Thứ Sáu tuần XVIII Thường Niên: Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo

Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo

TIN MỪNG: Mt 16, 13-23 và 24-28

13Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” 14Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. 15Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” 16Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. 17Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. 20Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

21Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

*  *  *

24Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? 27”Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. 28Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị”.

(Bản dịch của Nhóm CGKPV)

SUY NIỆM: 

Bài Tin Mừng của ngày hôm nay thứ sáu và của bài Tin Mừng thứ năm hôm qua, Tuần XVIII Mùa Thường Niên, liên kết với nhau một cách chặt chẽ, để mặc khải cho chúng ta sứ điệp thiết yếu của mầu nhiệm Đức Tin.

Môi miệng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” phải đi đôi với đôi chân bước theo Thầy Giêsu; và con đường Thầy đi là con đường của mầu nhiệm Vượt Qua. Chính vì thế, chúng ta được mời gọi suy niệm cùng một lúc hai bài Tin Mừng.

A. “Thầy là ai?” (c.13-20).

B.Con đường Thương Khó và Phục Sinh (c.21-23).

A’. “Ai muốn đi theo Thầy…” (c.24-28).

 1. “Thầy là ai”?

“Người ta nói Thầy là ai?”

Với câu hỏi thứ nhất của Đức Giêsu, các môn đệ đồng thanh trả lời: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Câu trả lời tuy chưa đúng với điều Người thực sự là trong tương quan với Thiên Chúa và với loài người, nhưng lại diễn tả một cách thật khách quan cách sống của Người, và nhất là phù hợp với con đường qua đó Người bày tỏ căn tính đích thật của mình.

Thật vậy, Đức Giêsu đã chọn lựa ứng xử giống như những người đi trước Ngài, mỗi người một chút: một chút của Gioan, một chút của…; Ngài hòa nhập vào một truyền thống, hay đúng hơn, Ngài xuất phát từ một truyền thống, từ lịch sử, văn hóa, tôn giáo của dân tộc Ngài. Ngài không từ trên trời nhảy xuống cách ngoạn mục, để mọi người thán phục, như ma quỉ gợi ý. Nếu làm thế Ngài, chắc hẳn Ngài cũng sẽ được nhìn nhận là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa theo kiểu của ma quỉ. Ngài đến để hoàn tất, chứ không phải hủy bỏ.

Ngài ứng xử giống với nhiều người đi trước Ngài, như Gioan, như Elia, như Giêrêmia…; và tất cả đều là ngôn sứ. Như chính Ngài đã nói về mình: “Không một ngôn sứ nào được đón nhận nơi quê của mình”. Số phận của các ngôn sứ loan báo số phận của Đức Giêsu, mà gần Ngài nhất là số phận của Gioan. Theo mặc khải Cựu Ước, Người Tôi Tớ đau khổ là hình ảnh biểu tượng của tất các các ngôn sứ thuộc mọi thời đại. Đức Giêsu đến để hoàn tất cách trọn vẹn và duy nhất thân phận của Người Tôi Tớ đau khổ và cả niềm hi vọng được Thiên Chúa tôn vinh nữa, nơi chính cuộc đời hướng tới mầu nhiệm Vượt Qua của mình. Và chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể hoàn tất như thế. Chính vì thế, ngay khi ông Phêrô trả lời đúng về căn tính của Người, Đức Giêsu nói về mầu nhiệm Vượt Qua và mời gọi Phêrô và tất cả mọi người đi con đường của mầu nhiệm Vượt Qua.

b. “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”

Tuy nhiên, trong tương quan thiết thân với Người, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ, và đến lượt chúng ta hôm nay, vượt qua điều “người ta” nói về Ngài đến đi đến điều chính “tôi” nói về Ngài. “Người ta” có thể hiểu là những người nói không đúng hay không đủ về Chúa, nhưng cả những người nói đúng nữa. Nghĩa là chúng ta được mời gọi vượt những công thức có sẵn, hay đúng hơn, đi vào kinh nghiệm thiêng liêng và đích thân, từ đó các công thức được phát biểu.

Tương tự như khi chúng ta hát bài tán tụng Magnificat, chúng ta được mời gọi có cùng một kinh nghiệm của Đức Maria, người “Nữ Tì hèn mọn”, về Thiên Chúa và về ân huệ lớn lao và nhưng không của Người.

Vì thế, khi Đức Giêsu đặt câu hỏi thứ hai, cũng cho tất cả các môn đệ, nhưng chỉ có một mình Phêrô trả lời: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”. Trong khi, với câu hỏi thứ nhất, các môn đệ đã đồng thanh trả lời. Như thế, với câu hỏi này, ai cũng cảm thấy mình phải trả lời một cách đích thân; mỗi người được mời gọi đến một lúc nào đó, không nói theo người khác (cho dù là rất đúng, rất hay), không nói theo công thức có sẵn (cho dù đó là giáo lý, tín lý, là truyền thống), nhưng đích thân công bố Đức Giêsu là ai đối với mình; và khi công bố bằng lời Đức Giêsu là ai đối với mình, mỗi người được mời gọi cư ngụ trong câu trả lời của mình, dấn thân trong điều mình nói, đến độ mình và điều mình nói là một ; bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu không liên quan đến kiến thức chúng ta có về Ngài, nhưng liên quan đến tương quan thuộc về: “Thầy là ai đối với con, đối với con tim con, đối với cuộc đời, đối với ơn gọi của con?”, “Khi trả lời Thầy là ai, con có đi theo Thầy không, có sẵn sàng thuộc về Thầy suốt đời không?

Sau bằng đó năm đi theo Chúa, trong ơn gọi Kitô hữu hay trong ơn gọi dâng hiến, chúng ta đã nghe Chúa đặt ra câu hỏi này cho mình chưa? Và tôi đã trả lời thực sự và dứt khoát cho Chúa chưa? Hay tôi mới chỉ nghe và trả lời giống như mọi người mà thôi, chứ chưa đích thân nghe được tiếng Chúa và đích thân trả lời cho Chúa như một người lớn. Và nếu như tôi nghe được tiếng Chúa hỏi hôm nay, ở đây và lúc này, tôi, tôi trả lời làm sao cho Chúa. Hay tôi chưa sẵn sàng, và muốn khất lại sau này? Dĩ nhiên, mỗi người chúng ta có thể trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, nhưng những lời ngày có nghĩa gì đối với tôi, với những lựa chọn lớn nhỏ trong cuộc đời của tôi? Và đâu là cách Chúa trở nên Đấng Kitô, cách Chúa trở nên Con Thiên Chúa hằng sống?

c. Mối phúc và sứ mạng

“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Đây là lời tuyên xưng đức tin, qua đó thánh Phêrô đại diện cho tất cả những người tin thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, nhìn nhận căn tính thần linh của con người Đức Giêsu Nazareth. Lời tuyên xưng đức tin này không có nguồn gốc con người: “không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy”, nhưng đến từ mặc khải của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, Đấng ngự trên trời. Và niềm tin nơi Đức Kitô là một mối phúc: “Này anh Simon, con ông Giô-na, anh thật là người có phúc”, phúc của thánh Phêrô đã tuyên xưng niềm tin nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, nhờ mặc khải của Thiên Chúa, và phúc của chúng ta hôm nay, vì cũng tuyên xưng và sống cùng một niềm tin.

Xin cho chúng ta cảm nhận được mối phúc này mỗi ngày và suốt đời trong niềm vui, vì niềm tin chúng ta đặt để nơi Đức Kitô : đức tin của chúng ta thiết yếu không phải là một hệ thống tư tưởng hay nguyên tắc luân lí, nhưng là ngôi vị sống động và thần linh, là Đấng Cứu Độ, mang lại cho chúng ta tình yêu, lòng bao dung, ý nghĩa, đường đi, sự hiểu biết, sức sống và chính sự sống.

Nhưng thế nào là một mặc khải của Thiên Chúa về Đức Kitô? Chắc chắn đó không phải là một sự nhận biết bất chợt và một lần là xong; như chính Đức Kitô nói với thánh Phêrô: “Điều Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13, 7). Đặt mối phúc của thánh Phêrô trong hành trình đi theo Đức Kitô của ngài, chúng ta nhận ra rằng, mặc khải về căn tính thần linh của Đức Kitô đến từ chính kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô, đi theo, ở lại, lắng nghe, hiểu biết, để cho Người rửa chân, trao ban và yêu thương đến cùng, mỗi ngày và suốt đời.

Kinh nghiệm đức tin của Thánh Phaolô Tông Đồ giúp chúng ta nhận ra điều này: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. 8Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô 9và được kết hợp với Người”. Đó là lời của thánh Phaolô, nhưng thánh Phêrô cũng có cùng một kinh nghiệm sâu đậm về hiểu biết và lòng mến đến cùng dành cho Đức Kitô.

Chúa tin tưởng trao ban cho thánh Phêrô, vừa với tư cách là “Đá Tảng” và vừa với tư cách là đại diện các tông đồ và các thừa tác viên (x.Ga 20, 23) một quyền rất lớn, đó là quyền tháo cởi hay cầm buộc. Chúng ta được mời gọi nhận ra sự tin tưởng trọn vẹn mà Đức Kitô đặt để nơi Giáo Hội, vì quyền ở trên trời, nhưng lại được trao hết cho con người mòng dòn ở dưới đất. Nhưng trong lịch sử, đã có lúc Giáo Hội nhấn mạnh đến quyền cầm giữ hơn quyền tha tội, đã tách biệt quyền bính với sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ Đức Giêsu Kitô. Không gắn bó với Đức Kitô, không hiểu Ngài cách sâu xa, nhất là mầu nhiệm Thập Giá , không nhớ lại kinh nghiệm được thương xót, không để cho Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta rất dễ sử dụng quyền bính Chúa ban không phải để giáo huấn, làm cho lớn lên và cứu sống, nhưng để lên án loại trừ và giết chết, theo năng động của Sự Dữ. Giáo Hội được xây dựng trên đá tảng Phêrô, nhưng đá tảng Phêrô lại được nâng đỡ bởi lòng thương xót.

2. Đức Giêsu mặc khải mầu nhiệm Vượt Qua (c.21-23)

Như chúng ta đã nói, sau câu hỏi thâm sâu và riêng tư: “anh em nói Thầy là ai?”, Đức Giêsu bắt đầu dẫn các môn đệ đi sâu hơn vào trong tương quan “thuộc về nhau” với Ngài. Thật vậy, Đức Giêsu bắt đầu bày tỏ, nghĩa là mặc khải (thánh Máccô nói, Ngài dạy các môn đệ): “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Đức Giêsu mặc khải, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Thật vậy, cuộc Thương Khó và Thập Giá Đức Kitô:

  • Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ.
  • Mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi và ban ơn chữa lành.
  • Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.
  • Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.

Thập Giá thường được hiểu tách biệt khỏi Mầu Nhiệm Vượt Qua, nên bị giản lược vào những đau khổ (những điều xẩy ra cho mình) hay vào những hi sinh, khổ chế, hãm mình và “đền tội” (những điều tự tạo cho mình), hoặc như là bài “kiểm tra, kiểm nghiệm, trắc nghiệm” sự xứng đáng hay khả năng chịu đựng, chịu “sỉ nhục và khiêm nhường”, để được thưởng “vinh quang” (những điều mình bị áp đặt).

Trong khi đó, Đức Giêsu nói về Thập Giá của mình là mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa:

Khi các ông dương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu (c.28).

Chính vì thế, theo lời kể của Thánh Sử Máccô, Đức Giêsu dạy, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, hay “phải chịu đau khổ, mới đạt tới vinh quang”, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải, một sự hoàn tất liên quan đến lịch sử cứu độ:

Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8, 31).

(a) Nơi Thập Giá, Đức Giêsu bày tỏ căn tính đích thật của Người, là “Đấng Hằng Hữu”, vì Người là Sự Thiện tuyệt đối, đối lập với sự dữ và tất cả những gì liên quan đến sự dữ:  bạo lực, tố cáo, lên án…Chúng ta thường hình dung cách dễ dãi Sự Thiện và Sự Dữ “tố cáo” lẫn nhau; trong khi “tố cáo” tự nó là điều dữ, là hành động đặc trưng của Sự Dữ.

Thập Giá cũng mặc khải cách thức Người mạnh hơn sự dữ và sự chết. Sự Thiện chiến thắng Sự Dữ, không chỉ là khi vượt qua sự chết đi vào sự sống, nhưng còn là sự tự do, không để mình rơi vào vòng xoáy của bánh răng cưa Sự Dữ, theo quy luật sòng phẳng “mắt đền mắt, răng đền răng”, “ác giả ác báo”.

(b) Thập Giá là cách thức Đức Kitô bày tỏ “TÌNH YÊU ĐẾN CÙNG” (x.Ga 13, 1) dành cho loài người và từng người chúng ta. “Tình yệu đến cùng” của Người tha thứ, chữa lành và giải thoát chúng ta. Như Thánh Phaolô xác tin: “Không có gì Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8, 39).

(c) Thập Giá không phải là “ngỏ cụt”, chỉ để thưởng phạt hay thi thố khả năng hãm mình, hi sinh, chịu đựng và các “nhân đức”, nhưng là con đường “vượt qua” dẫn đến sự sống. Sự sống mai sau, nhưng đã hiện diện và sinh hoa kết quả đồi dào, ngay trong sự sống này.

Như thế, điều tồi tệ nhất loài người dành cho Đức Giêsu, nhưng lại được Ngài dùng để bày tỏ căn tính đích thật của mình trong tương quan với Thiên Chúa và với con người. Bài đọc I của Thánh Lễ hôm nay, trích sách Dân Số, ngang qua hình ảnh Con Rắn, còn giúp chúng ta hiểu sâu rộng hơn về mầu nhiệm “Con Người được giương cao” trên Thập Giá trong tương quan toàn bộ lịch sử cứu độ.

*  *  *

Đức Kitô đã hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo “Ý Muốn của Chúa Cha” được thể hiện trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh là gì?

MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
của ĐỨC KITÔ

KINH THÁNH
(Lc 24)

* Sáng Tạo: ơn huệ sự sống và tất cả những gì cần cho sự sống.

 

*  Lịch sử: lịch sử của một dân tộc, của những cuộc đời cụ thể, giống như chúng ta: đầy thăng trầm, đau khổ, tội lỗi…

– Lề Luật.

– Ngôn Sứ.

– Thánh Vịnh.

*  Sau khi ĐKT Chị Đóng Đinh và Phục Sinh giải thích KT cho hai môn đệ trên đường Emmau, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ
(Lc 24, 30).

TẤM BÁNH
“Người ban BÁNH…” (Tv 136)

*  BÁNH đến từ Sáng Tạo (Tv 136, 4-9): “Lạy Chúa, là Chúa cả trời đất. Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu của ruộng đất…”

*  và từ Lịch Sử (Tv 136, 10-24): “…và công lao của con người…”

*  Nơi bí tích Thánh Thể và mầu nhiệm Vượt Qua, mà chúng ta cử hành mỗi ngày trong Thánh Lễ, bánh hằng ngày trở thành chính Chúa, “Tấm Bánh Hằng Sống” vượt qua sự chết: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh…và nói: “ANH EM HÃY CẦM LẤY, ĐÂY LÀ MÌNH THẦY”.

“CON TIM BỪNG CHÁY”
– Mầu nhiệm Vượt Qua tương hợp với Kinh Thánh và Tấm Bánh
– Kinh Thánh tương hợp với Tấm Bánh

Mầu nhiệm Vượt Qua tương hợp với Kinh Thánh và với Tấm Bánh; Kinh Thánh tương hợp với Tấm Bánh. Nhận ra những tương hợp này sẽ làm cho “con tim chúng ta bừng cháy” (x.Lc 24, 13-35), vì đụng chạm đến chốn thâm sâu của hữu thể chúng ta (à la profondeur de notre être).

Như thế, tầm mức mầu nhiệm “Đức Kitô hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo Ý Muốn của Chúa Cha” không chỉ là làm cho ứng nghiệm một vài câu được lọc lựa trong Kinh Thánh, hay không chỉ dừng lại ở mức độ: thử luyện đau khổ-xứng đáng-ban vinh quang theo qui trình thưởng/phạt hay tương quan “sòng phẳng” của Lề Luật (Lề Luật thì “tốt và thánh”, nhưng bị Sự Dữ sử dụng như phương tiện để phát huy hết sức mạnh hủy diệt!), hoặc ý định thử thách, kiểm chứng hay kiểm nghiệm lòng kiên trì, chịu khổ, chịu thương chịu khó của người đi theo Chúa (Lề Luật thì “ tốt và thánh”, tuy nhiên Sự Dữ gieo vào lòng con người thái độ chết chóc: “nghi ngờ, không tin, nên thử để biết ”).

Mầu nhiệm “Đức Kitô hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo Ý Muốn của Chúa Cha” có tầm mức TOÀN BỘ KINH THÁNH.

*  *  *

Cả cuộc đời của Đức Giêsu hướng về mầu nhiệm Vượt Qua. Ba lần vừa loan báo và vừa giảng dạy cho các môn đệ cho thấy rõ chân lí này. Nhưng tương quan giữa cuộc đời của Người và mầu nhiệm Vượt Qua còn hiện diện ở chiều sâu, như chúng ta đã nhận ra khi chiêm ngắm cuộc đời của Người từ “nguồn gốc”. Đặc biệt, mầu nhiệm Vượt Qua được bừng sáng, khi Người đối diện với Lề Luật, và chân lí lề luật “loan báo” Đức Kitô chỉ tỏ hiện dưới áng sáng của mầu nhiệm Vượt Qua.

Tại sao cuộc đời của Người hướng về mầu nhiệm Vượt Qua? Đó là bởi vì công trình sáng tạo của Thiên Chúa và lịch sử cứu độ được Thiên Chúa dẫn dắt, mà Kinh Thánh kể lại cho chúng ta, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và được mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất. Như Thánh Phaolô tuyên bố (1Cr 15, 3-4).

Vì thế, khi chiêm ngắm mầu nhiệm Vượt Qua, chúng ta sẽ nhận ra Chân Dung Rạng Ngời của chính Thiên Chúa, được tỏ hiện nơi Đức Kitô chịu thương khó và phục sinh. Và chính chân dung rạng ngời của Chúa sẽ chinh phục con tim của chúng ta. Bởi lẽ, nếu trong lịch sử cứu độ, khuôn mặt của Thiên Chúa vẫn chưa được tỏ hiện tuyệt đối, vì ánh sáng và bóng tối, sự thiện và sự dữ, sự sống và sự chết lẫn lộn với nhau, thì nơi mầu nhiệm Vượt Qua, hai nguyên lí trái ngược này hoàn toàn tách rời nhau, vì thế, chân dung Thiên Chúa trở nên rạng ngời nhất.

*  *  *

Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, không phải chỉ là bày tỏ niềm tin Đức Giêsu Nazareth là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nhưng còn là môt lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Sau này, Phêrô và các môn đệ đã hiểu ra con đường Thương Khó và đã đi đến cùng con đường Thương Khó của mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi hiểu ra con đường Thương Khó của Đức Giêsu và đảm nhận con đường Thương Khó của mình, con đường Thương Khó của thế hệ mình. Con đường Thương Khó của chúng ta là ơn gọi trong một hoàn cảnh, một gia đình, một cộng đoàn, một Hội Dòng cụ thể mà tôi đang thuộc về.

Thánh Phêrô đã không hiểu bài học của Đức Giêsu, vì thế không thể chấp nhận điều Đức Giêsu giảng dạy về con đường Ngài phải đi: ông kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Thầy của mình. Như ông Phêrô, chúng ta cũng từng đi theo Chúa, nhưng với dự án hay ước muốn riêng của mình, và lại còn muốn Chúa chấp nhận điều mình muốn. Nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, nhưng của loài người, do Satan xúi dục. Xin cho chúng ta gắn bó thân thiết với Lời Chúa, với Ngôi vị của Chúa, để nhạy bén và cương quyết loại bỏ những tư tưởng và hướng đi không thuộc về Thiên Chúa.

 3. “Ai muốn đi theo tôi” (c.24-28).

Lời mời gọi này mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối, vì tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta: “Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất;nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được”.

Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

  • Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác.
  • Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
  • Đó là sự hy sinh cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.

Như thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống. Đó hiển nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay, ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Kitô, vì niềm say mê Tin Mừng của Ngài.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

bài liên quan mới nhất

Thứ Ba tuần V Phục Sinh: "Thầy ban bình an của Thầy cho các con"

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng