Thứ Năm tuần XXX TN: Cầu cho các tín hữu đã qua đời

Lễ Các Đẳng Linh Hồn, Lễ II

Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài

 I. LỜI CHÚA: (Mt 5, 1-12)

Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”.

(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)

II. SUY NIỆM

1. Lời Hứa ban sự sống

Lời của Đức Giêsu trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan trong Thánh Lễ I cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay, tuy ngắn, nhưng mở đầu và kết thúc với cùng một lời hứa được Đức Kitô đón nhận và ban cho sự sống muôn đời:

Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài (c.37).

Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết (c.40).

Như thế, Lời Chúa thật an ủi đối với tất cả chúng ta, những người đang sống và đặc biệt đối với những người đã qua đời mà chúng ta hằng nhớ đến và cầu nguyện hàng ngày, đặc biệt là trong Thánh Lễ hôm nay và trong tháng mười một này.

Và để được Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh, không loại ra ngoài, nhưng được Người đón nhận, như Người nói trong lời hứa thứ nhất: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài”, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Người và tin vào Người, như Người nói trong lời hứa thứ hai: “Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời”. Đến với Đức Kitô, là để ở lại, học với Người, chiêm ngắm và tin vào Người; và Người hứa sẽ ban cho chúng ta sự nghỉ ngơi bồi dưỡng mỗi ngày và sự nghỉ ngơi muôn đời (x.Mt 11, 28-30). Đó cũng chính là ước nguyện tận cùng của chúng ta dành cho những tín hữu đã qua đời, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong gia đình và trong ơn gọi: Requiescat in Pace (RIP: HÃY NGHỈ NGƠI TRONG BÌNH AN).

Vậy Chúng ta hãy đến với Chúa mỗi ngày và mọi ngày trong đời sống của chúng ta: Trong Thánh Lễ, trong cầu nguyện và các việc thiêng liêng; và nhất là để cho Chúa đến trong ngày sống của chúng ta, trong những lựa chọn, trong cách làm việc, trong cách ứng xử với người khác. Và một ước ao như thế, một hướng sống như thế, dù được thực hiện chưa hoàn hảo, nhưng làm sao có thể hoàn hảo được, cũng đủ để Chúa không loại trừ chúng ta, nhưng đón nhận chúng ta với lòng quảng đại và bao dung thương xót, ở đời này và ở đời sau. Vì cho dù đời sống của chúng ta có qua đi, nhưng sự sống và tình yêu của Chúa là mãi mãi, là đời đời. Vì thế, Chúa không thể yêu chúng ta có một lúc thôi, nhưng là mãi mãi; và tình yêu của Ngài có sức mạnh biến đổi và tái tạo chúng ta cho tình yêu muôn đời của Ngài.

 2. “Tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai”

Thế mà tình yêu của Đức Kitô dành cho chúng ta, còn sống như đã qua đời, phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa Cha. Thật vậy, bài Tin Mừng của chúng ta hôm nay được ghi dấu từ đầu đến cuối bởi kế hoạch yêu thương của Chúa Cha:

Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết (c.39).

Có thể nói, Chúa Con cũng yêu mến, những người Chúa Cha yêu mến; và ngược lại, Chúa Cha cũng yêu mến những người mà Chúa Con yêu mến; và còn nữa, tình yêu hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con lan tỏa ra cho chúng ta. Và đó chính là cội nguồn của việc chúng ta quan tâm đến nhau, cầu nguyện cho nhau, những người còn sống cũng như người đã qua đời.

Bởi vì, Chúa cũng thương những người chúng ta thương mến trong Chúa; và Chúa thương người này nhờ vào lòng tin của người kia. Chân lí này được kể lại khắp nơi trong các Tin Mừng.

  • Đó là trường hợp bà góa thành Nain có đứa con nhỏ chết sớm: vì thương người Mẹ đau khổ, mà Chúa đã cứu người con.
  • Đó là trường hợp những người khiêng kẻ bại liệt từ trên mái nhà thả xuống trước mặt Chúa : nhìn thấy lòng tin của họ, Ngài đã cứu chữa người bệnh.
  • Đó là trường hợp người cha có đứa con gái nhỏ bị bệnh nặng sắp chết.

Và còn nhiều trường hợp khác nữa như người chủ có anh đầy tớ bệnh liệt giường; và ơn cứu độ được ban cho cả nhà, nhờ vào hành trình đến với Đức Giêsu và tin vào Ngài của một mình ông Giakêu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19, 9). Cùng một lúc và thật là quảng đại, Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà ông Giakêu.

 3. “Ta là Bánh Hằng Sống…để cho thế gian được sống”

Đó chính là Tin Mừng, là tin vui, và tin vui này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta và đem lại cho chúng ta niềm hi vọng khi chúng ta cầu nguyện cho nhau, nhất là cho những người thân yêu đã qua đời. Mỗi người chúng ta hãy khát khao và xin Chúa ban cho chúng ta ơn huệ lớn lao này, đó là xin Chúa cũng công bố rằng, ơn cứu độ đã đến cho gia đình và Gia Quyến của chúng ta, cho cả cộng đoàn, cho cả Hội Dòng. Và ơn cứu độ chính là ơn được giải thoát khỏi sự chết, để sống sự sống mới và sống sự sống mới này mãi mãi với Chúa và với nhau, nhất là với những người thân yêu của chúng ta, còn sống cũng như đã qua đời.

Và Chúa đã ban cho chúng ta ngay hôm nay bảo chứng của ơn cứu độ rồi, đó là Bánh Thánh Thể:

Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51).

Bánh Hằng Sống, là Đức Kitô, để trở thành sự sống cho chúng ta, đã phải đi ngang qua cái chết trên Thập Giá, bởi vì đó là đường đi tất yếu của tấm bánh, nghĩa là phải bị ghiền nát để trở thành lương thực, để nuôi sống và ban sự sống.

Và Đức Kitô Bánh Hằng Sống đã làm cho chúng ta sống sự sống mới ngay hôm nay rồi, khi giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và tất cả những gì liên quan đến Sự Dữ, khỏi tình trạng hỗn mang, khỏi thú tính, khỏi thái độ nội tâm vô ơn, nghi ngờ, ham muốn, ghen tị, khỏi những chuyển động nội tâm đen tối và chết chóc (x.St 3, 1-7; St 37, 12-27; Ds 21, 4-9; Tv 8; Mt 21, 33-43).

Vậy, trong Thánh Lễ này, trong những Thánh Lễ hôm nay và trong Thánh Lễ mỗi ngày, chúng ta cùng xin Chúa thương xót, tha thứ và bao dung các tín hữu đã qua đời, chúng ta xin Chúa cũng thương xót tất cả các linh hồn, nhất là các linh hồn chúng ta ước ao cầu nguyện cách đặc biệt, các linh hồn mồ côi, các linh hồn thai nhi, các linh hồn nghèo khổ, đau bệnh, bị tai họa, bị thiên tai…Xin Chúa thương đón nhận các linh hồn vào sự sống đời đời của Người, như chính Người đã hứa:

Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết (c.39).

************

Lễ Các Đẳng Linh Hồn, Lễ II

Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng 

 

TIN MỪNG  (Lc 23, 33.39-43)

33Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 39Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!“ 40Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!“ 42Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!“ 43Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.

(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)

******

SUY NIỆM

Trong Thánh Lễ hôm nay và trong suốt tháng 11 cầu cho các tín hữu đã qua đời, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn ngắm Đức Kitô chịu đóng đinh trên thập giá và lắng nghe lời ban sự sống của Người: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (c.43).

Chúng ta hãy phó thác tất cả các tín hữu đã qua đời, nhất là những người thân yêu quá cố của chúng ta, nơi tình thương bao dung của Đức Giêsu Kitô Vua, như thánh Phaolô xác tín: "Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời" (Cl 1, 20).

1. Vua Vũ Trụ và điểm kết thúc

Bài Tin Mừng theo thánh Luca của Thánh Lễ II cầu cho các tín hữu đã qua đời, cũng là bài Tin Mừng được công bố trong Thánh Lễ Chúa Nhật cuối cùng của mùa Phụng Vụ năm C, tôn vình Đức Giêsu Kitô, là Vua Vũ Trụ, nghĩa là, như thánh Phaolô nói: “Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu” (Cl 1, 18). Vì thế, Lời Chúa trong Thánh Lễ đặc biệt này đem lại cho chúng ta một niềm hi vọng rất lớn.

Trước hết, chúng ta đang ở vào thời gian cuối năm Phụng Vụ và đặc biệt trong ngày hôm nay, chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã qua đời: điều này nhắc nhớ chúng ta rằng, mọi sự, dù là trời dù là đất, dù có bền vững, dù có mới mẻ, dù còn trẻ trung, tất cả sẽ đi đến điểm kết thúc, trong đó có thế giới chúng ta đang sống, nhất là chính cuộc đời của chúng ta. Dù chúng ta ở lứa tuổi nào, rồi một ngày kia, chúng ta cũng sẽ đi đến điểm kết thúc là sự chết, giống như những người quá cố được an táng ở các nghĩa trang hay được lưu tồn trong các nhà hài cốt, mà chúng ta đã viếng thăm trong tháng 11 này, và nhất là giống như những người vừa qua đời hay mới qua đời đang còn ở giữa chúng ta, vẫn chưa được mai táng.

Nhưng chúng ta có niềm hi vọng là Đức Giêsu Kitô, bởi vì Người đã vượt qua điểm tận cùng của mọi sự, Người đã chiến thắng cái chết, là điểm tới của tất cả chúng ta, để trở thành Vua của chúng ta, cả ở đời này lẫn đời sau. Vậy, chúng ta đừng tôn ai làm Vua, đừng biến điều gì làm chủ, làm chúa, làm thần tượng, hay làm cùng đích của chúng ta, dù đó là tiền của, phương tiện, bằng cấp, thành công, danh vọng, tiếng tăm. Bởi vì, cùng với chúng ta, tất cả rồi sẽ qua đi. Người Dothái, trong bài đọc trích sách Samuen (2Sm 5, 1-3), đã tôn Đa vít làm vua, nhưng vua Đa vít cũng sẽ chết. Người Dothái và chúng ta hôm nay được mời gọi hãy tôn thờ một Vị Vua duy nhất, mà vua Đavít chỉ là hình bóng thôi, đó là Đức Kitô Vua Muôn Loài.

Như thế, khi chúng ta tôn vinh Đức Kitô là Vua, chúng ta không chỉ tôn vinh Người là Vua Vũ Trụ, nhưng còn là và nhất là Vua của cuộc đời của chúng ta, và không chỉ là Vua của cuộc đời mai sau, sau cái chết, nhưng còn là Vua của cuộc đời chóng qua của chúng ta hôm nay. Điều này sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta bình tâm với mọi sự khi phải lựa chọn, tương đối hóa mọi sự, đem lại hướng đi và niềm hi vọng cho chúng ta ngay hôm nay.

2. Vua Vũ Trụ và Vua người Dothái

Nhưng bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay còn mời gọi đi xa hơn, khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm cách thức Đức Giêsu Kitô trở thành Vua Vũ Trụ, trở Vua của chúng ta, Vua của muôn loài.

Tất cả chúng ta đều biết, trên Thánh Giá, phía trên đầu Đức Giêsu Kitô, có chữ INRI, đó là những chữ viết tắt từ câu này trong tiếng La tinh: Iesus Nazarenus, Rex Judaeorum. Như bài Tin Mừng thuật lại, dòng chữ này có nghĩa là “Giêsu Nazareth, Vua người Dothái”. Đó là bản án của người Dothái dành cho Đức Giêsu, vì họ không nhìn nhận Người là Vua của họ; nhưng đó cũng là sự sỉ nhục, vì người Rôma, cụ thể là quan Phi la tô, cố ý muốn treo tấm bảng INRI, để nhục mạ người Dothái.

Là bản án, là sỉ nhục đến tận cùng, nhưng đó lại là cách Chúa dùng để trở thành Vua của chúng ta, để tỏ bày sự cảm thông với những thử thách, đau khổ và nhất là điểm tận cùng của chúng ta, là sự chết. Lúc Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta đã muốn tôn Người làm Vua theo kiểu Vua Chúa trần gian (Ga 6, 15), thì Người không chịu; nhưng khi người ta bắt Người, xét xử, đánh đòn và đóng đinh Người trên Thập Giá, thì Người lại chịu.

Vua trần gian

Vua Giêsu

– Vua trần gian ở trong cung điện;

– Đội vương miện vàng, kim cương;

– Ngự trên ngài vàng;

– Được vây quanh bởi bá quan văn võ;

– Được tung hô vạn tuế;

– Giàu sang và quyền lực.

– Vua Giêsu ở trên Đồi Sọ;

– Đội vòng gai;

– Bị đóng đinh trên giá gỗ;

– Thù địch; bạn bè người thân bỏ rơi;

– Bị chế diễu, sỉ nhục;

– Trần trụi và bất lực.

Bởi vì, Đức Giêsu không muốn làm Vua theo kiểu loài người, ở xa và ở trên cao, rồi bắt người khác phải phục vụ, trao ban và hi sinh cho mình; Đức Giêsu muốn làm Vua theo cách thức của Thiên Chúa, đó là cảm thông với mọi đau khổ của chúng ta, nhất là sự chết, để chiến thắng sự chết và chia sẻ và trao sự sống phục sinh và viên mãn của Người cho chúng ta.

3. Vua Vũ Trụ và lòng thương xót

Ngoài ra, Đức Giêsu để mình bị đóng đinh trên Thập Giá, còn để nói cho chúng ta rằng, Người là Vị Vua bao dung và thương xót, dù loài người chúng ta, dù mỗi người chúng ta có tội lỗi như thế nào: tội lỗi tầy trời như những người bắt, đánh, kết án và giết Chúa, nhưng Chúa đã thưa với Thiên Chúa ngay lúc Người bị đóng đinh trên Thập Giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34) ; tội lỗi như tên trộm cùng chịu hành hình với Người, nhưng anh này chỉ cần ngỏ lời xin với tất cả lòng thành: “Xin nhớ đến tôi”, Đức Giêsu đã ban lời sự sống cho anh, ngay trong bầu khí chết chóc: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.

Lề Luật, hiểu theo nghĩa chặt là những điều cấm mình nhiên, được phát biểu thành bản văn. Vì thế, để làm nên tội, cần có ba yếu tố: đó phải là điều cấm, phải biết đó là điều cấm và phải hành động một cách tự do. Khi nhìn thấy hành vi phạm lỗi, chúng ta đã vội vã lên án rồi. Còn Chúa, Chúa không chỉ nhìn thấy hành vi, nhưng còn thấu xuất con tim, thấu xuất hoàn cảnh, quá khứ, vết thương lòng, nỗi khổ tâm của người phạm tội. Vì thế, Người luôn cảm thương người tội lỗi, chẳng hạn cách Người thương cảm người phụ nữ ngoại tình (Ga 8, 2-11). Trong hành vi phạm tội, chúng ta vừa là tác nhân, vừa là nạn nhận của Sự Dữ. Bởi vì Sự dữ mạnh hơn con người, nhưng Chúa lại mạnh hơn Sự Dữ; mạnh hơn, ở đây còn có nghĩa là thông suốt hơn, bao dung hơn, thương xót hơn.

Vì vậy, trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy phó thác tất cả các tín hữu đã qua đời, nhất là những người thân yêu quá cố của chúng ta nơi tình thương bao dung của Đức Giêsu Kitô Vua, như Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cầu nguyện:

Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Chúa và chúng con sẽ được cứu độ…
Chúa đã làm cho thánh Phêrô khóc lóc ăn năn sau khi chối Chúa,
và đã hứa ban thiên đàng cho kẻ trộm có lòng hối cải.
Chúa chính là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình, Đấng biểu lộ quyền năng của Ngài/ trước hết bằng sự tha thứ và lòng thương xót:

(Trích Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016)

************

Lễ Các Đẳng Linh Hồn, Lễ III

Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống 

TIN MỪNG (Ga 11, 17-27)

17Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. 18Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. 19Nhiều người Dothái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. 20Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. 21Cô Mácta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. 23Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!“ 24Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. 25Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?“ 27Cô Mácta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.

(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)

******

SUY NIỆM

Đức Giêsu nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Tương tự như thế, khi Ngài nói về người mù bẩm sinh: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 3).

Những bệnh tật, tai họa, bất hạnh, đau khổ một phần đến từ thân phận và sự sống giới hạn và chưa hoàn hảo, phần khác đến từ chính con người, con người bị chi phối bởi Sự Dữ, nên gây tai họa cho nhau. Vì vậy, chúng ta nên từ bỏ cái nhìn lệch lạc coi Thiên Chúa là nguyên nhân trực tiếp của mọi sự. Không phải Thiên Chúa cố tình gây bệnh, gây tai họa, gây khổ đau để “trắc nghiệm” con người (qua đó xét đoán sự xứng đáng, như con người vẫn ứng xử với nhau) và tôn vinh bản thân mình, vì Người không thể xây dựng vinh quang của mình trên sự tiều tụy, khốn cùng, cùng khổ, nghèo đói, khổ đau, yếu hèn và tội lỗi của con người, như thánh giáo phụ Irênê nói: “Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người; và sự sống của con người là chiêm ngắm Thiên Chúa”. Chính niềm vui sống và sự sống, chứ không phải nỗi đau khổ và sự chết của con người làm cho Chúa được vinh quang.

Tuy nhiên, tất cả những gì đến từ thân phận, số phận, thậm chí từ tội lỗi và Sự Dữ, đều không thể làm thất bại kế hoạch yêu thương và thông truyền sự sống của Thiên Chúa cho con người, qua đó bày tỏ cho con người vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể chuyển hóa mọi sự thành điều tốt cho chúng ta và để làm vinh Danh Ngài. Như ông Giuse nói với các anh: “Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo” (St 50, 19-20). Thập Giá là hậu quả của tội lỗi và Sự Dữ (vì thế, chúng ta đừng tự tạo thập giá cho mình và cho nhau dưới bất cứ hình thức nào), nhưng Chúa dùng chính Thập Giá để bày tỏ tình yêu và lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa, bày tỏ sức mạnh và khôn ngoan, bày tỏ vinh quang Thiên Chúa.

1. Mầu nhiệm tình yêu

Trong số các tông đồ, Đức Giêsu đặc biệt ưu ái ba vị: Phêrô, Giacôbê và Gioan; và trong số các bạn hữu, Ngài có tương quan thân thiết với ba chị em Mácta, Maria và Ladarô. Điều này làm chúng ta nhớ đến cách hành xử của chính Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ: giữa nhiều dân tộc, Ngài chọn lựa bằng tình thương nhưng không Israel và đi vào tương quan thân thiết với Dân Tộc này. Và chúng ta có thể mở rộng vấn đề lựa chọn ra hơn nữa: Tại sao Chúa không ứng xử mọi người như nhau? Tại sao Chúa lại “thiên vị” như vậy? Đặt câu hỏi này, là chúng ta đã để cho “Con Rắn” (x.St 3, 1-7), kẻ chuyên reo rắc nọc độc ghen tị, thâm nhập vào tâm hồn rồi, làm ô nhiễm, thậm chí đầu độc tâm hồn. Thiên Chúa ban ơn không như nhau, lí do đơn giản, vì đó là ơn huệ nhưng không; như người chủ nói với những người làm công: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 15).

Nhưng lí do tận cùng vẫn là mầu nhiệm Thiên Chúa là tình yêu: tình yêu chỉ có thể được bày tỏ cách hoàn hảo, không phải trong tương quan “bình đẳng” với một đám đông, như thể mọi người đều có một “khuôn mặt” như nhau, nhưng trong một tương quan thiết thân và cá vị. Và vì đó là tình yêu Thiên Chúa, chứ không phải tình yêu giới hạn và nhiều khi lệch lạc của con người, chúng ta được mời gọi xác tín rằng, cùng một tình yêu đó, tình yêu mà Chúa đã dành cho những con người cụ thế đó, Chúa cũng sẽ dành cho từng người chúng ta, một cách đích danh. Tình yêu Ngài dành cho “Người Môn Đệ Chúa thương mến” chính là lời mời gọi mỗi người chúng ta, trong thân phận, hoàn cảnh và ơn gọi riêng của mình, có cùng một kinh nghiệm là “Người được Chúa thương mến”. Và chỉ có tình yêu cá vị của Chúa dành cho từng người chúng ta, mới có thể khơi dậy tình yêu cá vị của chúng ta dành cho Chúa mà thôi.

Thực vậy, chính trong và chỉ trong tương quan thân thiết với ba chị em, mà những mặc khải lớn lao về căn tính đích thật của Chúa, về tiếng khóc cảm thương của Chúa dành cho những người đau khổ, và về sự sống mới của Chúa, được bày tỏ, không chỉ cho ba chị em, nhưng cho từng người và cho cả loài người chúng ta.

2. Đức Giêsu và Ba Chị Em

a. Căn tính đích thật của Đức Kitô

Khi Đức Giêsu đến gần nhà, thì chị Mácta liền ra đón người, còn cô em Maria thì ngồi ở nhà. Nhưng ngay sau đó cô trở về để gọi em, cách trìu mến, ra gặp Đức Giêsu: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy”. Điều này làm chúng ta nhớ lại trình thuật của thánh Luca: “Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy (Lc 10, 38-39). Nếu trong trình thuật Luca, cô Mácta vừa trách Chúa và vừa trách em: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”, thì ở đây, ngay trong biến cố đau buồn, tương quan giữa hai chị em trở nên hiệp nhất và đầm ấm hơn nhiều.

Cả hai chị em đều nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu thầy có ở đây em con đã không chết”. Câu nói này muốn nói tới khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu; nhưng nếu đặt lời nói này của hai chị em trong mặc khải mà Ngài sẽ bày tỏ với chị Mácta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”, thì sẽ mang ý nghĩa Tin Mừng sự sống: Ở đâu có sự hiện diện của Đức Giêsu, ở đó sự chết không thể ngự trị, nhưng bị đánh tan, không chỉ là sự chết thể lí, nhưng còn là bầu khí chết chóc ngự trị ở trong lòng chúng ta và ở giữa chúng ta. Hơn thế nữa, những người được Chúa thương mến thì sẽ không bị cái chết giam hãm. Thế mà, tất cả chúng ta đều được Chúa thương và tình thương này bảy tỏ nơi mầu nhiệm Thập Giá. Sau khi phục sinh, Đức Kitô sẽ ở lại mãi mãi với chúng ta, ngang qua Lời và Mình Thánh của Ngài. Xin cho chúng ta vững tin vào sự sống, dù chúng ta gặp thử thách, đang đau khổ và đang chết đi.

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và chị Mácta là cuộc gặp gỡ rất riêng tư và thân thương, nhưng lại mang tầm mức mặc khải thật lớn lao, có giá trị cho mọi thời và mọi người. Thật vậy, những gì Đức Giêsu mặc khải về căn tính của Ngài cho chị là mặc khải cho cả Giáo Hội và toàn nhân loại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”; và lời tuyên xưng đức tin của chị Mácta nơi ngôi vị của Đức Giêsu, không chỉ là lời tuyên xưng của riêng chị, nhưng là của cả Giáo Hội và của mỗi người chúng ta: Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.

b.Tiếng khóc cảm thương

Bài Tin Mừng kể về cái chết và sự hồi sinh của ông thật dài (Ga 11), với những diễn biến khá phức tạp, nhưng điều đánh động chúng ta nhất, chắc chắn là những tiếng khóc. Điều đánh động chúng ta nhất, nhưng lại là điều rất đời thường; bởi vì mỗi khi có người thân yêu qua đời, thì chung quanh người chết, có rất nhiều tiếng khóc, và đôi khi chỉ có tiếng khóc mà thôi.
– Tiếng khóc của hai người chị dành cho đứa em trai chết sớm.
– Tiếng khóc của những người đến chia buồn.
– Và nhất là tâm tình thổn thức, xao xuyến và cả tiếng khóc của chính Đức Giêsu (c.33-35).

Và chính chúng ta cũng có thể khóc khi cầu nguyện với trình thuật Tin Mừng này. Nhưng điều quan trọng hơn, là chúng ta hãy lắng nghe tiếng khóc của Đức Giêsu. Tại sao Ngài lại khóc? Trong khi, Ngài biết rõ Ngài là ai: Ngài là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ngài, dù đã chết, cũng sẽ được sống (c.25). Hơn thế nữa, Ngài cũng biết rõ Ngài sẽ làm gì: “Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (c.11). Vậy thì tại sao Ngài vẫn thổn thức, xao xuyến và rơi nước mắt?

Vì sự chết không nằm trong kế hoạch sự sống của Thiên Chúa, hay ít nhất, đau khổ và sự chết không phải là điểm chung cục. Điểm chung cục phải là sự sống bất diệt, được đón nhận trong tiếng cười và niềm vui khôn tả; đơn giản là vì Thiên Chúa là Sự Sống. Vì thế, tiếng khóc của Ngài không chỉ là tiếng khóc dành cho một mình anh Ladarô, nhưng có giá trị phổ quát và vĩnh viễn: Ngài khóc cho mọi người, mọi thời, cho những người thân yêu và cho chính chúng ta, đang đau bệnh, gặp tai họa, bị khuyết tật, đang chết đi và đã chết đi. Như thế, tiếng khóc của Đức Giêsu đem lại cho chúng ta sự an ủi và niềm hi vọng.

3. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô

Trình thuật kể về biến cố Đức Giêsu làm cho anh Ladarô sống lại, nhưng lại được đánh dấu rất rõ nét bởi hành trình đi vào cuộc Thương Khó, nghĩa là đi nộp mình chịu chết:
– Người nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!” Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Dothái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (c.7).
– Ông Tôma, gọi là Điđymô, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (c.16).

Như thế, chính khi Ngài đi cứu sống con người, lại là lúc Ngài cho đi chính sự sống của mình, để vừa bày tỏ sự thương cảm với đau khổ của chúng ta, và vừa chỉ cho chúng ta con đường băng qua sự chết để đi vào sự sống mới. Vì thế, chúng ta không thể không so sánh biến cố hồi sinh của Ladarô và mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô:

Sáng tạo thứ nhất
Lazarô chết và hồi sinh

Sáng tạo mới
Đức Kitô chết và phục sinh

– Chết do bệnh

 

 

– Hồi sinh, trước mặt mọi người, người còn đầy băng vải

– Mọi người đều nhận ra

 

 

– Chết một lần nữa

– Chết vì bị bách hại và bị hành hình bằng một phương tiện ghê rợn nhất, để đụng chạm được mọi cái chết của loài người.

– Đi vào sự sống mới, không ai chứng kiến, nhưng để lại các băng vải.

– Không ai tự mình nhận ra Đức Kitô phục sinh; Ngài cho nhận ra, người ta mới nhận ra.

– Không bao giờ chết nữa

Cả hai sáng tạo đều đến từ quyền năng sáng tạo của chính Thiên Chúa: quyền năng sáng tạo từ hư vô hay từ “hư vô sự chết”. Nhưng một bên là sáng tạo thứ nhất, và một bên là sáng tạo mới. Chính sáng tạo mới, mới là công trình sáng tạo chúng ta mong chờ, mới làm thỏa mãn lòng ước ao vô biên của loài người và của từng người chúng ta. Đó chính là ý nghĩa và tầm mức đích thật của những gì Đức Giêsu nói với cô Mácta và cũng là lý do tận cùng, mời gọi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả những người đã qua đời, nhất là những người thân yêu của chúng ta:

Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

bài liên quan mới nhất

Thứ Hai tuần V Phục Sinh: “Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy”

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng