Hằng năm, Giáo Hội Công Giáo dành ngày 14 tháng 9
Suy Tôn Thánh Giá.
Thánh Giá là ảnh tượng được tôn kính, sùng mộ, rất thân thuộc trong đời sống đạo đức của các Kitô hữu. Nhưng, dần dần vì quá quen người tín hữu có thể giảm bớt hoặc mất đi sự quan tâm. Ngay cả dấu Thánh Giá, nhiều lúc, vì ảnh hưởng của thói quen, chỉ được giáo hữu “làm dấu” qua loa lấy lệ, không còn nhớ đến ý nghĩa cao quý về hồng ân châu báu Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế để lại dưới thế trần.
Để góp phần cùng quý giáo hữu dọn lòng sốt sắng, tăng thêm tinh thần đạo đức tôn vinh Thánh Giá một cách có ý thức trọn vẹn, chúng tôi xin giới thiệu một ít học hỏi về Thánh Giá; về nghi lễ biểu dương Thánh Giá; về lễ Suy Tôn Thánh Giá; về dấu Thánh Giá và mầu nhiệm Thập Giá.
Thánh Giá
Thập giá hay cái “giá” hình chữ “thập” mang xác Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên được gọi là Thánh Giá. Ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi vào thế kỷ thứ nhất, vì biết lòng mến mộ Thánh Giá gia tăng lòng đạo đức, ảnh hưởng đến việc mở mang Kitô Giáo, các vua chúa quan quyền, từ các hoàng đế Rôma đến quan chức tại Trung Đông, đã tìm đủ mọi cách quyết xóa bỏ niềm tin vào Thánh Giá. Thập giá được dùng để thử thách, cưỡng bách người có đạo bước qua hoặc chà đạp trước khi lãnh án “tử vì đạo”.
Thâm độc nhất là hơn hai thế kỷ đầu theo niên lịch công nguyên, Kitô Giáo bị đàn áp và bách hại kịch liệt. Vua Adriano (76 – 138), khi lên ngôi hoàng đế Rôma (117 – 138) đã ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích về Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, như nơi Chúa Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng. Rồi khoảng năm 135, ông còn cho xây nhiều đền thờ bụt thần trên Mộ Thánh của Đức Kitô và tìm mọi cách chôn giấu Thánh Giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không cho giáo hữu tôn kính. Dù vậy, trong khi đó tại Giêrusalem, Giáo Hội lại đi tiên phong trong các lễ nghi và nghi thức Phụng Vụ liên quan đến Đấng Cứu Thế cũng như tôn vinh Thánh Giá.
Mãi đến thế kỷ thứ tư, thời vua Constantino (khoảng năm 270, 280 đến 337), làm hoàng đế Rôma (306 – 337), đạo Chúa mới được tự do. Sau khi nhờ phép lạ Thập Giá để được đại thắng quân xâm lăng của Maxentio, vua ban hành lệnh tự do tôn giáo, dẹp bỏ đàn áp bắt bớ Kitô Giáo. Ông trở lại đạo và bà Helena, mẹ vua, cũng trở lại đạo Công Giáo. Vì lòng kính mến Chúa Giêsu Cứu Thế và nhiệt thành sùng mộ Thánh Giá, năm 326, dù đã 80 tuổi, bà cũng thân hành qua Thánh Địa, cộng tác chặt chẽ với Đức Cha Macario, Giám Mục thành Giêrusalem, để cho tiến hành tìm các nơi Thánh, di tích sau hết của cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Nhờ các nguồn thông tin có cơ sở, bà cho xúc tiến đào bới về khảo cổ tại chân núi Calvario và đã lần lượt tìm được các di tích về Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng Chúa Giêsu trong Mộ. Thành công lớn lao nhất là tìm được ba cây Thập Giá: một của Đức Kitô và hai của hai tên trộm. Theo nghiên cứu về Thánh địa, Linh Mục Jaud cho biết: Nhờ phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối và một người đã chết được sống lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức Giám Mục Macario xác định thập giá thực trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và gọi tên là Thánh Giá.
Nghi lễ biểu dương Thánh Giá
Sự tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo Hội Giêrusalem là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio (590 – 604) đưa vào Phụng Vụ Rôma như nghi lễ Thứ sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương “Gỗ thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Ecce lignum Crucis. Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian. Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy (Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit. Venite adoremus).
Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta hãy nhớ đến ý chỉ chính của phụng vụ là tôn vinh “Gỗ thập giá” (chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giêsu).
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo Hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo Phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá”. Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo Hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531 – 579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Rôma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575 – 641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610 – 641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantino, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo Chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô”.
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo Chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Viết theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950).
Từ đó, tại Giêrusalem, Đức Giám Mục đã cử hành trọng thể lễ Suy Tôn Thánh Giá ngày 14 tháng 9 năm 629, mà sau này trở thành Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 ngày nay.
Dấu Thánh Giá
Suy tôn Thánh Giá có ý nghĩa nhất là suy gẫm và làm Dấu Thánh Giá cách sốt sắng.
Sự tích Dấu Thánh Giá như sau: Điềm đã xảy đến đem lại chiến thắng cho hoàng đế Rôma Constantino là “một dấu chỉ lạ về Thập Giá”. Khi phải tuyên chiến với quân của Maxentio xâm lược nước Ý, vua Constantino 1 (306 – 337) đã nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập giá sáng ngời” với lời phán: “Dưới dấu chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh giương cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng quân Maxentio tại chân tường Rôma, gần cầu Milvian, vào ngày 28/10/312. Vua nhìn nhận đó là “dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dep bỏ mọi hình thức bắt đạo và truyền loan “Kitô Giáo là tôn giáo chính thức của hoàng triều Rôma”.
Làm dấu Thánh Giá
Theo Phụng Vụ, Thánh Giá được tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương.
Thông thường, khi làm Dấu Thánh Giá trên mình, Kitô hữu đọc kinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”/ Nhưng vẫn có nhiều trường hợp làm Dấu Thánh Giá mà không đọc Kinh Dấu Thánh Giá, như trong Thánh Lễ với câu: “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, và sau Kinh cáo mình: “Xin Thiên Chúa toàn năng...” Hoặc, trước khi đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc Phó Tế làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin Mừng, rồi làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên trán, trên môi miệng và trên ngực.
Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng tôi – Deus in adjutorium nostrum intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”, “Benedictus”, hay “Nunc Dimitis”, hoặc làm một Dấu Thánh Giá nhỏ trên môi khi đọc: “Lạy Chúa xin mở môi con ra – Domine labia mea aperies”.
Trong Giáo Hội Chính Thống Giáo, việc làm Dấu Thánh Giá được thực hiện nghiêm chỉnh bằng “bàn tay phải với ba ngón tay “ngón trỏ, ngón chỉ và ngón giữa” tụm lại, tiêu biểu niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa; còn hai ngón đeo nhẫn và ngón út thì sát vào nhau, để chỉ sự kết hợp của “thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu”.
Mầu nhiệm Thánh Giá
Giáo huấn của Hội Thánh rất phong phú về Suy Tôn Thánh Giá. Theo hướng dẫn của Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, suy tôn Thánh Giá chính là:
1. Minh chứng Đức Tin qua gương Mẹ Maria. “Khi chứng kiến Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, Đức Tin của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại” (Giáo Lý 149).
2. Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa, như được ghi trong Sách Công Vụ Tông Đồ: “Khi nói cùng toàn thể nhà Ítraen, Phêrô quả quyết: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập giá thì Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài là Chúa và là Đức Kitô” (Cv 2, 36; Giáo Lý 440).
3. Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ: “Chúa Kitô bị treo trên Thập Giá thu hút mọi người đến với Ngài” (Ga 12, 32; Giáo Lý 160), “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau” (Giáo Lý 542).
4. Tuyên rao Nước Chúa trị đến, như lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá “Vexilla Regis” Thứ Sáu Tuần Thánh ghi lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà Nước Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát...Thiên Chúa đã cai trị từ trên cây gỗ này” (Giáo Lý 550).
5. Thánh Giá là bằng chứng Chúa Giêsu tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước Trời. Thánh Phaolô Tông Đồ nói: “Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và báo trước việc Chúa lên Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực chúng ta” (Dt 9, 24; Giáo Lý 662).
Công Đồng Vaticano 2 (1962 – 1965) khai triển Suy Tôn Thánh Giá hướng đến:
Mầu nhiệm Phục Sinh. “Sau khi chịu chết trên Thập giá, Đức Kitô đã phục sinh” (GH). “Nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian đã được giải thoát” (MV, 2).
Thánh Lễ: Mỗi lần hy tế Thập Giá được cử hành trên bàn thờ, Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế” (1Cr 5, 7) thì công trình cứu chuộc được thực hiện” (GH, 3).
Ơn cứu độ. “Nhờ Người đã hoàn tất công trình cứu chuộc trên Thập Giá, mang lại cho con người ơn cứu độ và tự do” (TD, 11).
Hòa giải. “Đức Kitô đã hòa giải con người với Chúa Cha bằng Thập Giá” (MV, 78).
Vác Thánh Giá theo chân Chúa Giêsu. “Tưởng niệm Thập Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô, tín hữu vác Thập Giá bước theo Chúa Giêsu” (TĐ, 4; GH, 41).
Ghi chú các chữ tắt: GH = Hiến chế Tín lý về Giáo Hội; MV = Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay; TD = Tuyên ngôn về Tự Do tôn giáo.
Nguồn: tinmung.net