xin vì biết rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời bà. Điều này đã làm nên lòng tin lớn lao nơi bà.

II. GỢI Ý BÀI GIẢNG

1. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan minh chứng tình yêu không biên giới của Thiên Chúa:

Khi trả lời người đàn bà: Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel, xem ra Chúa Giêsu tỏ một thái độ cục bộ. Hơn nữa, Người ví bà cũng như dân ngoại là chó, quả thật, dễ gây sốc đối với người nghe. Tất nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý cục bộ hay coi khinh người đàn bà Canaan này. Thực ra Chúa Giêsu nhắc tới lệnh sai đi của Chúa Cha đã được các Tiên tri loan báo. Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới toàn thể các dân tộc và lan ra tạn cùng thế giới. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã chấp nhận cứu chữa con gái bà. Tất cả những điều này nhằm nói lên tình yêu không biên giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu có vai trò là mục tử đến để qui tụ tất cả lại thành một đàn chiên duy nhất.

Dù là tội nhân, dù là người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tất cả mọi người đều sẽ được hưởng nhận tình yêu của Thiên Chúa, đều được Người thi ân giáng phúc, điều cần thiết là tin tưởng và chạy đến với Người.

2. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan, lời mời gọi niềm tin:

Trước những lời nói xem ra đầy sự khinh miệt của Chúa Giêsu, người phụ nữ vẫn khiêm tốn khẩn nài Người cứu chữa con gái mình. Bà không phật lòng trước thái độ và lời nói của Chúa Giêsu, thậm chí còn dùng chính lời của Chúa để đáp trả một cách tinh tế: “Thưa Ngài, đúng vậy, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn”. Bà chỉ cầu những miếng bánh vụn thôi, cũng đủ để con bà được chữa khỏi. Bà đã tin, và tin một cách mạnh mẽ. Niềm tin nơi bà đã giúp bà khiêm tốn khẩn cầu Chúa. Đức tin mãnh liệt ấy đã gây ngỡ ngàng cho Chúa Giêsu. Bánh mà người Do Thái, con cái trong nhà khước từ, vậy mà người phụ nữ này, một người xa lạ, người ngoại lại đón nhận với một niềm tin vững vàng. Đức tin ấy đã mang lại cho bà điều bà cầu xin: Bà có lòng tin mạnh mẽ, bà muốn sao được vậy.

Tấm gương người đàn bà này là một lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Có tin tưởng là có phép lạ; mạnh mẽ tin thì sẽ muốn sao được vậy.

3. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan, lời mời gọi đến với tha nhân:

Với niềm tin mạnh mẽ của mình, người phụ nữ Canaan đã thuyết phục được Chúa Giêsu, để Người phá đổ mọi rào cản mà thi ân cho bà. Đó cũng là lời mời gọi Kitô hữu phải biết phá đổ mọi rào cản để đến với tha nhân. Chúa Giêsu ngợi khen người phụ nữ dân ngoại có đức tin mạnh mẽ, thế thì, chúng ta có quyền gì để có thể lên án chê bai, khích bác anh chị em không cùng tôn giáo chúng ta khi họ tin vào Chúa; khi họ có một nếp sống đạo đức, lành mạnh và gương mẫu. Cần phải biết rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết mở lòng đến với mọi người. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương ban ơn cứu độ, tất cả đều có cơ hội trở nên con cái Chúa và tất cả đều sẽ là anh chị em của nhau. Cho nên, chúng ta không có quyền loại trừ ai, cách ly một ai và từ chối một ai cần đến chúng ta yêu thương nâng đỡ.

Là môn đệ Chúa Giêsu Kitô, Kitô hữu chúng ta phải có tấm lòng bác ái quảng đại và lòng khiêm nhu tự hạ để có thể tôn trọng yêu mến mọi người. Điều này không phải dễ khi bản thân con người dễ bị óc tự tôn, tự mãn chi phối; rất dễ bị óc kỳ thị, thành kiến và cục bộ ảnh hưởng.

III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương nhận lời cầu khẩn của những ai tin tưởng cầu xin Ngài. Vậy giờ đây, chúng ta cùng tin tưởng dâng lời cầu nguyện.

a. Giáo hội là nơi Chúa Giêsu thông ban tình yêu cứu độ của Người cho con người và thế giới qua mọi thời đại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội khắp nơi luôn là nơi nương tựa, chở che và trung thành phân phát tình yêu của Chúa qua việc nỗ lực bảo vệ sự sống, bênh vực công lý và xây dựng hòa bình.

b. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh chị em chưa nhận biết Chúa, chưa được nghe sứ điệp Tin mừng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý, đi tìm tình yêu và đi tìm Chúa, gặp được ánh sáng của Tin mừng soi chiếu.

c. Bà có lòng tin mạnh mẽ, bà muốn sao được vậy. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết gia tăng niềm tin của mình bằng đời sống gắn bó với Chúa, siêng năng đến với Thánh thể và chuyên chăm thực thi bác ái.

Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương đến cứu độ chúng con là những người tội lỗi để chúng con được trở nên con cái Chúa Cha hằng hữu. Xin gia tăng thêm đức tin cho chúng con, để tất cả luôn trung thành bước theo Chúa mang tình yêu, Tin mừng cho mọi người chung quanh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

 

 

 

 

55. Chúa Nhật 20 Thường Niên

 

HỠI NGƯỜI ĐÀN BÀ KIA, ĐỨC TIN CỦA NGƯƠI RẤT MẠNH!

Người đàn bà xứ Canan là một người mẹ. Chúa Giêsu nhìn thấy mẹ Maria đàng sau mỗi người mẹ. Ngài không quở mắng bao nhiêu mẹ của Giacôbê và của Gioan khi bà xin cho họ làm bộ trưởng (Mt 20,20). Ngài âu yếm chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô. Ngài bối rối do bà goá thành Naim vừa mất đứa con trai của mình. Tôi nghĩ rằng điều này làm ta hiểu rõ hơn điều sắp xảy ra giữa Chúa Giêsu và người mẹ xứ Canan.

Ngài là người Do thái đứng trước người phụ nữ ngoại đạo, Ngài không muốn có chuyện rắc rối với bà. Thật là khổ sở, nhất là đối với những người trẻ không chịu đựng nổi những câu chuyện giữa các chủng tộc và những tôn giáo khác nhau: Thiên Chúa có được dành cho tất cả mọi người hay không?

Sự phổ quát của Chúa, rất cảm động, vẫn có nguy cơ chỉ là lý thuyết. Chúng ta không thể dễ dàng lấn sang những khác biệt đến thế. Phải thoả hiệp dần dần. Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi thứ của thân phận con người, kể cả những giới hạn, và việc tìm kiếm ý của Chúa Cha đôi khi rất là khó.

Chúng ta xét đoán Thiên Chúa rất nhanh: Tại sao lại có một dân tộc được chọn? Tại sao Chúa Giêsu muốn bỏ rơi người đàn bà Canan? Bởi vì, là người Do thái, Chúa Giêsu đi vào trong chương trình cứu độ như Ngài biết chương trình đó qua Thánh Kinh của dân tộc Ngài, và chương trình cứu độ bao gồm hai dữ kiện rất rõ ràng: 1. Thiên Chúa muốn cứu chuộc tất cả mọi người; 2. Qua dân Do thái. Vào lúc này đây, Chúa Giêsu chỉ nghĩ Ngài được phái đến “vì các con chiên lạc nhà Israel” mà thôi.

Tuy nhiên có người mẹ này đây. Một số người đã nghĩ rằng Ngài tỏ ra dửng dưng (“thậm chí Ngài không trả lời”) để làm cho đức tin của người đàn bà Canan này tăng lên! Nói như thế là chối bỏ mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Giêsu là một con người và đơn giản là Ngài bối rối giống như một con người. Xua đuổi bà ta sao? Thoả mãn bà ấy để cho bà ấy về như các môn đệ gợi ý hay sao? Các môn đệ khó chịu và khinh khi hơn là quan tâm đến các chương trình của Thiên Chúa.

Đây là một bà mẹ, Chúa Giêsu bắt đầu khuất phục và ít ra là cho bà ấy điều mà Ngài có thể cho: sự tử tế của một cuộc đối thoại. Trước tiên hãy để cho con cái ăn no nê đã. Đừng quá vội vàng mang ơn cứu độ đến cho những người không được chuẩn bị, những con chó con.

Người đàn bà Canan hoàn toàn nắm được nét thân hữu trong những lời của Chúa Giêsu: người ta rất yêu quí những con chó nhỏ nuôi trong nhà. Bà thật sắc sảo, bà là mẹ, bà quyết tâm đến với người có thể cứu con gái của bà: “Những con chó nhỏ cũng được ăn những mảnh vụn”.

Lời nói tin tưởng này mở lòng Chúa Giêsu. Người đàn bà Canan vừa xoá bỏ một lằn ranh nơi Ngài. Với một đức tin khiêm hạ và sâu sắc đến nỗi bà không nói với Ngài: “Thầy hãy làm trái lại”. Bà đã hiểu. Bà cùng Ngài đi vào trong những dự định của Chúa Cha: “Phải, lạy Chúa, xin Ngài trước tiên hãy nghĩ đến con cái, nhưng xin đừng chậm trễ nghĩ đến những con chó con có thể còn tin tưởng nơi Chúa nhiều hơn nữa”.

Thế là Chúa Giêsu làm một cử chỉ đánh dấu tính hoàn toàn ưu việt của đức tin. Điều xảy ra với người đàn bà Canan chứng tỏ rằng từ nay tất cả đều tùy thuộc vào đức tin. Người Do thái có sự ưu tiên, người đàn bà Canan là một người mẹ làm xáo trộn tất cả, nhưng đã có một điều duy nhất đáng kể, từ nay sẽ có một điều đáng kể mà thôi: “Hỡi đàn bà kia, đức tin của bà rất mạnh”

 

 

 

 

 

56. Nỗi lòng người mẹ.

 

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ về tình thương của một người mẹ.

Người đàn bà xứ Canaan hẳn đã đau khổ rất nhiều, khi đứa con của mình bị quỉ ám. Nghe đồn về Chúa Giêsu, ngày hôm nay bà đã tìm đến gặp Ngài để xin Ngài cứu chữa đứa con yêu dấu của bà. Bà nói:

– Lạy Ngài là con vua Đavid, xin thương xót tôi bởi vì đứa con gái của tôi bị quỉ ám khốn cực lắm.

Thế nhưng Chúa Giêsu đã yên lặng, khiến cho các môn đệ cũng phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà lại kêu cầu:

– Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp tôi.

Thái độ của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ngài bảo:

– Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.

Nếu như chúng ta, rất có thể chúng ta đã bực bội tức tối vì cho rằng lời nói đó có tính cách mỉa mai và hạ nhục. Nhưng người phụ nữ ngoại giáo này, chắc hẳn lúc bấy giờ đã nghĩ tới nỗi khốn cùng của đứa con, nên bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà thưa cùng Chúa Giêsu:

– Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.

Tới lúc này chúng ta có thể nói:

– Niềm tin cậy trông và tình thương của một người mẹ đã thắng, bởi vì Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ca ngợi bà và làm phép lạ như lòng bà mong ước. Ngài phán:

– Này bà, bà có một lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn sao thì được như vậy.

Và đoạn Tin Mừng đã kết luận: Ngay lúc đó, con gái bà đã được chữa lành. Chắc hẳn lúc bấy giờ bà đã vui mừng hớn hở, bà đã quì xuống cảm tạ Chúa rồi vội vã trở về với đứa con của mình đã được chữa khỏi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nghĩ đến người mẹ của mình. Người mẹ ấy cũng đã phải vất vả vì chúng ta, suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta cho tới ngày hôm nay. Người mẹ ấy đã phải lo lắng mỗi khi chúng ta đau yếu. Và không chừng người mẹ ấy cũng đã khổ đau mỗi khi chúng ta ngỗ nghịch ương bướng.

Từng ngày và từng đêm, người mẹ ấy luôn cầu xin Chúa nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta để chúng ta có được một tương lai tươi sáng. Trên đời này không có gì quí giá cho bằng tình thương của người mẹ.

Chính vì thế mà nhạc sĩ Y Vân đã có lý khi ca tụng tình thương ấy:

– Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào.

Phải, lòng mẹ chính là nơi trú ẩn an toàn nhất cho mỗi đứa con. Tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế là trái tim của người mẹ. Bởi đó, chúng ta hãy biết ơn và trọng kính người mẹ của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta làm được trong suốt cả cuộc đời cũng không đủ để báo đáp công ơn của người mẹ hiền.

Một ngày kia, khi người mẹ không còn nữa, chúng ta mới cảm nghiệm được rằng mình đã mất đi một kho tàng quí giá. Lúc bấy giờ nếu chúng ta có hối hận về cách cư xử tệ bạc của mình thì đã quá muộn.

Bởi đó, để kết luận tôi xin nhắc lại nơi đây câu ca dao của người Việt Nam chúng ta:

Công cha như núi thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

 

 

 

 

 

57. Một đức tin mới mẻ và mãnh liệt

(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Miền Tyrô và Siđôn nói chung là phần đất cuối cùng ở miền tây bắc xứ Palestina. Đa số dân chúng ở đây là người Do thái sinh sống tại vùng này, vì thế dân ngoại cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều về phương diện hiểu biết lề luật của Chúa nên chúng ta không ngạc nhiên mấy nếu một vài người ngoại đạo lại biết vài đoạn Kinh Thánh nho nhỏ. Điều này giải thích danh từ ‘con vua Đavít’ mà người phụ nữ Canaan đã dùng để thưa với Chúa. Tại sao Chúa Giêsu lại đi lên tới vùng này? Có lẽ là để đi xa xứ Galilêa một ít vì nơi đây tính cách đại chúng của Người có thể lam cho nhiều tâm hồn nghĩ lầm về một Đấng Cứu Thế trần gian. Cũng có lẽ Người lên đây là để đào tạo các môn đệ cách thong thả hơn. Nhất là qua cách Người cư xử với người phụ nữ Canaan Người muốn dậy các môn đệ một bài học thường thức. Họ sẽ nhớ lại khi đặt vấn đề người ngoại giáo gia nhập Giáo Hội, gia nhập Nước Trời và họ sẽ biết là không thể nào từ chối không cho người ngoại giáo gia nhập được. Nói chung thì đoạn Tin Mừng này tuy bề ngoài có vẻ cứng cỏi, nhưng cho thấy rõ là Chúa Giêsu quan tâm đến người ngoại giáo cách sâu xa và Người hằng yêu mến họ. Nó cũng chứng tỏ người ngoại giáo có một khả năng mới mẻ và mãnh liệt để đón nhận đức tin. Đức tin của người phụ nữ Canaan đánh động chúng ta ở những điểm nào?

1) Đây là một đức tin khiêm tốn. Người phụ nữ bất hạnh có người con gái bị ốm, đau khổ đến nỗi kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà ta không có vẻ hiếu thắng. Bà ta không ý thức là đang nêu ra một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là tình thế muốn Ngài hoạt động ở Israel chứ không phải nơi người ngoại giáo, bà ta đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ của lời cầu xin. Bà ta cầu xin và bà đặt mình ngang hàng với đàn chó con sống bằng những mụn bánh dư thừa từ bàn ăn rơi xuống. Người phụ nữ Canaan đã gắn bó cho đức tin cái tính chất khiêm nhượng, khiến Chúa phải xiêu lòng. Đức tin vẫn là một tiếng kêu hồn nhiên. Nếu phải phân tích ta sẽ thấy trong đó dấu hiệu của một sự đau khổ lớn lao, một sự choáng váng vì trông cậy đột ngột và kẻ đó là một sự an tâm đầy tin tưởng. Hình như người phụ nữ Canaan khi được Chúa trả lời và như thế là được Người quan tâm đến, đã nắm chắc phần thắng. Một cách chắc chắn, bà ta cảm thấy là Chúa sẽ chữa lành cô con gái của bà.

2) Đây là một đức tin nài nỉ. Đức tin dừng lại cách mạnh mẽ ở một điểm rõ ràng: Chúa Giêsu có thể chữa lành đứa bé đang bị ốm. Trước mặt Chúa, người phụ nữ Canaan đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà ta bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà ta vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố, cái ngoan cố đặc biệt của bà mẹ. Trên bình diện tâm lý đức tin này có tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng sẽ được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng sâu xa, người ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn người phụ nữ Canaan một ơn riêng (một ơn huệ) để bà bám chắc lấy Chúa và tin tưởng vào Người.

3) Đây là một đức tin mới mẻ và vươn xa. Đức tin không vướng mắc bởi các vấn đề, những vấn đề từ nơi khác tới. Từ các tông đồ khi các Ngài cho rằng cách làm của người phụ nữ Canaan chỉ nỗi quấy rầy và từ nơi Chúa Giêsu khi Người nêu ra vấn đề quyền ưu tiên của dân Israel. Đức tin của người phụ nữ Canaan lật đổ các vấn đề để đi thẳng tới đối tượng, điều này làm chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, từ lâu chúng ta thường được nuôi dưỡng bằng rất nhiều ơn huệ của Chúa trong vụ trụ đức tin. Tuy thế đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm tốn mà nó phải giữ hay không? Phải chăng chúng ta bị vướng mắc bởi những vấn đề thường làm suy yếu đức tin của chúng ta?

 

 

 

 

 

58. “Để bà ấy về đi…” - Lm. Bernadine M. Đặng, CRM

 

Đây là những lời được thốt ra từ miệng các môn đệ Chúa Kitô sau khi nghe người đàn bà van nài Chúa cứu giúp. Không biết quý bạn nghĩ sao chứ đối với tôi những lời này nghe rất là lạnh lùng, không tế nhị, và chẳng thấy có tấm lòng tí nào. Không hiểu làm sao các môn đệ lại phản ứng như vậy? Không hiểu sao họ lại không có một tí cảm thông nào hết vậy?

Và nữa, không những chỉ các môn đệ mà thôi, xem ra ở đây Chúa Giêsu cũng dửng dưng với những lời nài nẵng của người đàn bà này: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” Chúa Giêsu đã làm gì? Thánh Mat hêu nói rằng: “Người không đáp lại một lời nào.” Tại sao vậy? Tôi thiết nghĩ, có lẽ Ngài đang đợi xem các môn đệ của ngài phản ứng ra sao, xem họ suy nghĩ gì về việc này.

Ở đây tôi thấy có hai lý do: Lý do thứ nhất mà có lẽ chúng ta thấy xảy ra thường xuyên nơi chính chúng ta. Mặc dù không có nói rõ trong bản văn, nhưng chúng ta có thể đưa ra một vài suy luận về trường hợp này. Chúng ta nhớ là các môn đệ theo Chúa đi khắp mọi nơi, mọi chỗ, từ thành này đến thành khác. Và mỗi nơi họ đến người ta đều tuôn đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dậy và xin Ngài điều này điều nọ. Tôi đoán có lẽ là các môn đệ cũng đã rất mệt – mệt về thể xác và mệt cả về những điều mà người ta cứ nài xin Chúa. Do đó, các ngài khó chịu, và không muốn ai phiền hà nữa cả. “Đã bảo đủ rồi là đủ rồi mà.” Thỉnh thoảng đôi khi tôi cũng cảm thấy mình phản ứng giống như vậy.

Tuy nhiên, lý do thứ hai được thấy ghi rõ trong bản văn lại cả là một vấn đề và thật là một điều thất vọng. Như chúng ta đã biết, và đã thấy ghi lại nhiều nơi trong Thánh Kinh, người ta trong thế giới cũ đã vạch ra một sự cách biệt rõ ràng là ai ở “trong” và ai ở “ngoài.” Người Do Thái cũng thế. Không ngoại trừ. Do đó, có lẽ họ không hình dung ra được rằng Chúa Giêsu sẽ đến để lắng nghe và giúp đỡ người đàn bà thành Canaan này. Đối với các môn đệ thì đây là một điều hoàn toàn không thể nghĩ được. Người đàn bà thành Canaan này không phải là một trong những người của họ. Chúa là Chúa của họ. Chúa không có đứng về phía bên những người không phải Do Thái. Và như thế, người đàn bà này không có lý do gì để nài xin Chúa giúp cả. Chính vì vậy mà họ đã trả lời một cách lạnh lùng là “để bà ấy về đi…”

Ở đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm gì? Ngài đã xử lý một cách rất khéo về cái thành kiến đã ăn sâu trong lòng của các môn đệ (giả vờ là ngài cũng cảm thấy như vậy). Và n hư thế, sau khi nói với người đàn bà là ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel, ngài còn đi xa hơn nữa… là dùng đến chữ có tính cách gièm pha, nhục nhã là “ch ó” để chỉ về bà. Chúng ta có thể dường như nghe được cảm nghĩ của các môn đệ “Đúng rồi thầy. Nói cho bả biết rõ… thân phận của bả là ai.”

Rồi chúng ta thấy đến lượt người đàn bà phát biểu. Bà đã tỏ ra khác hẳn cử chỉ thái độ của các môn đệ. Chúng ta có thể dường như thấy nơi ánh mắt của bà đang đợi xem Chúa sẽ làm gì.

“Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.”

Quý bạn thân mến,

Những bức tường ngăn cách mà con người đã dựng nên, những lý do tức tối đã ăn sâu trong lòng con người từ thế hệ đến thế hệ khác, những căm thù, phẫn uất nào đi nữa… để đón nhận người này và loại bỏ người kia, đều không có phần ở nơi người đàn bà này. Bà không chấp nhận những sự bất công và những xếp hạng vô nghĩa của thế gian. Bà muốn vượt qua những bức tường ngăn cách này để tìm kiếm sự thiện, sự chữa lành, và ân phúc. Không một điều gì hoặc không một ai có thể ngăn cản bà tìm kiếm người có thể cứu giúp người con gái của bà – Đấng duy nhất có thể ban cho bà điều bà cần.

Chúa Giêsu đã làm gì?

“Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”

Quý bạn thân mến,

Ở đây chúng ta thấy, tâm trí của các môn đệ đã đóng kín, còn của bà thì đã mở ra. Tấm lòng của các môn đệ thì hạn hẹp, đo lường, tính toán, còn của bà thì quảng đại và bao dung. Cái nhìn của các môn đệ rất thiển cận, còn cái nhìn của bà thì rất xa rộng. Và buồn thay, đức tin của các môn đệ thì lại không có, còn đức tin của bà thì thật sâu xa.

Như chúng ta đã quá biết, câu chuyện Phúc Âm hôm nay không chỉ là cái cửa sổ để nhìn vào quá khứ. Những sai lầm, thất bại, và thành kiến của các môn đệ vẫn còn đang tiếp tục lan truyền đến chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng vẫn thường tiếp tục tìm cách để loại trừ và không chấp nhận. Chúng ta thích quyết định ai là người sẽ chiếm được tình yêu của chúng ta và ai không, ai đáng được chúng ta yêu và ai không, ai được chúng ta để ý đến và ai là người mà chúng ta sẽ không bao giờ màng đến. Chúng ta đã dựng nên những bức tường ngăn cách, đã xếp hạng, và gán tên đủ loại. Chúng ta đã tạo nên những cách biệt thật là đau lòng về ai là “một trong những người của chúng ta” và ai không, ai là người “ở trong” và ai là người “ở ngoài.”

Tình Yêu của Thiên Chúa không có giới hạn. Và ngài cũng xin một điều giống như vậy ở nơi chúng ta. Chắc hẳn, hầu hết mọi người chúng ta đều có những người trong cuộc đời rất cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, rất cần đến tình thương của chúng ta, cần đến sự thông cảm của chúng ta. Và có lẽ vì một vài lý do nào đó – hoặc có một vài thành kiến, hoặc không muốn phiền hà – chúng ta đã không yêu thương họ như Chúa đã xin chúng ta.

“Để bà ấy về đi….”

Ước mong sao những lời đó không bao giờ còn có trong lòng của chúng ta hoặc thốt lên nơi miệng lưỡi chúng ta. Trái lại, khi gặp một người nào đó cần sự giúp đỡ, chúng ta đều có thể làm một điều gì đó cho họ (cho dù chỉ là một lời nói nhã nhặn, đôi tai đồng cảm đón nghe, hoặc đôi vai để tựa nương…).

Chúng ta hãy suy nghĩ, xét xem, và cầu nguyện… “Lạy Chúa, con có thể làm gì để giúp họ?”

 

 

 

 

 

59. Lời cầu xin của bà được toại nguyện

 

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình bày việc Chúa Giêsu vượt qua biên giới để tiến vào vùng đất của dân ngoại, và một người trong dân là người đàn bà xứ Canaan sắp sửa được dự phần vào tác vụ của Ngài, đó là được lãnh nhận hồng ân như những người Do Thái. Đây là điểm khởi đầu, một dấu chỉ mời gọi để rồi sau này các tông đồ được Chúa Thánh Thần soi sáng vượt qua ranh giới hạn hẹp của quốc gia để đi đến tận cùng bờ cõi trái đất rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.

Khi bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu gặp những lời kêu van của người đàn bà đang bị thử thách: “Lạy Con Vua David, xin dủ lòng thương tôi, đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào, và trước lời khẩn cầu tha thiết như vậy lại sao Chúa Giêsu không đáp lại

Lời cầu nguyện của người đàn bà thật cảm động, thật chân thành, thế mà lại sao Chúa lại không đáp trả. Chúa là Đấng nhân từ trước những người cùng khổ chạy đến kêu cầu Ngài. Hơn nữa, Ngài đã dạy cho các đồ đệ cầu nguyện rằng: “Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho, hãy xin thì sẽ được”, thế mà lại sao trong lúc này Chúa tặng thinh không trả lời người đàn bà, hẳn phải có lý do nào đó mà Ngài không trả lời.

Thật vậy, các tông đồ không thể hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy, nên nói với Thầy mình: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, kẻo bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu xin mãi”. Các đô đệ hiểu tầm thái độ im tặng của Chúa như một sự chối từ nên các ông cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho rảnh, đừng để bà ấy quấy rầy nữa”. Không những Chúa im tặng mà Ngài còn lên tiếng chối từ lời van xin của người đàn bà trong cơn thử thách: “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc của nhà Israel”.

Đứng trước một thách thức về lòng tin như vậy, người đàn bà xứ Canaan đã không ngã lòng trước lời từ chối của Chúa, bà đến sụp Lạy dưới chân và thưa với Ngài rằng; “Lạy Ngài, xin thương giúp tôi”. Bà không thắc mắc, không giận dỗi hay trách móc Chúa thế này thế nọ, nhưng bà khiêm tốn hạ mình hơn nữa. Bà không những van xin bằng lời nói mà còn van xin bằng cả con người, bà sụp Lạy trước Chúa Giêsu và nói: “Xin Ngài thương cứu giúp tôi”. Sự im tặng của Chúa, sự chối từ của Ngài là một thử thácho Thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện, Ngài muốn thử thách người đàn bà van xin nhiều hơn nữa: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho con chó”. Lời nói cứng cỏi này xem ra không phù hợp với một con người nhân từ đầy yêu thương như Chúa. Và rồi thử thách đã đến mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được, nhưng người đàn bà dân ngoại này đã vượt qua, bà đã thưa với Chúa Giêsu như sau: “Thưa Ngài đúng tắm, nhưng các chó con cũng được ăn những vụn bánh từ nơi bàn ăn của chủ rơi xuống”. Tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Giờ đây Chúa Giêsu mới trả lời: “Này bà, đức tin của bà đã được chấp nhận, bà muốn sao thì được vậy”. Người đàn bà đã xin được Chúa Giêsu cho con mình khỏi bị quỉ ám.

Thái độ của Chúa Giêsu từ im tặng đến chối từ đã hướng dẫn bà đến mức độ trưởng thành của lòng tin: “Lòng tin của bà vững mạnh, bà muốn sao thì được như vậy”. Sự thử thách đã đến lúc chấm dứt, và cuối đoạn đường gian nan, khi nhìn lại xem ra như Chúa im tặng hay từ chối trước lời ta cầu xin, nhưng giây phút đó là những giây phút quí báu vô cùng, vì những phút im tặng và chối từ ấy giúp lòng tin của ta được trưởng thành. Như vậy, vào cuối đoạn đường gian nan ta mới hiểu được phần nào chương trình của Chúa cho cuộc đời của mình. Nhưng liệu ta có đủ sức để đi đến cuối con đường, đến nơi mà Chúa muốn chúng ta trưởng thành trong đức Tin hay không? Đó là một đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

 

 

 

 

60. Chúa Nhật 20 Thường Niên - Lm Gioan Phan Tiến Dũng

 

Những nỗi đau-thống khổ, lời khẩn thiết kêu van của con người có chạm đến Tình yêu-Lòng thương xót của Thiên Chúa chăng? Nhân loại khi bước vào năm 2020 với biết bao đau thương, khó khăn và thử thách đặc biệt là đại dịch bệnh Covid. Mấy ngày qua khi phải tuân thủ giãn cách xã hội và không thể cử hành thánh lễ quy tụ nhiều tín hữu. Với tâm tư của một người mục tử, tôi có nhiều cảm xúc, cảm thấy buồn-đau và chắc hẳn nhiều người trong ACE cũng vậy. Có thể chúng ta đang tự hỏi: Thiên Chúa là Đấng yêu thương, quan phòng và giàu lòng thương xót; nhưng tại sao giờ đây con cái của Ngài đang gặp quá nhiều đau khổ và dường như khó để tìm ra lối thoát. Khi đối diện với hoàn cảnh thế này, tôi và anh chị em sẽ phải làm gì đây?

Tin mừng hôm nay soi sáng cho chúng ta bắt gặp một hoàn cảnh quá đáng thương của một bà mẹ, chắc hẳn khi một người mẹ có người con nào của bà bệnh tật, đau khổ, thì lòng người mẹ lại càng đau hơn gấp bội nỗi đau mà người con mình đang phải gánh chịu. Vì thương con, vì muốn cứu con, vì muốn con được bình phục và hạnh phúc, bà đã hy sinh tất cả, hy sinh ngay cả danh dự để miễn sao con mình được Chúa đoái thương cứu chữa. Bà đã đi theo để van xin Chúa “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Chắc rằng Chúa nghe những lời van xin của bà, nhưng Tin mừng lại tường thuật “Chúa không đáp lại một lời nào” Phải chăng Chúa không quan tâm đến những điều mà bà mẹ này kêu xin? Ngay cả những môn đệ họ cũng thấy phiền hà khó chịu khi bà mẹ này kêu xin hoài mà tại sao Chúa không làm gì cho bà ta cả. Nên các ông đến gần Người mà xin nhưng với cung cách không hài lòng và như trách Chúa: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”.

Lời đáp lại của Chúa Giêsu thoạt nghe chúng ta cảm thấy phủ phàng và nhói trong lòng, vì Ngài “chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” hay “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Để hiểu đúng ý nghĩa những gì Chúa nói, chúng ta cần phải hiểu trong hoàn cảnh mà Tin mừng theo Thánh Mattheu được viết ra là dành cho người Kitô hữu gốc Do Thái. Thật vậy, Chúa đến với dân Israel, Chúa ban ơn cứu độ cho Israel là dân được tuyển chọn cách đặc biệt. Nhưng vì cứng lòng, vì ngoan cố họ đã không chấp nhận Chúa Giêsu, là Đấng Thánh đến từ Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa. Họ đã loại Chúa ra khỏi đời sống của họ, nhưng họ lại tự phụ và cho rằng: duy chỉ mình họ là dân thánh, còn các dân tộc khác thì không thể trở nên con cái Thiên Chúa và không đáng được Chúa thương cứu giúp.

Điều thú vị mà Tin mừng minh chứng cho chúng ta là: người đàn bà ngoại giáo này không phải là dân Israel nhưng lại có một lòng tin mạnh mẽ vào Chúa. Không những thế bà lại có tình thương bao la dành cho người con của mình. Chính hai điều này đã chạm đến lòng thương xót của Chúa Giêsu. Quả thật, nhờ vậy mà Chúa đã cứu con bà được bình phục. Hay chúng ta cũng có thể nói, người mẹ này đã cộng tác với Chúa bằng cả niềm tin và tình thương để cứu con mình. Chúa chữa lành người con của bà vì Chúa chạnh lòng thương đến những con người đau khổ, không những thế, Chúa cứu chữa con bà và ban ơn vì Chúa thấy lòng tin vững mạnh nhưng rất khiêm tốn, đơn sơ của một người mẹ vì con mà hy sinh tất cả. Chúa đã chạnh lòng thương và thán phục “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Với tình thương và lòng tin, phép lạ của ân sủng đã xảy ra “ngay lúc đó, con gái bà đã được lành”.

Thưa ACE, vì lòng thương xót của Thiên Chúa, nhiều phép lạ vẫn đang xảy ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Chắc hẳn ai trong chúng ta giờ này cũng muốn kêu xin Chúa hãy làm phép lạ gì cho cơn đại dịch này, hay phép lạ nào đó cho những khó khăn đau khổ của chúng ta biến mất đi. Nhưng để phép lạ xảy ra chúng ta cũng phải cần cộng tác với ơn Chúa và cộng tác bằng cách nào. Chúng ta biết rằng phép lạ xảy ra là do ơn ban của Thiên Chúa cách nhưng không, do đó chúng ta phải cầu nguyện khẩn thiết van xin với lòng tin vững vàng và thái độ khiêm tốn. Đồng thời cũng là sự nỗ lực-cố gắng của chúng ta qua những hy sinh của cầu nguyện và bác ái.

Năm 2010 lúc tôi làm mục vụ bên Nhật, có gia đình của ông bà Takenaka rất đạo đức với năm đứa con. Tuần nào cả gia đình cũng đi lễ và hoạt động truyền giáo hăng say, nhưng cô con gái thứ 2 là Nozomi thì không bao giờ đi lễ cùng với gia đình. Sau một thời gian, tôi thấy làm lạ và hỏi tại sao, thì người mẹ nói, “nó rất chán khi đến nhà thờ, vì không thấy niềm vui gì cả, ở nhà nó cũng chẳng đọc kinh”. Cuối năm đó, Nozomi thi đậu vào đại học phải xa nhà, Bà Takenaka rất lo lắng, vì với một đứa con cứng đầu và khô đạo như vậy thì làm sao đây khi phải sống xa gia đình? Trước khi tiễn con đi xa, Bà chở nó lên gặp tôi để xin tôi cầu nguyện chúc lành cho nó. Khi đến nhà thờ Nozomi cứ ngồi lì trên xe không chịu xuống; nhưng vì người mẹ, tôi ra tận xe mở cửa rồi đọc kinh chúc lành cho nó. Sau khi đọc kinh, chúc lành, tôi tặng nó một tràng chuổi mân côi nhỏ và nói: “Cha cầu nguyện nhiều cho con, xin Chúa chúc lành cho con”. Tôi cũng nói với bà mẹ “từ hôm nay tôi mời gọi chị hãy cùng tôi làm tuần cửu nhật để cầu nguyện cho Nozomi”. Tuần thứ 3 của Mùa Vọng năm 2010, tôi nghe chuông, ra mở cửa thì thấy bà Takenaka với khuôn mặt vui tươi, bà hạnh phúc báo tin cho tôi biết, “Nozomi từ Tokyo gọi về hỏi con, mẹ chỉ cho con nhà thờ nào gần chỗ con ở, để con có thể đi xưng tội, đi lễ và rước lễ trong Mùa Giáng Sinh”. Bà khóc trong vui sướng nói với tôi “Thưa Cha, Chúa đã nghe lời cầu xin và sự hy sinh của con và Cha. Con tin Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài”.

ACE rất thân mến, dẫu chúng ta đang đau khổ, khó khăn vì đại dịch, đau khổ hơn vì chúng ta không thể đến nhà thờ để tham dự Thánh lễ trực tiếp trong những ngày này. Nhưng chúng ta hãy bắt chước gương mẫu của bà mẹ trong tin mừng, vì tình thương dành những người thân yêu của mình và đặc biệt hơn là dành cho những anh chị em đang gặp đau khổ; chúng ta hãy chạy đến với Chúa với lòng tin kiên vững, hãy kêu xin Chúa với tâm hồn khiêm tốn-mở rộng, hãy làm mọi việc lành, hy sinh đạo đức, để qua đó, lòng nhân từ và khoan dung của Chúa chạm đến những nỗi khổ đau này của anh chị em mình và thương cứu chữa lành. Amen.

 

 

 

 

 

61. Đau khổ.

 

Người đàn bà ngoại giáo, có đứa con đau yếu đã đến tìm gặp Chúa Giêsu. Lần thứ nhất bà kêu xin, nhưng Ngài đã thinh lặng khiến các môn đệ phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà kêu xin, thì bị Chúa Giêsu trả lời: Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó. Thế nhưng bà vẫn không mất lòng cậy trông khi thưa cùng Chúa: Lạy Thầy, nếu như vậy thì con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống chứ. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và đã làm phép lạ cho con bà được khỏe mạnh.

Từ câu chuyện này chúng ta rút ra được một bài học, một thái độ sống giữa những khổ đau và bất hạnh, giữa những gian nguy và thử thách chúng ta gặp phải giữa lòng cuộc đời. Như chúng ta đã biết: đau khổ và thử thách là như một cái gì gắn liền với thân phận con người: thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì. Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta vốn thường cho rằng đời là nơi khổ ải, nơi khóc lóc, đời là thung lũng nước mắt. Đứng trước những khổ đau và thử thách, người thì can đảm chấp nhận, không kêu ca, không oán trách, kẻ thì hậm hực tức tối, khóc lóc than van, dường như ở trên đời này chỉ mình họ là khổ đau mà thôi. Nếu có dịp, chúng ta hãy ghé thăm những bệnh viện và chúng ta sẽ thấy những khổ đau chúng ta đang phải chịu, chẳng thấm tháp vào đâu so với những khổ đau của người khác.

Ngày kia đức Khổng Tử gặp Vĩnh Khải Kỳ, tay cầm đèn, vừa đi vừa hát một cách vui vẻ. Khổng Tử bèn hỏi: Hôm nay có chi mà tiên sinh mừng vui thế. Vĩnh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh ra muôn vật, mà loài người là loài trọng nhất, bỉ nhân đây là loài người, thì làm sao chẳng vui cho được. Trong loài người thì đàn ông hơn đàn bà. Bỉ nhân đây được may mắn là đàn ông, thì làm sao chẳng vui cho được. Sinh ra có kẻ mù lòa câm điếc hay què quặt, bỉ nhân đây không mù lòa, không câm điếc cũng chẳng què quặt, thì làm sao chẳng vui cho được. Còn nếu như nghèo nàn, bệnh tật và chết chóc là số phận chung của mọi người, không ai có thể tránh thì việc gì mà phải buồn phiền lo lắng.

Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta, những người luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa thì những khổ đau chúng ta chịu sẽ không kéo dài quá thời gian cuộc sống chúng ta. Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chấm dứt. Người giầu và kẻ nghèo rồi thì cũng phải chết, cũng như ông phú hộ và người ăn xin tên là Lagiarô. Thế nhưng sau cái chết là cuộc sống đời đời, là tương lai vĩnh cửu sẽ mở ra cho chúng ta tùy theo như những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Vì thế, chúng ta phải cố gắng biến những khổ đau chúng ta gặp phải trở thành nguồn ơn phúc, đem lại lợi ích cho chúng ta như lời thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: Được chịu gông cùm vì Chúa, tôi lấy làm hãnh diện hơn là ngồi trên 12 tòa các tông đồ mà xét xử muôn dân. Tại sao thế? Bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường tiến tới Phục sinh.

 

 

 

 

 

62. Chúa Nhật 20 Thường niên - Lm. Nguyễn Thái

 

“Này bà, bà có lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn gì được vậy” (Mt. 15:21-28)

Trước công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở lại, khi chết thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho những người tín hữu có đời sống xứng đáng mà thôi.

Có một ông cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa, cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài hàng rào của nghĩa trang giáo xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác, người con gái của ông già trở về nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho ông., Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “tại sao ông lại dời mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “chúng tôi đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi!”

Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc âm hôm nay, Mt 15:21-28, khi chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn bà Canaan đến với Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân biệt của xã hội.

Đối với những người Do Thái, sự trong sạch và nhơ bẩn được phân định rõ ràng. Nếu là ngườiDo Thái và biểu tỏ đức tin qua việc giữa luật Do Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều, hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân định ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng!

Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc thang phân định giá trị của người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội của người do Thái thời Chúa Giêsu, người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc âm Mt 14:13-21, Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho 5 ngàn người ăn uống no nên, “Không kể đàn bà và trẻ em”. Đàn bà và trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị. Hôm nay một lần nữa, thánh Mattheu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà không nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng không được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.

Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối với người Do Thái, dân ngoại là xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15:26). Chúa Giêsu đã sử dụng phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều và quý trọng chó như xã hội Tây Phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ nhục. Vì chó liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu chuyện người phú hộ và ông Ladarô (Lc 16:21).

Theo William Barclay, bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi dân ngoại là “những con chó ngoại đạo” (gentile dogs), “Những con chó vô tín ngưỡng” (infidel dogs). Sau này họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó Kitô hữu” (Christian dogs). Một sự diễn tả đầy khinh bỉ!

Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi, vị thánh của người Ấn độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông đã đọc Phúc Âm và nhìn thấy trong những lời giảng dậy của Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn lớn lao của người dân Ấn độ phải giải quyết với chế độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư tưởng của mình. Tuy nhiên, vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và đề nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông. Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với Ấn độ giáo – Hinduism.”

Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con người dựng nên.

Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn, và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả.” Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.

Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gởi tín hữu Ga-lát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.” (Gl 3:28).

Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, công đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa” (1 Ga 4:8).

Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.

Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, Thánh Công đồng theo chân thánh Phê rô và Phao lô, khẩn thiết kêu mời các Kitô Hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân” (1 Pr 2:12), nếu có thể được, tùy khả năng mà sống hòa thuận với hết mọi người (Rm 12:18) như những người con một Cha trên trời.”

Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất.”

Đối với những anh chị em ly khai, công đồng Vatican II nói: “Người công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu.” (Unitatis Redintegratio, đoạn 4).

Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút tra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.

 

 

 

 

 

63. Hành trình gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Tin Mừng Mt 15:21-28: Thật kỳ diệu về cuộc gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin. Người đàn bà xứ Canaan đến gặp Chúa vì tình mẫu tử, và Chúa Giêsu chữa con gái của bà lành mạnh vì tình thương dành cho bà bởi bà tin.

Mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa đức tin và tình yêu.

Trước tiên là tình yêu của người mẹ đối với đứa con gái. Chỉ một mẫu đối thoại ngắn giữa bà và Chúa Giêsu người ta đọc được chữ yêu to tướng trong trái tim của bà dành cho cho đứa con gái tật nguyền. Nhà văn Agatha Christie đã trình bày: “tình yêu của mẹ dành cho con chẳng giống thứ gì trên thế giới này. Nó không có quy tắc, không có thương hại, nó vượt qua và nghiền nát tất cả mọi thứ chắn lại đường đi của nó”. Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã nghiền nát sự tự ái, đạp đổ cái tôi, vượt thắng sự e ngại để cuối cùng bà đã mang lại niềm vui cho đứa con gái của bà. Nó được Chúa chữa lành khỏi bị quỷ ám.

Phải chăng tình mẫu tử của người đàn bà xứ Canaan đã khuất phục được Đức Kitô, để Ngài rộng tay chữa lành cho đứa con của bà? Thưa không phải thế, nhưng tình mẫu tử là con đường dẫn đến gặp Chúa với một điều xác tín: chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được cho con gái. Và chính niềm xác tín này đã hình thành nơi bà đức tin, và đây là điểm cốt lõi để Chúa thực hiện điều bà xin.

Đối với người Kitô hữu chúng ta, đức tin là một ân ban của Chúa, để nhờ đó chúng ta có con đường đến gặp được Chúa, bởi nói như Đức Phanxicô trong Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin: “Đức tin không chỉ đơn thuần là ngắm nhìn Chúa Giêsu, nhưng nhìn mọi sự theo quan điểm của Chúa Giêsu, với đôi mắt của Người: đó là một sự tham gia vào cách nhìn của Người. Chúng ta ‘tin vào’ Chúa Giêsu khi chúng ta đích thân đón Người vào cuộc đời và cuộc hành trình của chúng ta về phía Người, gắn bó với Người trong tình yêu và bước theo Người trên đường đời”. Quả thật tin chính là gặp gỡ với Đấng yêu thương không thể so sánh với bất cứ một cuộc gặp gỡ nào trong trần thế nầy, một Đấng thật gần gũi với tôi trong cuộc sống, Đấng đó không chỉ chia sẻ cuộc sống này với tôi, nhưng còn mang lại cho tôi một cuộc sống mới mang tính vĩnh hằng, để qua cuộc gặp gỡ này tôi hoán cải và tín thác vào tình yêu của Đấng mà tôi gặp gỡ. Đức Bênêđictô XVI, khi còn là một giáo sư thần học đã nói: “tin là một cuộc gặp gỡ với con người Giêsu, và qua cuộc gặp gỡ đó mà nhận ra rằng, ý nghĩa của thế giới là một con người, một Ngôi vị sống động”. Cuộc gặp gỡ này được gọi là đức tin vì con người mà chúng ta gặp gỡ đó không đơn thuần là một con người trần thế, nhưng đó là “vị Thiên Chúa làm người”, là Logos: Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa, và là chính Thiên Chúa, Logos đó “đã trở nên người phàm” (Ga 1,14). Quả thật, Đức tin là ân ban, là một quà tặng vô giá vì nhờ đó mà kẻ tin nhận được ơn cứu sống, không có ân ban này chúng ta mãi mãi sống trong u tối, xa cách với Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống và hạnh phúc của chúng ta. Thế nhưng hồng ân đức tin chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi chúng ta thực sự tín thác trọn vẹn cuộc sống của chúng ta vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

Sự tín thác đòi hỏi chúng ta đi ra khỏi cái tôi chính mình, bởi đó là thành trì ngăn cản chúng ta gặp ân sủng Thiên Chúa, vì “cái tôi” luôn loại trừ dấn thân mà chỉ là đòi hỏi cho những quyền lợi vị kỷ, trong khi đức tin là một hành vi dấn thân để gặp gỡ với Đấng mình tin, một cuộc gặp gỡ để thanh luyện con tim và khối óc, để hoán cải hầu có thể đáp ứng yêu cầu của đức tin. Nói như đức Giáo hoàng Benêđictô XVI, đức tin ra đi ra khỏi chính mình đến “gặp gỡ với một Đấng thật gần gũi, một Đấng đỡ nâng chúng ta, tặng ban cho chúng ta một tình yêu bất hoại, vượt lên trên mọi gặp gỡ bất cập trong cõi nhân sinh, một tình yêu không những khao khát vĩnh cửu mà còn mang lại vĩnh cửu”.

Người đàn bà xứ Canaan đã được hoán cải từ một hành trình đến gặp Đức Kitô vì đứa con gái thành một con người khiêm cung, nhận ra sự hèn kém của mình để việc van xin sự cứu chữa không còn là nài xin một sự thương hại, nhưng là kêu cầu đến lòng thương xót của một Đấng mà bà nhận ra rằng, chỉ có Ngài mới có thể cứu con bà không phải do lời van xin của bà, nhưng do chính tình yêu thương mà Ngài dành cho bà vì đức tin của bà.

Thật kỳ diệu về cuộc gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin. Người đàn bà xứ Canaan đến gặp Chúa vì tình mẫu tử, và Chúa Giêsu chữa con gái của bà lành mạnh vì tình thương dành cho bà bởi bà tin.

Lạy Chúa, trong cuộc hành trình trên đường về nhà Cha, đức tin là đuốc sáng chỉ đường, nhưng đức tin chỉ cháy sáng khi chúng con thực sự tín thác vào Chúa, một sự tín thác vì lòng mến yêu. Để được như thế xin Chúa giúp chúng con nhận ra rằng, lòng mến yêu chỉ có được khi chúng con luôn tìm gặp Chúa, cũng có nghĩa là chúng con phải ra khỏi cái tôi ích kỷ, đừng để đức tin chỉ là phương thế phục vụ cho những nhu cầu riêng tư của chúng con, nhưng đức tin là cách thể để chúng con gặp được Chúa, đối thoại với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Thánh ý Chúa. Ước gì chúng con có tâm tình của người phụ nữ trong đoạn Tin Mừng: khiêm cung và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

64. Lòng thương xót

 

Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Người (Lc 1,50). Thiên Chúa của chúng ta giàu lòng thương xót. Ngài tỏ lòng xót thương nhân loại cũng như từng cá nhân. Ngài đã đến trần gian để cứu độ chúng ta cũng vì thương xót chúng ta.

Lòng thương xót của Chúa được ghi lại nhiều đoạn trong Kinh thánh. Đoạn Phúc âm hôm nay cũng cho thấy điều đó. Người đàn bà ngoại giáo đến kêu xin Chúa Giêsu và bà tin tưởng vào Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vua Nhân ái và giàu lòng thương xót. Vì tin tưởng như thế nên bà không nản lòng, cứ bền tâm kêu xin dù Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào. Với lòng tin và kiên tâm của bà, cuối cùng Chúa đã ban cho như ý bà xin. Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa. Những khi chúng ta cầu xin, Chúa có thể đối xử bằng lòng nhân từ kèm với thử thách lòng tin. Chúa sẵn sàng ban ơn nhưng với điều kiện là chúng ta phải ở trong tâm thế sẵn sàng đón nhận và ước mong lãnh nhận. Chúa có quyền ban cho và cất đi nếu Chúa thấy điều đó tốt cho chúng ta trong một giai đoạn nào đó. Nhiều lúc chúng ta kêu xin Chúa nhưng Ngài chưa trả lời ngay dù Người đã nghe thấy rồi. Chúng ta hãy cứ tiếp tục kêu cầu thì Người sẽ ban cho vì Ngài rất yêu thương chúng ta.

Nếu Chúa chưa ban cho chúng ta ơn chúng ta cầu khẩn cũng là vì Chúa thương chúng ta. Suy nghĩ của Chúa cao hơn suy nghĩ của chúng ta nên chúng ta không thể lý giải hết tất cả. Tuy nhiên, lời cầu xin của chúng ta nhiều lúc chưa đúng đắn hoặc chưa thật lòng, chưa đáng được Chúa nhậm lời. Ví dụ: một người xin Chúa cho thi đậu tú tài nhưng cứ lười học bài… thì Chúa không làm bài thay được. Chúng ta tin vào lòng thương xót Chúa và hành động thì mới có được kết quả mỹ mãn.

Có lẽ vì con người thiếu lòng tin vào lòng thương xót Chúa nên Chúa đã phải tỏ mình qua nữ tu Faustine Kowalska. Chúa vẫn thương và tiếp tục yêu thương nhân loại dù có nhiều người tội lỗi và muốn phớt lờ chân lý Chúa dạy. Thiên Chúa vẫn thương xót không phải vì con người dễ thương nhưng vì Chúa là Cha nhân hậu vẫn trông ngóng những đứa con không tìm đường về, có khi không muốn nghe ai nhắc về vấn đề tôn giáo với họ! Nữ tu Faustine đã được Chúa Giêsu chọn để gởi đến nhân loại sứ điệp Chúa giàu lòng thương xót: Ta không muốn trừng phạt nhân loại đang đau khổ, nhưng ta muốn chữa trị nhân loại bằng cách ôm trọn nhân loại trong trái tim nhân từ của Ta. Qua sứ điệp này, tôi càng tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa đối với tôi là con người tội lỗi và an tâm sống đạo, trông cậy Chúa sẽ ban phần thưởng đời sau. Tôi biết những cố gắng sống đạo của tôi sẽ không uổng phí. Cho dù có những lúc tôi thiếu lòng mến Chúa, thiếu cầu nguyện và làm phiền lòng Chúa nhưng Chúa không muốn chấp tội tôi. Ngài luôn là một người Cha hay thương xót, đang trông ngóng những đứa con lầm đường trở về để tha thứ, để ban ơn và để giao cho mỗi người trông coi một công việc nhà Người. Khi tôi được cộng tác trong Giáo hội Chúa, tôi cảm thấy phấn chấn vì có dịp lập công, mai sau không hổ thẹn khi lãnh một phần thưởng quá lớn lao từ Thiên Chúa Ba Ngôi là hạnh phúc Thiên đàng vĩnh cửu.

Có nhiều người như muốn hỏi Chúa: Chúa có nghe lời con kêu xin chăng, sao Ngài vẫn im lặng! Chắc chắn rằng Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài sẽ ban ơn cho nếu điều chúng ta xin phù hợp cho phần rỗi và ích lợi cho chúng ta. Hẳn là con người bất xứng, không đáng cho Chúa nhậm lời, nhưng vì lòng thương xót, Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin dủ lòng thương chúng con là những kẻ tộI lỗI, yếu đuốI tư bề. Chúng con biết Chúa yêu thương chúng con lắm nên mớI hạ thế mà giảng dạy và cứu chuộc chúng con. Hàng ngày chúng con gẫm suy về lòng thương xót Chúa và cầu xin thống thiết cho nhân loại đang chìm vào u mê của những hưởng thụ và vô tín. Dẫu rằng con người có hai phần xác hồn nhưng nhiều người bỏ quên hồn và chỉ chăm chút phần xác hay đúng hơn là chỉ chăm chút cho đời này mà bỏ quên đời sau. Tất cả mọi người đều cần ở lòng thương xót Chúa, ở sự trợ giúp yêu thương của những người xung quanh. Xin cho chúng con thực sự trở thành những chứng nhân cho Chúa giữa trần gian để loan truyền tình thương Chúa cho mọi người.

 

 

 

 

 

65. Vững vàng tin tưởng.

 

Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thoả chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm. May quá, anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.

Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn con có thực sự tin Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”. Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu truyện sau:

Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà trong khi ngọn lửa đang phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra mình thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể liều lĩnh đi vào trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.

Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khóí lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.

Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hìng ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng lúc chúng ta cần đến Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược được tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Ngưòi phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương cứu trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà đã tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đã đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chưã con gái bà.

Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Caphácnaum thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Canaan này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.

 

 

 

 

 

66. Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi - Lm. Tuấn Bình, CRM

 

Hồi mới qua Mỹ, tôi ở gần một gia đình chồng Mỹ vợ Việt có ba đứa con trai tóc tai vàng khè, mắt xanh mũi lõ. Nhìn vào ba đứa con, không ai dám nói là con lai cho đến khi nghe chúng nói tiếng Việt. Kể từ khi quen biết, chị vợ vẫn thường mời tôi đến nhà thưởng thức các món đặc sản của người Nam mà anh chồng và các con không tài nào dám thử như mắm cá lóc, tương cự đà… Còn anh chồng thì thỉnh thoảng nhờ tôi giải thích tại sao vợ của anh lại cầm đồng bạc quarter cạo đau điếng trên lưng với một chất dầu màu xanh khó ngửi cho đến khi lưng đỏ bầm mới thôi mỗi khi anh và các con bị cảm… Một hôm, anh chồng phàn nàn với tôi là phụ nữ Việt Nam quá bạo động, con cái nghịch phá mà đòi giết luôn cả chồng. Gạn hỏi ra thì mới biết tất cả cũng chỉ vì câu nói của chị vợ quát tháo tụi nhỏ: “Nói không nghe tao đánh chết cha mày bây giờ…” Một lần nữa, tôi lại phải giải thích cho anh hiểu câu nói “…đánh chết cha mày” của chị vợ chỉ là một kiểu nói suông người Việt Nam hay dùng chứ không có ác ý gì hết…

Thật vậy, để hiểu được ý tứ của các kiểu nói thông thường của một sắc dân, chúng ta cần phải thông thạo chẳng những ngôn ngữ mà còn phải hiểu rõ phong tục tập quán, kèm theo thời gian và hoàn cảnh lúc bấy giờ nữa. Chính vì vậy mà khi đọc lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Canaan trong bài Phúc âm hôm nay của hai ngàn năm trước, chúng ta vẫn thường cho là Chúa quá nặng lời với một bà mẹ đang đau khổ vì bệnh tật của con gái.

Tuy nhiên, nếu đặt mình vào hoàn cảnh bấy giờ thì chúng ta sẽ thấy tại sao người đàn bà chẳng những không nổi giận mà còn bám sát Chúa Giêsu hơn nữa. Đối với người Do thái thời bấy giờ, người Canaan là dân ngoại, là quân tội lỗi không thể sánh ví với họ là dân riêng được tuyển chọn của Thiên Chúa. Do đó, họ coi khinh người Canaan cũng như những sắc dân của các vùng lân cận không mang quốc tịch Do thái. Chính vì vậy mà người đàn bà không cảm thấy bị xúc phạm khi Chúa sánh ví bà với loài chó. Còn về phía Chúa Giêsu thì Ngài không có ý coi khinh hoặc xỉ vả bà, nhưng chủ ý lợi dụng cơ hội đó để nói cho người Do thái biết rằng, trước mặt Thiên Chúa, quốc tịch trần thế không phải là điều kiện để được cứu độ mà là lòng tin của mỗi người. Nói cách khác, chiên lạc nhà Israel mà Chúa Giêsu có nhiệm vụ tìm kiếm không chỉ giới hạn ở số người mang quốc tịch Do thái sống rải rác trong vùng mà bao quát tất cả mọi người thuộc mọi thời, bất kể họ là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, nam hay nữ… miễn sao họ đặt trót niềm tin vào Con Thiên Chúa như người đàn bà xứ Canaan hôm nay: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi…”

Nhìn vào cuộc sống, khi cư xử với người đồng loại, liệu tôi có kính trọng mọi người với nhân vị con người hay tôi lại phân chia theo tầng lớp và địa vị xã hội của họ? Khi đối đầu với những bất công và khó khăn trong cuộc sống, liệu tôi có khiêm nhượng đủ để giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa như người đàn bà xứ Canaan hay lại để cho tự ái làm chủ để gây gương mù hoặc đánh mất niềm tin Công giáo?

 

 

 

 

 

67. Lòng tin.

 

Trước Công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở lại, khi chết thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang Công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho những người tín hữu có đời sống xứng đáng mà thôi.

Có một ông cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài hàng rào của nghĩa trang trong xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác, người con gái của ông già trở về nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại dời mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi”.

Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay, khi chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn bà Canaan đến với Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân biệt của xã hội.

Đối với những người Do thái, sự trong sạch và nhơ bẩn được phân định rõ ràng. Nếu là người Do Thái và biểu tỏ đức tin qua việc giữ luật Do Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều, hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân định ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng!

Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc thang phân định giá trị của người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc Âm Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê, “không kể đàn bà và trẻ con”. Đàn bà và trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị. Hôm nay một lần nữa, thánh Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà không nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng không được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.

Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối với người Do Thái, dân ngoại là xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa Giêsu đã sử dụng phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều và quý trọng chó như xã hội tây phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ nhục. Vì chó liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu chuyện người phú hộ và ông Ladarô.

Theo William Barclay, bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi dân ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những con chó vô tín ngưỡng”. Sau này họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó Kiô hữu”. Một sự diễn tả đầy khinh bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi, vị thánh của người Ấn Độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông đã đọc Phúc Âm và nhìn thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu câu trả lời cho vấn nạn lớn lao của người dân Ấn Độ phải giải quyết với chế độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư tưởng của mình. Tuy nhiên, vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và đề nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông. Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với Ấn Độ giáo”. Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con người dựng nên.

 

 

 

 

 

68. Lòng tin.

 

Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả”. Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.

Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.

Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.

Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.

Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”.

Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.

Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.

Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.

Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.

Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có kết quả.

Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như sau:

“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.

Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.

 

 

 

 

 

69. Sứ điệp Tin mừng dành cho tất cả mọi người

(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

 

Trong Tin mừng Chúa nhật XX Thường niên hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện người mẹ vùng Canaan xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Lúc đầu, Chúa Giêsu phớt lờ lời cầu xin của bà, nhưng nhờ sự kiên trì đầy sáng tạo bà đã thuyết phục được Chúa Giêsu chữa lành cho con bà. Việc Chúa Giêsu ngay từ đầu không để ý đến lời cầu xin của người mẹ gây khó chịu cho người đọc. Có nhiều cách đọc giúp chúng ta hiểu trình thuật này.

Tin mừng Thánh Mátthêu nhấn mạnh thái độ của Chúa Giêsu đối với truyền thống văn hóa và cử tọa Do thái; và ngay lúc khởi đầu sứ vụ Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ rằng: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samari. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,5). Dù vậy, Chúa Giêsu vẫn chữa lành cho hai người dân ngoại là anh đầy tớ của viên đại đội trưởng (Mt 8,5-13) và con gái của người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng hôm nay. Hành động này cho thấy một mức độ cởi mở nào đó của Chúa Giêsu đối với dân ngoại, và điều này càng được khẳng định khi Chúa Giêsu sai các môn đệ làm phép rửa cho “muôn dân” sau khi Ngài sống lại (Mt 28,19).

Khi người phụ nữ Canaan xin Chúa chữa lành cho con bà, Chúa Giêsu nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó.” Một số nhà chú giải đã cố gắng làm nhẹ lại lời tuyên bố này bằng cách lưu ý rằng từ Hy lạp (kynaria) được sử dụng ở đây thực sự có nghĩa là chó con hay là con chó nhỏ. Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn còn gây xúc phạm khi ám chỉ người Do thái là trẻ con và người Canaan là chó con. Cũng có những sách khác trong Tân ước xem dân ngoại như “quân chó má” (Mc 7,27-28; Pl 3,2; Kh 22,15). Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đồng ý giúp đỡ sau khi người phụ nữ đã sáng tạo sửa lại những lời gây xúc phạm của Chúa Giêsu: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Chúa Giêsu giải thích câu đáp trả cự tuyệt của bà là một dấu chỉ của lòng tin và ngay lập tức Ngài chữa lành con gái bà.

Đoạn văn này có thể phản ảnh thành phần trong cộng đoàn của thánh Mátthêu mà phần lớn là các Kitô hữu gốc Do Thái, họ đang tìm cách để hiểu được sự hiện diện của dân ngoại giữa các môn đệ Chúa Giêsu. Mátthêu đã điều chỉnh một cách thú vị bản văn gốc Mc 7,24-30. Trong Tin mừng Máccô, Chúa Giêsu vào nhà một người phụ nữ ở điạ hạt Tia, ngoài đất Do Thái, nhưng thánh Mátthêu lại xác định sự kiện ở một địa điểm mơ hồ hơn, có thể là trong hoặc ngoài địa hạt của dân ngoại. Trong câu nói gây xúc phạm theo bản văn thánh Maccô, Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách nói rằng “Hãy để cho con cái ăn no trước đã” (Mc 7,24), gợi ý rằng dân ngoại cuối cùng có thể đón nhận sứ vụ của Chúa Giêsu. Thánh Mátthêu bỏ câu nói này, làm cho sứ điệp của Chúa Giêsu có vẻ hướng đến người Do Thái cách đặc biệt hơn.

Trình thuật này cũng có thể biểu lộ cách suy nghĩ thoáng đạt hơn của thánh Mátthêu về Tin mừng và về vai trò của người phụ nữ dân ngoại trong lịch sử cứu độ. Tin mừng Mátthêu bắt đầu với gia phả của Chúa Giêsu, lần theo gốc gác Do Thái của Ngài từ ông Giuse đi ngược tới ông Ápraham. Các tên trong gia phả chủ yếu là đàn ông; nhưng ngoài Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, còn có bốn người phụ nữ khác là các bà Tama, Rakhap, Rút và vợ của Urigia (Bathsêba). Những người phụ nữ này, minh nhiên hay mặc nhiên không phải là người Israel, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của Israel. Thánh Mátthêu có thể nhìn người đàn bà Canaan theo cách thức này, một người phụ nữ ngoài truyền thống lại giúp đề ra hướng đi của truyền thống. Việc bà nài xin Chúa Giêsu chữa lành cho con gái góp phần vào sứ điệp nối kết của Tin mừng, cuối cùng bao gồm tất cả mọi người.

Nguồn: https:..www.americamagazine.org.faith.2020.07.17.gospel-message-everyone?fbclid=IwAR2-_QBa5zWScBItvtLr1RMeeDyaB-xd3A2zMsInYocjguTFGkq78eo9h4w

 

 

 

 

 

70. Những nghi ngờ của bà lão - Lm. Mark Link SJ.

 

Chủ đề: “Cách thức để triển nở đức tin là thực hành nó, đặc biệt trong việc yêu thương tha nhân.”

Một bé gái 6 tuổi đến ăn tại nhà một người bạn. Khi mọi người ngồi vào bàn, cô bé cúi đầu chờ đợi mọi người đọc kinh ăn cơm. Chẳng thấy ai đọc kinh hết, cô bé thẹn thùng nói: “Cả nhà giống con chó nhà cháu qúa, cứ ngồi xuống là ăn!”.

Dân Do Thái cũng nghĩ như thế đối với đám dân ngoại. Theo họ, dân ngoại xét về mặt thiêng liêng cũng giống như loài chó vì họ hoàn toàn thiếu nhạy cảm đối với Thiên Chúa. Ðiều này dẫn chúng ta đến chủ điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay.

Các học giả nhận xét là từ ngữ Hy Lạp mà Chúa Giêsu nói về “lũ chó” trong câu “không nên ném thức ăn cho lũ chó” là một hình thức giảm thiểu. Nó ám chỉ lũ chó cưng nuôi trong nhà, chứ không phải những con chó rông ngoài đường. Chúa Giêsu dùng từ ngữ ấy một cách thân ái. Câu đáp lại của người phụ nữ cho thấy rõ điều ấy. có lẽ bà ta vừa mỉm cười vừa nói:

“Những lũ chó cũng được ăn vụn bánh rơi xuống nền nhà chứ!”.

Nói cách khác, bà ta đang nói với Chúa Giêsu: “Con biết Ngài hiện đang dành ưu tiên cho dân Israel, tuy nhiên trong khi Ngài thiết đãi họ, Ngài lại không thể đẩy cho con chút ít bánh vụn giống như đám nhóc quăng bánh xuống cho lũ chó cưng khi bố mẹ chúng không nhìn thấy sao?”.

Chúa Giêsu liền trả lời cho bà ta: “Bà là người phụ nữ giàu lòng tin! điều bà mong muốn sẽ được trao ban cho bà”.

Thật đẹp biết bao nếu Chúa Giêsu cũng nói như thế về anh chị em.

Ðiều này gợi lên một vấn nạn: Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao lại thấy đó là điều khó khăn? Và điều đó dẫn đến một vấn nạn còn khó khăn hơn: Nếu đức tin chúng ta yếu kém thì liệu chúng ta có thể làm gì để củng cố? Chúng ta hãy xét vắn tắt từng vấn nạn nêu trên.

Trước hết, tại sao có những người đức tin yếu kém và có những người đức tin mạnh mẽ? Ðiều này cũng giống hệt như hỏi tại sao có người yếu nhược còn có người lại khoẻ mạnh?

Một số người có sức khỏe yếu kém là do cha mẹ họ. Họ thừa hưởng một thân xác eo sèo. Nhưng cũng có những người sức khoẻ yếu kém vì họ chẳng biết chăm sóc sức khoẻ cho chính mình.

Ðiều đúng cho sức khoẻ thể lý thế nào thì cũng đúng cho sức khoẻ tâm linh đức tin của chúng ta như thế. Một số người đức tin yếu kém là do bởi cha mẹ họ. Sức khoẻ tâm linh được di truyền cũng tương tự sức khoẻ thể lý. Nếu bố mẹ lạnh nhạt với đức tin của mình thì điều này cũng thường tác động lên đám con cái họ. Mặt khác, đức tin chúng ta yếu kém cũng có thể là do chúng ta không chăm sóc đến nó.

Ðiều này dẫn chúng ta đến vấn nạn thứ hai. Nếu đức tin chúng ta yếu kém bất kể vì lý do gì, chúng ta có thể làm gì để củng cố nó lại? Ðức tin có thể được so sánh với một bắp thịt. Nếu chúng ta không chịu luyện tập, bắp thịt ấy sẽ từ từ yếu đi. Mặt khác, qúi bạn càng luyện tập, bắp thịt ấy càng mạnh mẽ lên. đức tin của chúng ta tương tự như thế. Nó cũng cần phải được tập luyện.

Có nhiều phương cách luyện tập đức tin. Chúng ta có thể học hỏi và bàn luận về Phúc Âm như hiện chúng ta đang làm. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ mà ít phút nữa chúng ta sẽ cử hành một cách chăm chú hơn. Chúng ta có thể tập cầu nguyện mỗi ngày để việc cầu nguyện trở thành thói quen.

Tuy nhiên, còn một phương cách luyện tập đức tin chúng ta xem ra cực kỳ hữu hiệu. Cách này đáng được lưu tâm đặc biệt. Dostoevski có bàn đến nó trong tác phẩm của ông nhan đề: “Anh em nhà Karamazốp” (The Brothers Karamazov). Trong tác phẩm này, tác giả đề cập đến một bà lão nọ, sức khoẻ thiêng liêng của bà đã suy thoái mau chóng theo sức khoẻ thể lý. Ngày nọ bà ta bàn luận vấn đề của mình với vị linh mục già tên là Zossima. Bà kể cho ngài nghe về đức tin yếu kém của bà những nỗi ngờ vực vừa phát sinh, chẳng hạn như: Thiên Chúa có thực sự quan tâm đến vạn vật không? Có đời sống sau lúc chết không?

Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe bà và nói: “Chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng những điều này, nhưng bà vẫn có thể tin tưởng những điều ấy vững chắc hơn”. Bà ta ngạc nhiên: “Bằng cách nào?” vị linh mục già đáp: “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống tương lai sau khi chết. Càng yêu mến đức tin bà sẽ càng lớn lên và các nỗi ngờ vực sẽ tiêu tan. Ðây là điều chắn chắn từng được thử nghiệm và nó đã có kết quả”.

Linh mục Zossima nói thật chí lý. Ngài cho ta thấy điểm quan trọng là: tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm thấy cái kia. Ðức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Albert Schweitzer, vị bác sĩ thừa sai vĩ đại cũng cùng quan điểm như trên trong cuốn sách của ông nhan đề Reverence For Life (Kính trọng cuộc sống). Ông bàn đến một vài điều đem lại kết quả này như sau:

“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác cái gì đó để ăn, để uống hoặc để mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó quí bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho quí bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.

Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ trong bài Phúc Âm. Bà đến với Chúa Giêsu là vì kẻ khác chớ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng.

Tôi xin nêu lên một gợi ý. Tôi tin rằng mỗi bài Phúc Âm khi được đọc trong thánh lễ đều mang theo một ân sủng đặc biệt. Nếu quí bạn là một bậc cha mẹ cảm thấy cần củng cố đức tin của mình thì hãy bắt chứơc người phụ nữ trên. Ngay tuần này, các bạn hãy bắt đầu đến với Chúa Giêsu mỗi ngày đều đặn để kêu cầu Ngài chúc phúc cho con cái quí bạn. Nếu quí bạn là một thanh niên cảm thấy cần củng cố đức tin của mình thì hãy làm điều Dostoevski và Schweitzer đã nói. Hãy bắt đầu cư xử một cách yêu thương đối với bố mẹ và anh chị em của mình.

Và tôi xin chia sẻ thêm một tư tưởng nữa về vấn đề đức tin. Bất cứ ai dù khoẻ mạnh đến đâu cũng phải trải qua những khó chịu bởi vì cuộc sống con người vốn là như thế. Chẳng hạn, vào ngày buồn sầu trong cuộc sống khi gặp phải cảm nghiệm chua chát, chúng ta thường gây gỗ với mọi người và mọi vật, chúng ta nguyền rủa kẻ thù và than phiền về bạn bè của mình. Còn vào ngày hưng phấn trong cuộc sống. Khi chúng ta cảm nghiệm được điều gì hoan hỉ, tự dưng chúng ta cảm thấy yêu mến mọi người và mọi sự. Chúng ta tha thứ cho kẻ thù và thích tỏ tình thân thiện bè bạn.

Ðức tin cũng rất giống như thế. Có ngày rất tươi sáng và rất phấn khích, có ngày ảm đạm, sầu thảm. Khi gặp phải một ngày “tồi tệ” của đức tin quí bạn hãy ghi nhớ câu chuyện có thực sau đây. Nó sẽ giúp bạn chịu đựng ngày ấy và giữ vững niềm tin của mình.

Sau thế chiến thứ hai ít lâu, có một số công nhân lo dọn dẹp sạch sẽ tàn tích của một ngôi nhà bị bom ở Cologne (nước Ðức). Họ thấy trên một bức tường nhỏ trong nhà, có một bản ghi chú đầy cảm động, hình như một người Do Thái trên đường trốn bọn Quốc Xã đã viết lên đó. Anh ta dùng tầng hầm của căn nhà để trốn bọn Quốc Xã. Sau đây là bản ghi chú đó:

“Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng.

Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc tôi không cảm thấy nó.

Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng”.

 

 

 

 

 

71. Chúa Nhật 20 Thường Niên - Lm. Alfonso

 

Tin Mừng Mt 15:21-28: Chỉ có một lòng khiêm tốn tột cùng, nhận ra tất cả đều là ơn Chúa ban chứ không do công trạng con người, con người mới có thể nhận được hồng ân Chúa cách nhưng không.

Suy niệm

Khi nói lên tình người với nhau, chẳng có tình cảm nào thiêng liêng cho bằng tình phụ mẫu dành cho con cái. Chẳng thế mà ca dao chúng ta có câu:

“Nuôi con buôn tảo bán tần,

Chỉ mong con lớn nên thân với đời.

Những khi trái nắng trở trời,

Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.

Trọn đời vất vả triền miên,

Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.”

Công lao phụ mẫu ấy hôm nay đã được bà mẹ người Canaan bộc lộ thật xúc động. Người mẹ này vì quá yêu thương cô con gái yếu ớt bị quỷ ám, tìm khắp chốn cho ra người chữa con gái mình. “Có bệnh thì vái tứ phương”, bà còn can đảm đã vượt qua sự khinh thị giữa người Do Thái và dân ngoại, tìm đến với Chúa Giêsu mà bà tin Người là Đấng Cứu Thế khi kêu lên: “Lạy Ngài là Con vua Đavid, xin thương xót tôi”. Điều mà dường như chưa có một con chiên Do Thái nào nhận ra vào Danh Chúa Giêsu như thế lại có thể được tuyên xưng từ nơi môi miệng một kẻ ngoại giáo.

Trước lời cầu xin ấy, Chúa Giêsu chưa thực hiện việc cứu chữa ngay, mà thử thách lòng tin của bà bằng việc Người im lặng. Vâng, trong cuộc đời chúng ta, có những lúc đau khổ tột cùng, bệnh tật triền miên, chạy tới kêu cầu danh Chúa nhưng dường như Người vắng bóng. Sự im lặng của Thiên Chúa thực ra lại có giá trị thử thách xem đức tin của chúng ta tới đâu.

Người phụ nữ này vẫn kiên trì đến nỗi các môn đệ Chúa cảm thấy phiền và thưa Người: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.” Chúa Giêsutiếp tục gia tăng sự thử thách khi Người bảo với các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel.” Lời tuyên bố của Chúa Giêsu như làm cho bà chơi vơi giữa dòng, nghe tới đó, chúng ta nghĩ không còn cách nào khác hơn là đành quay về. Nhưng chúng ta có biết chăng,

“Con ho lòng mẹ tan tành,

Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.

Vì thế, trong sự thất vọng ấy, bà vẫn cố bám víu còn nước còn tát, tiếp tục nài xin Chúa cách khẩn thiết hơn nữa với cũng một lời cầu xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi.”.

Chúa Giêsu lại thử lòng bà về sự khiêm tốn vì chỉ trong cầu nguyện với lòng khiêm tốn, con người ta mới dễ được Thiên Chúa đoái nhìn. Người bảo với bà: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.” Nếu cứ sự thường, trước câu nói này, nếu là chúng ta thì vì lòng tự ái dâng cao, chúng ta sẽ quay đi với một sự tức tối và không thiếu kèm theo một lời lầm bầm. Nhưng không, trước câu nói xem ra phủ phàng này, khi mà chúng ta thấy Chúa dường như bít lối thì thật ra Người đang để chỗ cho chúng ta bám vào, Người chìa một cành cây cho người chơi vơi nắm lấy. Còn phần liệu người đó có đủ khiêm tốn để nắm giữ hay không. Với người phụ nữ có đứa con bị bệnh quảy ám, bà đã mau chóng nhận ra và đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.” Quả thật, chỉ có một lòng khiêm tốn tột cùng, nhận ra tất cả đều là ơn Chúa ban chứ không do công trạng con người, con người mới có thể nhận được hồng ân Chúa cách nhưng không.

Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin rất kiên định và chân thành của bà, và phải nói Người chịu thua lòng tin rất kiên trì của bà nên Người đáp lại: “Bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.” Vì tình mẫu tử thiêng liêng, người mẹ này dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin của bà vào Chúa Giêsu là một bài học cho mỗi người chúng ta khi cầu xin Chúa. Trước những khó khăn, gian truân, bồi hồi lo lắng của mình, chúng ta mong có một phép màu xảy ra. Nhưng chúng ta có biết chăng phép màu chỉ đến sau những khẩn thiết kêu xin bằng một sự chân thành khiêm tốn và nỗ lực cộng tác của con người để ơn Chúa có thể ban cho chúng ta. Lòng tin có một sự biện chứng với khiêm tốn, càng tin càng cần thể hiện sự hạ mình, để nhờ tin mà chúng ta nhận ra không điều gì chúng ta có là sức riêng của con người.

Hôm qua, chúng ta vừa mừng kính Đức Maria hồn xác lên trời, còn gọi là ngày lễ Mông Triệu nghĩa là Đức Mẹ được ơn Chúa gọi để kết hợp với Người trên Thiên Quốc. Đức Maria có thể lãnh nhận được ơn hồn xác lên trời toàn vẹn bởi mẹ đã thể hiện đức tin của mình bằng việc phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa và nhận ra tất cả những gì mình có là do ơn Chúa, nên mẹ đã hạ mình “này tôi là tôi tớ Chúa”. Và cũng bởi vì Mẹ để cho Thánh ý Chúa được hoạt động nơi mình, nên Mẹ nhận được những ơn vượt sức giới hạn của con người

Lạy Chúa, xin cho chúng con có một sự khiêm tốn đủ để nhận ra tất cả là ơn Chúa ban, và để chúng con không tự phụ nhưng sẵn sàng chạy đến trước Chúa để giải bày nỗi khắc khoải của con người chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

72. Chú ý! Chú ý! Thiên Chúa hằng sống!

 

Cuộc sống hiện tại có quá nhiều đòi hỏi làm chúng ta đến mệt và không biết làm thế nào để bổ sung lại sức lực của chúng ta. Trong thế giới chúng ta đang sống tiến triển quá nhanh, những bổn phận về gia đình, công ăn việc làm và cộng đồng của chúng ta đặt ra nhiều đòi hỏi nặng nề trên chúng ta.

Hãy thử nghĩ lại coi đã bao lâu rồi chúng ta có được một buổi tối êm đềm thảnh thơi không làm gì cả. Một buổi tối thong thả; một buổi tối chỉ ngồi đấy mà thôi; một buổi tối để chỉ cho mình ta mà thôi. Nhiều người trong chúng ta chắc không thể nhớ được buổi tối như thế nữa rồi. Ngay khi chúng ta về nhà, thì đã có tất cả mọi điều chúng ta phải làm trong tâm trí chúng ta rồi. Và bạn ngồi xuống và cảm thấy bối rối vì bạn đã không làm gì cả.

Tại San Francisco, một nhà quàn quảng cáo phía trước nhà: “Tại sao lại phải đi vòng quanh, những kẻ gần chết, khi mà chúng tôi có thể chôn cất bạn chỉ tốn có 98 đồng mà thôi?” Đấy đúng là một bảng quảng cáo oái oăm sắc bén, bởi vì rất nhiều người trong những ngày gần đây sẵn sàng đón nhận lời đề nghị này. Thế nhưng còn một cách thức hay hơn để hỏi câu hỏi này. Và những ký giả Thánh Kinh, mỗi người trong chính cách thức riêng, hỏi đi hỏi lại chúng ta: “Tại sao bạn lại đi vòng quanh, những kẻ sắp chết, khi mà có phương pháp bổ sung sức mạnh của bạn?” Các bạn coi, một phần trong Tin Mừng Kinh Thánh chính là Thiên Chúa không chỉ tạo dựng chúng ta rồi bỏ rơi chúng ta. Thiên Chúa Đấng tạo dựng chúng ta thì luôn luôn ở với ta, luôn luôn củng cố sức mạnh cho chúng ta thực thi những gì cần được thực hiện.

Kinh nghiệm tôn giáo chân chính khởi đầu từ với ý thức quan trọng và tuyệt diệu về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa Hằng Sống. Thế nhưng rất thông thường nó đi đến chỗ thói quen. Người ta thấy chính họ máy móc đọc đi đọc lại cùng những lời kinh, hát cùng những bài ca và làm cho có lệ cùng những nghi thức cho đến lúc kinh nghiệm tôn giáo trở nên vô hồn và Thiên Chúa Hằng Sống không còn cảm thấy như là thực sự nữa. Đấy chính là những gì đang xảy ra cho nhiều người trong chúng ta. Chúng ta mất đi ý thức tuyệt diệu về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa Hằng Sống. Và bởi vì cảm nghiệm của ta về Thiên Chúa Hằng Sống trở nên lỗi thời han rỉ, chúng ta trở nên lỗi thời han rỉ về thiêng liêng.

Chúng ta hãy nhìn xem cuộc đời của nhà bác học Hoa Kỳ, George Washington Carver, người đã cách mạng hoá nông nghiệp của Miền Nam. Carver, với nhiều việc vĩ đại khác, đã phát minh ra hơn 300 sản phẩm khác nhau từ đỗ lạc, và 75 sản phẩm từ quả hồ đào. Nhà bác học Carver thức dậy mỗi buổi sáng và quỳ cầu nguyện. Và chủ đề cho lời kinh nguyện của ông luôn chỉ là những lời này: “Chú Ý!” Hãy lắng nghe Thiên Chúa đang nói! “Chú Ý! Nhìn coi có thấy gì? Sự vật mới gì?” Một lần, khi ông có cuộc kết hiệp này với Thiên Chúa, ông có một củ khoai lang trong tay. Và Thiên Chúa nói, “Hãy chú ý, George Washington Carver, con có gì hả?” Ông trả lời, “Lạy Chúa, một củ khoai lang.” Và Thiên Chúa nói, “Con có thể làm gì với nó?” “Con có thể bỏ lò nướng nó, chiên nó, và có thể giằm nát nó ra.” “Con còn có thể làm gì với nó nữa, George Washington Carver? Hãy chú ý!” Và ông đi đến chỗ suy tư và tự hỏi. Nếu các bạn đến viếng thăm Tuskegee Institute tại tiểu bang Alabama, họ sẽ chỉ cho bạn thấy những mẫu thử của 118 cách thức được sử dụng từ khoai lang thông thường. Và tất cả bởi vì ông đã sống với tinh thần cầu nguyện công khai để củng cố sức mạnh trước Sự Hiện Diện của Thiên Chúa Hằng Sống.

Thiên Chúa chúng ta chính là Thiên Chúa Hằng Sống. Ngài không bao giờ ngừng và nói với ta: “Giờ đây chúng ta đã hoàn thành!” Nó luôn luôn chính là chuyển động tiến tới trong tương lai. Nó luôn luôn chính là Sự Hiện Diện của Ngài với chúng ta tại lúc này, đang làm một sự vật gì đó mới mẻ. Chúng ta có thể đang trong vực thẳm của sự thất vọng, và chúng ta có thể cảm thấy mình đang bị khuất phục, thế nhưng Thiên Chúa tiến vào, và ánh sáng đã rọi chiếu qua, và niềm hy vọng cũng như sức mạnh cùng với việc cứu chữa đã đến.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, một người phụ nữ xin Chúa Giêsu giúp đỡ. “Xin hãy thương đến tôi, Lạy Ngài, Con Vua Đavít,” bà nài nỉ. “Con gái tôi bị quỉ ám dữ dội” (Mt 15:22). Các môn đệ cố đẩy bà ra xa nhưng bà không quản ngại và gan lì kêu to hơn. Bà quỳ lạy trước Chúa Giêsu, và nói, “Lạy Ngài, xin hãy thương giúp tôi!” Tâm hồn bà đã mở rộng cho Sự Hiện Diện quyền năng của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Bà tin rằng Thiên Chúa sẽ tiến vào và sự cứu chữa sẽ đến. Rồi bà nghe câu trả lời của Chúa Giêsu: “Hỡi bà, đức tin bà thật vĩ đại!” (Mt 15:28). Và con gái bà đã được chữa lành ngay lập tức.

Nếu các bạn cảm thấy tinh thần của mình bị giảm sút trong những ngày này, hãy mở rộng tâm trí và linh hồn các bạn cho Sự Hiện Hiện quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống trong Chúa Giêsu Kitô. Những kẻ sắp chết, tại sao phải đi vòng quanh, khi mà có một phương thế bổ sung sức mạnh các bạn? Hãy thưa với Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin hãy thương giúp con! Xin giúp con cảm nghiệm sự hiện diện quyền năng của Chúa!”

 

 

 

 

 

73. Trừ quỷ ám trong đời nhờ kết hiệp với Chúa

- Lm. Joshepus Quang Nguyễn -

 

Người công giáo chúng ta có tin có ma? Tin có quỷ ám không? Thế thì ma là gì? Và quỷ là gì? Ma và quỷ có khác nhau không? Cuốn từ điển bách khoa toàn thư Việt nam định nghĩa rằng khi con người chết, linh hồn xuất khỏi thể xác thành ma hoặc quỷ. Quỷ là oan hồn (linh hồn người chết oan) vất vưởng lâu năm, chất chứa nhiều nỗi oán hận thù. Còn tờ Báo An ninh Thủ đô nói ma là linh hồn của những người chết vì lí do nào đó đã “lạc lối” vào trần gian khi đang trên đường sang thế giới bên kia. Và theo quan điểm của một số tôn giáo, quỷ dùng để gọi một số sinh vật (thuộc về cõi siêu hình) có những khả năng siêu phàm, độc ác và xấu xa. Từ những định nghĩa trên chúng ta thấy ma thì hiền quỷ thì dữ phải không? Ma thì có hình bóng, còn quỷ thì siêu hình. Đúng thế, Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng nên Thiên Thần mà Thiên thần là thụ tạo thiêng liêng. Thiên Chúa tạo dựng nên Thiên thần để phụng sự Ngài và phục vụ con người theo ý Ngài cùng hưởng hạnh phúc đời đời. Trong số các Thiên Thần có một số Thiên Thần không tuân theo lệnh Chúa truyền, tự ý tách mình không muốn lệ thuộc Thiên Chúa. Ta gọi các Thiên thần sa ngã ấy là quỷ. Cho nên, quỷ không hình không bóng nên nó thấy con người có hình bóng hơn nữa hình bóng của Chúa nữa nên nó tức, muốn ám hay nhập vào con người, và luôn làm hại con người bằng mọi cách, cám dỗ con người phạm tội, chống lại ý Thiên Chúa, làm ta mất ơn nghĩa với Chúa. Và các hoạt động của quỷ là cho con người bị mù quáng và tê liệt trước những giá trị tinh thần, giá trị của Tin Mừng của Chúa.

Các nhà chú giải Thánh kinh bảo rằng thời Chúa Giêsu vấn đề ma và quỷ có thực cho nên thời bấy giờ chuyện ma và quỷ đó là niềm tin mang tín phổ quát. Cụ thể, Tin Mừng hôm nay kể rõ rằng: “khi ấy, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Và với lòng tin sắc đá của bà, Chúa Giêsu đã trừ được tên quỷ đó. Điều đáng chú ý ở đây là tại sao giả Chúa trừ quỷ tên quỷ đó, bởi vì Chúa Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa có thể khống chế quỷ vì Ngài là Thiên Chúa.

Hôm nay chúng ta đang sống trong một thời đại bị thống trị bởi một văn hoá tính dục, nền văn hoá tôn thờ tiền bạc và đòi hỏi tự do tuyệt đối đến nỗi cắt đứt nó khỏi tương quan với những giá trị luân thường đạo lý, chẳng hạn người ta coi phái thai, giết người là nhỏ như giết một con vật, rồi nạn bạo lực học đường xảy ra khắp đó đây, các em đánh người bạn của mình như đánh một con vật; mà con người đâu phải con vật, con người có xác và hồn linh thiêng lắm mà cho nên Khổng tử nói: con người là linh ư vạn vật. Vì vậy, có người và từ người mới thành thần thánh chứ. Vậy trong thời đại này, chúng ta có chắc rằng mình không bị quỷ ám, quỷ dụ dỗ không? Chắc chắn không, lúc này lúc khác chúng ta bị quỷ vô hình ảm, cám dỗ chúng ta phạm tội với Chúa và với tha nhân. Nhưng chúng ta luôn có Chúa Giêsu, Ngài có mặt trong cuộc đời chúng ta để không chế quỷ ám hay cám dỗ và Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để chống trả quỷ dữ. Chính vì vậy, chúng ta chiêm ngắm hình tượng người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng hôm nay như một người cộng tác với Chúa Giêsu để trừ cái ác quỷ trong cuộc sống của con bà. Người phụ nữ đã cộng tác với Chúa Giêsu bằng cách đi vào trong cuộc chiến đấu chống lại quỷ ám bằng cách nào?

Bà Canaan là người ngoại đạo nhưng bà đã chiến đấu mãnh liệt thể hiện qua tiếng gào thét để nài xin Chúa Giêsu cứu chữa đứa con gái của mình. Bà kiên trì kêu cứu, bà kêu nhiều đến nỗi các môn đệ Chúa Giêsu có ác cảm với bà, cho nên các môn đệ đến nài xin Chúa Giêsu cho bà ấy đi về cho khỏi phiền toái. Thế nhưng, bà không nản chí bà tiếp cuộc chiến đấu và vượt qua rất nhiều thử thách trong đó có thứ thách đớn đau nhất là thử thách của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, câu này khó nghe thật! Nhưng Bà vẫn bình tâm nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi”.

Thử hỏi bà lấy sức mạnh ở đâu để vượt qua những thử thách ấy? Trước hết là tình yêu của người mẹ dành cho con, chính tình yêu ấy mà bà lấy nỗi đau của đứa con làm nỗi đau của chính mình và vẫy vùng bằng mọi cách để thoát ra khỏi nỗi đau đớn quỷ ám này. Tình yêu đó làm nên sức mạnh, nghị lực, nhiệt tình để bà chịu đựng vượt qua bao thử thách. Cùng với tình yêu bà có niềm xác tính mãnh liệt vào Chúa Giêsu, dù bà là người phụ nữ ngoại giáo nhưng bà vẫn xác tín mãnh liệt rằng chỉ có mình ông Giêsu mới có thể cứu đứa con bà. Tình yêu cộng niềm tin làm nên một sức mạnh phi thường khiến bà xung vào cuộc chiến chống quỷ ám và cuối cùng bà chiến thắng nó.

Cuộc đời chúng ta cũng bị khống chế bởi quỷ dữ. Quỷ ám chúng ta và làm cho chúng ta không thấy giá trị Tin Mừng cứu độ và hằng sống của Chúa Giêsu mà chỉ thấy được giá trị vật chất, danh lợi thú mà cuộc đời này đề cao. Có khi chúng ta thấy giá trị Tin Mừng đó nhưng mình quỷ ám không đủ sức để sống những giá trị đấy bằng chứng là mình biết rõ phạm tội nói tục, chửi bới, nói hành nói xấu, ăn cắp, bất hiếu… là không đúng nhưng vẫn phạm tội như thường. Rồi, ngay chính chúng ta nhìn thấy con cái mình, học trò mình, giáo dân của mình, em mình, bạn mình hay chính mình… bị quỷ ám lôi theo những xu hướng xấu nhưng lao theo mà bỏ Chúa, bỏ giá trịn Tin Mừng cứu độ nên không còn tha thiết với những giá trị của thánh, thiện, bác ái, từ tâm, nhân hậu…

Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cần phải bắt chước người phụ nữ xông vào cuộc chiến đấu với Chúa để khống chế áp lực của quỷ dữ để quay trở về với Thiên Chúa. Cuộc chiến chúng ta phải mãnh liệt và kiên trì vì sự dữ xem ra càng thống trị nhiều hơn. Chúng ta phải có đức tin và tình yêu chính mình, yêu mọi người. Chúng ta phải có sự tha thiết với giá trị của Tin Mừng và niềm xác tín rằng chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể là Đấng ban tặng cho chúng ta ý nghĩa của đời sống và làm cho cuộc sống chúng ta có giá trị và hạnh phúc đáng sống. Chỉ mình Chúa Giêsu mới giúp chúng ta có sức mạnh sống Lời Chúa mạnh mẽ và một khi sống Lời Chúa mạnh mẽ đương nhiên sẽ trừ được mọi mưu ô chước độc của quỷ ám. Vì vậy, càng sống trong thời đại có nhiều cám dỗ của quỷ dữ, chúng ta phải càng có tâm tình cầu nguyện mãnh liệt tha thiết qua việc kinh nguyện qua việc tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài nhờ đó Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chiến đấu chống lại quỷ ám hay cám dỗ ta trong ngay đời sống thường ngày. Amen.

 

 

 

 

 

74. Chứng nhân bằng cuộc sống - Lm. Đinh Quang Vinh

 

Sau buổi cơm chiều, vị linh mục già với tràng chuỗi trên tay đang gõ đều những nhịp chân trên dãy hành lang của nhà xứ. Bỗng một loạt chuông dài từ phía cổng vang lên, không chút đắn đo, vị linh mục tiến về cổng chính. Cánh cửa bật mở, một khuôn mặt thật tiều tụy xuất hiện, kèm theo lời kêu cứu: “Linh mục ơi! Xin cứu gia đình con với”; với giọng ôn tồn ngài nói: “Mời chị vào phòng khách, có điều chi hãy từ từ giải bày”.

Đón lấy ly nước mát lạnh từ tay ngài, người phụ nữ chỉ nhấp đôi chút và vội vàng cất tiếng với giọng nói thật thống thiết: “thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức mình, ngay cả gia tư vốn liếng con cũng chẳng tiếc chi. Nhưng cho đến nay, mọi chuyện như muối đổ bể: bệnh tình của nhà con chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào khánh kiệt”. “Vậy giờ đây chị muốn tôi giúp gì cho chị? Chị cứ nói, trong khả năng của tôi, tôi xin sẵn sàng giúp chị”, vị linh mục cất tiếng nói. Xúc động bởi sự chân tình của vị linh mục trong tiếng nghẹn ngào chị ta bộc bạch: “thưa linh mục, gia đình con là gia đình cách mạng, chúng con là những đảng viên, tuy chúng con không biết về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người hàng xóm Công Giáo gần nhà giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho nhà con qua khỏi cơn nguy biến này”. Vẫn với giọng nói thật chân tình, vị linh mục hỏi: “Chị tin vào lời cầu nguyện của tôi ư?” chị đáp lời: “Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này; vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục”. “Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa ngay từ chiều hôm nay sẽ cầu nguyện cho chồng của chị”. Cảm động bởi tấm lòng cao thượng của vị linh mục, chị ta còn chỉ biết tạ ơn và cáo biệt ngài ra về cho kịp chuyến xe chiều. Hai tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng của mình để tạ ơn vị linh mục. Và cũng từ đó khơi mào cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng.

Câu chuyện trên đây cũng phần nào diễn tả Lời Chúa ngày hôm nay: Niềm tin của người phụ nữ xứ Canaan. Người phụ nữ ấy đã tin vào Đức Giêsu Kitô: Lạy Ngài là Con Vua Đavít (Mt 15,22); dẫu chỉ nghe nói về Ngài qua những người chung quanh. Niềm tin ấy được diễn tả ngày càng mạnh mẽ, nhất là khi Đức Kitô nói với chị ta: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c.26). Đáp lời Ngài, chị ta nói: “thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đây phải chăng là lời vặn vẹo hay tranh luận với Chúa Giêsu? Thưa không, lời nói của chị đượm nét khẩn cầu của một kẻ đầy lòng khiêm nhường, cúi mình trước Đấng Tối Cao; chính câu trả lời của chị như thêm một lần nữa xác tín niềm tin của mình vào Con Vua Đavít, vì chị tin rằng Ngài luôn thương đến những kẻ mọn hèn, dẫu cho là những chú “chó con” (ngôn từ mà người Do Thái thời xưa dùng để ám chỉ dân ngoại). Đọc được những tâm tình sâu thẳm ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và chữa lành cho con gái chị.

Lời Chúa hôm nay còn muốn diễn tả sứ vụ của Đức Kitô: Được sai đến với những chiên lạc nhà Israel (c.24). Thực vậy, có những con chiên mà đôi lúc do những hiểu lầm hoặc chưa được nghe Lời Chúa đã không ở trong một đàn. Trong và qua Tình Yêu Thập Tự Đức Kitô đã muốn quy tụ tất cả về trong một đàn chiên duy nhất, sống sự hiệp thông, tình yêu, bình an; Ngài muốn dẫn đưa tất cả chúng ta lên Núi Thánh Ngài (Is 56,7). Sứ vụ ấy được ủy thác lại cho các Tông Đồ khi Ngài về trời, và cho chính mỗi người chúng ta, những thành phần của Hội Thánh (Đến với muôn dân, 2).

Trăn trở trước sứ vụ thật cao cả ấy, đôi lúc chúng ta cũng tự đặt câu hỏi cho mình: “Đâu là cách thế để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay?”. Tôi muốn mượn lời của ĐGH Gioan Phaolô VI để trả lời cho vấn nạn này: “Người đương thời sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy”, thế nên “Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng cách làm chứng, một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới” (Loan báo Tin Mừng, 21;41).

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta những bài học quý giá. Qua hình ảnh người phụ nữ xứ Canaan ta học được bài học về sống niềm tin. Chính niềm tin hun đúc và giúp chúng ta bước đi cách vững chắc trong hành trình hướng về quê trời, dẫu cho hành trình đó còn vương đầy sỏi đá; chính lối sống tín thác vào Đức Kitô, khiến ta trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng, của tình yêu: rao giảng không những bằng lời nói, nhưng còn bằng chính đời sống. Thiết nghĩ khi thực thi được những điều đó ta đã thực thi phần nào sứ mạng mà Chúa uỷ thác cho mỗi người chúng ta.

 

 

 

 

 

75. Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.

Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:

– Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.

Em bé mỉm cười đáp:

– Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.

Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao vậy?

Em bé dí dỏm trả lời:

– Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.

***

Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám.

Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.

Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.

Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.

Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác, Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước các môn đệ.

Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người.

Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.

***

Lạy Chúa, có ai khiêm tốn cầu xin mà Chúa chẳng nhận lời, có ai kiên trì phó thác mà chúa chẳng ban ơn. Xin thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con luôn tin tưởng cả khi Chúa xem ra như thinh lặng, để chúng con cậy trông cả khi cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Vì chúng con tin chắc rằng cuối cùng Chúa vẫn luôn chọn phần tốt nhất cho chúng con. Amen.

 

 

 

 

 

76. Người nghèo.

 

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ lùng, và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật lại một cuộc gặp gỡ một người đi xin xỏ. Thật vậy, người đàn bà Canaan không xin tiền bạc. Nhưng bà đi xin một ân huệ. Có những lúc, chúng ta gặp những người ăn xin, hoặc ở nơi bậc cửa nhà mình hoặc trên đường phố. Người ta tự hỏi Đức Giêsu xử sự ra sao trong những hoàn cảnh như thế.

Đức Giêsu đã cùng các môn đệ lui về miền Tia và Xiđon, đó là miền đất của dân ngoại. Dường như Người lui về đó để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ngay sau khi đến đó có một người đàn bà đi theo quấy rầy Người, xin Người chữa lành cho con gái của bà.

Phản ứng của chúng ta thế nào, khi chúng ta gặp một người nào đó xin xỏ? Tôi nghĩ rằng ít người trong chúng ta từ chịu bố thí, mà được như thế thì quá tốt. Thông thường chúng ta từ chối giúp người khác. Chúng ta biện minh sở dĩ chúng ta không có khả năng và tốt hơn hết là không cho họ thứ gì bởi vì khi cho, chúng ta nuôi dưỡng tâm lý xin xỏ, dựa giẫm, ỷ lại.

Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra một niềm an ủi từ bài Tin Mừng hôm nay. Phản ứng của các Tông đồ không khác phản ứng của chúng ta. Đối với họ, người đàn bà Canaan là một kẻ quấy rầy, phiền nhiễu. Họ chỉ muốn Đức Giêsu tống khứ bà ấy càng nhanh càng tốt.

Dĩ nhiên, phản ứng của Đức Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trước hết, Người không biết bà ấy. Vì thế, Người từ chối bà và cố gắng thoái thác. Tuy nhiên bà là một phụ nữ có rất nhiều quyết tâm và không chịu chấp nhận một câu trả lời không. Sau cùng, Người phải thỏa mãn lời cầu xin của bà.

Từ đó, người ra rút ra điều gì: chúng ta sợ tiếng kêu của người nghèo. Gặp gỡ với một người ăn xin có thể là một kinh nghiệm quấy rầy phiền nhiễu. Nó có thể làm lộ ra những điều đáng ghét trong chúng ta. Nó làm nổi lên trong chúng ta những cảm giác mâu thuẫn về lòng thương xót, bực bội, tức giận và phạm tội. Chúng ta ghét điều mà chúng ta khám phá về mình. Và nếu không thận trọng, chúng ta có thể hướng lòng thù hận về người nghèo bất hạnh đã dám đến gần chúng ta.

Gặp gỡ một người nghèo có thể là một kinh nghiệm làm người ta khiêm nhường bởi lẽ nó làm chúng ta nhận ra sự nghèo nàn của chính chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng trong lúc người ăn xin nghèo nàn về mặt vật chất, thì chúng ta nghèo nàn trong một ý nghĩa khác. Chúng ta nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự sẵn sàng giúp nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự xẵng sàng giúp đỡ một người khác, nghèo nàn khả năng yêu thương.

Tuy nhiên, dù gặp gỡ một người nghèo có thể làm phiền chúng ta, nó cũng có thể sinh ra ích lợi. Qua người nghèo, chúng ta khám phá sự yếu đuối và thương tật của chúng ta mà xét cho cùng, chúng ta là như thế. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên đeo mặt nạ và gán cho mình điều mình không có. Có như thế, chúng ta mới đạt đến sự giải phóng nội tâm sâu xa. Nó đặt chúng ta vào sự tiếp xúc với sự thật về chính mình.

Gặp gỡ ấy cũng có thể làm thức tỉnh và bộc lộ tâm hồn. Nó có thể đánh thức trong chúng ta cảm giác dịu dàng và thương xót, nhân từ và hiệp thông. Nó cho chúng ta thấy có thể hiện hữu nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, và dâng hiến chính mình nhiều hơn. Nó có thể thay đổi chúng ta. Nó phát huy chúng ta và kêu gọi chúng ta đến với nhân loại. Vì thế nó có thể dẫn đến một sự bắt đầu mới.

Và nó nhắc nhở chúng ta rằng trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo. Vị linh mục cầu nguyện trong thánh lể với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện trong thánh lễ với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện như thế là biết rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều nghèo và chúng ta đặt như cầu hàng ngày của chúng ta vào lòng thương xót và tình yêu của Người. Vì thế chúng ta như người ăn mày đưa cái bát trống rỗng cho những khác qua đường. Thực tế chúng ta đã nói: “Lạy Chúa, trước mặt Ngài, con nghèo nàn như một người hành khất”.

 

 

 

 

 

77. Những bia đá niềm tin.

 

Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba Chuông, Sàigòn, người ta thấy những tấm bảng đá gắn đầy tường. Phần đông người tạ ơn đề tên gọi, không có tên thánh, chứng tỏ người lương được ơn cứu giúp nhiều hơn người Công giáo.

Tại sao vậy?

Chúng ta thật khó trả lời. Có lẽ câu trả lời của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa rồi. Còn họ bây giờ mới được! Có lẽ Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.

Không, đó là câu trả lời của ta, ngầm chứa một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho mình là hơn người ngoại.

Chỉ có Chúa mới trả lời thật chính xác: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy, ngay lúc đó con bà được khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ được ơn cứu giúp chính vì họ có lòng tin mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu giúp, vì ta kém lòng tin, không xứng đáng nhận được ơn Chúa.

Ơn Chúa dồi dào cho mọi người, như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến cho họ được sống và được sống dồi dào” Người còn giải thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5,45).

Ơn Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh sáng mặt trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như mưa sa. Công thần Nguyễn Công Trứ ở thời cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy “Của trời trăng gió kho vô tận” hay: “Của trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Đúng vậy, của trời thì vô tận chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì được ơn dồi dào, người kia thì không được, chứ không phải mang danh có đạo là được ơn. Tiên tri Isaia đã được Chúa tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào gắn bó cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh Người, thì được nên tôi tớ của Người… “Ta sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của Ta…” (Bài I – Is. 56,6-7).

Thế là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ nể vì: “Bà có lòng tin mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng.

Lý do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói ra, nhưng sau này Thánh Phaolô đã nêu trong bài đọc II:

“Trước kia anh em không vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương… để cho chính họ cũng được xót thương” (Rm. 15,30-31). Họ đây là dân mới có đạo, tức là: dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót, để cho dân Do Thái, dân đã có đạo lâu đời, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải lo có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.

Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh thật của dân ngoại, đánh thức lòng tin của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp như bà dân ngoại xứ Canaan.

Lòng tin mạnh thật của bà thế nào?

Trước nhất, bà cầu nguyện với Đức Giêsu bằng nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”. Người Do Thái mong đợi con vua David đến giải phóng đế quốc hơn là đến cứu độ. Vì thế khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ đã hoan hô Ngài như một David chiến thắng dũng tướng Goliad (Mt. 21,9). Còn bà dân ngoại, bà tin Đức Giêsu là Đấng Cứu thế đến “Đem Tin Mừng cho người khốn khó, ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc. 4,18-19). Lòng tin của bà giống như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên tri Elisa và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.

Như vậy lòng tin của bà vào lòng thương của Thiên Chúa, chứ không phải vào tài thao lược của một tướng quân như David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót của Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên giới Israel mà bà đã đến với Đức Giêsu, dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.

Thứ đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ ra rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài đến nỗi môn đệ không thể chịu đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã đuổi bà đi nhiều lần mà không xong, đành phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà quyết tâm kêu nài bằng được, đến nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi họ như chó má: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà đang sụp lạy trước mặt Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.

Lòng tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã sai khiến được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà được khỏi quỷ ám.

Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương lòng tin mạnh mẽ, kiên trì, khiêm tốn sâu thẳm của bà dân ngoại xứ Canaan. Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy của Chúa, đúng là “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Xin đánh thức lòng con biết nhiệt tâm tin mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa, biết luôn luôn sấp mình trước tôn nhân hiền từ của Chúa để van nài: Lạy Chúa, xin cứu con như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị khổ sở của quỷ ám.

 

 

 

 

 

78. Người ngoại ở cửa bên cạnh.

 

Glady bị mù từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học. Cô có thể tìm đường đi bất cứ chỗ nào trong khu vực nhà trường mà không cần ai giúp đỡ, trừ khi cô đi vội vàng. Thế rồi có một cô gái cần giúp đỡ. Một đêm điện bị cúp. Phòng ngủ tối đen như mực. Các cô sờ soạn tìm lối đi, vấp ngã và va chạm ở những dãy hành lang. Nhưng Glady ở đúng trong môi trường của mình. cô sống trong bóng tối luôn mãi nên cô có thể dẫn các bạn của cô an toàn chắc chắn đi mọi chỗ họ muốn tới. Glady thực sự hình thành chính mình đêm đó.

Tin Mừng hôm nay nói về người đàn bà khác gặp cản trở và đã hình thành chính mình khi gặp Chúa Giêsu. Người đàn bà Canaan gặp cản trở vì phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là dân ngoại, nhưng từ lâu còn là địch thù của dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế mà bà cứ kêu to nài xin cứu chữa con bà bị quỉ ám.

Bà mẹ ở Canaan này là người dân ngoại. Bà ấy biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết những phép lạ của Chúa Giêsu, bà lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua David, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà mẹ này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.

Các môn đệ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin giúp tôi”. Bà ấy biện hộ rằng: bà thỏa mãn với những mảnh bánh vụn chứ không cần phải là được cả năm chiếc bánh. Chúa Giêsu khen ngợi lòng tin của bà và đã chữa lành con gái bà ngay tức khắc.

Cũng có hơn một tỷ người như bà mẹ này trên thế giới. Ngay ở Hoa Kỳ, dù rằng 90% tuyên bố rằng: họ tin vào Thiên Chúa mà chỉ 50% chính thức lưu tâm đến Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta phải lưu tâm đến hàng triệu người không được gặp Chúa Kitô. Nhưng tôi muốn làm tiêu tan về cá nhân, như bà mẹ ở Canaan, họ không thuộc về gia đình Thiên Chúa nhưng như bà, họ rộng mở đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.

Mỗi người chúng ta biết một vài người hay gia đình, một người láng giềng, một người bạn công nhân, một người quen thuộc, xem ra họ ít hay không lưu tâm tới Thiên Chúa. Họ không phải là người xấu đâu. Thực vậy, họ có thể có đức tính tự nhiên trổi vượt, như tính chân thật, sự ân cần. Nhưng họ là nhưng người xa lạ đối với Chúa Kitô.

Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho họ, chân thành và đều đặn xin Chúa Kitô lôi kéo họ về cùng Ngài. Các bạn hãy dâng thánh lễ này, hãy nói về họ với Chúa Giêsu khi hiệp lễ, hãy giới thiệu cho họ những sách báo công giáo, hãy mời họ tham dự một vài buổi lễ đặc biệt như lễ Giáng sinh, phục sinh, nhất là các bạn hãy tỏ cho họ thấy rằng: Chúa Kitô có ý nghĩa rất lớn đối với các bạn. Ngài cũng có ý nghĩa rất lớn đối với họ. Ngài đã đổ máu ra vì mọi người. Các bạn đừng đẩy người ngoại đi như các tông đồ làm. Hãy đem họ lại cùng Chúa Kitô.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

 

 

 

 

79. “Này bà, bà có lòng mạnh tin” - Lương Văn Liêm – Don Bosco

 

Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công chính, nhưng không thực hiện được bởi họ tìm cách nên công chính nhờ luật, những người ngoại họ nên công chính được là vì họ tin” hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những gì anh em không thấy, là bảo chứng cho những gì anh em trông đợi”

Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ Canaan cứu được người con gái bà bị quỷ ám đã nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin của bà đã được chính Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin mạnh mẽ của bà do đâu và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi dòng cảm nghĩ do đâu và vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.

Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm.

Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa kia cho là dân ngoại, không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ thoảng qua. Người đàn bà xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu và cũng không thể nào biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử hoàn sinh, là thần y chữa bá bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà đã nghe những người Do thái truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe, bà cất bước đi tìm để rồi những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều đó đều khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập địa, khi con người biết lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Ngài qua mọi sự việc, biến cố.

Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu.

Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu mến Đức Chúa hết lòng và khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và trở thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng một lòng yêu mến Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ Maria đã tin tuyệt đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa điều này đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc vì đã tin những gì Thiên Chúa thực hiện nơi em”

Nói về người đàn bà xứ Canaan trong Tin Mừng hôm nay, cũng khởi đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa vì bà có biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái của mình, đó là giọt máu của bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ cũng đau”, chính cái đồng cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin cùng Đức Giêsu chữa cho con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ thực hiện điều bà mong ước là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho con dẫn đến lòng tin, bà đã được Chúa đáp trả.

Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường.

Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm, đồng thời kết hợp với tình yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ Canaan đã đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất khiêm nhường, khiêm nhường lắng nghe những lời miệt thị của người Do thái, khiêm nhường khi chính Đức Giêsu lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu đựng khi các tông đồ nói bà nhiều lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con chó con dưới bàn ăn của chủ. Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà đã được thỏa lòng mong ước.

Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn

Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách tỉ mỉ về sự kiên nhân của người đàn bà xứ Canaan: Lần đầu bà van xin, Chúa như vờ không nghe thấy. Lần hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp lại với các môn đệ một cách như vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp lại

“Không thể lấy bánh của con mà ném cho chó” với lòng kiên nhẫn bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa hưởng những miếng bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa rất chính đáng và đó cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin cho chính bà, bà xin cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người và cũng từ nơi Chúa. nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều mình mong ước ngay lúc hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã thành công một cách mỹ mãn đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái bà một sức sống mới và đem lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu

Cầu nguyện

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã ban nhưng không Đức tin cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu tình yêu, thiếu sự kiên nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà lời cầu nguyện của chúng con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những cám dỗ, sóng gió tứ bề luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.

Xin cho chúng con có được sự lắng nghe qua lời của Chúa, qua lời mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối cùng xin cho chúng con có lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu nguyện. Nhờ đó mà chúng con có được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng con luôn làm sáng danh Chúa trong đời sống thường ngày. Amen.

 

 

 

 

 

80. Một đức tin mạnh và tâm thành - Lm. Nguyễn Bình An

 

Lúc phong trào vượt biên ở cao điểm, rất nhiều người lương đến Đền Thánh Fatima, cầu Bình Lợi khấn hứa, xin cho được “như ý cát tường” và hứa sẽ tạ ơn Mẹ nếu “cầu được, ước thấy”. Một số đã tự ý xin gia nhập Giáo hội và trở thành những tín hữu thật sốt sắng và đạo đức. Số còn lại đã tạo mãi ảnh mẹ, thắp nhang tôn kính tại nhà và ân cần dặn con cháu “tụi con phải cám ơn Đức Mẹ, vì bả, mà gia đình ta được đến đây bình an.” Đây là dấu chứng tỏ tất cả nhân loại, không phân biệt tiếng nói, màu da, chủng tộc, đều là con cái Chúa, và đồng được Chúa ban ơn, chở che và Mẹ Maria nâng đỡ, bao bọc và độ trì.

Từ thời tiên tri Isaiah, Chúa đã phán “người ngoại bang phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, đều trở thành tôi tớ Chúa” (bài đọc một). Nói chung thì cả nhân loại đều nhận biết Chúa theo mức độ khác nhau. Tùy theo phong tục, tập quán, chủng tộc, mỗi sắc dân lại có một nghi lễ dị biệt. Nhưng tựu trung là tỏ lòng kính yêu tôn thờ “ông Trời”, “Thượng Đế” “Đấng Chí Tôn”. Vì có nhiều mê tín và dị đoan trong nhân gian, Chúa đã tuyển chọn dân riêng với trách vụ gìn giữ và phát huy “đức tin độc thần”. Thái độ kiêu hãnh và khinh miệt những người không cùng niềm tin và không chung nghi lễ phụng thờ phát sinh từ đó. Chúa Kitô đã sửa sai quan niệm thiển cận và sai lầm này qua thiếu phụ Samaria. Bà không được phép bén mảng đến gần đền thánh Giêrusalem, nhưng bà lại được diện kiến và trực thoại với Chúa. Biên giới ngăn cách tôn giáo và nghi lễ do con người tự tạo đã bị Chúa Kitô phá vỡ. Từ đây những ai chân thành tìm Chúa và thờ trời đều hợp nhất trong “tinh thần và chân lý.”

Trong tinh thần và trong chân lý, thiếu phụ Canaan đến nài xin và khấn hứa. Bà có thể đã nghe Chúa dậy, hay chứng kiến những phép lạ Chúa thực hiện. Hoặc bà mới chỉ được nghe danh Giêsu qua các lời đồn xa gần. Nhưng bà tin và đó là yếu tố thúc giục bà mạo hiểm đến gặp Chúa, dù bà là người lương. Chúa thoạt như hắt hủi để thử thách, nhưng khi nhậnra một đức tin trong lành và vững mạnh nơi bà, Chúa mủi lòng phán “Bà cầu sao thì được như vậy”. Bà không phải là người lương thứ nhất được ơn lạ. Tể tướng Naaman thời tiên tri Êlisha, và bà góa thời tiên tri Êlia đã được hưởng ơn lành Chúa ban cũng vì lòng tin mạnh mẽ.

Hans Kung, một thần học gia cấp tiến thời danh thập niên 60, gần đậy đã bị giáo hội lên án vì những chủ trương sai lầm và trái ngược với giáo huấn của Hội thánh. Hans Kung phân tích mỏng lời Chúa và hiểu một cách rời rạc và méo mó nên chủ trương là Chúa chỉ được sai đến với người Do Thái. Ông không hình dung ra một Giêsu giữa dân Samari, trước viên quan người lương và ơn lành bà xứ Canaan đã nhận được. Ông giới hạn lời “Các con đừng vội đến các làng dân ngoại, đừng vào thành Samaria, hãy đến với các chiên lạc Israel trước” (Mt 10,50) để đề xướng thuyết kỳ thị và cảnh con yêu con ghét torng sứ mạng cứu thế của Chúa. Ông quên điều kiện tiên quyết Chúa đòi phải có là một đức tin mạnh và tâm thành.

Các tông đồ, ý thức lời truyền “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy, vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”, đã thực thi sứ mạng truyền giáo và hào hùng lấy máu đào minh chứng niềm tin. Niềm tin này đã được chuyển giao đến chúng ta. Niềm tin này sẽ bị mai một và phôi pha nếu chúng ta kiêu kỳ, hãnh diện vì là “con dòng cháu giống” hay “lá ngọc cành vàng” để khinh khi người khác. Niềm kiêu hãnh này giết chết đức tin và đưa chúng ta đến án phạt và ngõ cụt. Đang khi những người thu thuế, phường đĩ điếm và quân tội lỗi vào trời vì họ tin vào tình Chúa thứ tha, vì họ đấm ngực ăn năn và vì họ can đảm thân thưa “Xin tha cho con, kẻ tội lỗi”.

Giang sơn của Chúa hay nước trời là gia sản chung của những ai biết đắm mình trong máu chiên gánh tội trần gian.

 

 

 

 

 

81. Suy niệm của Lm Đinh Minh Tiên.

 

“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

1. Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: “Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:

(1) Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.

(2) Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: “Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!” Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”

(3) So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:

– Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

– Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”

– Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

2. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.

Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.

– Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.

 

 

 

 

 

82. Chú giải theo Fiches Dominicales.

 

ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1) Một cử chỉ tượng trưng xảy ra ở ngoài biên giới…

Đám đông dân chúng theo Chúa trong hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cá lên nhiều đến dư dật (Chúa nhật thứ l8). Rồi Người bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo sang bờ bên kia trước. Trong khi đó Người rút lui lên núi cầu nguyện một mình. Rồi sau đó Người đã đến nhập bọn với họ, bằng cách đi trên mặt biển, lúc thuyền của họ đang bị sóng gió dập vùi (Chúa nhận 19). Giờ đây, các biệt phái và ký lục đến từ Giêrusalem chất vấn Người về chuyện các môn đệ Chúa không giữ luật thanh sạch, pbá tục lệ của tổ tiên. Đức Giêsu đặt lại các lề thói của tổ tiên vào đúng chỗ, nghĩa là các tục lệ đó phải phục vụ các giới răn của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng sự thanh sạch của một người không lệ thuộc vào những thực hành, cho dù nó hợp pháp và theo truyền thống đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ lệ thuộc vào hành động, phản ảnh nội tâm sâu xa nhất của người đó, phản ánh con tin của họ. Điều đó dẫn đến việc gặp gỡ người đàn bà Canaan ngoài giáo.

Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “dơ”, Đức Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ từ miền đó tiến đến gặp Chúa. Một phụ nữ mà tác giả Matthêu đã cố ý gọi là người đàn bà Canaan, để chỉ rõ ý nghĩa cái hố sâu không thể vượt qua giữa họ và thế giới Do Thái. Địa danh cổ kính này dùng để chỉ miền đất mà dân Hipri đã đánh chiếm làm lãnh thổ của mình. Người phụ nữ ấy thuộc về “kẻ ngoại” những kẻ “dơ”, những dân mà dân Do Thái coi khinh như những “con chó”. Còn tệ hơn nữa, bà thuộc một dân tộc mà người Do thái chính thống tránh xa hơn các dân khác, mà từ thời cha ông họ đã thề nguyền giữ mối thù truyền kiếp. “Lạy Chúa, xin thương xót tôi” bà ấy van xin, trong khi kêu Đức Giêsu bằng danh hiệu “con vua Đavit”. Trước hết Đức Giêsu làm thinh. Nhưng rồi bị các môn đệ nài ép đuổi người đàn bà vẫn đeo đẳng kêu van ấy Người nhắc đến sứ mạng của Người là chỉ được sai đến với những “chiên lạc của nhà Israel” mà thôi. J. Radmakers giải thích: “Câu đáp của Đức Giêsu am hạp hoàn toàn với bài diễn từ khai mạc sứ mạng của Người (câu 10,6). Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể các dân nước và lan rộng ra tới tận cùng thế giới” (“Aufil de Evangile se lon St Matthieu”, trang 211).

“Lạy Ngài, xin hãy đền cứu giúp” người phụ nữ một lần nữa sấp mình trước mặt Chúa và kêu cầu theo lời kinh phụng vụ. Đức Giêsu bấy giờ nói trắng ra rằng: Người không thể lấy bánh của con cái – là của dân Do Thái, dân của Lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Tuy câu nói “chó nhỏ” thì đã nhẹ bớt ý khinh dể, nhưng câu nói vẫn còn mang vẻ sỗ sàng. Người phụ nữ không phật lòng trước câu nói đó, bà còn dùng chính lời đó để đáp lại Chúa một cách tinh tế. “Đúng vậy thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”. Cl. Tassin giải thích: Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử thánh được ưu tiên, họ là “chủ”, còn bà là dân ngoại, bà chỉ cầu được những “miếng bánh vụn” trong sự tuyển chọn mầu nhiệm của Thiên Chúa (L’evangile de Matthieu Centurion, trang 167).

Đức tin mãnh liệt ấy đã gây nên sự ngỡ ngàng nơi Đức Giêsu. “Bánh” Lời Chúa bị người Do Thái khước từ, vậy mà người đàn bà này, một người ngoại giáo, một người xa lạ, một người “dơ” đối với con mắt Do Thái, đã chấp nhận và chấp nhận với đức tin vững vàng. Chúa liền kết luận “Hỡi bà, đức tin của bà thật to lớn bà muốn sao thì được vậy. Đức Giêsu đả phá mọi cấm cản, dẹp tan mọi loại trừ để ban cho bà điều bà ta xin, đó là con bà được lành.

2) Báo hiệu một Tin Mừng không biên giới

Tác giả Matthêu thuật lại câu truyện người đàn bà Canaan này có ý nhắm những người Kitô hữu gốc Do Thái. Những người này tuy bị người đồng bào ruồng rẫy, nhưng họ cũng vẫn cảm thấy lòng nghi kỵ mãnh liệt đối với những Kitô hữu gốc dân ngoại, những người đón nhận Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh ngày càng đông.

Đặt cuộc gặp gỡ này vào trong khung cảnh “bẻ bánh”, tác giả như muốn làm sáng tỏ giáo lý Tin Mừng về sự cách biệt giữa người “sạch” và người “dơ” từ nay không còn nữa. Từ nay điều kiện duy nhất để được ngồi vào bàn tiệc Hội Thánh đề ra cho dân ngoại, và nhận “bánh của con cái” là lòng tin vào Đức Giêsu.

Từ một thái độ ban đầu của Đức Giêsu xem ra Ngài chỉ chịu chết để cứu chuộc những người thuộc dân tộc tuyển chọn, Matthêu đà dẫn đến bài học về phái độ cởi mở trong truyền giáo. Cl. Tassin viết: “Đức Giêsu thật đã thi hành sứ vụ cứu thế đối với dân Israel cách trung thành, tuy nhiên Người đã mềm lòng trước lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại đạo… Ngày nay, nếu những người ngoại giáo cũng chứng tỏ một đức tin mạnh mẽ như thế đối với Đấng Cứu Thế, lẽ nào Hội Thánh lại có thể đóng cửa không cho họ vào. Lẽ nào Hội Thánh lại có thể đặt giới hạn cho Đức Kitô, ngăn cản người chiếu sáng cho dân ngoại.” (sđd trang 167-168).

Cuộc tranh luận giữa nhưng Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại đã tắt từ lâu. Nhưng trong Hội Thánh vẫn còn âm ỉ cơn cám dỗ đối nghịch giữa những người thuộc các chủng tộc khấc nhau: cám dỗ giả điếc làm ngơ trước những kêu gọi đến từ những nước xa xôi; cám dỗ cuộn tròn trong vỏ ốc của mình; cám dỗ trốn tránh mạo hiểm và khước từ mở rộng cửa để đón những cơ may. Do đọc lại đoạn Tin Mừng Matthêu hôm nay câu truyện người phụ nữ Canaan mời gọi Hội Thánh hãy tìm ra trong lịch sử của mình niềm hứng khởi và sức mạnh cần thiết để trung thành với sứ mạng toàn cầu và liên tục tự vượt thắng chính mình.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. “Đức tin phá đổ mọi rào cản”. (G.Bessière, trong cuốn “Diêu si proche” NXB Deschée de Brouwer, 1992, trang 136-137).

Người ta không biết tên bà, người ta gọi bà là “người phụ nữ Canaan”. Tuy nhiên bà giữ một vai trò độc đáo Đức Giêsu và các môn đệ vừa vượt ranh giới, bởi vì tình hình căng thẳng ở Galilê: Dĩ đào vi thượng mà. Họ đi về hướng Bắc, đến Tyr và Sidon, ngày nay là miền nam Liban. Đã từ nhiều thập kỷ, người Do Thái giừ một khoảng cách đối với dân chúng miền này, tôn giáo của người Canaan bị người dân trung thành với Thiên Chúa Israel khinh miệt. Một phụ nữ của xứ này đến kêu xin Đức Giêsu chữa con gái bà. Chúa làm thinh. Khi các môn đệ nài xin Chúa ban phép lạ để thoát khỏi người đàn bà quấy rầy, thì Chúa trả lời rằng Người chỉ được sai đến kiếm những chiên lạc nhà Israel. Rồi khi người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa, thì Người còn tỏ ra cứng cỏi hơn: “Không nên lấy bánh của con cái là ném cho chó con. Và đây chính là lúc sự việc diễn ra. Một người phụ nữ chộp lấy cách gọi khinh bỉ đó và đối đáp lại bằng câu ví: “Thật đúng vậy, nhưng chó con được ăn những miếng bánh vụn từ bàn ăn của chủ rơi xuống. Bà ấy không phản đối, không chống lại. Bà chỉ kêu mời Đức Giêsu đi tới cùng. Đức Giêsu ngạc nhiên: “lòng tin của bà quá lớn…”. Và đứa con được lành bệnh. Đức Giêsu vừa bước qua một ranh giới, ranh giới nội tâm. Chúa mở rộng tâm hồn cách quyết liệt. Câu đối đáp của người phụ nữ ngoại này có chiều kích nhân đạo và tôn giáo vô hạn. Đối với các Kitô hữu đến từ các dân tộc và tôn giáo khác – người ta thường kêu là “dân ngoại” – đoạn Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đến với người ngoại quốc, được coi là quý hoá. Bởi vì họ có thể đồng hoá với viên đại đội trưởng, với người phụ nữ Canaan. Khi có cuộc tranh luận xem có cần phải theo đạo Do Thái để theo chân Đức Giêsu không, thì người ta nhắc lại kỷ niệm này. Tại sao Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ Canaan? Chính là vì đức tin kiên trì của bà. Nhìn bà, chúng ta cùng khám phá ra rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác, đôi khi cần chúng ta phải bỏ đi cái nhìn hẹp hòi của ta, và nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đến từ nơi khác.

2. “Đức tin của môt người phụ nữ ngoại (F.Declos, trong cuốn “Prends ét mang la Parole” NXB Centurion – duculot, 1992, trang 73).

Người phụ nữ Canaan tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên. Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa quan phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nagiarét đã phản ứng một cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.

Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tương sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.

Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà dáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa. Sát bên Người. Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu giếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?

 

 

 

 

 

83. Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về – Noel Quesson.

 

Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu “rút lui”, “lánh mặt” ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.

Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.

Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng…

Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.

Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là “người đàn bà Canaan” để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên…

“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn “phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi” dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: “Kyrie éléisòn mé”. Về chữ “Con vua Đavít” đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.

Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).

Nhưng Người không đáp lại một lời.

Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài “cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?

Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.

Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những “dấu chỉ”. Nhưng mọi “dấu chỉ” đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24) … còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).

Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.

Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.

Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?

Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.

Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).

Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.

Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.

Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác… đời sống của những người khác?

Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).

Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ “nhỏ bé” giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?

Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!

Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?

Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi… nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.

Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết “nâng cấp” mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?

Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.

Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…

Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.

Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn “bánh của con cái Thiên Chúa”? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…

Nếu Thiên Chúa chọn “một số người”, chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế” … cho những người khác (Xh 19,5-6).

 

 

 

 

 

84. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long.

 

NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN

1.- Ngữ cảnh

Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.

Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện “Người phụ nữ Canaan”. Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm một phép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại?

2.- Bố cục

Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao điểm:

* Mở: Hoàn cảnh (15,21);

1) Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);

2) Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);

3) Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);

4) Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).

3.- Vài điểm chú giải

– Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi mình là “dân Canaan”, và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.

– ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ (1998) rằng “ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel”, hay như Bd CGKPV (2004): “Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất Israel bà mới được Chúa thi ân” dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ “đi ra” (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là “… thì này có một người đàn bà Canaan của vùng ấy…”. Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là “này đây một người đàn bà Canaan đến từ đó…”.

– Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.

– Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi (24): “Chỉ được sai đến” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với…). Đức Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai trò tái lập Israel thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải, “những con chiên lạc nhà Israel” (ta probata… oikou Israêl) cũng có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là “những con chiên lạc là nhà Israel”.

– Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion (“chó con”) là dạng giảm nhẹ của từ kyôn (“chó”). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là “chó” (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ “chó”? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với “chó con”. Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ’ (chó) để gọi Dân ngoại.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.

Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (c. 22). Khi nói” Xin rủ lòng thương tôi”, bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. “Ngài.Chúa, kyrie”, là danh hiệu các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là “Con vua Đavít”, cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.

Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. “Các con chiên lạc của nhà Israel” không phải chỉ là “các con chiên đen” tại Israel, nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi Người là “Ngài.Chúa, kyrie”, và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho “con cái”, tức là dân tộc Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là “chó” không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.

Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là “lòng.đức tin” (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).

Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy “lòng tin của bà mạnh thật” (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi “con chó” ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là “Con vua Đavít” (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.

+ Kết luận

Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.

5.- Gợi ý suy niệm

5.1 Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của chúng ta là người đã được rửa tội không phải là một quyền để chúng ta có thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là một ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn đang thấy có “lòng tin mạnh thật” nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài vẫn có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.

5.2 Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.

5.3 Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.

5.4 Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm… Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người ngoại, cho tôi thấy rằng kiên trì là một nhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.

5.5 Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.

 

 

 

 

 

85. Chúa Nhật 20 Thường Niên

(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

 

CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ CANAAN

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Hãy so sánh trình thuật của Mt với trình thuật song song Mc 7, 24- 30. Mt nhấn mạnh nhiều hơn Mc nhất là về các lời van xin của người đàn bà và lời chối từ của chua Giêsu. Tại sao?

2. Có gì lạ không khi bà xứ Canaan gọi Chúa Giêsu là “Con Đavít”?

3. Lời Chúa Giêsu tuyên bố mình chỉ được sai đến “cho những chiên lạc nhà Israel” phải chăng không mâu thuẫn với sự kiện cuối cùng Người đã chữa lành con gái của bà ngoại đạo này?

4. Tại sao thoạt tiên Chúa Giêsu chối từ lời cầu xin của bà xứ Canaan? Để thử đức tin của bà? Nhưng đức tin của bà không lớn sao khi gọi Chúa Giêsu là “Con Đavít” và bái lạy Người? Hay để soi sáng đức tin ấy? Bằng cách nào?

5. Như đã thấy trong các đoạn văn trước; sau khi bị dân Nadarét khước từ và sau cái chết của Gioan Tẩy giả, Chúa Giêsu đã dồn nỗ lực giảng dạy cho các môn đồ, chứ không ngỏ lời với đám đông dân chúng nữa, và chỉ chữa lành những kẻ yếu hệt trong họ mà thôi. Tuy nhiên, các cuộc tranh luận với nhóm Biệt phái vẫn tiếp tục diễn ra ngày càng sôi nổi. Chúa Giêsu khiển trách nhóm Biệt phái đã thêm nhiều quy khoản vào luật Môisen đến nỗi bộ Luật trong thực tế đã bị các quy khoản này hủy bỏ, đó là chưa kể chỉ có một ít người chuyên chú đến vô số khẩu truyền do tiền bối để lại, mới có thể chấp hành đúng các quy khoản ấy. Người phản ứng bằng cách chấn hưng luật Môisen lại trong tính cách giản đơn nguyên thủy của nó, để ai ai cũng có thể chấp hành được.

Trong đoạn văn nằm trước đoạn này, Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa. Suốt cuộc tranh luận với Biệt phái về thức ăn trong sạch và uế tạp, hình như Người ngụ ý có thể ăn các thực phẩm bị chính luật Môisen cấm? Thế mà đó là một trong các nguyên nhân chia rẽ chính giữa người Do thái và lương dân. Thành thử Chúa Giêsu xem ra thiên về đường hướng mềm dẻo hơn đối với dân ngoại. Chính trong bối cảnh ấy đã xuất hiện đoạn văn chữa lành con gái của người đàn bà xứ Canaan. Trong giai thoại này, Mt trình bày Chúa Giêsu làm phép lạ cứu giúp một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và thái độ chống đối ngày càng kịch liệt của các thủ lãnh họ, phải chăng Chúa Giêsu quyết định bỏ mặc Israel cho số phận nó, để từ đây chỉ đi đến với lương dân? Không, Mt bảo đấy không phải là chủ ý của Người. Quả thế, Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ này sau một cuộc chối từ dai dẳng, như thể ban vì bất đắc dĩ mà thôi. Và trước khi ban, người còn muốn xác quyết mạnh mẽ việc tuyển chọn Israel trước mặt các môn đồ và ngay chính khi dân Do thái cứng lòng tin nhất: “Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi “. Vả lại Người đã chẳng sai nhóm Mười hai đi truyền giáo cho họ đó sao (10,6)? Phải phân phát bánh, nghĩa là Tin Mừng, cho “con cái”, nghĩa là cho những kẻ thừa tự Lời Hứa đã. Vì thế Chúa Giêsu chỉ nhượng bộ trước lời cầu xin của người đàn bà, sau khi bà đã nhận ra sự chia cách do Thiên Chúa muốn giữa dân Ngài và mọi dân khác. Sự chia cách ấy bao giờ cũng linh thánh vậy.

6. Đàng khác, nhưng một cách phụ tùy, lời Chúa Giêsu từ chối nhằm thử thách, và như thế để làm nổi bật đức tin của bà ngoại đạo Chính nhờ đức tin mà người ta trở nên con cái đích thực của Abraham. Nếu Israel ương ngạnh cứng lòng, thì Thiên Chúa được tự do gầy dựng, ở nơi Ngài muốn, một hậu duệ mới cho Abraham (3,9) và gọi là dân Ngài những kẻ xưa kia không phải là dân Ngài (1Pr 2,10). Quả trình thuật này muốn phát biểu cái mầu nhiệm “chưa hề thông tri cho con cái loài người trong các thế hệ trước…ấy là dân ngoại là kẻ đồng thừa tự, là chi thể của cùng một Thân mình…” (Ep 3,4-6). Chính mầu nhiệm ân sủng dành cho dân ngoại ấy, Giáo Hội đã phải thừa nhận tại Hội nghị Giêrusalem: “Thiên Chúa, Phêrô bảo, đã tẩy sạch lòng họ bằng đức tin” (Cv 15,9) và Giacôbê nói tiếp: “Ngài đã chiếu cố lấy tự giữa lương dân một dân thờ danh Ngài” (Cv 15,14).

Thành ra giai thoại người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định có vẻ mâu thuẫn và nghịch lý: Israel là dân được tuyển chọn nhưng Thiên Chúa vẫn vô cùng tự do trong việc hoàn tất ơn cứu độ của Ngài.

7. Sau cùng, việc chấp nhận tiếng kêu xin kiên trì của người đàn bà là một lời gián tiếp lên án sự công chính và mối an tâm giả tạo của người Do thái, những kẻ vốn cậy dựa vào truyền thống và huyết thống của họ để đòi hỏi sự chọn lựa của Thiên Chúa, chứ không biết lãnh nhận ơn ấy trong đức tin. Còn người đàn bà Canaan cuối cùng đã được điều mình ước nguyện, vì biết đứng trước mặt Thiên Chúa, trong thái độ đợi chờ đầy khiếm tốn và từ bỏ mà Bát phúc đã diễn tả, thái độ xứng đáng được ban thưởng nước Trời. Dưới chân Chúa Giêsu, bà chỉ còn là một kẻ hành khất kiên trì kêu xin, bền lòng hy vọng, như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn (Lc 18,1-8), như những người mạnh bạo chiếm đoạt lối vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời cầu nguyện của bà chỉ là hình thức cụ thể và sống động của đức tin bà có. Chúa Giêsu thấy lòng tin ấy lớn thật, vì là một đức tin toàn diện; nó biểu lộ một tâm hồn không san sẻ hằng chờ đợi ân sủng và ý muốn tự do của chủ thỏa mãn cơn đói. Nhưng đồng thời nó cũng làm hiển lộ sự mù quáng và thành kiến của những kẻ đồng hương với Chúa Giêsu vốn không chịu nhìn nhận Người là Đấng Messia của họ, trong lúc “con chó ngoại đạo” này đã nhận ra Người là “con Đavít” (c.22).

8. Giai thoại người đàn bà xứ Canaan gián tiếp đưa ra một bằng chứng về sự lương thiện rất mực của Mt trong tư cách chứng nhân lịch sử của truyền thống phát xuất từ chúa Giêsu. Quả thế, khi nhấn mạnh việc Chúa Giêsu từ chối nhậm lời cầu xin của bà ngoại đạo), Mt cho thấy người, dù bị giới cầm quyền Do thái phủ nhận, đã nghiêm túc giữ đúng chương trình chỉ rao giảng cho con cái Israel, chứ không rao giảng cho lương dân. Thế mà lúc Mt ghi chép Tin Mừng, và điều này lại càng đúng hơn nếu ta kéo lùi thời gian ông biên soạn, thì lương dân đã gia nhập Giáo Hội rồi. Thật là một cám dỗ (muốn loại bỏ) đối với thánh sử khi phải cho thấy sự kiện đó đã xảy ra trong sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu. Nếu có lần nào Mt bị cám dỗ biến giáo lý của ông theo những mục đích hộ giáo, thì có lẽ là trường hợp hiện tại. Thành thử giai thoại này, cái giai thoại không phải không gây khó khăn cho những người theo chủ trương phổ quát như Phaolô chẳng hạn, là một trong các chứng cớ chắc chắn nhất về tính cách vững chãi của truyền thống liên quan đến Chúa Giêsu, và về lòng ngay thật của các tác giả Tin Mừng.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa Giêsu từ chỗ ra khỏi đó, một thành ngữ rất mơ hồ, đến miền Tyrô và Siđôn. Đúng hơn việc định vị này có một ý nghĩa thần học: Matthêu muốn nói Chúa Giêsu tiếp xúc với lương dân sống trong các miền ấy, nơi cũng có rất nhiều người Do thái ở. Thành ngữ Tyrô và Siđôn, theo cựu truyền, chỉ vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc-đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia. Dân Phênixia tự gọi mình là người Canaan, và Cựu ước lẫn Tân ước cũng kêu họ như vậy.

“Một phụ nữ Canaan…”: Thành ra bà này không phải là một người Do thái sống trong vùng ngoại đạo nhưng, như phần tiếp trình thuật cho thấy, là một người ngoại đạo biết rõ hoạt động của Chúa Giêsu và có lẽ cũng nhiễm ít nhiều niềm tin Do thái. Đừng quá ngạc nhiên khi thấy bà ta gọi Chúa Giêsu là con Đavít: theo Mc 3,8 danh tiếng Người đã vang nhanh đến các vùng này. Thành thử khi gán tước hiệu đó cho Chúa Giêsu, không chắc bà tin Người là Đấng Messia; có lẽ đúng hơn bà chỉ lặp lại điều đã nghe dân Do thái trong vùng nói về Người; vì thế, niềm tin mà Chúa Giêsu thán phục ở c. 28 đúng ra là chính niềm tin được biểu lộ trong câu đáp đầy khiêm tốn ở c.27, nơi người đàn bà Canaan minh nhiên công nhận, dù là ngoại giáo, quyền ưu tiên được cứu rỗi của Israel.

“Ra khỏi vùng đó… “: BJ dịch ra như thế các chữ Hy lạp apo ton horion ekeinon exelthousa và còn ghi chú thêm: “ân huệ mà cuối cùng Chúa Giêsu đã ban cho bà ngoại giáo ấy cũng chỉ được ban trong đất Israel”. Nhưng hình như c.21 cho thấy là Chúa Giêsu ra khỏi lãnh thổ Israel để đến các vùng ngoại đạo mà? Kỳ thực, ranh giới địa dư, chính trị và chủng tộc giữa Galilê, Syria và Phênixia không có gì rõ ràng. Đàng khác động từ Hy lạp ra khỏi (exelthousa) với giới từ apo cũng có thể chỉ muốn nói bà này có xuất xứ ngoại đạo. Thành ra có thể dịch phần đầu của c.22 như sau: “Và này môt người đàn bà Canaan ở vùng đó…”. Cách dịch này ăn khớp hẳn với câu trước vậy (c. 21).

“Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi”. Một câu trả lời nặng óc địa phương như thế hẳn là chướng tai đối với Giáo Hội, vì ngay từ trước thời Phaolô, Giáo Hội đã bắt đầu hoạt động truyền giáo giữa lương dân (Cv 10,44-48). Thật ra Chúa Giêsu nhắc tời một ủy nhiệm lãnh từ Thiên Chúa động từ ở thể thụ động, không túc từ động tác, là một cách nói bóng gió về Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài). Và ủy nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo sẽ có ngày giao đuổi các mục tử giả nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34,23). Chúa Giêsu loan báo giờ đó đã đến. Vai trò của Người là tái lập Israel thành một đàn chiên duy nhất, trung tín với Giavê. Khi dân Israel lại được quy tụ và đi theo Thiên Chúa, mục tử chân chính của nó, thì bấy giờ các dân tộc trên thế giới mới được quy tụ quanh Thiên Chúa thật. Nhưng giai đoạn thứ hai này của chương trình cứu rỗi không trực tiếp liên hệ đến sứ mệnh của Người, xét như là Đấng Messia. Người chỉ chuẩn bị giai đoạn đó thôi.

“Chó con”: Hy ngữ kunarion (chó con) là hình thức yếu nghĩa (diminutit) của chữ khôn (chó). Đa số các nhà chú giải xem việc dùng yếu nghĩa từ này là cách làm dịu bớt sự khinh miệt trong lời nói của Chúa Giêsu (người Do thái gọi dân ngoại là “chó” chứ không phải chó con). Nhưng về ý kiến này, ta có hai nhận xét:

1. Không chắc hình thức yếu nghĩa trong Hy ngữ bình dân có giá trị như một cách làm dịu bớt;

2. Ngôn ngữ Aram không có yếu nghĩa từ tương ứng với “chó con”; chữ Chúa Giêsu nói hẳn là chữ quen dùng để chỉ người lương dân kaloba (chó) hơn là gurâ (con thú nhỏ).

“Lòng tin của bà lớn thật”: người đàn bà Canaan đã hiểu rằng Chúa Giêsu không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt động một cách cá nhân nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên Chúa, mà trước tiên liên hệ đến tuyển dân; và bà đã khiêm tốn nhìn nhận tuyển dân này được ưu tiên trong chương trình cứu rỗi đó. Chính việc nhìn nhận như vậy làm nên đức tin của bà.

KẾT LUẬN

Chúa Giêsu giúp bà này chẳng phải vì bà là kẻ ngoại giáo, song vì bà có một đức tin lớn lao. Trật tự cứu rỗi được tôn trọng, các giới hạn của sứ mệnh ủy thác cho Chúa Giêsu được xác định rõ ràng. Nhưng một niềm hy vọng vĩ đại đã bừng dậy. Trong niềm hy vọng đó ta thấy hiện ra một dân Israel mới được xây trên một lòng tin cũng thật lớn lao. Trường hợp viên sĩ quan trước đó cũng thế (8,10.13). Vì như Thiên Chúa hoàn toàn đủ sức biến các “viên đá” thành con cái cho Abraham, thì ngày kia Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới lừ những kẻ có lòng tin như vậy. Ơn cứu rỗi chưa đến với lương dân; Chúa Giêsu còn trở về Israel (c. 29) để bẻ bánh cho con cái dân Người. Nhưng rải rác đó đây, trong nhiều trường hợp xác định, người ta thoáng thấy một thực tại mới, một tương lai mới trong đó Thiên Chúa sẽ hoàn tất trật tự cứu rỗi đã thiết lập ngay từ đầu. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Vì được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo, vì có niềm tin, nên đôi khi ta tưởng các con “chó” ở ngoài, nghĩa là lương dân quanh ta, không có cùng quyền lợi được cứu rỗi như ta. Giai thoại người đàn bà Canaan nhắc ta nhớ Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi các cơ cấu tôn giáo. Cũng như Chúa Giêsu đã gặp “một lòng tin lớn” ngoài Israel trong khi chính Israel lại cứng lòng tin, thì ngày nay Người cũng có thể gặp một lòng tin lớn lao như thế, nghĩa là một lòng đói khát Thiên Chúa thực sự, ở ngoài Giáo Hội. Vì thiếu mặc khải minh nhiên và thiếu ánh sáng soi dẫn, nên lòng đói khát này là một nỗi mong chờ được nuôi dưỡng bằng những vụn bánh rơi tư bàn ăn của Thiên Chúa. Những người đói khát như vậy có lẽ có, dầu họ không biết, một đức tin tinh tuyền hơn lòng tin của ta, nếu ta khinh chê lương dân thì có khác gì những người Do thái tự mãn đã không chịu khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu, viện cớ mình là “con cái Abraham!”

2) Thiên Chúa thường bắt đầu tỏ ra giả điếc làm ngơ trước lời cầu xin của ta, như Chúa Giêsu đối với người đàn bà xứ Canaan, nhưng là để sau đó nhậm lời nếu ta biết khiêm tốn kiên trì van vái. Chính đó là cách Ngài giáo dục ta cho có một lòng tin chân thật vậy.

3) Lời cầu xin thực sự làm đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu xin không ỷ lại vào một quyền lợi nào, mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào lòng tốt của Thiên Chúa như chó con đón lấy các mảnh vụn rơi từ bàn ăn gia đình.

 

 

 

 

 

86. Cầu nguyện thế nào để được chấp nhận? - Lm. Đan Vinh

 

HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Đức Giêsu chữa con gái người đàn bà xứ Canaan:

Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức Giêsu im lặng và khi môn đệ cầu bầu thì Người giải thích lý do “chỉ được sai đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối đáp đã chứng tỏ bà có một đức tin mạnh mẽ, nên cuối cùng bà đã được Đức Giêsu khen ngợi có đức tin mạnh và đã ban cho bà được thỏa mãn.

CHÚ THÍCH:

– C 21-22: + Đức Giêsu lui về miền Tia và Xi-đon: Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ Đức Giêsu muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh sự nồng nhiệt của quần chúng muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho họ, nên dân ngoại sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”: Sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết và tuyên xưng Đức Giêsu bằng danh hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra khỏi miền đất dân ngoại và được nghe nhiều người Do Thái truyền đạt đức tin về Đức Giêsu (x. Mc 3,8).

– C 23-24: + Nhưng Người không đáp lại một lời: Khi không nghe lời cầu xin của người đàn bà này, Đức Giêsu muốn thử thách để biết tình trạng đức tin của bà, để gia tăng lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi: Các môn đệ muốn Đức Giêsu thỏa mãn lời cầu xin để khỏi tiếp tục bị quấy rầy. Còn Đức Giêsu lại muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai là tùy lòng tin yêu của họ. Ở đây không những Người ban cho con gái bà khỏi bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức tin vào Người là điều kiện để được hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi: Sinh thời, Đức Giêsu chỉ rao giảng cho người Do Thái, là những người được thừa kế các lời hứa cho họ là con cái Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn đệ đi giảng đạo, Đức Giêsu cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế cho thấy: dân Do Thái đã từ chối ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị mất quyền ưu tiên gia nhập Nước Trời (x. Cv 18,17).

– C 25-26: + “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”: Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong lời cầu xin: xin một lần chưa được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi cầu xin mà chưa được nhận lời, bà vẫn bền đỗ chứ không nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Không nên lấy Nước Trời được hứa ban cho con cái trong nhà là dân It-ra-en, để đem cho người ngoài là dân ngoại bị khinh dể như loài vật. Từ chó con ở đây là để làm dịu bớt sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.

– C 27-28: + Chó con: là con vật nuôi trong nhà và được mọi người cưng chiều. + Cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói của người đàn bà cho thấy bà có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương trình cứu độ. Điều này cho thấy đức tin của bà thật vững mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy: Khi thấy người đàn bà tỏ lòng khiêm hạ và vững lòng phó thác cậy trông, Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của bà và đã ban cho con gái bà khỏi bệnh như ý bà xin.

CÂU HỎI:

1) Người đàn bà ngoại giáo kêu xin Đức Giêsu bằng danh hiệu nào? Tại sao bà ta biết được danh hiệu ấy? 2) Tại sao Đức Giêsu làm như không biết không nghe thấy lời kêu xin khẩn thiết của người đàn bà này? 3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giêsu thuận theo ý người đàn bà nhằm mục đích gì? 4) Đức Giêsu cho môn đệ biết sứ mệnh của Người là gì? 5) Tại sao Đức Giêsu khen đức tin của người đàn bà ngoại giáo và cuối cùng đã ban theo ý bà xin?

HỎI: TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA?

ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn im lặng không nhậm lời thường do mấy nguyên nhân chính như sau:

+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếu? Trưởng thành hay ấu trĩ? Ta cần noi gương người đàn bà ngoại giáo trong Tin Mừng: kiên trì cầu nguyện và không ngã lòng cậy trông. Xin một lần chưa được, hãy xin thêm nhiều lần. Phải xin với sự xác tín Chúa sẽ ban điều tốt lành cho ta, như Đức Giêsu phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).

+ Có thể lời cầu xin của ta mới chỉ mang tính cá nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý cầu nguyện như lời Đức Giêsu dạy: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19). Ta cũng nên xin các thánh và các linh hồn trong luyện ngục cầu bầu cùng Chúa cho ta dựa theo tín điều “Các Thánh Cùng Thông Công”.

+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Do ta phô trương lòng đạo đức để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta đòi Chúa phải ban theo ý riêng của ta, thay vì phải xin vâng theo thánh ý Thiên chúa như lời Đức Giêsu cầu xin trước khi bị bắt: “Ba ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).

+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu sự hy sinh: ta hãy cầu xin, kèm theo những việc đạo đức như xưng tội rước lễ, và các việc hy sinh hãm mình, kèm theo sự tha thứ làm hòa như Đức Giêsu dạy: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).

+ Có thể ta xin những điều có hại cho phần rỗi của ta mà ta không biết: Đừng đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng hãy tin cậy vào lòng từ bi của Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn cứu độ cho ta như Đức Giêsu đã dạy: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).

+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ hại nhân: Xin những gì có lợi cho mình mà hại cho người khác như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã nhờ mẹ mình đến xin Đức Giêsu cho được ngồi hai bên tả hữu Người trong Nước mà Người sắp thiết lập (x. Mt 20-21), hoặc xin Chúa làm điều trái nghịch với lòng từ bi nhân hậu của Chúa như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri vì đã dám từ chối đón tiếp Thầy trò ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những lời cầu xin ấy không đựơc Chúa chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55). Ta nên chú trọng xin những ơn tinh thần như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-14), vì sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn là xin các ơn vật chất phần xác, vì liên quan đến luật tự nhiên do Chúa đã an bài khi sáng tạo vũ trụ vạn vật.

SỐNG LỜI CHÚA

LỜI CHÚA: Một người đàn bà Canaan kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” … “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi!” (Mt 15,22a.25b). Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).

CÂU CHUYỆN: Tình yêu và đức tin luôn đồng hành với nhau:

Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là Dốt-Si-Ma (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không? …” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.

SUY NIỆM:

Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giêsu để xin Người chữa cho con gái bà lành bệnh. Nhờ có đức tin mạnh mà bà đã được Người ban cho như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải cầu nguyện với lòng tin như thế nào?

– Cần có một đức tin trưởng thành: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giêsu thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Nhưng Đức Giêsu im lặng không đáp lại một lời! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà mạnh yếu thế nào? Nếu bà không kêu xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là tin vụ lợi: “Tin Chúa để được Người ban ơn như ý!” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ!”. Nhiều khi chúng ta cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, chúng ta có hồ nghi sự hiện hữu của Chúa và tự hỏi: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của tôi không? Có nhìn thấy những khó khăn của tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp không?”.

– Cần có một đức cậy vững vàng: Người đàn bà này đã không ngã lòng trông cậy dù bị Đức Giêsu giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì kêu xin Người cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời, thì liền chán nản ngã lòng trông cậy, không cầu nguyện nữa và bắt đầu “hữu sự vái tứ phương” là chạy đến với thầy bói, thầy ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác….

– Một đức tin khiêm tốn và phó thác: Nghe Đức Giêsu trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà sằn sàng chịu đựng những lời miệt thị của người Do Thái, vì họ coi dân ngoại như loài chó. Chính sự khiêm tốn ấy khiến bà được Chúa yêu mến. Như vậy, tin không phải là cầu xin để đòi Chúa ban theo ý mình, nhưng là kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.

THẢO LUẬN:

1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giêsu dạy có những đặc điểm nào? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm?

NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Cha nhân ái. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao hồn xác.

– Lạy Cha. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi đời đời của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng của Cha như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khí gặp phải những sự trái ý cực lòng… Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

 

 

 

 

87. Chúa muốn cứu rỗi mọi người - Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

 

I. DẪN NHẬP.

Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc nào, mà muốn dành cho mọi dân tộc không phân biệt mầu da, tiếng nói. Dân Do thái là dân được tuyển chọn, dân riêng của Chúa được chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ, đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu, nhưng họ đã từ chối, lại còn chống đối Ngài.

Người đàn bà Canaan là đại diện cho dân ngoại được đón nhận đức tin, được Chúa ban hồng ân theo lòng tin khiêm tốn và kiên trì của bà. Chính Chúa Giêsu đã phải bỡ ngỡ về lòng tin sắt đá của bà nên đã khen ngợi: “Lòng tin của bà mạnh thật”, và đáp lại lòng tin ấy Chúa Giêsu đã nói: “Bà muốn sao thì được như vậy”.

Chúng ta là những Kitô hữu, ai cũng đã có đức tin nhưng nhiều khi còn non yếu, có khi còn non yếu hơn cả người ngoại. Hãy củng cố đức tin ấy và sẵn sàng đón nhận những thử thách Chúa gửi cho để đức tin của chúng ta mỗi ngày một tăng trưởng dưới sứ hướng dẫn và che chở của Chúa.

II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 56,1.6-7.

Tiên tri Isaia đã viết đoạn sách này từ một thế kỷ sau cuộc lưu đầy ở Babylon. Dân Israel được trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ Giêrusalem, và đền thờ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội. Isaia cho biết: Thiên Chúa không những chỉ dành ơn cứu độ cho dân riêng của Ngài là Israel, Ngài còn muốn mở rộng dân này bằng cách nhận tất cả những ai thừa nhận Ngài như là Đức Chúa chân thật và duy nhất, mà hiến thân phục vụ Ngài vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.

+ Bài đọc 2: Rm 11,13-15.29-32.

Trên bước đường truyền giáo, thánh Phaolô thấy dân Do thái đã được chuẩn bị đón Chúa lại khước từ không nhận Ngài. Tuy thế, Ngài không thất vọng, vì dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được Thiên Chúa xót thương, để cho dân Do thái, dân đã có đạo từ lâu, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.

Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh mẽ của dân ngoại, đánh thức lòng tin của dân Chúa để sẽ được Chúa xót thương.

+ Bài Tin mừng: Mt 15,21-28.

Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa không phải chỉ dành riêng cho dân Do thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân của Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do thái mà thôi, theo lời Ngài đã hứa với họ, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.

Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy? Vì bà đã có đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy nên bà ấy đã làm cho Chúa xiêu lòng: Ngài đã nhận lời cầu xin của bà và hứa cho con bà khỏi bị quỉ ám.

III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Lòng tin của bà mạnh thật

Lòng tin mạnh mẽ cần thiết, thế nên lòng tin ấy cần phát sinh tâm tình khiêm hạ, can đảm, kiên trì cũng như niềm hy vọng thật sự thì lòng tin ấy mới có hiệu lực và ích lợi. Người đàn bà Canaan ngày hôm nay, do lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã khiêm hạ thực sự, nhìn nhận tất cả những thành kiến của người khác đối với mình, sự khiêm hạ này đã khiến Đức Kitô động lòng như thế nào?

Bà cũng đã can đảm nói lên ước muốn và kiên trì xin cho được một ân huệ, bất chấp sự thinh lặng hững hờ của Chúa Giêsu, và bà đã không thất vọng vì những câu trả lời của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Trái lại, qua những lời bà nghe thấy, bà nắm chắc được tia hy vọng lóe sáng ở đó: Ngài để cho vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống… nhờ niềm hy vọng mà lời cầu xin của bà ta có sức mạnh.

IV. NÓI VỀ ĐỨC TIN.

1. Tin là gì?

Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).

Phân tích chữ TIN.

Chữ TIN bởi chữ TÍN.

Theo Hán học, chữ TÍN gỗm chữ ‘nhân” và chữ “ngôn”, nghĩa là tin vào lời người khác nói.

Tiếng Pháp thì chữ CROIRE, nguyên ngữ của nó nghĩa là ‘dựa vào lời lẽ kẻ khác và chứng kẻ khác mà tin” vì họ không thể sai lầm và không thể đánh lừa ta.

Chữ TIN còn có nghĩa rộng là nhận làm chắc chắn những cái ngũ quan ta không thấy, chỉ nhờ lý luận của ta mà biết có thực. Ví dụ: Tôi thấy có vùng khói trước mặt tôi, tôi tin có lửa sau bức tường che mắt tôi.

Theo SPINOZA và những triết gia khác đã phân tách: tin là việc hoàn toàn tùy thuộc vào lý trí, chúng ta tin vì những lý chứng hiển nhiên đáng cho ta tin. Một ý tưởng hiển nhiên nó thúc bảo chúng ta phải tin, chúng ta không thể phủ nhận không tin được…

Ông J. Calvet nói: “Dĩ nhiên lòng tin phải dựa vào lý chứng bởi vì một phần nào nó cũng là kiến thức về chân lý, nhưng nó là một hành động tự do của ý chí cho chúng ta tin tưởng gieo mình vào cánh tay của Thiên Chúa, khi ta tới chỗ nào mà khoa học không còn gì cho ta biết nữa” (J. Calvet, Prends et lis dịch bởi Lê thành Trị, Tìm hiểu Duy linh, tr 91-92).

2. Thấy và hiểu mới tin ư?

Khó hiểu là một chuyện mà phi lý lại là một chuyện khác! Khó hiểu mà hợp với chân lý thì không sao. Chỉ sợ khó hiểu mà đi ngược với chân lý thôi.

Biết bao điều bí ẩn trong vũ trụ mà ta chưa hiểu hết được, hay nói một cách thông thường, chán chi những sự dễ dàng trước mắt mà ta không hiểu nổi và không hiểu hết.

Trí khôn con người chỉ hiểu biết một mức nào thôi, cũng ví như cậu học sinh không thể hiểu biết được ngang với trình độ giáo sư. Ví dụ: một em bé, học mới trình độ toán cộng, em làm một bài toán: 1+1+1 = 3. Nhưng tôi lại bảo rằng cũng phương pháp làm toán mà ba con số 1 bằng số 1: 1x1x1 = 1.

Em bé chưa hiểu quy tắc phép nhân nên không hiểu biết được. Vậy thì hỏi em bé này có tin phương pháp làm toán này không? Ví dụ trên cũng như trăm ngàn ví dụ khác đều chứng minh cho ta thấy rằng: chán chi sự việc trong đời rất tầm thường mà ta không thể hiểu hết được nhưng ta vẫn tin (Sđd, tr 88-89).

Truyện: Hiểu mới tin

Một vị trạng sư tự phụ rêu rao trước mặt đông người rằng: mình chỉ tin cái mình hiểu thôi. Trong đám đông có một thằng nhỏ đã được nghe cha xứ giảng, đứng lên hỏi:

– Thưa ông, nếu vậy ông không tin những gì ông không hiểu ư?

– Dĩ nhiên thế.

– Thưa ông, vậy xin ông cho cháu biết: tại sao ông cử động được ngón tay?

– Tại vì ta muốn, chỉ có thế thôi.

– Ông muốn, vậy sao ông không thể cử động được hai tai?

Vị trạng sư bí lối không biết trả lời thế nào, bèn mắng:

– Thằng nhỏ này mày muốn giảng cho ta phải không?

Nghe vậy mọi người đều cười.

(Trần công Hoán, Tìm hiểu ít thắc mắc, tr 50)

V. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN.

Người đàn bà Canaan ngoại giáo này có một đức tin đặc biệt đã làm cho Chúa phải xiêu lòng mà ban cho bà được như ý sở nguyện: “Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “(Mt 15,28). Như vậy, đức tin của người đàn bà này có nhiều đặc tính, chúng ta cùng tìm hiểu.

1. Đức tin mạnh mẽ.

Tại sao một số người co đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời” (Mt 8,8). Nghe vậy Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel” (Mt 8,10).

2. Tin và khiêm nhường.

Chữ “con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. Dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” không. Chó con giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó hay chạy bậy nơi đường phố có ý nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” đã gợi cho bà này một lời thỉnh nguyện đầy khiêm nhường và tin tưởng.

Các Tông đồ đuổi bà đi mà không được, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chực vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo nào lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.

3. Tin và yêu thương.

Người đàn bà Canaan này có đứa con gái bị qủi ám đau khổ lắm. Bà thương con vô cùng mà không biết làm cách nào để cứu chữa con, bà bất lực hoàn toàn trong cảnh huống này. Vì quá thương đứa con gái bị qủi ám nên đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị các Tông đồ xua đuổi nhiều lần, bị Chúa Giêsu có vẻ hững hờ và còn nói những lời khinh bỉ nữa. Bà vẫn kiên trì, lòng yêu thương con bà giúp bà chịu đựng tất cả. Bà đến với Chúa Giêsu là vì người khác chứ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng. Lòng yêu thương của bà đối với đứa con đã làm cho Chúa cảm động và nhận lời cầu khẩn của bà. Còn tình yêu nào cảm động cho bằng câu chuyện dưới đây:

Truyện: Người mẹ Arménia.

Câu truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 thuổi kêu lên: “Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.

4. Tin và kiên nhẫn.

Người đàn bà này gặp cản trở vì không phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là ngoại giáo, nhưng từ lâu còn là thù địch của dân được Chúa tuyển chọn. Thế mà bà đã cứ kêu to nài xin Chúa Giêsu cứu chữa con của bà bị qủi ám.

Bà mẹ người Canaan này là người dân ngoại. Bà biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết phép lạ của Chúa Giêsu, bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.

Các môn đệ cứ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin giúp tôi” … Người đàn bà này đến với Chúa không phải chỉ vì Ngài có thể giúp đỡ, nhưng Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của bà. Bà đến với niềm hy vọng tha thiết với nhu cầu thúc bách, với quyết tâm không chịu nản lòng. Người đàn bà này có một đức tính tối cần để cho lời cầu nguyện được hữu hiệu, đó là bà có lòng kiên nhẫn và thiết tha vô cùng. Cầu nguyện đối với bà không phải là một nghi thức nhưng là dốc đổ ước vọng nung nấu linh hồn bà, khiến bà cảm biết mình không thể bị từ chối.

VI. ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO?

Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.

Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị hay được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với người đàn bà Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách tới một mức độ nào đó rất là cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lĩnh của ta tới mức độ nào.

Kinh thánh nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thử thách rất quan trọng cho con người trong cả đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trong đời sống thiêng liêng. Tổ phụ Abraham được gọi là “Pater credentium” (cha của những kẻ tin) vì ông đã chịu một thử thách quá sức tưởng tượng mà ông đã thắng.

Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán, Abraham kể ra có nhiều cớ để từ chối đề nghị của Thiên Chúa. Người ta thường dễ phiêu lưu, mạo hiểm khi con trẻ tuổi, chưa bị gắn buộc bởi nghĩa vụ gia đình, hoặc chưa gây được sự nghiệp: nhưng Abraham đã cao niên, tuổi quá thất tuần (St 12,4), lại đã lập gia thất (St 11,29), còn cơ nghiệp thì dư dật, bộ hạ đông đúc, lục súc không ít, lời Thiên Chúa mời gọi xem như chẳng đem thêm gì đến cho Tổ phụ.

Người ta lại cũng dễ thay đổi môi trường sinh hoạt khi có môi trường phong phú hơn đem đến cho mình cơ hội sống an toàn, sung mãn, với đủ tiện nghi: nhưng khi ấy Abraham đang sống tại Harân, một thị xã miềm Mêsopotamia mà lịch sử công nhận là văn minh, phồn thịnh. Bỏ Harân đã chắc gì tìm thấy một vị trí khá hơn? Nơi Thiên Chúa ấn định là nơi xa lạ, chẳng hiểu đến rồi làm ăn có nổi chăng? Đành rằng Chúa cũng hứa nơi ấy sau này sẽ phì nhiêu cho con cháu của ông Abraham (St 12,2-3): nhưng tổ phụ làm gì có con cái để mà hy vọng cho hậu thế (St 18,11-12)?

Vậy mà lời Chúa vang lên, Abraham đáp liền, rời cảnh an ninh, nếp sống nhàn hạ, lên đường để khởi xuớng một giai đoạn lang thang, long đong, chật vật, hết nếm mùi đói kém lại chịu cơn khói lửa của chiến tranh (St 12,10 và 14,13-14). Abraham đã gỡ mọi dây liên ái để gia nhập đất khách quê người: mà tổ phụ đã làm như thế CHỈ VÌ THIÊN CHÚA ĐÃ GỌI, CHỈ VÌ ABBRAHAM ĐÃ TIN.

Đức tin bao giờ cũng là một cuộc VĨNH BIỆT, CHIA LY: vĩnh biệt cái lòng tự phụ làm mình đinh ninh là có thể giải quyết mọi vấn đề, đối phó với các trở ngại bởi duy sức riêng mình, chẳng cần nhờ đến sự can thiệp bên ngoài, bên trên. Vĩnh biệt để chấp nhận một trật tự khác: trật tự siêu nhiên của Thiên Chúa

(Nguyễn huy Lịch, báo Nhà Chúa, số 3, 1968, tr 6-7).

Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng dờ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Con mắt Ngài hằng theo dõi chúng ta như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.

Truyện: Chính ba tôi cầm tay lái.

Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau:

Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mông lung. Phía chân trời xa, một chòm mây xám chờn vờn nổi lên. Bầu trời quang đãng không mấy chốc đã bị phủ kín đen đặc. Rồi cơn giống tố ầm ầm phát nổ. Sấm chớp kinh hoàng. Và càng lâu mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách hoảng hồn mất vía kêu la thất thanh, hỗn loạn. Duy có một đứa trẻ cứ ngồi chơi trên cầu tầu, bình tĩnh ngồi nhìn con tầu chòng chành nghiêng ngửa, giữa muôn con sóng dữ tợn gầm gừ đang lao mình tới, như không có việc gì xẩy ra.

Lạ lùng! Một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi:

– Em không sợ chết sao?

– Sao lại sợ? Chính ba tôi cầm tay lái con tầu này kia mà.

Chớ chi ta cũng trả lời được như vậy trước mỗi một cơn thử thách, mỗi một bước gập gềnh trên biển dương thế đầy giao động vì chính Cha chúng ta đang cầm lái con tầu trần gian!

Chớ chi ta biết áp dụng vào đời sống lời Chúa đã nói lên trước ngày Thương khó:

“Tôi phải đâu một mình đơn côi?

“Tôi có Người Cha vạn năng ở bên cạnh”

(Ga 16,32)

Xin Chúa cho mọi người chúng con cũng có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa như người đàn bà Canaan nọ, và từ niềm tin đó chúng con cũng biết khiêm hạ, trước nhan Chúa, nhưng không khiếp sợ; trái lại, can đảm kiên trì bầy tỏ tất cả những ước muốn chất chứa trong cõi lòng chúng con với niềm hy vọng sâu xa vào sự giúp đỡ của Chúa. Có như thế đời sống của chúng con sẽ đầy tràn sự thỏa mãn và hạnh phúc.

 

 

 

 

 

88. Ơn cứu độ đến với dân ngoại - Lm Trần Bình Trọng

 

Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do Thái là dân ngoại. Ngay cả những người có máu Do Thái, nhưng nếu bị tiêm nhiễm bởi những thói hư nết xấu của dân ngoại bang thì cũng bị coi là dân ngoại. Tuy nhiên người đàn bà xứ Canaan được coi là dân ngoại đã không sợ đến với Chúa để xin một ân huệ. Các môn đệ Chúa toan đuổi bà đi, vì bà có vẻ quấy rầy. Điều đó giúp ta hiểu cái cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan.

Có lẽ để thử đức tin của bà, ngay cả chính Chúa cũng toan đặt cản trở cho lòng tin của bà lúc ban đầu, khi bảo bà rằng sứ mệnh của Người là được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi, nghĩa là sứ mệnh của Người không được sai đến với dân ngoại như bà.

Lúc đầu Chúa có vẻ lãnh đạm, lại còn nói những lời có vẻ chạm đến tự ái của bà như không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con (Mt 15,26). Theo mạch văn, thì con cái đây được hiểu là dân được chọn, còn dân ngoại như bà được ví như chó con. Đó là cuộc đấu lý hay đúng hơn là cuộc chơi chữ. Và bà cũng tỏ ra tài khéo trong cách đối đáp: “Vâng. Lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bản chủ rơi xuống” (Mt 15,27). Lời đối đáp của bà có nghĩa là bà sẵn sàng nhận một ơn huệ nhỏ Chúa ban cũng được vậy.

Thấy bà có lòng tin vững mạnh, Chúa lên tiếng ca tụng đức tin của bà, và ban cho bà được toại nguyện, cho con gái bà được thoát khỏi quỉ ám. Chúa nói với người đàn bà ngoại giáo sứ mệnh của Người là trước hết giảng dạy và chữa lành dân riêng của Chúa. Dân Chúa có được cơ hội đầu tiên để nhận lãnh ơn cứu độ, sau đó đến lượt dân ngoại.

Bằng việc Chúa ban cho người đàn bà dân ngoại có lòng tin được hưởng ân huệ, cũng như Chúa đã mở rộng tâm hồn cho người đàn bà dân ngoại, cho viên sĩ quan dân ngoại, cho người phụ nữ dân ngoại ở giếng Gia-cóp, các môn đệ hiểu được cái sứ mệnh của Chúa bao quát hơn, rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn về một dòng giống, một dân tộc mà thôi.

Trước những biến cố này, đức tin vào Đấng cứu độ chỉ giới hạn đến một dân tộc Chúa chọn. Cái thủ đô và trung tâm tôn giáo của họ là Jerusalem. Tuy nhiên Tiên tri Isaia nhìn thấy một Jerusalem mới, có tính cách thiêng liêng, là trung tâm của lòng xót thương của Chúa. Bài trích sách Tiên tri Isaia hôm nay ghi lại: Người ngoại bang nào muốn phụng sự Chúa và yêu mến Người, thì cũng trở nên tôi tớ của Người (Is 56,6).

Jerusalem là thành được chọn cho ơn cứu độ, nhưng ơn cứu độ không phải là độc quyền cho dân thành Jerusalem mà thôi. Cái vương quốc mà Chúa hứa cho dân riêng của Chúa bây giờ trở nên rộng lớn hơn vì Chúa Cứu Thế đã đến và bày tỏ mình ra, không những cho dân riêng mà còn cho cả dân ngoại nữa. Cái việc chuyển hướng từ cái nhìn có tính cách địa phương, cá biệt, đến cái nhìn có tính cách phổ quát nơi các tông đồ bắt đầu từ khi Thánh Phaolô rao giảng tin mừng cho dân ngoại.

Thánh Phaolô là người Do Thái, nhiệt thành theo đạo Do Thái đến độ cuồng tín. Chẳng thế mà ông đã xin trát của quan tòa để đi bách hại đạo mới là đạo Kitô giáo. Khi được ơn trở lại, Thánh Phaolô đã nhiệt thành rao giảng đạo Kitô giáo cho người Do Thái. Chỉ khi người Do Thái không chịu chấp nhận tin mừng Phúc Âm của đạo mới, thì Thánh Phaolô mới tìm đến rao giảng tin mừng Phúc Âm cho dân ngoại.

Người đàn bà xứ Canaan khẩn khoản nài xin Chúa ban cho con bà được khỏi bệnh quỉ ám. Những cử chỉ khó chịu của các tông đồ, cộng thêm thái độ hờ hững của Chúa lúc ban đầu cũng không làm nản lòng bà. Lời từ chối ban đầu của Chúa với người phụ nữ chỉ là hình thức thử thách đức tin và lòng kiên trung của bà.

Đối với đạo cũ, đạo Do Thái, ta cũng được coi là dân ngoại. Bằng việc chấp nhận đức tin vào Chúa Cứu Thế, ta được trở nên dân riêng, mới được chọn. Thiết tưởng câu chuyện Chúa thử thách đức tin của người đàn bà ngoại giáo phải dạy ta bài học về đức tin. Vậy đức tin của ta đang ở mức độ nào?

 

 

 

 

 

89. Vững vàng tin tưởng - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

 

Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm, may quá anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy dù nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.

Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh thấy choáng váng mặt mày vì vực thẳm sâu, anh cũng biết rõ là không thể bám vúi như thế này mãi được, vì thế, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn biết con có thực sự tin là Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi, con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”.

Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu chuyện sau:

Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà, trong khi những ngọn lửa phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại, rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể nào liều lĩnh đi vào, trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa sổ trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.

Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.

Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hình ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc chúng ta thật cần đến Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chữa con gái bà.

Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Ca-phác-na-um thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Ca-na-an này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.

 

 

 

 

 

90. Lời cầu xin kiên định – Huệ Minh

 

Chuyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Qua đó, ta đọc chuyện bà Canaan để hiểu rằng niềm tin của ơn cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Và ta thấy cuối cùng bà đã được Đức Giêsu lắng nghe, ta thấy đức tin của bà thì luôn luôn mãn nguyện như lòng bà mong muốn.

Trang Tin Mừng hôm nay ta bắt gặp một người đàn bà xứ Canaan đi ra kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi…”. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này.

Và ta thấy sự thật khi bà xin không phải cho bà, bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chả có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.

Lời cầu xin của bà biểu lộ một niềm tin vững chắc vào Chúa Giêsu, xem Ngài là Đấng Mêssia, và lời cầu xin có vẻ bi thảm thống thiết, đáng thương, tuy không phải xin cho bà, nhưng là cho con gái của bà. Bà đã xem nỗi bất hạnh của đứa con gái như chính của bà. Hơn nữa bà mang lấy tình mẫu tử mà thưa với Chúa Giêsu, chính tình mẫu tử ấy giúp bà cam chịu cách đối xử của Chúa Giêsu, và cũng chính tình mẫu tử ấy bà có thể thấy được niềm thương cảm của Chúa Giêsu qua lời Ngài nói. Lời van xin nay còn van lên một cung giọng phụng vụ “xin Chúa thương xót chúng con”.

Ta nể phục bà Canaan này bởi lẽ bà đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.

Một lời khác bà cũng thưa với Chúa Giêsu mà chúng ta lấy lại trong phần giáo đầu kinh phung vụ “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Để khơi dậy và làm sáng tỏ đức tin của bà ngoại giáo này, Chúa Giêsu đã dùng một khoa sư phạm tuyệt vời: trước hết là thinh lặng “Người không đáp một lời nào”. Kế đến Ngài thẳng thắn từ chối. Nhưng bà vẫn bám riết theo sau Chúa Giêsu mà kêu xin, đến mức các môn đệ phải nao lòng “xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”. Chúa Giêsu đáp “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Cũng như Chúa đã chỉ thị khi sai nhóm mười hai “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn, là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,5–6).

Đây là chương trình của Thiên Chúa qui tụ dân Israel trước rồi mới đến muôn dân thiên hạ. Tuy vậy tấm lòng của Chúa Giêsu vẫn hằng rộng mở trước lời cầu xin của người dân ngoại như viên bách quản ở Caphácnaum, người đàn bà xứ Canaan. Họ là hoa quả đầu mùa sứ điệp của Ngài, sau đó các môn đệ Ngài sẽ tiếp nối để mở rộng cửa tiếp đón muôn dân nước vào Nước Trời. Lời từ chối của Chúa Giêsu cho bà ấy biết, bà không thuộc về dân của Ngài “không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Người đàn bà tinh ý, lũ chó con trong nhà cũng có khi được chủ cưng mà cho ăn những mẫu bánh vụn, bà trả lời với tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Dothái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa, là những bảo chứng của phúc lộc vương quốc của Thiên Chúa, cho dù Chúa Giêsu xử đối cách bà cứ một mực “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Chúa Giêsu thán phục đức tin của người đàn bà xứ Canaan, cũng như với viên bách quản ở Caphácnaum. Cách đối xử của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy đức tin kiên vững của người đàn bà Canaan, và một gương mẫu cho mọi người trong việc cầu nguyện, đức tin là yếu tố căn bản.

Trong việc cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, noi gương người đàn bà trong phúc âm luôn kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa. Càng gặp khó khăn đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm.

Hiểu như thế chúng ta sẽ vui vẻ bình an trong đời sống phụng sự Chúa, và luôn thưa với Chúa “Lạy Chúa, xin cứu giúp con”. Đức tin của người dàn bà Canaan cũng là cơ hội làm cho đức tin của các tông đồ thêm vững mạnh, vì vậy chúng ta cần sống đức tin thế nào để giúp cho đức tin người khác được sâu xa hơn. Chúng ta cũng cần giúp cho nhiều lương dân có đức tin, biết cầu nguyện với lòng tin để họ đáng được ăn bánh sự sống Chúa ban cho. Noi gương người đàn bà Canaan chúng ta còn cần biết cảm thương nỗi đau khổ của người khác, và cầu nguyện cho họ với lòng tin, để nhờ đức tin của chúng ta họ được ơn giải thoát.

Hội Thánh sống giữa lương dân, ta có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.

 

 

 

 

 

91. Suy niệm của John Nguyễn

 

1. Thái độ đạo sư của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này

Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn) người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người bắt chước. Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong tâm hồn của mỗi người: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.

2. Giải thích tình huống trong bài Tin Mừng

Đức Giê-su và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và Xi-đôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Ca-na-an là một trong những tên cũ của Pa-lét-tin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do Thái từ thời các tổ phụ. Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho A-bra-ham vùng đất của dân Ca-na-an (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go – khi thắng khi bại – với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl 1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Ca-na-an, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Ca-na-an là một điển hình: xem ra các ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Ca-na-an đại diện cho dân ngoại.

Tâm tình của Đức Giê-su đối với bà này không phải giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ muốn thử thách bà ấy một chút thôi.

3. Thái độ và chủ ý của Đức Giê-su

Người phụ nữ Ca-na-an này có đứa con gái bị quỷ ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói với các môn đệ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác. Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giê-su nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái. Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giê-su ra lệnh cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ » (Mt 28,19).

Đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn chuẩn bị báo trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33. Đức Giê-su đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Ca-na-an có niềm tin rất đáng trân trọng này.

Đức Giê-su, với tư cách một đạo sư, đã thử thách lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại, đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức Giê-su đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì ví dân Do Thái như con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ thừa của con cái, thì quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Ca-na-an này đã tỏ ra niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã được toại nguyện.

4. Thiên Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta

Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị.được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ nữ Ca-na-an là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh Tê-rê-xa A-vi-la khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải! ». Vì thế, ta hãy tạ ơn Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người phụ nữ Ca-na-an thì thử thách đó cũng đáng mong ước!

5. Hãy rút kinh nghiệm bài học lịch sử

Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các tông đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thiên Chúa và Đức Giê-su đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy: thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn giữ đạo của Mô-sê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giê-su, đã trở thành Ki-tô hữu, và hiện nay đã chiếm tới 1.3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.

Hiện nay, các Ki-tô hữu – chiếm 1.3 thế giới – đã thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2.3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe đã đổ ấy. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu về thực hành trong Do Thái giáo hay Ki-tô giáo. Nhưng rất có thể là chính người Ki-tô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài không khác gì các Pha-ri-siêu thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). Đang khi ấy, rất có thể người ngoài Ki-tô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình. Hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức Giê-su đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ Ca-na-an. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách, những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.

 

 

 

 

 

92. Suy niệm của Jos Vinc. Ngọc Biển

 

MÓN QUÀ KỲ DIỆU VÀ LINH THIÊNG CỦA “HƠI THỞ”

Bạn thân mến,

Trong cuộc sống:

Nếu bạn đang lo toan…, biết trước những điều sắp xảy đến, khó có thể vượt qua, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ lấy lại sự bình tâm.

Nếu bạn cảm thấy công việc quá căng thẳng…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ giải tỏa được bức xúc.

Nếu bạn đang bị cám dỗ chiếm đoạt bằng mọi cách…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ nhận ra điều nên làm và điều không nên làm.

Nếu bạn đang có ý định vô ơn với người đã làm ơn cho bạn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mình không được phép bội nghĩa vong ân.

Nếu bạn đang bị cám dỗ sống man trá…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm lại được tiếng Lương Tâm để làm việc thiện và bảo vệ chân lý.

Nếu bạn cảm thấy mình bị thiệt thòi, đối xử không công bằng về một điều gì đó…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ cảm thấy mình an vui.

Nếu bạn cảm thấy mình không bằng người khác về sắc đẹp, học vấn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mình hơn rất nhiều người.

Nếu bạn cản thấy mình sống ích kỷ…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm được động lực để sống quảng đại và vị tha.

Nếu bạn cảm thấy mình đang là người sống vô trách nhiệm, ăn bám người khác và vô cảm với tha nhân…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy tính cộng đoàn đang cần sự hiện diện và cộng góp của bạn.

Nếu bạn đang cảm thấy chán trường và muốn kết thúc cuộc sống này bằng cái chết…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy được giá trị của sự sống.

Nếu bạn đang muốn dành dật một điều gì đó bất chính…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy đó là hành động của kẻ tiểu nhân.

Nếu bạn đang muốn nhận hối lộ…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ cảm thấy buồn cười, vô lý khi cướp đi gói mì tôm của người nghèo khó đang cần nó để sống qua ngày.

Nếu bạn ham hố chức quyền…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy trách nhiệm phải làm chứ không phải quyền hành.

Nếu bạn muốn ăn trên ngồi trước…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy xấu hổ vì đó là nguyên lý của trẻ con.

Nếu bạn ham hố tiền bạc và tìm mọi cách để đạt được…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy chết là hết, sao phải vất vả và làm nô lệ cho nó!

Nếu bạn có suy nghĩ người chung quanh đều là kẻ thù…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ ngộ ra một điều là đôi khi người ta tốt hơn mình.

Nếu bạn có ý định nói xấu người khác…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy rằng xấu miệng mình trước.

Nếu bạn thấy mình không thể hợp tác được với người khác vì họ bất đồng chính kiến với ta…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mâu thuẫn sẽ làm sáng tỏ một điều khác tốt hơn.

Nếu bạn cảm thấy không thể sống được với những người không cùng xuất xứ với bạn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy có một nguyên lý thuận là: hiệp nhất trong đa dạng.

Nếu bạn có ý định trả thù ai đó…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ nghiệm ra rằng cần đào thêm cái hố nữa để chôn mình trước và kẻ thù sau.

Nếu bạn đang bị mất phương hướng…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm ra được đích đến của cuộc đời.

Và, nếu bạn không còn mục đích nào tốt để đi…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ có một hướng đi mới để đạt được mục đích tốt.

Tại sao vậy?

Thưa, “Hơi thở” là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Bao lâu còn hơi thở, ấy là lúc bạn vẫn sống. Hết thở, bạn sẽ chết.

“Hơi thở” là hình ảnh về Chúa Thánh Thần, mà Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải mọi vấn nạn đang thường trực trong trái tim, suy nghĩ và toàn thể con người bạn.

“Hơi thở” chính là lời cầu nguyện. Nhờ lời cầu nguyện mà bạn được tiếp thêm năng lượng từ Chúa để bạn có đủ sức vượt qua.

Hơi thở thật cần thiết cho sự sống của con người và động vật thế nào thì đời sống cầu nguyện cũng cần cho đời sống thiêng liêng như vậy.

Quả thật:

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như bị đi trong rừng vắng một mình với nhiều bóng đen vây hãm.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như thuyền không người lái và lênh đênh mất hướng.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như đoàn tầu bị trật khỏi đường ray.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người đứng ở ngã ba đường và không biết đi về đâu.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như diều đứt dây.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người lính ra trận và không có tướng.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy mình chỉ là một hòn đảo đơn côi.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người vô nghĩa trên đời.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy cuộc sống này không có ý nghĩa gì và sự hiện diện của bạn chỉ là cái nợ đời.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cá bị vớt lên khỏi nước và sẽ phải chết vì không có môi trường sống.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cành bị lìa khỏi cây.

Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cái xác không hồn, lập lờ như thây ma, trôi dạt như bèo lá.

Và:

Khi cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy an vui và hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, ngay cả những nghịch cảnh trong cuộc đời.

Khi cầu nguyện, ta với Chúa và Chúa với ta như hình với bóng. Ta sẽ cần đến Ngài và Ngài luôn ở bên ta.

Khi cầu nguyện, ta được gọi Chúa là Cha và có nhau là anh em.

Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy mình còn có bổn phận cầu nguyện và làm ơn cho cả kẻ ghét bỏ chúng ta.

Khi cầu nguyện, ta sẽ không vướng vào vòng lao lý là hăng say kết án người khác.

Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy mình yếu đuối và Chúa quyền năng.

Khi cầu nguyện, ta sẽ thấy: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.

Khi cầu nguyện, ta sẽ tìm thánh ý Chúa hơn là công việc của Chúa.

Khi cầu nguyện, ta sẽ học được bài học khiêm nhường và hiền hậu của Thầy Giêsu.

Khi cầu nguyện, ta sẽ khám phá ra sự sống từ cây thập giá chết.

Khi cầu nguyện, ta sẽ không có ý định trở thành một ông thánh buồn, vì làm ông thánh buồn là một điều đáng buồn.

Khi cầu nguyện, ta sẽ vui vẻ đến với những người không có gì để đền ơn cho ta.

Khi cầu nguyện, ta sẽ kiên tâm theo Chúa đến cùng. Sự phục sinh chỉ đến với những ai bền đỗ trong sự trung thành.

Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy cần phải làm nhiều chuyện tốt hơn để bù đắp lại quãng đời phóng túng, lêu lổng đã qua.

Vậy thưa bạn,

Nào chúng ta còn chần chờ gì nữa, hãy mở rộng mọi cơ năng để đón luồng “Sinh Khí Mới” vào trong lá phổi vốn đã héo úa tàn phai, để chúng ta có một lá phổi tràn trề sinh lực của người lực sĩ ân sủng.

Chúa đang ngoài cửa lòng ta, Ngài đang gõ cửa tâm hồn ta và đang muốn cắm lều trong ngôi đền của Ngài là thân xác chúng ta.

Muốn đạt được điều đó, cần loại bỏ hai thái cực:

Cho rằng cuộc đời này ngắn ngủi, nên cứ phải gồng mình để chạy đua kẻo trễ. Tìm mọi cách để chiếm đoạt…, nếu không thì hết cơ hội.

Cho rằng cuộc đời này còn dài, nên cứ mải mê với sự đời. Họ không màng chi đến tương lai. Vì thế, cứ phóng túng cho bõ công vì quan niệm đời còn dài mà!

Thiết nghĩ, những thái cực trên mang nặng tính tiêu cực và hoàn toàn không hợp với giá trị cuộc sống.

Điều phù hợp là: chỉ có giây phút hiện tại là đẹp nhất. Sống trong tình yêu của Chúa cách trọn vẹn, đời sẽ đẹp, bởi nó được dệt nên từng triệu giây phút đẹp nhất. Đừng chờ đợi tương lai. Đừng hồi tưởng quá khứ. Bởi nó chưa tới hoặc đã qua.

Có hồi tưởng hoặc chờ đợi là để tìm ra ý nghĩa qua kinh nghiệm và để sống hiện tại cho tốt hơn mà thôi. “Cần phải nắm lấy cơ hội xảy ra mỗi ngày để chu toàn những công việc tầm thường như một cách phi thường” (Ðường Hy Vọng số 818 x. số 997).

Được như thế, chúng ta sẽ rất khiêm tốn để thưa với Chúa rằng: “lạy Chúa, nếu Chúa gọi con về với Chúa ngay lúc này, con vẫn cứ chơi, vì con đã chuẩn bị trong từng giây phút hiện tại”.

Bạn thân mến,

Các thánh là những người đã sống như thế bạn ạ. Các ngài đã ngã gục nhiều lần, nhưng lần cuối, tức là hiện tại các ngài đã đứng dạy và đứng luôn.

Cầu mong cho bạn và tôi, mỗi khi bình minh ló rạng, ta hãy tạ ơn Chúa vì Ngài ban cho ta thêm một ngày nữa để yêu thương. Đến khi chiều về, ta cũng hãy tạ ơn Chúa vì tất cả đều là ân sủng cho những ai yêu mến Ngài.

Giờ đây, xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy hiệp nguyện với Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cất lên lời cầu nguyện chân thành và đầy yêu mến sau:

“Lạy Chúa Giêsu, con sẽ không chờ đợi nữa. Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu.

Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.

Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng (Ðường Hy Vọng số 977).

Như Chúa, lạy Chúa Giêsu, Ðấng đã luôn làm những gì đẹp lòng Thiên Chúa Cha.

Mỗi giây phút con muốn thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là “một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu” với Chúa.

Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Hội Thánh: “Vinh danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Amen”.

 

 

 

 

 

93. Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách - Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12,21) hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.

Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.

Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.

1. Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại

Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.

Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.

Tưởng cũng nên nhắc lại, theo truyền thống thì đây là vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc – đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia.

Vì thế, dân ở vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi, trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.

Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.

Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.

Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27)

Dù là bị khước từ, miệt thị, nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15,28).

Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.

2. Khám phá sứ điệp Lời Chúa

Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.

Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.

Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.

Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.

Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, nơi “sổ rửa tội” mà thôi. Như thế, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.

Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong thử thách, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:

Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.

Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần lý, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.

Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá dáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.

Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.

Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.

Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.

Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.

Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.

 

 

 

 

 

94. SNLC. các ngày trong tuần 20 TN - Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

THỨ HAI

TIỀN CÓ MUA ĐƯỢC NƯỚC TRỜI KHÔNG?

(Ed 24,15-24; Mt 19,16-22)

Chúng ta không lạ gì câu nói: “có tiền mua tiên cũng được”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, sự thật không phải như vậy! Vì hiển nhiên vẫn còn đó những thứ có tiền mà vẫn không mua được. Điển hình như: như sức khỏe, thời gian và sự sống… Chả thế mà người ta vẫn thường nói: “Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian”; “Tiền có thể mua được thuốc để chữa bệnh, nhưng không thể mua được sự sống…”. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng đồng tiền như thế nào cho có ích. Sử dụng nó như đầy tớ hay ông chủ? Đồng tiền có phải là mục đích cuối cùng, hay nó chỉ là một phương tiện để giúp con người đạt được hạnh phúc và mục đích tối hậu của mình?

Tin Mừng hôm trình thuật một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để anh tiến bước hầu hy vọng đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Nghe anh nói xong, Đức Giêsu đã phán: “Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta”. Nhưng thật buồn, người thanh niên này đã lặng lẽ rút lui chỉ vì anh ta có nhiều tiền của.

Thật vậy, đồng tiền liền với khúc ruột. Đồng tiền gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền đôi khi trở thành ông chủ tồi. Và như thế, nó đã là rào cản số một cho những ai muốn tiến xa, tiến sâu trên con đường nhân đức.

Dẫu vẫn biết trước những tai hại của nó, nhưng thực ra không ít người đã vì tiền mà bán rẻ lương tâm khi sẵn sàng trà đạp lên chân lý để đạt được mục đích “rẻ tiền”. Không thiếu người bán cả danh dự, nhân phẩm bản thân trong nghề mại dâm chỉ vì đồng tiền. Cũng không lạ gì những chuyện đâm thuê chém mướn, thay trắng đổi đen và vô luân, phi đạo đức cũng chỉ đồng tiền!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dùng của cải như là phương tiện để xây dựng tình bác ái huynh đệ và cùng nhau xây dựng Nước Trời. Bởi vì Nước Trời là kho tàng, đồng tiền chỉ là thứ trợ giúp để ta mua được kho tàng chứ nó không phải kho tàng.

Vì thế, nếu chúng ta cứ bám vào của cải vật chất quá đáng, trái tim của chúng ta sẽ bị kìm chặt nơi thế gian. Của cải thế gian sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn, chúng ta trở thành nô lệ của nó. Như vậy, Chúa không còn chỗ nào trong trái tim, lương tâm và cõi lòng của chúng ta, và, như một lẽ tất yếu: Nước Trời không có chỗ cho những người coi đồng tiền là ông chủ và sống ích kỷ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con khám phá và thi hành chân lý mà hôm nay Chúa dạy là: con đường duy nhất để nên hoàn thiện và được sống đời đời là dùng tiền của thế gian để mua lấy Nước Trời qua việc thực thi bác ái. Amen.

THỨ BA

TẠI SAO GIÀU CÓ LẠI KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI?

(Ed 28,1-10; Mt 19,23-30)

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nói trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Đức Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho người nghèo thì sẽ được sự sống viên mãn như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu và bỏ đi vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp hạnh phúc đời đời.

Khi thấy như thế, Đức Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông bài học về tác hại đồng tiền nếu coi đó là mục đích, là ông chủ. Ngài nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”.

Thực ra thì Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của đồng tiền nếu làm sai mục đích.

Quả thật, vào được Nước Trời thế nào khi đồng tiền đó là quà hối lộ; là của cướp dật; là đâm thuê chém mướn; là cờ bạc…! Tệ hơn nữa, vì không phải là đồng tiền của mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao vất vả, nên lại dùng đồng tiền bất chính đã chiếm đoạt được để làm những chuyện bất chính khác…!

Chỉ cần suy tư một chút thôi thì cũng đủ thấy sự nguy hiểm của đồng tiền khi đặt nó sai vị trí và sử dụng không đúng mục đích.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:

Hãy dùng của cải để xây dựng hạnh phúc cho mọi người, từ trong gia đình đến xã hội. Nếu được, hãy lo việc bác ái, truyền giáo và xây dựng Giáo Hội.

Được như thế, ấy là chúng ta đã nghe theo Chúa và đi trên con đường hoàn thiện mà Chúa muốn chúng ta đi. Như vậy, sự bình an, hạnh phúc chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai trung tín và khôn ngoan khi quản lý và biết sinh lợi nén bạc Chúa trao và làm giàu theo thánh ý Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống và gia nghiệp của mình. Như thế, xin cho chúng con biết coi mọi sự chỉ là phù du, phương tiện để đạt được hạnh phúc. Amen.

THỨ TƯ

HÃY ĐI VÀ LÀM VƯỜN NHO CHO CHÚA

Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh

(Ed 34,1-11; Mt 20,1-16a)

“Hãy đi và làm vườn nho cho Chúa”. Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu cho mỗi người chúng ta.

Vườn nho được hiểu là Hội Thánh. Người mời gọi là chính Thiên Chúa. Đi làm vườn nho được hiểu là công tác truyền giáo. Việc Thiên Chúa trả lương cách hậu hĩnh và công bằng muốn diễn tả Người là Đấng Giàu Lòng Thương Xót.

Vì thế, lời mời gọi đi làm vườn nho không có nghĩa là một bản hợp đồng lao động, và việc nhận lương không căn cứ vào thời gian hay công việc. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.

Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Hội Thánh. Thật vậy, Đức Giêsu muốn nói đến tính phổ quát của của ơn cứu độ, vì Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, cho người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Đồng thời Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.

Như vậy, ta có thể hiểu rằng: mỗi người, Chúa đều trao cho những nén bạc và tùy khả năng để sinh lời. Phần thưởng dựa vào tiêu chuẩn là người đó có thực sự cố gắng và chu toàn hay không mà thôi.

Hôm nay, phụng vụ mừng kính thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Thánh nhân trở thành nổi tiếng không phải vì tài cao, hay xuất thân từ một gia đình quý tộc, thế giá trong xã hội. Nhưng thánh nhân được biết đến là nhờ vào cuộc đời tận tụy lo cho phần rỗi các linh hồn.

Thánh Bênađô đã phấn đấu hết sức để phục vụ Nước Trời và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa đến với nhân loại. Vì thế, ngài rất chú trọng thật nhiều đến công việc của Hội Thánh. Ngài đã giúp ích nhiều cho Hội Thánh bằng cách làm tư vấn cho nhiều vị Giáo Hoàng, quận công và sứ thần Tòa Thánh.

Quả thật, thánh nhân là người đã hết lòng lo lắng cho vườn nho của Chúa là Hội Thánh. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thưởng công ngài cách xứng đáng.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết, biết gắn bó với Hội Thánh và trung thành với bổn phận của mình. Amen.

THỨ NĂM

Y PHỤC LỄ CƯỚI

Thánh Piô X, Giáo Hoàng

(Ed 36,23-28; Mt 22,1-14)

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu lấy hình ảnh hôn lễ để nói về Nước Trời. Ông Vua chính là Thiên Chúa Cha. Hoàng Tử là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Khách được mời là dân Dothái, nhưng họ đã khước từ, vì thế khách được mời là hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!

Tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.

Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là gì? Thưa! Đó là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.

Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài.

Hôm nay phụng vụ mừng kính thánh Piô X Giáo Hoàng, ngài là một vị thánh được biết đến với sự đơn sơ, chân thành và mến yêu Giáo Hội, tôn sùng Thánh Thể Chúa cách đặc biệt.

Cuộc đời của thánh nhân là một cuộc sống nghèo. Sinh ra trong cảnh nghèo. Lớn lên trong sự thiếu thốn. Thành công nhờ sự cộng góp của người thân…. Cái nghèo đã ảnh hưởng và chi phối con người, sứ vụ của ngài rất nhiều. Vì thế, khi làm linh mục, ngài luôn sống trong tinh thần nghèo khó, tận tụy với giáo dân và thương yêu người bé mọn. Tinh thần này tiếp tục triển nở sau khi ngài đã làm giám mục và giáo hoàng.

Quả thật, đức thánh Giáo Hoàng Piô X đã trở nên một người xuất sắc trong y phục lễ cưới. Bởi vì ngài đã sống theo tinh thần mới của Đức Giêsu là mặc vào trong mình sự hiền hậu, nhân từ, bao dung, tha thứ và yêu mến những người nghèo.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại việc mình được mời đến dự tiệc Thánh Thể và Lời Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!

Mong thay, mỗi người chúng ta, khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.

THỨ SÁU

“MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI”

(Ed 37,1-14; Mt 22,34-40)

Hôm nay thánh Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ tiến vào thành Gêrusalem. Trên hành trình ấy, Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng khi họ hỏi Đức Giêsu về chuyện kẻ chết sống lại. Thấy vậy, nhóm Pharisêu vào cuộc, họ họp nhau lại và cử một người đại diện tiến đến để thử Đức Giêsu để tìm cớ tố cáo Ngài, nhà luật sĩ hỏi Ngài: “Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?” Đức Giêsu đáp: “Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi”. Nhân đây, Đức Giêsu giúp họ nhớ lại một điều luật đã được nhắc đến trong sách Lêvi: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”

Tại sao Ngài lại nhắc lại khoản luật đó?

Thưa, bởi vì những người Pharisêu, họ chỉ giữ Luật hình thức bên ngoài, mà bên trong thì hoàn toàn trống rỗng. Họ không yêu thương anh em mình cách thật lòng. Vì thế, chính việc giữ Luật của họ đã phá vỡ đi ý nghĩa, cốt lõi tinh thần của Luật.

Với Đức Giêsu, khi Ngài đến, sứ vụ của Ngài là kiện toàn Lề Luật và làm cho chúng trở nên trong sáng. Đồng thời, Ngài muốn cho các môn đệ, những người sống cùng thời và nhất là giới lãnh đạo… ngày càng sống đúng cốt lõi của Luật hơn. Tinh thần và nội dung của Luật chính là: “Mến Chúa và yêu người”. Vì thế, với Đức Giêsu, yêu thương anh em là tuân giữ Lời Ngài. Không yêu thương anh em là không tuân giữ Lời Ngài. Nói mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Thật vậy, nên đã có lần Đức Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”.

Đây không chỉ là lời khuyên, mà còn là một lệnh truyền, một sứ mạng đòi buộc các môn đệ và tất cả chúng ta là những kitô hữu phải thi hành.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người phải là cốt lõi của Luật. Thiếu một trong hai thì chẳng những không giữ đúng tinh thần của Chúa mà còn có nguy cơ bóp méo Luật của Ngài và mặc cho nó sự bất nhân trong khi thi hành Luật.

Lạy Chúa, xin cho chúng con mến yêu Luật Chúa và biết thi hành Luật Chúa cách trung thành. Amen.

THỨ BẢY

HÃY TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN

(Ed 43,1-7a; Mt 23,1-12)

Đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã nói như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41). Còn thánh Augustinô thì nói: “Chúng ta là tiếng, Đức Giêsu là Lời, là nội dung của tiếng, của âm thanh”.

Như vậy, người rao giảng Lời Chúa, phải là người trung thành. Trung thành với Lời Chúa và sứ điệp của Ngài. Trung thành với sứ vụ qua lời loan báo. Trung thành với nội dung Tin Mừng. Không thể chấp nhận người tông đồ ra đi loan báo Lời Chân Lý, mà họ lại thuộc về thành phần: “ngôn hành bất nhất”, tức là không thật, hai lòng, nói một đàng, làm một nẻo.

Sự giả tạo này được Đức Giêsu cho thấy qua hình ảnh những người Pharisêu: “Họ là những người nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào”; mặt khác, họ còn là những người thích sống hình thức đến độ: “Nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’. Đức Giêsu không muốn để các môn đệ của mình rơi vào tình trạng như vậy, nên Ngài quay sang các ông và nói: “Phần các con thì không được vậy…”.

Vì thế, người tông đồ phải là người: “nhất ngôn, nhất hành”, nếu không, thay vì làm chứng, chúng ta lại rơi vào tình trạng phản chứng.

Thoạt nghe, chúng ta có thể dè lưỡi, bữu môi khinh chê những người kinh sư và Pharisêu! Nhưng thực ra, nếu lắng đọng lại một chút thì hẳn lời trách móc của Đức Giêsu khi xưa lại là lời cảnh tỉnh cho chính chúng ta hôm nay.

Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta sống trong cung cách của những kẻ bất nhân. Không khoan nhượng. Không cảm thông. Sống lối sống xa hoa, hình thức, kỳ thị, ích kỷ, kiêu căng, trác táng, ngông nghênh, ngạo nghễ và xét đoán…

Những lúc như thế, ấy là lúc nhãn hiệu Pharisêu, vẫn lủng lẳng quanh cổ chúng ta! Và như một hệ lụy, chúng ta nói về Chúa là đấng nhân từ, hiền hậu, khiêm nhường và yêu thương làm sao khi hình ảnh của Ngài đang méo mó nơi hành động xấu xa, lời nói chua chát, lối sống buông thả… của ta! Như vậy, chúng ta trở thành những người đang phá hoại sứ điệp yêu thương của Chúa.

Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta cần phải tránh những thứ xa hoa, diêm dúa bên ngoài. Hãy tập trung vào cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chứ đừng giả dối như những kinh sư và người Pharisêu khi xưa.

Lạy Chúa, nhiều khi chúng con tìm mọi cách để uốn nắn ý của Chúa theo ý chúng con. Nhiều khi chúng con tìm vinh dự và muốn được trọng vọng bản thân thay vì làm vinh danh Chúa. Những lúc đó, chúng con đã đi sai đường, trệch lối theo tinh thần của Chúa, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con. Amen.…

 

 

 

 

 

95. Hai đoản khúc suy tư

(Lm. Richard Leonard SJ. – Mai Tá lược dịch)

 

“Trời nào đã tạnh cơn mưa,”

“Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Cơn mưa cuộc đời khi xưa nay tạnh rơi. Giông tố lòng Đạo, lúc này vẫn ngổn ngang, chưa muốn tàn. Thật khó tàn, khi lòng nguời còn chứa chất nhiều tình-tiết rất Sa-tăng, như trình-thuật còn diễn-tả.

Trình thuật hôm nay diễn và tả về đời đi Đạo, là sống với thực tế cả một đời, trong đó có các sinh hoạt cả Đạo lẫn đời. Trong sinh hoạt Đạo, người tín hữu gặp đủ mọi loại người, từ thần thánh đến quỷ ma. Nơi đây, người đi Đạo vẫn cứ suy tư những chuyện trên trời lẫn trần gian, địa ngục. Ở đây, người người vẫn quan tâm đến đủ mọi thứ truyện kể. Những truyện kể như bên dưới:

Vào buổi sáng đẹp trời ngày của Chúa, nhiều người trong huyện đã thức giấc chuẩn bị để đến nơi nguyện cầu. Trước giờ lễ, người đi cầu nguyện có thói quen xì xào nhỏ to phía bàn quỳ. Họ kể cho nhau nghe những chuyện gia đình, và cuộc sống. Nói với nhau, về những chuyện có liên quan đức tin, kinh kệ, không thiếu xót.

Bất chợt, Sa-tăng xuất hiện như người thật bằng xương bằng thịt. Có người rú lên, sợ hãi; bỏ Chúa, bỏ Mẹ, chạy ra cửa tìm đường thoát thân. Chẳng mấy chốc, ngôi thánh đường trở nên êm ắng, lạnh tanh. Duy có lão bà vẫn lặng yên, bình thản ngồi nơi bàn quỳ. Chẳng bày tỏ nỗi lo lắng, xúc động. Khiến Sa-tăng tức giận, ngấc đầu ngạo mạn, hỏi:

– Này, lão bà, mụ có biết ta là ai không?

– Đương nhiên là biết.

– Thế, mụ không sợ ta sao?

– Lão muội đây chẳng bao giờ sợ quỷ ma!

– Sao mụ lại dám coi thường ta, đến như thế?

– Muội đây, 48 năm trời từng sống với người anh của ngươi, nay còn biết sợ chi ai! …

Đến hôm nay, ở nhiều nơi có văn hóa khác biệt, vẫn còn thấy tổ chức lễ hội đình đám, lớn nhỏ. Ở đó, người văn minh thời đại vẫn đưa đẩy, kéo lôi mọi người về với quyền lực của tà thần, tăm tối. Điều này dễ nhận hơn, vẫn có vào thời của Đức Chúa. Những nào: bệnh trầm trọng, thân hình quái dị, thần trí bại xuội, lại đến: dịch tễ nhiễu nhương, thiên tai hãm hại. Lại cả những trận-địa nhục-nhã thất-bại, với đấu tranh.

Cứ thế, người người quy lỗi cho đó là hình phạt từ Đức Chúa. Hoặc, do ma quỷ nhúng tay vào. Dù, không coi đó là chuyện “khó tin nhưng có thật”, tai mắt ta vẫn cứ văng vẳng đâu đó, quả quyết của người đời, thời vi tính: quỷ thần có thật.

Truyện kể hôm nay, về người nữ miền Tyrô – Siđôn là ảnh hình minh chứng niềm tin nơi con người. Người đàn bà quê mùa ấy cho rằng: ma vương vốn lộng hành, nên con gái mình mới bị dày vò, vật vã. Thật ra, con gái bà chưa hẳn đã bị quỷ ám, hành hạ. Nhưng, bà ngại con mình mắc chứng ngặt nghèo, chẳng thể chữa. Thêm vào đó, bà còn bị người đời khinh khi, coi thường; bị những ánh mắt đầy đối kháng.

Ghét ghen. Kỳ thị. Suốt đời, bà chỉ là dân ngoài Đạo, luôn sống bên lề cộng đồng cao sang, người Do Thái. Nói tóm lại, chuyện kể về bà không làm Đức Kitô yên lòng. Và, nhìn từ góc cạnh nào đó, tình trạng của bà xem ra không ổn. Nơi bà, là cả một khác biệt về sắc tộc và Đạo giáo. Bởi vậy, môn đệ trung kiên của Đức Chúa mới nghĩ: dù bà có mon men đến gần, cũng chẳng xin được điều gì lớn lao, nơi Thầy mình.

Và xem ra, Ngài biểu đồng tình với các môn đệ về chuyện này, đã làm ngơ. Nói cách khác, người nữ phụ nọ nếu không cả gan nài nỉ, có lẽ bà cũng chẳng đạt được ân huệ khó kiếm, từ người Do Thái. Đồng thời, lời ví von về người đàn bà ngoài Đạo, như lũ chó con hèn hạ, được xã hội trong Đạo mặc nhiên công nhận, vào thời ấy.

* Một lần nữa, nhờ lanh trí đối đáp, tin vào sự kiên nhẫn của mình, người nữ phụ miền Tyrô – Siđôn mới làm cho sự thể trở nên khác thường. Bà thuần hóa mọi gièm pha, ghét ghen kỳ thị của người đời, vào thời ấy. Bà có lý khi biện giải rằng: dù có bị coi rẻ như lũ chó đớn hèn đi nữa, bà vẫn không là loài thú hoang, đáng bị bỏ rơi ở bên ngoài.

Trái lại, bà vẫn coi mình như loài thụ tạo thuần thục, chỉ quanh quẩn trong nhà chầu chực một ân huệ, Chúa đánh rơi. Bà biết phận, và hiểu mình hơn ai hết. Hiểu rằng: là thân phận bọt bèo, bà mới kéo được về phía của mình, sự quan tâm chú ý của Đức Chúa.

Có như thế, con bà mới được cứu chữa. Có như thế, lớp hậu duệ là chúng ta mới học thêm được bài học, là: Nước Trời luôn xuyên phá rào cản chặn ngăn ân huệ xuống ban cho chúng ta. Ơn cứu độ được ban xuống bằng những phương thức khá đặc biệt. Đặc biệt hơn, vẫn qua trung gian người ngoài Đạo.

* Phúc Âm hôm nay, cho thấy sức mạnh của lời cầu, qua trung gian một người. Và người ấy, lại là người ngoài Đạo. Người nữ trong truyện đã phải trải qua giờ phút căng thẳng, của đời bà. Bà cố chịu căng thẳng, nhục nhã không phải cho mình, mà cho con gái. Niềm tin của bà, là gạch nối qua đó cuộc sống của người khác được cải thiện. Bà làm thế, còn để cho tất cả chúng ta, nữa. Là tín hữu, ta thường cho bạn bè người thân biết rõ, ta luôn quan tâm nguyện cầu, cho họ. Cứ thường tình, khi nghe chuyện, dù không cùng niềm tin ai cũng đều cảm kích.

– Thành thử, khi nguyện cầu cho bất cứ ai, dù ở nhà hay tại nguyện đường, dù buổi Tiệc Thánh, hoặc gặp lúc có liên hoan, đây là giờ phút cao đẹp nhất cho tất cả. Ta học nhiều điều từ giáo xứ.cộng đoàn, cũng là nhờ vào nguyện cầu đỡ nâng như thế. Đây là giây phút quên mình đi, để chỉ nghĩ đến người khác. Cho người khác. Dù chỉ một khoảnh khắc. Dù, theo cách dị biệt.

Bởi, cầu và nguyện như thế, là tự đặt mình vào cảnh tình của người khác. Đến với người khác, bằng hiệp thông. Cầu và nguyện như thế, sẽ nhắc nhớ ta một điều: khi dự tiệc khoản đãi “cấp trên cao”, hay ở đâu đó, có thể vẫn có người nào đó quanh ta, mỏi mệt đang mong chờ nhặt nhạnh, dù chỉ là vụn bánh đánh rơi. Dù, chỉ là cơm thừa canh cặn. Với họ, đó là hạnh phúc. Thứ hạnh phúc, mà họ chưa một lần ấp ủ.

– Nguyện cầu sẻ san, còn khuyên ta nên ra đi về chốn bùn đen cuộc đời, ở nơi đó, có những người đang xuống cấp, ngã ngựa. Có ra đi, ta mới có thể đỡ nâng đàn con Đức Chúa ở chốn nghèo hèn, được lên nơi đủ ăn, đủ mặc. Nơi mọi người, đáng được hưởng ơn lành hơn ai hết. Sở dĩ đã nên nghèo, vì không ai để tâm đoái hoài đến họ. Nhưng thật ra, họ đều là con cái. Là, tạo vật của Đức Chúa.

– Trong tinh-thần cảm-nghiệm được những điều như thế, cũng nên ngâm lên lời thơ rằng:

“Trời nào đã tạnh còn mưa

Mà giông-tố cũ còn chưa muốn tàn,

Nhà người tôi quyết không sang

Thù người, tôi những đem nằm nghiến rằng.

Quên người – nhất quyết tôi quên,

Mà sao gặp lại còn kiên-nhân chào.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Trúc Đào)

Tình người ở đời, xưa nay vẫn là thế. Tình người ở nhà Đạo, lúc này phải khác xưa. Khác, người, khác thời, khác cả tinh-thần mà mọi ngưòi cần đối xứ với nhau hệt như thành-viên của Nước Trời, ở đời. Vẫn cần ghi nhớ đến thiên thu.

 

 

 

 

 

96. Chuyện Phiếm

 

Đọc trong tuần thứ 20 mùa Thường niên năm A

“Hãy cứ là tình-nhân,”

“Để tháng ngày hoa mộng.

Để hẹn hò yêu đương,

Và khắc khoải chờ nhau.”

(Tú Minh – Hãy Cứ Là Tình-Nhân)

(Mt 12:38-42)

Giả như có người thời nay nghe nhạc-bản này, lại hiểu chữ “tình-nhân” như nhân-tình, hoặc “người tình” nào đó mình từng gặp, thì còn được. Chứ đằng này, vừa mới nghe xong hai chữ “tình-nhân” lại hiểu ý của người viết như câu hát tiếp, e không ổn. Ổn sao được, khi người em của ai đó, cứ hát mãi những câu nặng chình-chịch, những bảo rằng:

“Em không thích làm vợ, không thích anh là chồng.

Chỉ muốn yêu muốn nhớ, tìm nhau ở trong mơ…”

Đừng là vợ là chồng, rồi nhìn nhau chán ngán.

Hãy cứ là tình-nhân, để tình ta mênh-mông.”

(Tú Minh – bđd)

Thật tình mà nói, nói thế là nói lên lập-trường của người nghe hoặc hát ca-từ mang dáng vẻ lơ-mơ.trữ-tình, nhưng thật ra: đâu muốn thế. Không muốn, là bởi: thế-gian này, đầy những chuyện cụp-lạc, lại bất ổn, làm sao đảm-bảo được “tình nồng đôi lứa” sẽ “cứ mãi là tình-nhân” được?

Thật tình mà nói, khi nhớ lại chuyện đời nhiều éo-le nên em mới hát thế, chứ mai kia.mốt nọ anh đây “cao bay xa chạy” rồi, làm sao chắc được rằng: em và anh vẫn trung-kiên, chung tình để chỉ là tình-nhân, thôi?

Thật tình mà nói, mỗi khi bàn chuyện đời.chuyện người, thì anh đây nhiều lúc, đã thấy khó lòng. Anh đi trước còn tránh được, chứ em đây lẽo-đẽo theo sau làm sao né?

Thật tình mà nói: ví dù anh và em có hát câu trữ-tình ấy, lại gồm tóm ý.lời cũng như sau:

“Hãy tìm em tìm em, rồi nhìn em nhìn em.

Và nắm tay nắm tay cho hồn em ngất ngây.

Chỉ cần em nhìn em, là tim em rã rời

Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.”

(Tú Minh – bđd)

Thật tình mà nói, bàn chuyện đời với người đi Đạo, cũng thấy nhiều người từng nói và hát lời yêu-thương da-diết quá, đến khi giáp mặt thực-tế, mới thấy cuộc đời thật không dễ. Vì thế, nên người đời nay, vẫn cứ phải tìm đến thánh-nhân.Mẹ Hiền để cầu khấn các đấng giúp mình thành “mãi mãi là tình-nhân” theo nghĩa: vẫn yêu nhau mãi, dù không thành vợ.chồng.

Thật tình mà nói: đòi hỏi như thế, khác nào trông chờ một phép lạ từ “Bà Tiên”, hệt như truyện kể ngắn gọn, ở dưới:

“Bác-sĩ nọ, bước vào phòng mạch với dáng vẻ trang-nghiêm, nhưng hy-vọng. Gia-đình bệnh-nhân chờ tin vui, cứ hồi hộp nhìn ông đợi một quyết-định quan-trọng. Ông chậm rãi nói rất khẽ cốt để mọi nguời đều nghe thấy:

-Tôi báo cho ông bà cùng quí vị đây biết, là: “phép lạ” có thể xảy ra ở đây.hôm nay, nhưng điều này có thành hiện-thực hay không, vẫn tùy thuộc một người…

-Là ai vậy, thưa Bác sĩ? Xin cho biết để chúng tôi đến đó mà tìm! Giọng người mẹ của bệnh-nhân trẻ ra như ứ-nghẹn từ trong cổ.

-Người đó là Bà Tiên, nhưng…

-Nhưng, sao Bác sĩ? Người cha tiếp tục hỏi dồn.

-Nhưng, đến giờ phút này, phép lạ vẫn hoàn-toàn tùy-thuộc vào quyết-định cuối của Bà ta.”

Kinh-nghiệm đời, nhiều chuyện cũng như thế. Người đời, xưa nay, vẫn ao ước gặp “Tiên Bà” có phép mầu thần-thông biến-hoá, ra như thế. Tiên Bà đây, sẽ biến không thành có, như câu hát ở bài “Hãy mãi là tình-nhân”. Và, Tiên Bà còn có thể biến có thành không, như truyện trên.

Muốn cho sự thể “Hãy mãi là tình-nhân” với nhau suốt đời, đã là khó. Còn khó hơn, khi mọi người trong gia-đình vẫn không chấp-nhận được cái chết dành cho người thân đang trọng bệnh. Vì thế nên, mọi người bèn chạy đến với “Tiên Bà”.“Mẹ Hiền” ở chốn miền cao tít đó, hầu khấn vái đủ mọi điều, chí ít là chuyện “mãi mãi là tình nhân” của nhau, với nhau.

Kinh-nghiệm về việc đến với Tiên Bà.Mẹ-Hiền ở trên cao, là kinh-nghiệm của nhiều người. Ở mọi thời. Từ thời rất sớm, đã thấy tâm-trạng của nhiều người chỉ muốn xin làm “tình-nhân” thôi, nhưng không được. Thế nên, các “cụ” bèn làm một chuyến đi về miền xa xôi, cõi trời Tây xứ người để nguyện-cầu.khấn-vái Đức (Tiên) Bà” thành Guađdalupê đất nước Mêhicô xa xôi.diệu vợi, quyết đạt cho được những gì mình mong muốn.

Trong số những vị lâu nay từng quyết như thế, thấy có đấng bậc nọ có nhiều thắc-mắc về trường-hợp Đức (Tiên) Bà thành Guađalupê nổi tiếng, bèn có thư hỏi đức Thầy John Flader ở Sydney, một câu ly-kỳ như sau:

“Thưa cha.

Con có cô bạn từ nước Mêxicô qua đây làm việc, khi biết con muốn xin “Tiên Bà” hay “Đức Bà” có tên gọi sao đó, ngõ hầu người yêu của con sẽ mãi yêu con và coi con là tình-nhân thôi. Cô bèn đề-nghị con hãy thử cầu-nguyện với Đức Bà thành Guađalupê, xem sao. Cô kể cho con nghe nhiều điều về chiếc khăn có hình Đức Bà, này nữa. Nay xin hỏi: có gì đặc-biệt nơi bức ảnh hiện trên khăn ấy? Và Đức Bà thành Guađalupê có thực sự làm phép lạ như người ta đồn, không?” (Một giáo dân Sydney gửi thư nhờ “The Catholic Weekly” giải-thích).

Nhờ ai, chứ lại nhờ Đức Thầy John Flader giải-mã chuyện “phép lạ” do Đức Mẹ đây đó từng làm, là chuyện nhờ vả cũng rất đúng. Đúng nơi.đúng chỗ rất không sai! Và, viết thư hỏi về chuyện gì, chứ chuyện lạ nhiệm-mầu của Đức Bà nổi tiếng nước Mêhicô, thì Đức Thầy đây lúc nào cũng cố trả lời ngay cho kịp, kẻo trễ. Thế nên, câu trả lời của Đức Thầy John Flader về chuyện này, như sau:

“Nhiều hình-ảnh về Chúa Mẹ hiện ra trên khăn.vải có mặt cùng khắp trên thế-giới vẫn là phép lạ. Phép lạ đây, tách-bạch khỏi chuyện sùng-kính diễn ra ở quanh đó. Có hai ví-dụ cụ-thể nên kể ra đây, là: vụ Chiếc Khăn ghi đậm diện-mạo Chúa ở thành Turinô, nước Ý. Và, hình Đức Mẹ thành Guađalupê, nước Mêhicô cũng là sự lạ khá nổi tiếng.

Hình Đức Bà thành Guađalupê có thời-gian-tính từ hậu bán thế-kỷ thứ 16, ở Mêhicô. Người Tây Ban Nha khi đó gặp khó trong việc kêu gọi thổ-dân Aztêca trở lại Đạo, là truyền-thống tin-tưởng, hành-đạo từ nhiều năm. Niềm tin, theo truyền-thống của người sống ở đây, từng hy-sinh tánh-mạng mỗi năm cả ngàn người, để vừa lòng thần-linh của mình.

Theo truyền-thống, thì: vào ngày 9.12.1531, có dự-tòng tên là Juan Diego có thói quen đi bộ hàng giờ nơi đồi Tepeyac vùng ngoại-ô thành-phố Mexico City, chợt thấy một Tiên Bà rất đẹp lại rất trẻ, anh hiểu ngay đó là Đức Maria mà anh từng cầu khấn. Đức Mẹ, khi ấy, đã dùng ngôn-ngữ của thổ-dân, yêu cầu anh cho xây-dựng một lăng-tẩm để vinh-danh Mẹ. Juan Diego bèn đi tìm vị Giám-mục chủ-quản giáo-phận mình là Giám-mục người Tây Ban Nha có tên là Fray Juan De Zumárraga nhờ giúp-đỡ; nhưng Giám-mục này còn ngờ-vực nhiều điều, nên bảo anh hãy quay lại xin vị nữ-lưu kia một dấu-hiệu để làm bằng.

Ba ngày sau, tức vào ngày 12 tháng 12 cùng năm, trong khi Juan Diego vội chạy lên đồi cao để thăm viếng ông cậu đang hấp-hối, anh lại được Đức Mẹ hiện ra với anh, một lần nữa. Anh nói với Đức Mẹ là: anh phải chăm sóc cho ông cậu sắp về chầu Chúa, nhưng khi đó Mẹ lại an ủi anh bảo rằng cậu của anh sẽ được chữa lành và quả y như rằng: ông cậu của anh vẫn còn sống. Khi ấy, Juan Diego bèn xin Mẹ ban cho anh một dấu chỉ để về trình với Giám-mục. Và, Mẹ khuyên anh hãy chạy lên đỉnh đồi nơi anh đứng, sẽ thấy nhiều loài hoa đang nở rộ.

Anh tức tốc làm ngay việc ấy, bèn thấy sự việc xảy ra đúng như lời Mẹ khuyên, dù tháng 12 nơi này không là mùa hoa nở, chí ít là trên đồi trọc như thế, từ xưa giờ. Anh rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhiều loài hoa lạ đã nở rộ vào ngày ấy. Và, anh được Mẹ giúp trang hoàng một bó hoa đẹp cắm trong ống xương rồng tươi đem về cho Đức Giám-mục mình, làm bằng.

Vừa về đến nhà vị Giám-mục địa-phận, tức thời mọi người đều thấy ảnh Mẹ hiện rõ trên ống xương rồng xanh tươi. Hình-ảnh này, nay còn đặt tại Vương-Cung Thánh-Đường Đức Bà thành Guađalupê ở Mexico City, để mọi người sùng-kính. Và, sự-việc này xảy ra với Juan Diego cách nay đến 500 năm.

Nhiều khoa-học-gia trên thế-giới đã bắt tay vào việc nghiên-cứu xem thực-chất của hình-ảnh xuất hiện trên ống xương rồng, đã khẳng-định rằng: đây không là hình vẽ vẫn thấy ngoài đời, vì không có các vết chấm phá như mọi người thường làm. Hơn nữa, chính hình-ảnh này đã tự điều-chỉnh sau lần bị chất a-mô-ni-ắc đổ lên đó, năm 1791. Và đặc biệt hơn nữa, sau vụ bom nổ dưới bàn thờ có di-ảnh Mẹ, xảy ra vào hôm 14.11.1921 mà di-ảnh không bị hư hại gì hết.

Tóm lại, có thể nói di-ảnh Đức Bà thành Guađalupê là cách sùng-kính Đức Mẹ được nhiều người biết đến. Lễ mừng tước hiệu Mẹ là Đức Bà thành Guađalupê được Giáo-hội mừng là ngày 12 tháng 12 mỗi năm. Và, thánh Juan Diego cũng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm bậc hiển-thánh ngày 9.12.2002. Từ đó đến nay, tước hiệu Đức Bà thành Guađalupê trở thành Nữ Vương nước Mêhicô, Đấng Bảo-trợ Châu Mỹ và là thánh Bổn Mạng các hài-nhi chưa được sinh”. (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 20.7.2014, tr. 18)

Thật tình mà nói, khi nghe Đức Thầy Flader kể chuyện “lạ” do Đức Bà với đủ tước hiệu khác nhau xảy ra ở đây, thấy hệt như nghe cha cố vẫn kể ở nhà thờ, từ nửa thế-kỷ khi trước.

Thật tình mà nói, có phán về “sự lạ” do Tiên Bà ở nơi này chỗ khác từng làm, phải nói theo kiểu thời nay thì người người mới chịu nghe và chấp-nhận. Bằng không, cũng như người nghệ-sĩ cứ hát những câu khó tin và khó nhận, như sau:

“Em không thích làm vợ, không thích anh là chồng.

Chỉ muốn yêu muốn nhớ, tìm nhau ở trong mơ…”

Đừng là vợ là chồng, rồi nhìn nhau chán ngán.

Hãy cứ là tình-nhân, để tình ta mênh-mông.”

(Tú Minh – bđd)

Thật tình mà nói, có nói hay nói phải rất nhiều thứ, cũng chỉ nên nói những gì cần nói và cần có nghe, thôi. Chí ít, là những chuyện lạ trên đời với người đi Đạo và giữ Đạo. Bởi, đi Đạo và giữ Đạo thời nay, đâu phải và đâu chỉ giữ lại cho mình những chuyện chẳng liên-quan gì đến mỗi mình.

Thật tình mà nói, mỗi khi đề-cập đến “chuyện lạ” hoặc sự việc nổi cộm theo trào-lưu thị-hiếu của người đọc người nghe, người nói vẫn thấy đó là chuyện khó làm. Khó hơn nữa, là lúc ta bàn về chuyện “lạ” của “Bà Tiên” hay Đấng Thánh hiền ở đâu đó vẫn hay làm. Cái khó đó, mới là vấn-đề.

Và vấn-đề, là: nói làm sao, bàn thế nào về sự lạ như “phép lạ”, cho phải phép. Về chuyện này, xin chạy đến bậc Thầy ở trời Tây, từng giảng dạy rất nhiều điều cho học trò mình, như sau:

“Về “Phép lạ”, thật ra có sự khác-biệt khá trổi-bật giữa phép lạ tự-nhiên và sự việc chữa lành, hoặc gọi là việc “trừ tà” do từ Chúa. Phép lạ tự-nhiên dành để cho đồ-đệ (hoặc Mẹ) Đức Giêsu, còn việc chữa lành hoặc “trừ tà” là cho người ngoài…

Suy-tư về các truyện kể Tin Mừng thêm nữa, ta sẽ càng thấy rõ việc ấy. Như truyện kể về đồ-đệ Chúa tranh-cãi nhau trên thuyền về cách-thức làm giảm cơn giông xảy đến trên Biển Hồ Galilê vào lúc Đức Giêsu không có mặt ở đó, các thánh tông-đồ đành chào thua, không làm được gì. Kịp khi ấy, đã thấy Đức Giêsu đến với các thánh bằng việc Ngài lướt đi trên mặt nuớc, tức thì mọi việc trở nên im-ắng, an-lành. Ở truyện khác, các môn-đệ lên thuyền đi đánh cá ở Biển Hồ Galilê, hôm ấy lại cũng không có Đức GIêsu cùng đi với các ngài, nên môn-đệ chẳng bắt được thứ gì. Tức thì, từ trên bờ Biển Hồ, Đức Giêsu lên tiếng ới gọi các thánh và thế là, các thánh bắt được nhiều cá đến độ không ghì nổi.

Theo tôi, cả hai truyện trên, đều mang tính biểu-trưng, chứng tỏ một chuyện, là: nếu không có Đức Giêsu ở cùng, Hội-thánh không làm được gì hết. Ngược lại: có Đức Giêsu đồng-hành, là có hết mọi sự. Trong con thuyền Giáo-hội, chỉ mỗi Đức Giêsu mới thật đáng kể; Ngài là Đấng có trọng-trách đích-thực. Các thánh tông-đồ, dù có là lãnh-tụ cỡ nào đi nữa, vẫn hoàn-toàn tùy-thuộc vào Đức Giêsu…

Phép lạ tự-nhiên, là các câu truyện dụ-ngôn nói về quyền-bính mang tính quyết-định. Phép lạ tự-nhiên, thật ra không nói về quyền-uy của Đức Giêsu với thiên-nhiên, nhưng là thực-quyền của các tông-đồ trong Hội-thánh. Tôi xin phép nói thêm một điều, cốt ý bảo rằng: nếu ta hiểu truyện kể ở Tin Mừng một cách từng chữ, nghĩa đen, là ta hiểu sai toàn-bộ đại-ý của truyện…

Việc Đức Giêsu chữa lành và trừ tà, là đến từ quan-điểm khác hẳn. Ngài làm thế, là nhắm vào người dưng khách lạ ở ngoài cuộc, hơn là nói về đồ-đệ hoặc người trong cuộc. Ở đây, tôi xin được phép nói thêm đôi chút về trường-hợp riêng-tư mình trải-nghiệm cốt giúp ta hiểu về sự hiện-diện của Thiên Chúa trong lịch-sử nhân loại, đó mới là điều hệ-trọng.

Trước đây, tôi đã có dịp viếng trung-tâm Lộ-Đức ở Pháp, và Fatima ở Bồ Đào Nha, tức các tụ-điểm linh-thiêng kể về việc Đức Maria đã chữa lành nhiều người. Và tôi cũng có dịp ghé thăm trung-tâm Epidaurus ở Hy Lạp, và trung-tâm Pergamum ở Thổ Nhĩ Kỳ, là hai tụ-điểm linh-thiêng của thần Asklepios ngoài Đạo Chúa, từng chữa lành cho tín-đồ của họ. Các hồ-sơ chữa-lành ở cả hai nơi này, đều được ghi vào sổ bộ theo cùng một kiểu cách giống Đạo Chúa.

Tỉ như, tại hang Lộ-Đức có treo nhiều nạng gỗ cho thấy đây là chứng-cứ thầm-lặng ghi tạc cảnh những người đui mù què-quặt đã tới đây và đã trở về lành-lặn. Tuy là thế, tôi vẫn không thấy có ai để lại các bộ-phận như chân tay giả, để làm bằng. Như thế, ta kết-luận thế nào đây?

Kết luận rõ nét nhất, là: Niềm tin chữa lành được nhiều điều!

Điều này cũng chắc-nịch như biết bao điều ta biết được. Có một số tật-bệnh đối với một số người, trong một số hoàn-cảnh, đều được chữa lành bằng niềm tin mang tính khả-thi giống như thế, như Epidaurus với người ngoại Đạo, như hang Lộ Đức với người Công-giáo, và như Benarès với người theo Ấn-giáo, và cứ thế ta nhân rộng thêm lên… Và, như Lời Đức Giêsu từng nói đi nói lại nhiều lần, là: Niềm tin của con đã chữa lành cho con!

Có câu hỏi: có đúng là những người đến với Đức Giêsu là để được chữa lành, không?

Đúng thế! Có ai hoặc có nhiều người được như thế không? Có chứ! Thế nhưng, có nhiều điều về Đức Giêsu khiến cho dân chúng đến với Ngài để được chữa lành, lại khác hẳn trường-hợp người đến với thánh Gioan Tẩy Giả là để thanh-tẩy chứ không để chữa lành. Đó là chuyện ta cần sưu-tra cho thật kỹ.

Hãy thử lấy ví-dụ cụ-thể xem Đức Giêsu từng chữa lành cho những ai? Ngài chữa bệnh gì?

Quay lại truyện kể về những người bị bệnh phung và coi đây như để rút kinh-nghiệm học hỏi, thì: trước nhất, điều hệ-trọng ta cần để ý, là: hỏi rằng từ-vựng ngày nay nói về bệnh phung cùi lại khác hẳn ý-nghĩa của từ-vựng dùng ở Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp.

Từ vựng dùng trong Tân Ước Hy Lạp, đã qui về một số bệnh ngoài da khác nhau, hầu hết có liên-quan đến bệnh về da hoặc vết sần-xùi, có vảy như: bệnh vảy nến, chàm bội-nhiễm, hoặc xùi nấm, vv. Thành thử, mỗi khi đọc Kinh thánh thấy nói đến từ-vựng “phung cùi”, ta phải hiểu từ-vựng này dẫn về một số tật bệnh tương-tự như thế chứ không là thứ bệnh mà nay ta gọi là bệnh Hansen hoặc “phong hủi”, đâu…

Việc chữa-lành người bệnh nói ở Kinh thánh, vẫn là điều cần bàn. Nhưng, vấn-đề thâm sâu trong truyện kể về việc chữa lành ở Kinh thánh, còn đi sâu hơn thế. Đó là dụ-ngôn diễn-tả xã-hội nhân-loại nói chung. Các nhà nhân-chủng-học thường cho ta biết: cơ thể con người là biểu-tượng của xã-hội. Cung-cách ta đối xử với thân xác diễn-tả sự hiểu-biết về quan-hệ khác-biệt ở xã-hội.

Ngày nay, người trưởng thành đều đã hiểu, là: việc xâm-hình trên da, nhuộm tóc đủ mầu, xuyên lỗ mổ xẻ hoặc trang-điểm thân xác đều trở thành chuyện thách-thức về văn-hoá xuất từ nhóm người nào đó một cách triệt-để, cũng để xác-định là mình nối-kết với nhóm nào đó.

Ví dụ như hồi thập niên 50’, hễ cứ để tóc dài là có ý cho thấy mình có thái-độ chống đối thể-chế nào đó ở xã-hội hoặc đạo-giáo. Thế nên, khi xét truyện kể về việc chữa lành, ta cũng nên đề cao cảnh giác về các vấn-đề “hình-ảnh thân xác” ở xã-hội thời Đức Giêsu còn sống. Điều đó nói lên rằng: thân xác con người đã trở-thành biểu-tượng của xã-hội. Xã-hội Do thái xưa bị đe-dọa tháp-nhập vào thứ văn-hoá đế-quốc đầy quyền-lực.

Trong tình-trạng có áp-bức về chính-trị, quân-sự, văn-hoá và đạo-giáo quyết nhấn mạnh lên việc bảo-vệ ranh-giới xã-hội được biểu-tượng-hoá bằng việc bảo vệ ranh-giới của thân xác. Thế nên, vấn-đề đặt ra, là: khi Đức Giêsu chữa lành người bị phung, có phải Ngài hoạt-động chỉ với tư-cách người chữa-lành bệnh-tật hoặc phê-bình toàn-thể xã-hội, không? …

Xem thế thì, điều mà Đức Giêsu vẫn làm cho người bị bệnh phung, đích-thực là để chào-đón họ vào lại với quan-hệ xã-hội mà họ bị đẩy lùi ra bờ rià xã-hội ấy. Nếu Đức Giêsu xuất-hiện ở đây hôm nay, tôi lại sẽ không tin rằng Ngài sẽ chữa lành căn bệnh thời-đại là AIDS; nhưng tôi vẫn tin chắc rằng Ngài sẽ chữa lành cho cơn đau ốm có cùng một tên là AIDS, rất như thế.

Còn nếu hỏi: như thế tức bảo rằng: Đức Giêsu đã chữa lành cho người phung mà thôi chứ đó không phải là phép lạ, thì câu rả lời của tôi, là: tất cả đều tùy thuộc chuyện người hỏi hiểu thế nào là “phép lạ”, mà thôi. Nếu bạn hiểu theo nghĩa Ngài sử-dụng uyền-uy siêu-nhiên để gạt qua một bên mọi diễn-tiến thông-thường của thế-giới tự-nhiên, thì câu trả lời là: Không! Đó không là phép lạ.

Chắc chắn đó không là bằng-chứng cho thấy Thiên-tính của Ngài như một số người nhiều lúc vẫn cứ quan-niệm như thế, do bởi Ngài từng dạy những người theo chân Ngài cũng làm hệt như thế. Theo tôi, Đức Giêsu không chữa lành tật bệnh nào có sự can-thiệp từ thế-giới thể-lý, nhưng Ngài chữa lành cơn ốm đau nào đó qua sự dính-dự của thế-giới xã-hội. Ngài chữa lành bằng cách chối-bỏ việc phải tuân theo các tập-tục đối với người lâm bệnh.

Đức Giêsu chữa lành “người phung” qua việc Ngài chào mời họ vào lại với cộng-đồng nhân-loại, đó là lý-tưởng mà cộng-đồng nhân-loại gọi đó là Vương Quốc của Chúa. Ngài từ-chối không chấp-nhận rằng: tật bệnh như là sự nhơ-nhớp về nghi-thức phải bị loại-bỏ khỏi cộng-đồng xã-hội; và từ đó, Ngài thúc-bách mọi người hoặc chấp-nhận “người phung” trở về lại với cộng-đồng, hoặc từ-chối không cho chính Ngài được như thế. Quyền-uy chữa lành là quà-tặng của Thiên-Chúa xây-dựng vĩnh-viễn trong công-trình của vũ-trụ, chứ không chỉ là sự can thiệp tạm thời trong chốc lát của Thiên-Chúa vào vũ-trụ khép kín vốn thiếu xót khả-năng vẫn làm như thế.

Tóm lại, thì: riêng tôi, tôi vẫn tin rằng phép lạ không phải là sự thay đổi về thế giới thể-lý cho bằng sự đổi-thay trong thế-giới xã-hội. Dĩ nhiên, cũng nên có một số phép lạ giúp đổi thay thế-giới thể-lý nếu ta làm được, nhưng với tôi, điều đó xem ra vẫn chỉ là niềm ao-ước làm được một số đổi-thay còn nằm trong uy-quyền của ta trong thế-giới xã-hội, mà thôi”. (x. Richard G. Wattd & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1996, tr.62-68)

Thật tình mà nói: có nói về sự lạ hay phép lạ do Đấng bậc đầy quyền phép ở đâu đó, đã làm và đã bảo, cũng chỉ là thực-hiện những điều được khuyên dạy ở Kinh Sách vẫn từng kể:

“Bấy giờ có mấy kinh sư và người Pharisêu

nói với Đức Giêsu rằng:

Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.

Người đáp:

Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ.

Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào,

ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna.

Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào,

thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy.

Trong cuộc phán xét,

dân thành Ninivê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này

và sẽ kết án họ,

vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng;

mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa.”

(Mt 12:38-42)

Thật tình mà nói, khi bình-giải câu Chúa nói “mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa”, Lm Nguyễn Thế Thuấn lại đã bàn rằng:

“Dấu lạ: để chứng thực về sứ-mạng của Ngài, Chúa Giêsu nêu ra lời giảng của Ngài, kết-thúc nơi sự Sống lại của Ngài. Đây ám-chỉ rõ-rệt đến sự Sống lại. Nhưng Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 16 câu 1-4 chứng ở ngay nơi công việc rao-giảng của Chúa Giêsu.” (Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, Kinh Thánh 1976, phần Tân Ước tr. 38)

Thật tình mà thưa với người đọc và người nghe ở đây rằng: tất cả mọi điều viết và đọc ở đây, chỉ để chứng thực mỗi điều đó, tức: sứ-mạng của Chúa đặt trọng-tâm nơi Sự Sống Lại của Ngài. Nếu không có Sống lại của Ngài, mọi sự lạ và phép lạ, đều ra như không, rất hư-luống.

Trong chiều hướng rất như thế, cũng nên thông-cảm ý.lời người nghệ-sĩ trong bài “Xin cứ làm tình nhân”, qua câu hát được tóm gọn làm đoạn kết rất như sau:

“Hãy tìm em tìm em, rồi nhìn em nhìn em.

Và nắm tay nắm tay, cho hồn em ngất ngây.

Chỉ cần em nhìn em, là tim em rã rời.

Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.”

(Tú Minh – bđd)

Thật đúng thế. “Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.” Như thế mới là sự lạ, và cũng là “phép lạ” dành cho người đời, ở trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mong mọi người ở đời

Hãy tìm nhau rồi nhìn nhau

mà đắm say,

yêu thương nhau suốt đời.

Thế đó mới là chuyện lạ

và là phép lạ trong đời,

với mọi người.

2 đoản khúc suy tư năm 2011

“Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp,”

một chuyện tình cay đắng…

(Mạc Phong Linh – Chuyện Tình Lan và Điệp)

(2Cr 12:3b-4)

Kể cho người nghe, mà sao chị cứ kể mỗi chuyện tình Lan và Điệp? Giảng cho người hiểu, mà sao anh cứ giảng và giải rất dài. Cũng rất dai. Chẳng ai hiểu? Chẳng kể gì người nghe có muốn nghe về “chuyện tình (rất) cay đắng”. “Lúc tuổi mộng mơ”, “đem viết thành bài ca”, ca về nhà Đạo?

Sống đời nhà Đạo, lại có những truyện kể về tình đời. Giống ở đời. Nghĩa là, tôi và bạn, lại cứ kể lể rồi còn giảng giải nhiều chuyện. Cả những chuyện, như đời “Lan và Điệp”, có những câu:

“Lan như bông hoa ngàn,

thương yêu vô vàn,

nguyện thề non nước,

sẽ không hề lìa tan.”

(Mạc Phong Linh – bde9d)

Sống Đạo giữa đời, người đi Đạo cũng từng sống, giống như thế. Tức, vẫn nhiều chuyện để kể. Cứ lễ mễ mà kể lể. Hết chuyện này chuyện khác. Kể, từ đầu đời đến cuối đời, vẫn không hết.

Trong chuyến ghé thăm đất miền Mễ Tây (rất căn) Cơ, bần đạo học được nhiều điều. Không phải để giảng Đạo, mà để kể về dân gian. Có vua quan cùng lãnh chúa. Rất bí nhiệm. Chuyện, của bậc vị vọng ở chốn trên cao chót vót, rất vua chúa. Chuyện vua quan lãnh chúa, không kể bằng miệng, suốt thế hệ này qua tthế hệ khác. Nhưng, bằng hoạ đồ khắc trên đá, mà bộ tộc giống giòng Maya, đã tô vẽ từ nhiều thế kỷ, mà không cần chữ viết. Khiến người người cứ cảm kích. Thán phục.

Điều mà nền văn minh Maya xứ miền rất Mễ chú trọng nhiều đến quyền của vua quan chốn cao tít mù tắp, rất uy lực, nay được một số đấng bấc ở thế kỷ 21, còn thực hiện.

Điều, mà nhà Đạo ở trên cao đang hiện thực, nay quên hết tình tiết xưa như nghệ sĩ từng viết:

“Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về,

Điệp cùng Lan chung bước.

Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi

Lan khóc đợi người đi.”

(Mạc Phong Linh – bđd)

Nhà Đạo hôm nay, không còn thấy cảnh tình sánh bước giữa “Lan và Điệp”, dù hiu hắt. Mà, chỉ là cảnh “chia ly”, “khóc đợi người đi”, chẳng thi vị. Nhưng ê chề. Tham vọng nhiều, như người trong truyện kể dân gian rất phàm trần, lếu láo, như sau:

“Có một người đến nhà thờ xin Chúa cho 3 điều ước nguyện. Chúa thầm hỏi:

-Con nguyện và ước điều gì mà “căng” thế?

-Thưa Chúa, điều con nguyện ước chẳng có gì quá sức Ngài đâu! Con chỉ xin Chúa ban cho con 3 điều ước nguyện vỏn vẹn mỗi thế này: Điều một: Con ước mình được quyền “ăn trên ngồi chốc” giống các cha trong nhà thờ, hễ cứ phán bảo điều gì giáo dân nghe răm rắp thôi!

-Thế cũng được, Ta cho con ngay đây! Thế điều kế tiếp là những gì?

-Dạ thưa Chúa, điều kế tiếp con xin được giàu sang phú quí, chẳng làm gì, chỉ quát tháo doạ nạt đủ điều mà con chiên già trẻ lớn bé, vẫn cứ phục rồi dâng cúng

-Điều này không có gì khó, Ta sẽ ban cho con. Thế còn nguyện ước cuối?

-Điều cuối cùng, thì con muốn được mọi sự, cả những điều ước ở trên, lâu nay..

Chúa nhìn người đàn ông đang nài xin, mà tội nghiệp bảo:

-Con có thấy chân ta đang bị gì không?

-Dạ, chân của Chúa bị đóng đinh vào thập giá…

-Đúng! Chân ta mà không bị đóng đinh, thì Ta sẽ cho tất cả một đạp… Bọn con chỉ tham lam quyền bính với giàu sang thôi, chẳng được tích sự gì! …”

Truyện kể trên, chỉ là truyện tào lao, chẳng đáng cười. Bởi, Chúa nào lại làm thế. Có chăng, chỉ là phản ảnh của dân gian, dùng tiếu lâm nhạt để nói cạnh, nói xéo đấng vị vọng nhiều tham vọng. Lại hay lắm chuyện. Những chuyện không mang tính thiêng liêng, đạo đức gì hết.

Lắm chuyện hay không, thật ra cũng chả là chuyện có thật, ở nhà Đạo. Thời bây giờ. Thế nhưng, nhà Đạo hôm nay, cũng có một đôi “chuyện”, tức vấn đề làm người người cứ bứt rứt. Thao thức. Đến nản lòng. Tựa hồ vấn đề truyện kể của đấng-bậc-không-còn-được-trọng-vọng nhưng vẫn muốn bày tỏ đôi sự thật thấy rất rõ, ở nhà Đạo, như sau:

“Tính đến nay, cũng đếm được 30 năm, kể từ ngày có những chuyện bê bối về xách nhiễu tình dục đối với con trẻ do một số linh mục vấp phạm. Nhưng vấn đề hôm nay hỏi rằng: lâu nay việc bứng tận gốc căn bệnh ung bướu loại này, đi tới đâu rồi? Ta học được gì, từ những bài học ấy?

Dù ngôn ngữ chọn lựa có xứng hợp hay không thuận lợi, vẫn có lời xin lỗi được đưa ra. Các thủ tục thực hiện nhằm giúp nhiều người hiểu được vấn đề, cũng đã có một số người tìm cách tự chữa lành. Và, nhiều dấu hiệu cho thấy vấn đề đã cải thiện cũng rất nhiều. Các vi phạm theo hình thức mới mẻ cũng đã suy giảm. Và, dù không phải là do có gia tăng lòng đạo đức, thì ít ra cũng vì một số người cũng đã biết sợ, bị bắt gặp.

Đàng khác, nhiều nạn nhân trên toàn quốc chưa cảm thấy thoải mái để kể lại chuyện riêng tư của mình và hoặc chưa hài lòng về những giải pháp này khác hay không, nhiều nơi, nhiều nước vẫn chưa công khai phải đối phó với vấn đề. Cũng như, Hội thánh vẫn gặp nguy cơ bị cắt đứt, chia lìa đến nỗi chết xảy đến vào các thập niên tới.

Dù có thế, vấn đề chính vẫn còn mang tính đậm sâu hơn. Vẫn còn một số yếu tố thông thường khiến kẻ phạm pháp dễ tạo xách nhiễu. Và cũng có những vấn đề khác mang tính cách đặc biệt đối với cá nhân mỗi tội phạm. Giữa hai yếu tố ấy, hiện có những chuyện không lành mạnh đang xảy đến với một vài tổ chức hoặc xã hội mang tính riêng biệt khả dĩ khích lệ sự tăng trưởng một thứ văn hoá qua đó việc lạm dụng xách nhiễu càng có cơ xảy đến dễ dàng hơn. Hoặc cùng lắm, vẫn có thể làm ngơ trước vấn đề bằng cách đưa ra một đáp trả khá nghèo nàn.

Xách nhiễu lạm dụng chừng như dễ xảy đến khi cả ba yếu tố bao gồm một tâm lý không lành mạnh, những ý kiến bệnh hoạn và môi trường sống rất yếu kém cộng chung lại; đồng thời, việc đáp trả lại nghèo nàn khi những gì nằm trong nền văn hoá ấy lại khơi mào điều lợi cho người trong cuộc làm đối tượng cho lợi thế của cơ chế ấy.

Tôi nghĩ rằng, cho đến nay, sai lầm chính nơi đáp trả của Hội thánh đối vấn đề này là ở chỗ Hội thánh không chịu nhìn vào bất kỳ giáo huấn, lề luật, cung cách thực hiện hoặc động thái của chính mình trong chiều hướng đóng góp bất cứ thứ gì để sửa sai.

Hội thánh lại không thấy rằng có thể có những yếu tố trong “nền văn hoá của Đạo Công giáo” mình từng đóng góp vào việc xách nhiễu lạm dụng hoặc đã đáp trả cách nghèo nàn đối với vấn đề xách nhiễu như thế. Tôi nghĩ có tất cả 7 yếu tố trong nền văn hoá Công giáo đã tạo nên xách nhiễu lạm dụng và 5 yếu tố góp phần vào việc đáp trả khá nghèo nàn.

Bảy yếu tố góp phần vào hành vi xách nhiễu lạm dụng, phải kể đến, là:

1. Chỉ tôn thờ một Đức Chúa rất giận dữ, nay không còn tác dụng;

2. Nhiều yếu tố cho thấy hành vi xách nhiễu đều do nam nhân vướng mắc. Và, hầu như mọi chuyện lâu nay vẫn nằm trong tay người đàn ông, trong khi giới nữ ít quyền ăn nói;

3. Rất nhiều linh mục sống đời độc thân cách miễn cưỡng. Không ưa thích cũng chẳng vui lòng chọn lựa và không phải ai cũng cũng ở độc thân như thế. Thứ độc thân không ôm trọn tình yêu;

4. Thiếu trưởng thành về đạo đức, cứ tưởng rằng mọi tốt lành về mặt đạo đức chỉ nằm ở việc tuân phục một Đức Chúa mà họ nghĩ Ngài chuyên luận phạt, thôi. Thêm vào đó, là quan điểm chỉ biết vâng lời Hội thánh mà không biết tự mình nhận lãnh trách nhiệm;

5. Luôn có ý tưởng cho rằng nội việc nghĩ đến chuyện tình dục thôi, cũng đã là mắc tội trọng rồi. Và, đáng bị Chúa đời đời giáng phạt. Nói tóm lại, lúc nào cũng cho rằng đạo lý về dục tình đặt cơ sở trên luật tự nhiên hoặc trái với thiên nhiên, hơn là chú trọng đến những điều mà Tin Mừng của Chúa khuyên dạy;

6. Chủ nghĩa phò giáo sĩ hoặc đặc tính bí ẩn về chức linh mục

7. Cuộc sống linh mục và tu sĩ thiếu chuyên nghiệp thực thụ.

Năm yếu tố khiến hệ cấp giáo triều ứng đáp với sự việc cách nghèo nàn, là:

1. Chuyên ưa chuộng tính chính thống (tức: cho rằng niềm tin của mình là đúng) hơn là tạo thói quen công chính và trung thực (tức: phải có hành xử cho đúng). Bởi thế nên, mỗi khi nghe mọi người xầm xì về chuyện nên truyền chức cho nữ giới, là quyết thẳng tay lên án không thương xót. Ngược lại, hễ thấy linh mục xách nhiễu tình dục trẻ con lại dễ thứ tha;

2. Cho rằng Đức Giáo Tông là đấng bậc không thể nào sai lầm đuợc, dù việc ấy không thuộc phạm vi tín điều “vô ngộ”. Tức là: những gì dính dấp đến uy quyền của ngài, cũng đều “vô ngộ”;

3. Sự kiện Đức Gioan Phaolô II im hơi lặng tiếng của suốt hơn 25 năm về chuyện xách nhiễu tình dục trẻ em;

4. Văn hoá lặng thinh đã hằn sâu trong Giáo triều La Mã đến mức thâm căn;

5. Luôn ngăn chặn gạt ý hướng trung thực mỗi khi bàn luận về qui cách ứng đáp với cáo buộc về xách nhiễu tình dục.

Chính ra, Đức Giáo Tông cũng nên chủ động hướng dẫn giáo triều khai triển cách ngăn ngừa và đáp ứng các trường hợp như thế. Nhưng, ta cũng không nên chờ ngài có những quyết định như thế. Tôi thấy không có lý do gì khiến Hội Đồng Toàn Quốc Giáo Sĩ lại không chịu đưa vào nghị trình thảo luận hàng năm của mình để bàn về những gì liên quan đến hàng giáo sĩ, ra như thế.

Chẳng hạn, ta có thể nhìn vào cung cách xem ta có chủ trương giáo sĩ trị đang thể hiện trong cuộc sống của ta, trên toàn quốc hay không. Và, hãy nhìn vào cung cách hành xử để xem ta có thật sự thiếu ý thức chuyên nghiệp khi suy tư và hành xử, không.

Cũng nên nhìn vào cách ứng xử của hàng linh mục mình khi đất nước mình đang có những “phát giác kinh khủng”; nghĩa là, hãy tự hỏi xem mình có đứng về phe linh mục – phạm pháp hoặc cảm thông bước về phía nạn nhân bị xách nhiễu tình dục, là con trẻ? Các linh mục của mình có là thành viên theo phe của mình không, trong khi đó, các nạn nhân bị họ lạm dụng, giờ này ra sao? Ta có đến với các nạn nhân bị lạm dụng nhiều hơn với linh mục phạm pháp chứ? Hay, cả ta nữa, vẫn dễ dàng cho mình vô tội? Phải chăng ta ứng đáp chỉ đơn giản bằng cách mong cho vấn đề xách nhiễu tình dục.ấu dâm nơi hàng ngũ linh mục được xếp xó, để khỏi bận tâm, không? Các giám mục nhà mình có thành “địch thù” xử bất công với các linh mục mỗi khi đáp ứng trước những cáo buộc về xách nhiễu tình dục, nơi đàn em đệ tử mình?

Các câu hỏi của đấng bậc không-còn-là-chủ-quản nữa, có lẽ đẽ khiến tôi và bạn, lại nhớ đến ca từ của nghệ sĩ ngoài đời, rất hay hát:

“Bao nhiêu niềm vui cũng chôn vùi từ đây,

vùi chôn từ đây! …

Lỡ một cung đàn,

phải chăng tình đời là vòng giây oan trái?”

(Mạc Phong Linh – bđd)

Nghệ sĩ đời gặp chuyện ngang trái lại hỏi thế. Đấng bậc nhà Đạo, nhận định sự kiện “không phải”, ở trong Đạo, lại nghĩ khác. Khác, nhưng rất thực tiễn, như sau:

“Để hành xử của mình được lành mạnh, tưởng cũng nên đề cập đến những điểm gây bén nhạy, như hỏi rằng:

*Phải chăng hàng ngũ linh mục ở quanh ta đang sống cuộc đời độc thân mà không thích. Hoặc, không chứa đựng một tình yêu, mình đã chọn? Ta quan niệm thế nào về chuyện ấy? Hãy đưa vấn đề ra mà bàn thảo, cho nghiêm chỉnh.

*Ngày nay, ta có thực sự tin vào luân lý dục tình không? Phải chăng mỗi khi tưởng nghĩ đến chuyện tình dục, là mắc tội? Ta vẫn cho rằng mọi sa ngã về tình dục là trọng tội có thể dẫn đến nỗi chết, chứ? Ta vẫn coi động thái tự nhiên và phản thiên nhiên như nền tảng của đạo lý về tình dục chứ? Nếu không, ta tìm ra được nền tảng nào khác không?

*Ở giáo xứ, ta có thực sự lắng nghe tiếng nói của chị em giáo dân không? Các vị ấy có hoàn toàn đồng ý với câu đáp trả ta đưa ra không?

*Ta có còn quan niệm về Thiên Chúa chuyện giận dữ, trong đời mình không? Quan niệm như thế có còn ảnh hưởng lên ta không? Để ý lắng nghe cả trăm linh mục chia sẻ Lời Chúa vào ngày Chủ nhật, thông thường khi ra về ta mang theo ý nghĩ về Thiên Chúa như thế nào?

*Trong hành trình đời sống, ta đã bỏ đi ý tưởng về chuyện giáo hội dạy ta phải sống thế nào để làm hài lòng một Thiên Chúa chuyện luận phạt chưa?Trong cuộc sống, ta đạt mức độ trưởng thành về luân lý, đến cỡ nào?

*Ý hướng về luân lý đạo đức của ta là thế nào? Nhận thức của ta ra sao khi bị xã hội lên án, dẫu biết rằng ta là người vô tội? Ta đối đầu thế nào với thái độ của Hội thánh khi ứng đáp một cách nghèo nàn đối với các cáo buộc xách nhiễu tình dục, nói ở trên?

Những phát giác kinh khủng về xách nhiễu tình dục nơi hàng giáo sĩ lâu nay quả là một kinh nghiệm thương đau cho đội ngũ linh mục của ta. Nỗi lo ngại của tôi là nhiều người đã khoá sổ chỉ giữ cho mình những tư tưởng tiêu cực thôi. Và, xách nhiễu tình dục đã trở thành chuyện “khủng long chui tọt vào phòng”, mỗi khi các linh mục tụ tập.

Tôi khẩn thiết yêu cầu Hội Đồng Linh Mục Toàn Quốc hãy đóng vai trò đúng đắn để có được những trao đổi mang tính dựng xây về mọi khía cạnh của vấn đề này. Lâu nay, ta có quá đủ nỗi hãi sợ, chối bỏ, chạy trốn hoặc yếu kém rồi. Đã đến lúc, ta cần sống thực sự cởi mở, chính trực và xây dựng trong vấn đề này.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The Elephant in the Room, rút từ The Swag 16.7.2011)

Như mọi lần, mỗi khi gặp các vấn đề gay góc xảy đến với người và với mình, chí ít là người mình ở nhà Đạo, bần đạo lại chạy đến với Lời của các thánh viết ở Tin Mừng. Hôm nay, bần đạo nhận được ân huệ “bắt gặp” một đoạn thơ có lời lẽ, xin san sẻ với bạn và với tôi, rất như sau:

“Đức Kitô, Người không nhu nhược đối với anh em đâu,

nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em.

Thật vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn,

nhưng nay Người đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa.

Cả chúng tôi nữa, trong Đức Kitô,

chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn,

nhưng cùng với Người,

chúng tôi sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa

để xử sự với anh em.”

(2Cr 13:3b-4)

Nhớ lời “thơ” của thánh nhân nhà Đạo, nay lại nhớ thơ lời của người đời, cũngnhư sau:

“Người ta nói yêu là ngốc,

Bởi chữ tình là nguồn gốc chữ ngu…

Đôi khi con người ta cần dừng lại...

Dừng lại để rồi bước nhanh hơn…

Đôi khi con người ta cần buông tay...

Cần cho đi để rồi có nhiều hơn...

Đôi khi con người ta cần khóc…

Khóc thật lớn để rồi cười thật to…

Đôi khi con người ta cần một mình...

Một mình là để biết có nhau quan trọng như thế nào.”

Đã nhớ lời “thơ” Đạo cũng như đời rồi, nay lại tưởng nhớ chuyện của Lan và Điệp, cũng có những tình tiết như sau:

Nếu vì tình yêu,

Lan có tội gì đâu sao vướng vào sầu đau.

Nàng sống mà tim như đã chết

Riêng bóng cô đơn đôi môi xing phai tàn

Thương thay cho nàng

buồn xa nhân thế náu thân cửa Từ Bi.”

(Mạc Phong Linh – bđd)

Bần đạo thiết nghĩ: câu thơ trên, đâu chỉ áp dụng cho các vị nương náu cửa Phật hay nhà Đạo, đang “có vấn đề”, mà thôi. Nhưng, có lẽ, cũng áp dụng cho cả nạn nhân tội phạm xách nhiễu, hoặc sai lầm nhiều sơ xuất. Ở bất cứ nơi đâu. Thời nào. Như hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai

vẫn cứ thương và nhớ

hết tất cả.

Trong Đạo. Ngoài đời.

Suy Niệm Chúa Nhật thứ 20 thường niên Năm A 14-08-2011

“Đàn rơi phiếm rũ, sầu mưa gió,”

“Nguyệt khuất mây mờ, lạnh khói sương”

(dẫn từ thơ Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân)

Mt 15:21-28

Sầu mưa gió. Lạnh khói sương. Có thể, đó là cảnh tình của người đời. Đàn rơi phiếm rũ. Nguyệt khuất mây mờ. Nhjưng, cũng chưa hẳn là tình tự của người trong Đạo, bấy lâu nay.

Tình tự nhà Đạo, nay thánh Mát-thêu kể về nữ phụ xứ Canaan gặp Chúa, rất cảm kích mới có lời xin. Xứ Canaan, có thủ phủ Ty-a và Si-đôn là đất miền cận duyên, bên bờ Địa Trung Hải. Hai thị trấn cách đất liền đến 80 cây số, phía Nam Phênixia. Hôm nay, thánh sử kể về các sinh hoạt khác thường của Chúa, ngoài đất nước Do thái, ở xứ Canaan.

Về sinh hoạt Chúa làm, ngoài xứ miền Do thái, thánh sử kể cũng khá nhiều. Nhưng, không nói lý do tại sao Chúa đi xa như thế. Có thể, Chúa đã mệt vì đường xa, xứ lạ. Thế mà, khi nữ phụ xa lạ lại đón Chúa vào thôn làng. Cũng có thể, luận cứ ở truyện kể còn quan yếu hơn chi tiết địa dư, khoảng cách.

Trình thuật nay là truyện kể nữ phụ “ngoài luồng” và con gái bà lâm bệnh. Đúng ra là, mẹ con sinh sống ở xứ miền Phênixia. Với người Trung Đông, Canaan là một trong những địa danh có tên rất xấu, gồm toàn những người lạ kỳ, về nhiều thứ ít thấy trong Thánh Kinh.

Nói gì thì nói, nữ phụ Canaan đây, thuộc lớp người ngoài Đạo, là người dưng khách lạ mà lại được Chúa đón nhận như người trong cuộc. Bởi thế nên, luận điểm đề cập nơi trình thuật hôm nay là để nhấn mạnh lối hành xử rất nhân lành hầu đón nhận người ngoài vào với cộng đoàn Hội thánh mình.

Trình thuật, nay nhấn mạnh khuynh hướng gọi họ bằng những tên rất xấu, để loại bỏ. Loại và bỏ, như người thời nay khi nói đến dân con Ả Rập.Hồi giáo, người người có thói quen chụp lên người họ bằng những mũ chụp thiếu thanh tao.lịch sự, như: dân Rệp hoặc đám Hồi giáo khủng bố. Và, trình thuật nay cũng nói đến cung cách Chúa dung nạp những người mang tai tiếng, xấu đến như thế.

Mặt khác, nữ phụ này lại có người con vướng mắc một thứ tật bệnh mà người thời ấy gọi là “quỷ tha ma bắt” khiến bà phải gào thét đến cuồng điên, cốt để Đức Chúa Nhân Hiền nghe biết đến với bà, để chữa trị cho con gái bà. Ngài có chữa kẻ ngoài luồng mắc chứng dơ bẩn hay không, đó mới là vấn đề. Và, dân thường thời bấy giờ vẫn còn thắc mắc.

Kể ra, thì nữ phụ Canaan dù ngoài Đạo, nhưng đã tin Đức Kitô, nên bà gọi Ngài là “Con Vua Đavít”. Với thánh Mát-thêu, bà là người đầu tiên trong kinh thánh, dám tuyên xưng Ngài là Chúa, bằng miệng lưỡi. Chính bà là người dùng lời khẩn cầu phụng vụ và thánh vịnh của các đấng bậc từng tuyên tín vào Đức Kitô, như lời kinh phụng vụ lâu nay vẫn nhắc: “Xin Chúa thương xót chúng tôi.”, một lời kinh bằng tiếng Hy Lạp, rất “Kyrie eleison”, trong thánh lễ. Bà còn bái gối lạy quỳ trước mặt Ngài, một động thái khẩn nài ít thấy nơi người Do thái, khi nhắc nhớ điều gì với Giavê Thiên Chúa.

Nói rõ hơn, nữ phụ ngoài Đạo đã van xin Chúa một ân huệ, rất khó thực hiện: là, xin Ngài vượt lằn ranh thói tục luôn chê bai kẻ hạ cấp thấp hèn như mẹ.con bà, những kẻ bị đào thải khỏi mọi chọn lựa trở nên dân riêng của Giavê. Bà xin Ngài thực hiện điều mà Giavê Đức Chúa không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa toàn thể mọi người về với tình thương. Cả khi đồ đệ Ngài bày tỏ: “Hãy bảo bà ấy đi đi, đừng đến mà làm phiền Thầy.”

Nơi trình thuật, chừng như Đức Giêsu đã thách thức lời kêu cầu của nữ phụ bằng lời từ chối. Đây là việc ít thấy ở Tin Mừng, mà các thánh vẫn ghi. Bởi lẽ, kinh nghiệm cho thấy, hễ ai kêu cầu Chúa điều gì, Ngài vẫn đáp ứng bằng đáp ứng trọn vẹn cho người ấy. Trường hợp ở đây, không giống thế. Ngài không ứng đáp lời kêu cầu của nữ nhân ngoại luồng, là bởi vì Chúa Cha gửi Ngài đến với dân con được chọn, thôi. Sứ vụ Ngài thực viện, chỉ dành cho dân con người Do thái, rất đích thực. Chính vì thế, mà người đọc mới nghe thấy những câu so sánh cũng khá lạ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con (ở ngoài).” (Mt 15:26). Bằng vào lời này, ta thấy người Do thái xưa vẫn coi dân “ngoài luồng”, rất thấp hèn. Thách thức ở đây, còn có nghĩa: Chúa phản ứng như người Do thái bình thường sống theo luật, không để lời nài van từ ngoài, áp lực Ngài hành xử ngoài ý định của Cha.

Nhưng, nữ phụ Canaan vẫn thưa: “Đúng thế, thưa Ngài, nhưng lũ chó con cũng được hưởng vụn bánh trên bàn chủ, rơi xuống.” (Mt 15:27) Điều mà bà goá xứ Canaan muốn nói đến, là: loài chó nuôi trong nhà, tuy chạy rong ngoài đường, nhưng cũng được hưởng ơn lành như thú đã thuần hoá. Tức, phải được hưởng công bằng cần thiết. Bên tiếng Hy Lạp, mỗi khi nói đến loài chó nuôi, là nói đến gia súc sống gần gũi với chủ, do đó ít nhiều cũng được đối xử như người nhà, gần chủ nhà. Tức, cũng có chỗ đứng ngồi gần bàn tiệc, dù dưới gầm. Và đây là trọng điểm mà vấn đề trình thuật đặt ra.

Ngay đó, Chúa thay đổi cung cách Ngài đối thoại bằng ngợi khen niềm tin của người đàn bà. Trình thuật không nói rõ đó có là niềm tin vào Ngài, vào Chúa hay không. Nhưng, nữ phụ Canaan lại đã chứng tỏ rằng bà vẫn là bản vị hiện hữu cần được đối xử như người trong cuộc. Xem thế thì, qua việc khen ngợi niềm tin của bà goá, Chúa muốn bảo cho mọi người biết: nữ phụ “ngoài luồng” này, nay đã là người trong cuộc. Tức, đã có trọng trách khiến cho người dưng khách lạ thấy được sự công bằng cần có, khi đối xử với người trong cuộc. Trong Đạo. Tức, cần dân con trong Đạo yêu thương, đón nhận họ để họ trở nên thành viên Hội thánh, như mọi bản vị biết thương yêu. Nhân hiền. Cởi mở.

Cũng có thể, thánh Mát-thêu đã ghi lại tâm tình của Chúa muốn nói đến các chủ thể lâu nay vẫn bị coi rẻ như loài chó, cốt để thử thách niềm tin, thôi. Kịp khi nữ phụ Canaan sẵn sàng chấp nhận thân phận thấp hèn lâu nay của mình, bị đối xử tồi tệ như loài thú, nhưng vẫn muốn được yêu thương trọng đãi như người nhà. Bởi, loài chó lâu nay vẫn được coi là gia súc rất trung thành với chủ mình. Vậy thì, loài gia súc đã thuần hoá, có thuỷ chung với người trong nhà, hay không? Nữ giới trong cuộc, có được đối xử đồng đều như nam nhân không? Có được yêu thương kính trọng không thua kém nam nhân không?

Đó là qui cách mà nữ phụ Canaan dùng đến, cốt để thuyết phục Chúa. Chính bà là người dám bộc lộ với Chúa tâm trạng của người “ngoài luồng”. Và, kêu cầu của bà, chính ra là để mọi người trong cuộc nên coi lại mà đối xử bà ngang bằng như người trong cuộc, một khi dân con của Chúa tin vào tình thương và sự lương thiện. Đây còn nói lên một đặc trưng yêu thương là không bao hàm yếu tố “lằn ranh biên giới”, trong với ngoài!

Ngay đến ý định của Chúa Cha khi chọn lựa con dân trong hoặc ngoài luồng để cứu rỗi, giống như thế. Chúa có tự do thực hiện việc chữa lành cho bất cứ ai, kể cả những người trong hay ngoài luồng. Họ vẫn là những hữu thể, cũng tử tế, ngang bằng nhau. Và, họ cởi mở, ăn ở phải phép hệt như nhau. Lời nài van của nữ phụ, tuy không nói rõ, nhưng đã chứng minh được điều đó. Và, kết quả là: Chúa đã ban cho bà những gì bà khẩn nài. Con gái bà được chữa lành. Vậy, ý của trình thuật thánh sử muốn nhấn mạnh, là: hãy coi khách lạ người dưng, như người nhà vậy.

Điều khác nữa, là: thông thường thì, loài thú ít được nhắc đến ở Tin Mừng. Nhưng, khi đã được nhắc nhở, chúng đều có tên. Ta biết được tên loài thú vào hôm kiệu lá, lễ Vượt Qua, là: chú lừa. Và, loài thú được nói đến, khi thánh Phêrô chối bỏ Thầy mình, là gà trống. Ngoài ra, còn có: chiên lạc. Dê hiền. Đàn heo sạch vv…

Có vị giáo lý viên nọ người Pháp, vẫn quen thói đặt tên cho một số loài thú được nhắc đến ở Tin Mừng, như: chú lừa vào lễ Vượt Qua gọi là: lừa Placiđô. Gà trống hôm thánh Phêrô chối Chúa, là gà “Archibald”, vv… Còn chó nuôi trong nhà, ở trình thuật hôm nay, nên đặt tên gì đây?

Còn một điều cần kể thêm, là: ở trình thuật các thánh ghi, bất cứ ai được Chúa chữa lành, đều đã trở thành đồ đệ đắc lực, quyết theo chân Ngài, mà rao giảng. Con gái nữ phụ xứ Canaan đây, có làm những việc như thế không?

Tựu trung thì, bài học mà thánh Mát-thêu để lại nơi người đọc hôm nay, là: khi nghe ai đó gọi người Ả Rập bằng những tên rất xấu, như “dân Rệp”, hoặc “bọn Hồi giáo chuyên khủng bố”, vv… thiết tưởng người nghe đọc Tin Mừng cũng nên liên tưởng đến chú chó vẫn nằm chực dưới gầm bần của chủ, để được hưởng ơn mưa móc của người trong nhà. Suy cho cùng, thì: loài chó nuôi trong ngoài nhà, vẫn là gia súc được yêu thương, nể trọng. Không phải vì chúng sở hữu đặc tính trung thành với chủ. Mà, vì chúng được coi như thành viên như người nhà. Không là người dưng nước lã, nữa.

Sở dĩ Đức Giêsu là Đấng chữa lành mọi người, trong ngoài nhà Israel, vì Ngài là Đấng Nhân Hiền trong cuộc. Rất cao cả. Học được bài học quý giá rút tỉa từ trình thuật hôm nay, hẳn người nghe đọc, sẽ quyết tâm noi gương lành của Chúa mà xử thế. Xử giống như Ngài vẫn dạy.

Với tâm tình đó, cũng nên ngâm nga lời ca mà người nghệ sĩ trích dẫn ở trên, từng bộc bạch:

“Gương hờn tủi phận, vùi son phấn,

Lược trách buồn duyên, lỡ đá vàng!

Hương sắc đắm chìm, thân mệnh bạc,

Thương lòng xót liễu, rụng đài trang!”

(Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân – Thương Tiếc)

Thương và tiếc, không chỉ “xót liễu, rụng đài trang” thôi, mà còn “trách buồn duyên, lỡ đá vàng”. Trách và thương, những ai vẫn cứ coi dân “ngoài luồng” như chú chó chạy ngoài đường, không thương tiếc. Mà quên rằng, Chúa vẫn tiếc và thương hết mọi người. Mọi loài. Vào mọi thời.

Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

 

bài liên quan mới nhất

Ngày 29/4: Thánh Giuse Nguyễn Duy Tuân. Linh mục, tử đạo (1811 - 1861)

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng