Các bài suy niệm Chúa Nhật XXVI Thường niên, năm B

Lời Chúa: Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48


MỤC LỤC

  1. Làm cớ sa ngã. 4
  2. Không chống là ủng hộ. 7
  3. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi. 10
  4. Phải cố gắng. 12
  5. Đừng làm gương xấu. 19
  6. Đừng bao giờ là cớ vấp phạm.. 22
  7. Quyền nhân danh Chúa. 26
  8. Đừng ngăn cấm.. 28
  9. Ðể trở nên môn đệ đích thực. 31
  10. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 36
  11. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 41
  12. Óc bè phái, cục bộ. 45
  13. Bỏ đi và cho đi 58
  14. Bạn & Thù. 64
  15. Diệt trừ gương xấu. 68
  16. Khổ chế với bản thân. 71
  17. Ảnh hưởng gương xấu. 73
  18. Hãy yêu như Giêsu. 76
  19. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 79
  20. Dân ngoại 82
  21. Ngăn cấm.. 86
  22. Cân nhắc. 88
  23. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 91
  24. Tránh gương xấu và dịp tội 95
  25. Gương xấu và dịp tội 108
  26. Tinh thần đại kết 111
  27. Gương mù gương xấu. 116
  28. Chặt tay. 119
  29. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 121
  30. Sống bác ái và làm gương tốt 123
  31. Óc bè phái. 128
  32. Tinh thần cởi mở. 130
  33. Nạn độc quyền. 134
  34. Cùng nhau rao truyền chân lý. 138
  35. Nhân ái trong thực hành. 141
  36. Sống theo Thần Khí 144
  37. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 148
  38. Giải phẫu. 154
  39. Lời cảnh báo. 157
  40. Hãy tránh xa dịp tội 161
  41. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 165
  42. Một dân tộc ngôn sứ. 169
  43. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 172
  44. Mẹ của sự khám phá. 175
  45. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 178
  46. Tinh thần đại kết 181
  47. Nghiêm luật 186
  48. Nhỏ mà to. 192
  49. Chặt tay bạn đi 200
  50. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 202
  51. Dịp tội 205
  52. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 208
  53. Nhân danh. 215
  54. Chiến hữu của Thiên Chúa. 217
  55. Gương mù. 219
  56. Một ly nước lã. 222
  57. Bắt ông ấy chịu trách nhiệm.. 226
  58. Ghen tức. 228
  59. Phe này cánh nọ. 231
  60. Dịp tội 237
  61. Lời khuyên. 240
  62. Tảng đá. 243
  63. Hướng tâm hồn lên. 246
  64. Lên án. 250
  65. Hiệp thông để làm sáng danh Chúa. 252
  66. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 254
  67. Chiêm ngắm bức tranh 3 mầu. 258
  68. Óc ganh tỵ. 261
  69. Thuận hay chống. 264
  70. Dứt khoát không chớp nhoáng. 267
  71. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 270
  72. Lý trí và đức tin. 277
  73. Hãy tránh xa dịp tội 279
  74. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 283
  75. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 287
  76. Tin Mừng dữ dội 290
  77. Cái giá người môn đệ phải trả. 295
  78. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 299
  79. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 302
  80. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 313
  81. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 317
  82. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ. 320
  83. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 328
  84. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 332
  85. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 338
  86. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 346
  87. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 362
  88. Sống yêu thương hiệp nhất 371
  89. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 374
  90. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 376
  91. Chúa Nhật 26 Thường Niên. 380
  92. Tránh xa dịp tội 384

1.Làm cớ sa ngã

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Chúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương xấu.

Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền thông, tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.

Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu, khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng.

Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ này: “… thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.”

Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu thất vọng. Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.

Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã. Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan, không biết hạn chế tự do của mình, nên đã làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.

Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã, nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.

Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội.

Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen (nếu thế thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!). Nhưng chúng ta lại không được coi thường tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.

Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên nếu thấy có người dám chịu cắt bỏ một phần thân thể hầu cứu lấy sinh mạng của mình.

Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý để giữ lại một điều quý hơn.

Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất, người ấy mới dám hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt, nhưng nay lại thành vật cản trở.

Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta, nhưng nay đã trở thành vật cản trở. Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn tuyệt.

Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau. Bỏ một tật xấu, một thói quen, một kế hoạch có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt tay.

Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau, chúng ta sẽ được tự do thanh thoát.

Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn. Giải phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế: thay ước muốn nơi trái tim, thay lối nghĩ nơi bộ óc, thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi tay.

Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.

Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương đối.

Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa vời, và dứt khoát chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ hôm nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương xấu đó đã tác hại thế nào trên giới trẻ?

Bạn có kinh nghiệm gì về việc “chặt bỏ” một tật xấu, một thói quen, hay việc “cắt đứt” một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen. 

2.      Không chống là ủng hộ

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Con người thích liên kết với nhau thành nhóm,

khi có chung một ngành nghề, một sở thích, một lý tưởng…

Các quốc gia cũng thích lập những liên minh

để giúp nhau bảo vệ lợi ích của đất nước mình.

Khi có những người gắn bó với nhau trong một nhóm

thì tự nhiên có những người đứng ngoài nhóm đó.

Ta dễ coi những ai ở ngoài nhóm là người xa lạ.

Ông Gioan và cả Nhóm Mười Hai thật sự không vui

khi thấy có một người lấy danh Thầy Giêsu mà trừ quỷ.

Họ khó chịu vì tại sao người này dám làm như vậy.

Chỉ ai ở trong nhóm của Thầy Giêsu mới có quyền đó.

Bởi thế họ đã cấm anh ta và mách với Thầy chuyện này.

Thầy Giêsu hiểu nỗi ấm ức của cả Nhóm,

nhưng Thầy coi đây là một cơ hội để giúp họ mở lòng.

Các ông chỉ thấy anh trừ quỷ là người ở ngoài Nhóm,

nhưng họ lại không thấy anh này có sự gắn bó với Thầy.

Anh ấy đã tin vào sức mạnh của Danh Giêsu trên ma quỷ,

và đã thành công trong việc trừ quỷ cho người ta,

điều mà trước đây chín môn đệ không làm được (Mc 9,18).

Thầy Giêsu bảo các môn đệ cứ để anh ta yên.

Anh ấy không phải là kẻ thù, nói xấu chống lại Thầy.

Anh ấy là bạn của cả Nhóm, dù không ở trong Nhóm.

Thầy Giêsu đã phá vỡ nơi trái tim của các môn đệ

những hẹp hòi, độc quyền, những tự hào kiêu hãnh.

Thầy mở họ ra trước một thế giới bạn bè đông vô kể.

Có bao người không phải là kitô hữu hay công giáo

mà vẫn làm được những điều tốt đẹp lớn lao

nhờ được Thánh Thần Chúa âm thầm ban ơn soi sáng.

Chúng ta phải coi những người ấy là bạn.

Có người ngoài Nhóm trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu,

cũng có người ngoài cho anh em uống một chén nước,

vì anh em thuộc về Đấng Kitô, vì anh em là kitô hữu.

Đức Giêsu nói người ấy sẽ được Thiên Chúa thưởng.

Như thế có nhiều người tốt ở ngoài Công giáo.

Ta sẽ gặp lại họ trên thiên đàng,

những người này được thưởng vì họ đã gắn bó với Giêsu,

theo những cách thức mà chính họ không hề biết.

Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những người bé nhỏ.

Họ là những người không có vai vế hay học thức cao.

Họ dễ bị lôi kéo, bị tổn thương hay bị quên lãng.

Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến họ.

Ngài đòi không ai được khinh những người bé nhỏ,

vì họ cũng có thiên thần riêng của mình (Mt 18,10).

Ngài mời mọi người đón tiếp trẻ nhỏ (Mc 9,37),

và cho những người anh em bé nhỏ nhất của ngài

được ăn uống viếng thăm, được ân cần săn sóc (Mt 25).

Chính thái độ này sẽ định đoạt cuộc sống vĩnh hằng,

sẽ khiến họ được Chúa cho đứng bên hữu hay bên tả.

Đức Giêsu còn mạnh mẽ bảo vệ người bé nhỏ.

Không ai được làm cớ cho một người bé nhỏ vấp ngã,

nghĩa là làm họ mất đức tin hay phạm tội (Mc 9,42).

Người gây cớ sẽ phải chịu hình phạt rất nặng nề,

vì đã làm một người yếu đuối mất ơn cứu độ.

Thầy Giêsu mở rộng tầm nhìn của Nhóm Mười Hai,

để họ thấy những người ở ngoài và tín hữu ở trong,

những người đang làm phép lạ và đang cho họ ly nước,

những thiểu số bị phân biệt đối xử trong cộng đoàn.

Nhóm Mười Hai sẽ là những người lãnh đạo Giáo Hội.

Thầy mời họ đón nhận và không loại trừ một ai,

để vòng tay Giáo Hội mở ra đến vô cùng,

để từ bây giờ, mọi người đã bắt đầu vào Nước Thiên Chúa.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa là Cha của gia đình nhân loại,

Chúa đã sáng tạo mọi người bình đẳng về nhân phẩm.

Xin hãy đổ vào lòng chúng con tình huynh đệ,

và gợi lên nơi chúng con ước mơ làm mới lại

các cuộc gặp gỡ, đối thoại, công lý và hòa bình.

Xin hãy thúc đẩy chúng con tạo ra

những cộng đồng lành mạnh hơn,

và một thế giới cao quý hơn,

thế giới không có đói nghèo, chiến tranh hay bạo lực.

Xin cho trái tim của chúng con mở ra

trước mọi dân tộc và quốc gia trên mặt đất.

Xin giúp chúng con nhận ra sự thiện mỹ

mà Chúa đã gieo nơi lòng từng người chúng con,

nhờ đó chúng con rèn đúc mối dây hiệp nhất,

chia sẻ những dự án và những giấc mơ chung. Amen.

Đức Thánh Cha Phanxicô

 

3.      Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi.

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.

Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.

Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng.

Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.

Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.

Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.

 

4.      Phải cố gắng

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Các bài Thánh Kinh hôm nay không quy về một mối. Người ta thấy có nhiều điểm giáo huấn khác nhau. Nguyên bài Tin Mừng cũng đã nêu ra nhiều điều không liên ý. Tuy nhiên nếu nhìn vào chỗ giống nhau trong bài Cựu Ước và bài Tin Mừng, chúng ta có thể thấy Lời Chúa dường như muốn giáo huấn chúng ta về các tương quan đạo đức ở trong xã hội. Dân Chúa nhiều khi cũng khó: không những nội bộ có khi không được vui vẻ; mà đối ngoại nhiều lần cũng không rộng rãi. Huấn giáo của Chúa nhật hôm nay vì thế có tính cách thực hành và gợi lên nhiều điểm khác nhau. Chúng ta lần lượt thông qua những điều chính yếu.

  1. Toàn Dân Thiên Chúa Có Ðặc Sủng Tiên Tri

Bài sách Dân số cho chúng ta thấy những khó khăn trong cộng đồng Israel, mà cộng đồng Dân Chúa ngày nay cũng khó thoát khỏi. Môsê hồi đó mới đưa dân ra khỏi Aicập. Công lao của ông thật lớn vì giúp dân thoát được cảnh tôi đòi. Mặc dầu Ðất Hứa còn xa, nhưng kẻ thù cũng đã thoái lui, không nghĩ đến việc đuổi theo dân bị trị ngày trước nữa. Ðáng lẽ những người này phải nhất trí với người lãnh đạo của mình để vượt thắng những khó khăn hiện tại, nhưng đáng tiếc là họ chỉ muốn được hạnh phúc tức khắc. Họ bắt đầu phàn nàn, kêu trách vì cuộc hành trình về Ðất Hứa xem ra còn dài, và nhất là vì thiếu thốn những thức ăn mỹ vị của những đô thị trù phú. Họ nhớ bánh nhớ thịt. Họ làm Môsê phải điên đầu vì các yêu sách khẩn trương của họ. Ông nản chí, đến đập đầu trước mặt Chúa. Ông không thể một mình đảm đang dân khó tính này nữa. Dưới ông cũng có các bô lão đứng đầu các chi tộc; nhưng họ chẳng biết làm gì và cũng chẳng giúp được gì, ngoại trừ việc còn làm khổ ông, khi phóng đại các yêu sách và phàn nàn của dân. Môsê muốn trả gánh nặng lãnh đạo cho Chúa.

Chúa an ủi ông. Không những hứa sẽ ban thịt và bánh cho dân, Người còn bảo sẽ thêm cho ông những cộng sự viên đắc lực. Ông hãy chọn lấy 70 người trong hành bô lão để chính Chúa sẽ lấy một phần thần trí của ông mà san sẻ cho họ; và như vậy họ sẽ chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo với ông.

Lời sách Dân số thật là ý nghĩa. Nó làm vọng lại một thời đại đã khá văn minh với những quan niệm chính trị khá độc đáo. Tất cả trong dân Cựu Ước vẫn thuộc thần quyền, tức là lấy Chúa làm nền tảng. Người trị dân bằng vị tiên tri của Người là Môsê. Nhưng ông phải có những cộng sự viên là bậc bô lão. Họ phải nhất trí với ông, vì cơ sở giá trị của họ là phần thần trí của ông mà họ đã nhận được, tức là phần trách nhiệm và khôn ngoan mà Thiên Chúa đã lấy nơi ông mà san sẻ cho họ.

Những lời tiếp theo trong sách Dân số lại còn ý nghĩa hơn nữa. Nhận được thần trí của Môsê rồi, các bậc bô lão kia đều “nói tiên tri” tức là đều xuất thần và nói lên những lời ca tụng Chúa, giống như các Tông đồ trong buổi lễ Thánh Thần Hiện Xuống. Sự kiện này có ý khẳng định: các bậc lãnh đạo Dân Chúa đều được đầy Thánh Thần. Giá trị và uy tín của họ nằm ở chỗ đó. Ngày họ nhậm chức là lúc họ được Thánh Thần chiếu cố và chiếm hữu. Nhưng lập tức, sách Dân số viết ngay: sự kiện “nói tiên tri” này không tiếp tục, tức là sau đó các bô lão kia không “xuất thần” nữa. Cũng như các Tông đồ của đạo mới cũng sẽ không luôn mãi “say ơn Thánh Thần”, để cho dù dân Chúa được lãnh đạo bằng “thần quyền” những vẫn nhờ các con người và qua các con người.

Yếu tố nhân loại này không đợi thời gian để bộc lộ. Sách Dân số kể: có hai người trong danh sách Bô lão được Môsê đề nghị đã không đến dự hội. Nhưng họ vẫn được ơn nói tiên tri tại lều của họ. Những người khác bất mãn muốn chấm dứt nhiệm vụ củ hai kẻ “đánh mảnh” này. Nhưng Môsê đã tỏ ra phi thường khi tuyên bố: “Tôi còn ao ước cho toàn dân được ơn tiên tri là khác”.

Và bài sách Dân số hôm nay đã chấm dứt ở đây để chúng ta còn nhớ khuôn mặt cao cả của Môsê và để lời ông nói vọng tới các thế hệ như một nguyện ước cần được thực hiện. Chúng ta như quên những khó khăn trong nội bộ dân Chúa cũng như thái độ nhỏ mọn của hàng bô lão, để chỉ còn hướng về tương lai, muốn thấy ngày Thần trí của Thiên Chúa chan hòa đổ xuống trên toàn dân của Người. Ngày đó dĩ nhiên đã đến khi Ðức Yêsu đã lên trời và ban Thánh Thần xuống cho Hội Thánh. Nhưng dân mới của Chúa được đầy Thánh Thần có bỏ được những thái độ nhỏ mọn và lướt thắng được những khó khăn trước mắt không?

  1. Dân Chúng Còn Phải Cố Gắng

Thánh Marcô đã mượn lại một câu truyện xảy ra khi Ðức Yêsu còn tại thế để Hội Thánh suy nghĩ. Người kể: hôm ấy Yoan đến thưa Chúa về việc có người không ở trong hàng ngũ môn đệ mà cứ lấy Danh mà trừ quỷ. Và các môn đệ muốn xin Chúa cấm hẳn người ấy làm như vậy.

Câu truyện có vẻ hơi giống thời Môsê như sách Dân số đã kể. Nó cũng nói lên tham vọng của một số người ở trong dân Chúa muốn có những đặc quyền và độc quyền, kể cả quyền trừ quỷ. Không hiểu sao thánh Marcô lại nêu rõ tên tông đồ Yoan trong câu truyện này. Bản chất của người tông đồ Chúa yêu đâu có như vậy, ít là như chúng ta nghĩ. Hay là ở đây tác giả Marcô có ý nói đến người Tông đồ đã sống già nhất và còn sót lại sau khi mọi vị khác đã qua đời? Và như vậy đã có ngụ ý rằng thái độ muốn độc quyền này nằm trong hàng ngũ những bậc lãnh đạo dân Chúa?

Ðó là thái độ vô lý. Vì tại sao lại cấm người ta trừ quỷ? Ðây không phải là nhiệm vụ chung của dân Chúa sao? Sứ mệnh của Hội Thánh và lý do tồn tại của dân mới, tựu trung chỉ là dẹp sức mạnh của Satan đi để Nước Chúa được lan rộng. Ai có thể làm được công việc này, nếu không kết hợp với Ðức Kitô là Ðấng duy nhất đã chiến thắng được ma quỷ? Và thấy những người như vậy các người có sứ mệnh cứu thế phải nhận ra ngay họ là đồng nghiệp của mình. Chứ cớ sao lại muốn ngăn cấm họ?

Thánh Marcô muốn chống lại một thái độ như thế. Người nhắc cho Hội Thánh lời Ðức Yêsu: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” để con cái Hội Thánh biết quý chuộng và cộng tác với mọi người có thiện chí trên mặt đất này cho dù họ không ở trong hàng ngũ của Hội Thánh và chia sẻ hoàn toàn niềm tin của Hội Thánh. Nếu chúng ta hiểu được bài học như thế, thì bài Tin Mừng hôm nay cũng đã quý hóa lắm rồi. Nhưng không phải chỉ có như vậy. Thánh Marcô còn lưu ý chúng ta đừng quên ơn những người cho chúng ta uống một bát nước vì họ biết chúng ta là người của Chúa… Và nhất là các tín hữu hãy luôn nhớ vinh dự của mình. Khốn cho những ai làm hư ơn gọi của một tín hữu! Khốn cho những kẻ để tay hoặc chân hoặc mắt làm dơ nhớp linh hồn mình. Phải gìn giữ ơn gọi bằng sự tu thân như người ta dùng muối để xát các vật hy sinh. Nếu muối ra nhạt, tức là nếu lơ là việc hãm mình, con người tín hữu sẽ không còn là lễ hy sinh nữa. Và sự hy sinh mà bài Tin Mừng muốn nhắn nhủ hôm nay là sự kềm chế tham vọng độc quyền và đặc quyền để mọi người “sống an hòa với nhau”.

Như vậy, dù thuộc những thời đại xa nhau và khác nhau, bài sách Dân số và bài Tin Mừng Marcô dường như cùng nhắm giáo dục chúng ta về thái độ bao dung, cộng tác với mọi người. Nhưng viễn tượng của hai bài rất khác nhau. Ở thời Môsê rất ít người được “đặc sủng” và ơn họ nhận được chỉ là một phần thần trí lãnh đạo của ông. Chính ông lại hướng mắt nhìn về thời toàn thể dân Chúa được tràn đầy Thánh Thần. Theo Marcô, chúng ta còn phải có viễn tượng rộng hơn nữa. Không những dân Chúa đã được dư đầy Thánh Thần và ơn của Người thật là mạnh mẽ vì xua trừ được ma quỷ. Chính Danh Ðức Yêsu đã đem lại sự kiện mới mẻ này. Nhưng đừng giới hạn ảnh hưởng của Người nơi nguyên các phần tử trong Hội Thánh – huống nữa là chỉ nơi những người lãnh đạo trong Giáo hội – Thánh Thần đã được đổ xuống chan hòa trong vũ trụ. Chúng ta phải quý chuộng và cộng tác với mọi tâm hồn thiện chí đang làm việc trong kế hoạch cứu thế mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và đừng ai làm hư hỏng ơn gọi Kitô hữu cao cả của mình khi không biết hãm dẹp các dục vọng như xát muối vào các vật hy sinh. Chúng ta cứ suy nghĩ thêm để thấy giáo huấn phụng vụ hôm nay rất phong phú và thực tế, đang khi bài thư Yacôbê lại đưa chúng ta sang một mặt khác trong đời sống xã hội.

  1. Dân Chúa Phải Coi Chừng Của Cải

Dân Chúa mạnh mẽ vì có ơn Thánh Thần phong phú chứ không nhờ sự phong phú về của cải. Hơn nữa, Hội Thánh phải luôn nhớ lời Ðức Yêsu dạy: khốn cho kẻ giàu có. Hôm nay thánh Yacôbê nói với “12 chi tộc kiều ngụ tha phương”, tức là với những người Kitô hữu gốc Dothái tản mác ở mọi nơi. Ða số họ biết làm ăn và giàu có. Người bảo họ: “Khóc đi, rú lên, vì những khốn khó sắp giáng xuống trên các ngươi”. Không phải người nhìn thấy những nguy hiểm cụ thể và vật chất nào sắp ập đến trên họ. Lời của người lặp lại hoàn toàn lời các tiên tri và phát xuất từ quan điểm đức tin và đạo đức. Hết mọi tiên tri đều đã cảnh cáo bọn giàu có. Hạng người này cậy của, không những ít giữ đạo mà còn nhờ thế đàn áp bóc lột người nghèo khó và phạm những tội tầy đình… Thánh Yacôbê nói rằng: của cải đã làm họ hư hỏng thối nát, khác nào mối mọt làm hư áo quần và sét rỉ ăn hại đồ đạc. Như vậy, tích trữ của cải nào có khác gì tích trữ lý hình cho ngày cánh chung.

Ðàng khác muốn tích trữ của cải, người giàu có phải quịt hay giữ công thợ, khiến tiếng kêu ca của những người này thấu đến tai Chúa, như tiếng oan ức của Abel ngày xưa khi bị anh là Cain giết chết. Gợi ý tưởng này lên, thánh Yacôbê dứt khoát coi hạng người giàu có là kẻ sát nhân. Người nói: “Các ngươi đã sung sướng, hưởng lạc… trong ngày hạ sát”, tức là trên mồ hôi xương máu của người nghèo hay là đang khi người này đau khổ. Và người tiếp theo: “Các ngươi đã kết án và hạ sát người công chính” để nói lên quan điểm của người cũng là quan điểm của đức tin, thường vẫn coi người nghèo khó là thành phần công chính. Và tư tưởng này dẫn đến kết luận xa hơn, đồng hóa với Ðấng Công Chính là Ðức Yêsu cứu thế, Người đã sinh ra khó nghèo và bị các kẻ có thế lực bấy giờ bắt bớ “mà không cưỡng lại”.

Bài học của thư Yacôbê vì thế đã mở sang chân trời mới tích cực hơn. Không những người ta phải coi chừng của cải; mà hơn nữa còn phải biết nhận ra Ðức Yêsu nơi những người khó nghèo và phải ăn ở khó nghèo như Người.

Và nếu được phép đúc kết các bài đọc của Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể nói phụng vụ Chúa nhật này cảnh cáo mọi người về nguy cơ của quyền và tiền. Người đời cho đó là sức mạnh. Nhưng đức tin lại bảo: sức mạnh đích thực là Thánh Thần được Thiên Chúa ban cho Hội Thánh và mọi người.

Giờ đây qua mầu nhiệm bàn thờ, chúng ta được tuôn đổ ơn cao cả đó để trong đời sống chúng ta không còn hẹp hòi ích kỷ muốn được đặc quyền hay độc quyền, hoặc tệ hơn còn muốn cậy tiền của kèn cựa với người khác…; nhưng sẽ muốn cho cả dân Chúa và xã hội loài người được dư dật ơn thiêng và sống trong hạnh phúc bình an. Có như vậy, chúng ta mới tỏ ra đã lãnh hội được giáo huấn của Chúa nhật hôm nay.

 

5.      Đừng làm gương xấu

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Giữa cuộc sống rất nhiều gương mù gương xấu, rất nhiều cảm dỗ và những dịp tội, chúng ta dễ bị chơi vơi, lao đảo, không làm chủ được chính mình. Bên cạnh đó, chúng ta thường có những thói quen không tốt như chửi thề, chửi tục, nói hành nói xấu, cãi vã, ẫu đả lẫn nhau, ăn gian nói dối, hay nhậu nhẹt rượu chè bê bết… Vì thói quen nên quen thói hay vấp phạm. Theo lẽ thường thói xấu lan đi rất nhanh, làm theo rất dễ; còn gương tốt chẳng mấy ai noi và làm theo. Cụ thể, ngày nay nạn nói tục tiểu tràng lan từ thiếu nhi đến ông già, từ người trí thức đến thường dân. Cái này ai bày, ai bảo đâu ấy thế mà người ta nói không biết dơ cái miệng, mất nhân cách. Trong khi đó, nhân nghĩa lễ trí tín hay tiên học lễ hậu học văn, người ta được dạy, được học học nữa học mãi mà không lan truyền nhanh, mấy ai ý thức! Nói đâu xa, ngay trong Hội Thánh hay chính trong gia đình, giáo xứ cũng có kẻ gây gương xấu, khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng. Chẳng hạn, có một số anh chị em giáo dân hay tu sĩ đang lễ, rút điện thoại nhắn tin, thậm chí nói chuyện dù chỉ vài dây. Hay đang lúc cha giảng hoặc đang lúc dâng lễ mà chúng ta vẫn tự nhiên nói chuyện thời sự, chuyện gia đình dù một câu hai câu.

Đức Giêsu hôm nay tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ làm gương mù gương xấu, Ngài kịch liệt phản đối và dạy bảo đừng bao giờ làm điều ấy vì hành động gây tại hại và nguy hiểm không chỉ cho mình và cho cả người khác. Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9,42).

Gương mù gương xấu là gì? Đó là lời nói hành động và việc làm của ta gây thiệt hại cho linh hồn người khác. Đó không chỉ là lỗi của mình mà làm cớ cho người khác vấp phạm nữa. Nhìn vào đời sống thường nhật, chúng ta dễ dàng thấy không thiếu những lần chúng ta làm cớ cho người khác vấp phạm. Chẳng hạn, khi chúng ta cư xử tệ hại hay bất công với tha nhân, khi chúng ta sống thiếu bác ái, khi chúng ta ganh tỵ, tranh dành hơn thua, khi chúng ta lười biếng trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hay khi chúng ta có óc chia bè chia phái… Chúng những cớ và những trở ngại ngăn lối bít đường không cho người khác nên thánh thiện và đến được Nước Trời.

Mỗi người đều có Thiên Chúa ngự trị ở giữa tâm hồn, có chân lý tình yêu Ba Ngôi và Lời Chúa thúc đẩy giúp chúng ta sống đúng nhân cách Kitô hữu và xứng đáng là con cái sự sáng. Chúa Giêsu kết án nặng nề đối với những ai sống trong dịp tội và tội lỗi. Dịp tội là gì? Chắc ai cũng biết, là những dịp có thể khiến chúng ta phạm tội. Trong cuộc sống có biết bao nhiêu là dịp tội. Chỉ cần xét mình trong Kinh Bảy Mối Tội Đầu thôi cũng đủ thấy mình yếu đuối dễ vấp phạm. Nếu sống hà tiện, tôi dễ lỗi đức bác ái. Nếu sống kiêu căng, tự đắc, tôi dễ lỗi đức khiêm nhường. Nếu ham muốn dục nhục, tôi dễ lỗi điều răn thứ sáu, mê dâm dục. Nếu hay hờn giận, tôi dễ thù hận người ta. Nếu mê ăn mê uống, tôi dễ ham tiền, ham danh, ham lợi mà chèn ép người ta. Nếu ghen ghét, tôi dễ gây thù hận, chiến tranh, khủng bố. Nếu tôi lười biếng việc Đức Chúa Trời, tôi dễ làm tôi cho tội lỗi, mất linh hồn.

Các nhà luân lý phân ra hai loại dịp tội: dịp tội gần và dịp tội xa. Dịp tội gần tức là những dịp nếu gặp hầu như chắc chắn phạm tôi ngay. Ví dụ, người ghiền ma túy, hay bài bạc khi tới chỗ hết tiền, phần cơn ghiện lên cơn, sẽ đi cắp tiền, cắp bạc… nếu lấy không được có thể cướp dật hay giết người. Còn dịp tội xa là những dịp có gặp nhưng ít phạm tội. Chẳng hạn, một đồ vật quý giá hay tiền, vàng… để hở hênh, tôi có thể lấy hoặc không lấy.

Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu thất vọng. Các hội đoàn trong giáo xứ chia bè chia phái khiến nhiều người mất niềm tin. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay xin cho mọi người chúng ta biết để ý đến lời ăn tiếng nói và các việc xấu chúng ta thường vấp phạm trước mặt anh chị em nhất là nơi những người trong gia đình, trong giáo khóm, giáo xứ.

Xin Chúa giúp sức và thánh hóa chúng con hầu chúng con sẽ sống xứng đáng là con cái của Chúa, đồng thời thực thi những gương sáng, gương tốt hầu lôi kéo nhiều người trở về sống trong Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi vì “lời nói lung lay gương bày lôi kéo”. Xin Chúa giúp chúng con biết lánh xa những dịp tội hầu giúp lôi kéo những người khác khỏi những hố sâu của những đam mê tội lỗi. Amen.

 

6.      Đừng bao giờ là cớ vấp phạm

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), là bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37). Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn các ông về cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42); đồng thời Chúa nhấn mạnh đến sự cần phải khước từ những gì gây lên tội lỗi khiến chúng ta mất chỗ trên Nước Trời (x. Mc 9, 43-48).

Chớ ghen ghét

Ghen ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu. Lần giở lại những trang đầu Kinh Thánh, chúng ta khám phá ra thói ghen ghét. Vì không bằng lòng với những gì mình có, muốn bằng và thậm trí hơn Thiên Chúa nữa, nên Adong và Evà ghen tuông với Thiên Chúa hái trái cấm để ăn. Thế nhưng, ăn xong rồi thì mọi sự được sáng tỏ. Con người mãi mãi là thụ tạo trong lòng bàn tay của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa.

Ghen ghét nảy sinh khi so sánh mình với người khác. Sở dĩ có ghen ghét vì người ta người khác hơn mình, mình bị nép vế, bị mất ảnh hưởng, Giôsuê là một bằng chứng. Khi ông Môsê được thần khí của Thiên Chúa ngự xuống nói chuyện, thì ông dùng một phần thần khí ngự trên ông mà đặt trên 72 kì mục trong lều trại. Còn hai kì mục nữa là ông Enđát và ông Mêđát không có mặt ở trong lều trại mà cũng nhận được thần khí nói tiên tri (x. Ds 11,27). Ðiều đó làm ông Giôsuê thắc mắc. Ông Môsê khuyên ông Giôsuê đừng quan tâm, vì càng nhiều người nói tiên tri, thì Thiên Chúa càng được vinh danh.

Thánh Giacôbê có kinh nghiệm xương máu về tôi ghen ghét, ngài viết: Vậy “ở đâu có ghanh tị và cãi vã, ơ đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoa… Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ” (x. Gc 3, 16-4,3).

Thánh Gioan tông đồ cũng không nằm ngoài cái thường tình ấy. Ông quan ngại về việc Ðức Giêsu ban quyền năng cho người nghe. Ông ghen tị vì có người không cùng nhóm các tông đồ đã dùng danh Chúa mà trừ quỉ (x. Mc 9,38). Ông nghĩ rằng họ không được phép vì họ không thuộc nhóm các tông đồ mà lại hành động theo thần trí của Thiên Chúa. Chúa bảo ông: “Không ai lấy danh nghĩa Thày mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó có thể nói xấu về Thày” (Mc 9,39).

Quảng đại, hy sinh vì Nước Trời

Người đời thường có óc bè phái, ích kỷ, bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”. Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn người khác bằng cặp mắt đố kỵ, nhưng hợp tác với những người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con” (x. Mc 9, 40 ).

Nước Trời và sự sống đời đời là mục tiêu tối hậu. Chúng ta thấy đó đây có người tháo chân, móc mắt, cắt ruột để kéo dài sự sống tạm bợ, xem ra nhẹ nhàng. Để có được sự sống đời đời, chúng ta phải chấp nhận hy sinh nhiều thứ khác, từ bỏ hy sinh những gì cản trở sống đời đời của chúng ta.

 Tay, chân, mắt là những bộ phận rất quan trọng trong cơ thể không thể thiếu để có một đời sống bình thường, tuy nhiên, chúng có thể trở thành duyên cớ cho ta vấp phạm, sa ngã đưa chúng ta vào cõi chết đời đời. Chặt tay, chặt chân hay móc mắt là những điều kinh khủng, gây đau đớn. Bị què tay, què chân hay chột mắt ở đời này là điều chẳng ai muốn. Nhưng Chúa Giêsu mời chúng ta nghĩ đến giá trị của đời sống vĩnh cửu, can đảm cắt bỏ với những thụ tạo đang làm hư hỏng ta chẳng những đời này mà cả đời sau nữa. Chúng ta phải can đảm, quảng đại sống cho giá trị của Tin Mừng, dẫu cho có thiệt thòi, mất mát những vinh hoa trần thế, nhưng có được chỗ đứng trong vương quốc của Thiên Chúa.

Đừng là cớ vấp phạm

Sống yêu thương, quảng đại, hy sinh vì Nước Trời, nên ngay ở đời này chúng ta phải sống tốt, sống gương mẫu, đừng làm cớ vấp phạm cho ai. Nhấn mạnh đến điều này, Đức Thánh Cha Phanxicô giảng trong thánh lễ sáng thứ năm 27 tháng 2 năm 2014 tại Nhà nguyện Mácta, ngài nói: “Người Kitô hữu bất nhất sẽ làm cớ vấp phạm, và cớ vấp phạm thì giết hại người khác”

Mang danh là Kitô hữu, thì cần phải sống như Kitô hữu, suy nghĩ như Kitô hữu, cảm nhận như Kitô hữu và hành động như Kitô hữu. Đó là sự thống nhất trong đời sống của một Kitô hữu, nếu thiếu một trong những điều này, thì chúng ta không còn là Kitô hữu nữa. Cần phải sống trước sau như một, sống bất nhất sẽ gây rất nhiều tai hại cho người khác.

Thánh Giacôbê đã nặng lời khiển trách những người Kitô hữu sống bất nhất huênh hoang, Ngài viết: “Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi”. Trong cộng đoàn có người sống bất nhất như thế thì rất tai hại, trở nên cớ vấp phạm cho người khác”.

Chúa Giêsu lên án người làm cớ vấp phạm: “Kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.

Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết sống yêu thương, sống quảng đại mưu tìm kiếm nước Trời, và đừng là cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em. Amen.

 

7.      Quyền nhân danh Chúa

Bảo vệ quyền lợi là một khuynh hướng chúng ta có thể tìm thấy ngay cả ở những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn.

Thực vậy, trong Cựu Ước, Giosuê, người tuỳ tùng của Maisen đã muốn dành ơn nói tiên tri cho một số thân tín của mình mà thôi. Con trong Tân Ước, các tông đồ đã ngăn cấm những kẻ không thuộc nhóm 12 của các ông được nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thái độ của Gioduê và của các tông đồ đã tỏ lộ một cái nhìn hẹp hòi và cục bộ về quyền năng của Chúa được ban cho các ông. Các ông đã chủ quan mà nghĩ rằng: Quyền năng các ông có trong việc trừ quỷ là do thuộc về nhóm Mười Hai và được Chúa tuyển chọn. Các ông quên rằng mình đã trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu, chứ không phải tự khả năng của bản thân mình. Như vậy Chúa Giêsu đã bị che khuất, hay đúng hơn đã bị giới hạn bởi cái đầu óc phe nhóm và bè phái.

Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn người ta đóng khung quyền năng của Ngài, cũng không muốn để ai chiếm lấy quyền năng đó làm của riêng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã giúp các môn đệ nhận ra sự thật, Ngài nói: Không ai nhân danh Thầy làm phép lạ, rồi lại có thể nói xấu Thầy. Các tông đồ có thể trừ được quỷ, không phải nhờ ở việc các ông thuộc về nhóm Mười Hai, mà chính là nhờ danh Chúa Giêsu, nhờ ở quyền năng của Thiên Chúa. Như thế, nhân danh Chúa Giêsu mà làm phép lạ và truỳ quỷ, tức là đã tin vào Ngài. Và một người đã làm được các phép lạ nhờ ở một lòng tin, sẽ không thể quay lưng chống lại Ngài.

Như thế, quyền năng người ta có được là do lòng tin ở Chúa, chứ không phải do bất cứ tước hiệu nào người ta mang lấy. Sở dĩ các tông đồ làm được viêc nọ việc kia cũng là do bởi đã tin vào Chúa và đã thuộc về Ngài. Phêrô sau này đã hiểu rõ bài học trên đây của Chúa Giêsu, khi ông đứng trong sân đền thờ và chữa lành cho người bất toại. Ông nói: Chính nhờ tin vào danh Đức Kitô mà anh này, như quý vị đã thấy, được làm cho vững mạnh. Và thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã lập luận: Vậy những kẻ thuộc về Ngài thì hành động như Ngài, cũng thế, những kẻ hành động như Ngài thì thuộc về Ngài.

Để giúp các ông loại bỏ óc bè phái vị lợi, cũng như để giúp các ông biết tôn trọng những người đã tin ở Ngài, Chúa Giêsu xác quyết: Một việc làm nhỏ đối với những người tin, dù chỉ là cho đi một ly nước lã, cũng đáng được ân thưởng. Trái lại, làm cớ vấp phạm cho một kẻ bé mọn, đã tin vào Chúa, thì cũng đáng bị xô xuống biển. Là những người tín hữu, chúng ta có biết thực sự cộng tác với nhau, để danh Chúa mỗi ngày một cả sáng và Nước Chúa mỗi ngày một rộng mở hay không?

 

8.      Đừng ngăn cấm

Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của một người thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan trọng của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.

Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào tiếp đón Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta. Chúa nói về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền hạn của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói xấu Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?

Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa thấy một niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn đệ đã có một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các môn đệ trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm. Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.

Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ đó đưa đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh giáo xứ mình mà thôi chăng.

Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các người nhiều kẻ từ phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.

Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy người này người nọ thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người vô thần, là người Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng phải ở trong đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại sống được tốt lành như họ chưa.

 

9.      Ðể trở nên môn đệ đích thực

(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)

Ðừng nghĩ rằng mình có quyền ưu tiên

Khi thánh Mác-cô viết cho các độc giả của mình, Nhóm Mười Hai đã phân tán, một vài người đã qua đời. Tuy vậy, cộng đoàn được thành lập xưa kia quanh Ðức Giêsu vẫn là kiểu mẫu cho mọi cộng đoàn. Qua trình thuật, thánh Mác-cô nhắc lại cho các tín hữu thời ấy về cách sống họ phải có với nhau cũng như về mối tương quan của họ với thế giới bên ngoài: không được tự cho mình quyền ưu tiên trên người khác, việc phục vụ, sự bình an.

Kẻ trừ quỷ

Câu chuyện khởi đầu với đề nghị của ông Gio-an về việc có người không ở trong hàng ngũ môn đệ mà lại lấy danh Ðức Giêsu để trừ quỷ. Các môn đệ muốn xin Thầy cấm không cho người ấy làm như vậy.

Ðề nghị này diễn tả tham vọng của một số người trong dân Chúa muốn có những đặc quyền và độc quyền, kể cả quyền trừ quỷ. Ðức Giêsu cho thấy thái độ ngược lại: Người luôn hướng ra ngoài những biên giới hữu hình, những cơ chế, với mục đích làm cho việc phục vụ được mở rộng và đạt được hiệu quả tối đa. Xét cho cùng, sự hiện diện của Ðức Giêsu cũng như của Hội Thánh chính là dẹp tan sức mạnh của Xa-tan để Nước Thiên Chúa được lan rộng. Chỉ có những ai kết hiệp với Ðức Kitô, Ðấng duy nhất đã chiến thắng ma quỷ, mới có thể làm được công việc này.

Do đó, thay vì cấm đoán, Ðức Giêsu đã dạy các môn đệ hãy biết trân trọng và cộng tác với những người, cách này cách khác, đang làm cho Nước Thiên Chúa được lan rộng thêm. Những người này có thể không thuộc vào số những môn đệ của Ðức Kitô, nhưng vẫn có thể là những cộng tác viên của Người: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Ngoài ra, theo tác giả Tin Mừng thứ hai, Thần Khí được ban tặng cho hết mọi người và không cơ cấu nào có thể ràng buộc Thần Khí của Ðấng Phục Sinh: Người là Ðấng vượt lên trên mọi cộng đoàn nhân loại, mọi hoạt động xã hội, mọi gia đình tôn giáo. Thần Khí luôn chống lại mọi hình thức địa phương hóa Hội Thánh, mọi ý định muốn trói buộc sự năng động mà Người là nguồn mạch.

Chính vì vậy, người môn đệ Ðức Kitô không thể viện cớ bảo đảm sự chính thống để rồi đồng hóa sự thuộc về Ðức Kitô với một quan niệm loại trừ, gạt bỏ hết những ai không cùng niềm tin với mình. Nước Thiên Chúa không chỉ ở đây hay ở đó, nhưng ở bất cứ nơi đâu có những con người thiện chí.

“Ai cho anh em uống một chén nước…”

Người Kitô hữu là đại diện của Ðức Kitô. Ðây là một trách nhiệm cao cả. Tuy nhiên, ở đây, trong câu nói của Ðức Giêsu, người môn đệ là cả một cộng đoàm trở nên bé nhỏ, và do đó là người phục vụ chứ không phải là người lãnh đạo. Tuy thế, trong cộng đoàn cũng như nơi từng người, Ðức Giêsu vẫn luôn hiện diện. Người môn đệ nhỏ bé nhất vẫn là tượng trưng cho Ðức Kitô. Phẩm giá cao quý này đòi buộc họ phải sống đúng theo Ðức Giêsu mong muốn, đồng thời cũng buộc người khác phải nhìn người môn đệ ấy là chính Ðức Kitô.

“… Làm cho một trong những kẻ bé mọn sa ngã…”

Ðó là làm cớ cho người khác lung lạc trong việc gắn bó với Ðức Kitô. Hành động này đi ngược với việc phục vụ, đón tiếp, và xây dựng bình an. Ðây là tội nặng và đáng chịu hình phạt nặng nề: chịu cột cối đá vào cổ và quăng xuống biển.

Trong Tin Mừng, các kẻ bé mọn có thể hiểu là những người hèn kém, ít học, bị coi thường. Còn trong đời sống Kitô hữu, kẻ bé mọn là những người có lòng tin yếu kém, ít am hiểu. Thái độ nghiêm khắc của Ðức Giêsu nói lên lòng kính trọng và mối ưu tư Người dành cho loại người này. Qua đấy, Ðức Giêsu cũng muốn tố cáo thái độ độc quyền của những thủ lãnh tôn giáo: giải thích Kinh Thánh, đóng cửa không cho những kẻ muốn vào. Theo Ðức Giêsu, hành động này là sự huỷ hoại chính mình khi huỷ hoại người khác, bởi vì làm như thế là tự cho mình quyền nắm giữ Thần Khí và có quyền tự do làm bất cứ điều gì theo ý mình.

Tiếp đến, Ðức Giêsu nói đến sự trầm trọng của gương xấu theo mối nguy mà nó gây ra cho mỗi người. Các chi thể của con người như tay, chân, mắt, mũi, v.v… là những bộ phận cho phép con người hoạt động và tạo nên những mối tương quan. Con người phải điều khiển những hoạt động và tương quan của mình để tạo nên sự sống, chứ không phải gây ra tội lỗi hay sự chết. Ðây là một lựa chọn có giá trị tuyệt đối: người ta không thể coi bất cứ điều gì có tầm quan trọng hơn sự sống – sự sống vĩnh cửu. Ðiều gì đi ngược với sự sống này, phải bị loại bỏ dứt khoát.

Dĩ nhiên, câu nói của Ðức Giêsu không thể hiểu theo nghĩa chặt. Ðàng khác, cũng thật là vô ích khi cố tìm xem những tội nào mà tay, chân hay mắt có thể là cơ hội. Mà giả như có cắt bỏ những phần thân thể này cũng không loại trừ được nguy hiểm.

Qua khẳng định này, Ðức Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc chọn lựa, và người ta phải đặt sự sống vĩnh cửu lên trên mọi giá trị khác, kể cả những gì thân thiết nhất. Như vậy, trong suốt bản văn này, vấn đề được nêu lên cho người môn đệ Ðức Kitô là: cuộc sống và hành động của họ có làm cho họ, và cho người khác, được sống hay phải chết?

Thuộc về Ðức Kitô

Bài Tin Mừng hôm nay đề ra cho chúng ta hai sứ điệp:

Sứ điệp thứ nhất

Người xua đuổi quỷ là người tốt; họ là đối thủ hữu hiệu chống lại cái ác, và do vậy, họ được liên kết cách thực sự với Ðức Kitô. Có thể gặp thấy những người này ở khắp nơi, kể cả ở ngoài số những môn đệ chính thức của Ðức Kitô.

Nét đặc trưng của người môn đệ Ðức Kitô là không được ngăn cản những người này hoạt động, viện cớ rằng họ không nhận quyền từ Ðức Kitô.

Sứ điệp thứ hai

Ðức Giêsu yêu cầu chúng ta phải là những người trung tín đến mức phải loại trừ tất cả những gì gây trở ngại cho việc gắn bó với Người. Những ai nghĩ rằng bình an và sự công chính của Thiên Chúa là điều có thể thực hiện, cho dù phải trả giá là một cái chân hay một con mắt, những người ấy trở thành anh hùng trong lịch sử nhân loại. Ðây không phải là trường hợp những người quá bận tâm để cứu lấy những đồ đạc của mình, và được đánh đổi bằng một vài thoả hiệp.

Chúng ta hiểu rằng hai sứ điệp này không dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong lý thuyết, nó cũng cho chúng ta cảm thấy vui thích. Sứ điệp thứ nhất phù hợp với tinh thần thoáng đạt, bao dung mà con người ngày nay đang hướng đến. Sứ điệp thứ hai phù hợp với tính trung thực đang được khuyến khích khắp nơi.

Nhưng phải chăng Ðức Giêsu chỉ nói với chúng ta như thế?

Ðể ý một chút, ta nhận ra một điểm chung: thuộc về Ðức Kitô. Kẻ trừ quỷ phải “nhân danh Ðức Giêsu”, kẻ bé nhỏ nhận ly nước “vì thuộc về Ðức Kitô” và kẻ có những chọn lựa là để “vào trong Nước Thiên Chúa”.

Như thế, trong mọi hoạt động, dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, ta cũng phải nhận ra dấu vết của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho ngọn lửa Thánh Thần thanh luyện các phán đoán và cách ứng xử của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra cách tích cực nơi chính mình và nơi người khác – dù người ấy còn xa lạ với Kitô giáo – dấu chỉ của Thần Khí Ðức Giêsu. Thần Khí luôn mời gọi chúng ta sống thánh hơn, và do đó, tinh thần thoáng đạt hơn. Thánh Kinh luôn mời gọi chúng ta chân thành hơn, và như vậy, tự do hơn…

 

10. Chúa Nhật 26 Thường Niên

THÀ CHỘT MẮT MÀ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Trong chương 9 của Tin Mừng theo thánh Maccô, thánh sử đã tập trung những lời giảng dạy của Chúa Giêsu thành một tuyển tập về cuộc sống Kitô hữu. Trong đoạn chúng ta đọc hôm nay là một vài điều Chúa Giêsu dạy về mối liên hệ giữa anh em trong một cộng đoàn.

Bài học trước tiên chúng ta cần lưu ý là hãy chấp nhận người khác nếu họ không làm gì nghịch lại chúng ta, nghĩa là hãy bao dung, đừng quá khắc khe và khép kín.

Thời thánh Maccô, là thời Giáo Hội mới hình thành, rất nhiều vấn đề được đặt ra. Bên ngoài là những cơn bách hại đang lan tràn khắp Đế Quốc Rôma. Bên trong, giữa người Do Thái và các tín hữu vẫn có những vấn đề căng thẳng. Giáo Hội tiên khởi có nguy cơ co cụm lại để đối phó với những vấn đề đang nóng bỏng.

Hiện nay, trong thời chúng ta, Giáo Hội cũng co cụm lại để đối phó với những cuộc tấn công ồ ạt của xã hội bị tục hóa, với làn sóng vô thần.

Chúng ta e sợ. Chúng ta đang sống trong một Giáo Hội đang lo sợ cho tương lai của mình. Chúng ta trở nên bất bao dung với mọi người   “không thuộc về chúng ta”. Chúng ta không dám đón nhận những cái mới của xã hội hiện nay, xem như một đe dọa cho đức tin, và loại trừ những cái tốt của thời đại. Thánh Phaolô đã căn dặn giáo dân của Ngài: “Hãy nghiệm xét mọi sự, cái gì tốt hãy giữ lấy”.

Ông Nguyễn Ngọc Lan đã viết quyển sách: “Đường hay pháo đài”, mời gọi chúng ta, người Công giáo, đừng dựng lên những pháo đài, nhưng hãy cởi mở đón nhận những giá trị của người khác.

Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta cởi mở hơn, đón nhận tha nhân: “Họ không theo chúng ta”, nhưng nếu việc họ làm là tốt thì tại sao chúng ta lại loại trừ, “không thuộc phe ta”?

Nhiều người Công giáo tỏ ra độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa, bảo vệ Thiên Chúa một cách cuồng tín, loại trừ tất cả những gì của các anh em không là Kitô giáo. Giờ này vẫn còn những người Công giáo không dám thắp hương trên bàn thờ, chưa dám lạy quan tài của chính cha mẹ mình.

Công đồng Vatican II đã đón nhận thế giới, đối thoại với con người hôm nay, kể cả những người vô thần, tìm tất cả mọi phương thức để đem lại tình yêu Chúa cho một thế giới đang chết khát tình yêu. Chấp nhận tha nhân, cộng tác với mọi người để làm tốt mọi sự, cho mọi người: “Ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Bài học thứ hai.

Chấp nhận tha nhân với tâm hồn bao dung, Chúa Giêsu còn dạy chúng ta phải giúp đỡ mọi người, “vì lẽ họ thuộc về Chúa Kitô”.

Những ai thuộc về Đấng Kitô?

Đâu chỉ là những tín hữu, mà mọi người, không trừ ai. Thiên Chúa không loại trừ một người nào. Chúng ta dễ loại trừ người khác, vì họ không là “phe ta”. Chúa Giêsu xem mọi người là anh em. Ngài đã mang lấy thân phận con người, liên đới với mọi người. Ngài đến cứu vớt mọi người nhất là người tội lỗi. Ngài không bảo chúng ta chỉ giúp đỡ những người trong nhóm chúng ta mà thôi, và bỏ mặc người khác. Ngài đón tiếp mọi người, nhất là những người cô thế cô thân, không ai che chở. Và Chúa cho thấy, việc bác ái dù nhỏ mọn như một ly nước lã cũng không bị bỏ quên.

Bài học thứ ba.

“Ai làm cớ cho một người bé mọn đang tin đây sa ngã…”

Có thể nói, đây là những lời đanh thép nhất của Chúa Giêsu. Như thế, chúng ta thấy được tầm nghiêm trọng của gương mù gương xấu, làm cho các linh hồn yếu đuối phải sa ngã. Giết hại một linh hồn cũng là một tội ác: “Thà cột cối đá lớn và ném xuống biển” phải hiểu như án tử hình.

Điều này cho thấy Chúa Giêsu quý chuộng một linh hồn như thế nào.

Chúng ta không thể lượng giá một linh hồn. Ngài quý chuộng các linh  hồn đến nỗi phải hy sinh đến tột cùng để cứu vớt. Như một đấng thánh đã nói: “Dù chỉ có một linh hồn trên thế giới mà thôi, Chúa Giêsu cũng nhập thể để cứu lấy.”

Chúng ta đang sống trong một thế giới tràn ngập gương mù gương xấu. Con người hôm nay, trong nếp sống duy vật của họ không còn biết giá trị cao quý của con người, không biết cùng đích của cuộc sống, muốn làm gì tùy ý, miễn là có lợi. Trên mọi lãnh vực, tội ác phơi bày bộ mặt ghê tởm của nó, khuyến khích con người sống theo thú tính, chà đạp mọi giá trị, biến con người thành một dã thú.

Biết bao nhiêu linh hồn trong trắng đã hư mất vì gương mù! Trẻ em hôm nay đã học giết người: những trường hợp xảy ra ở nước Mỹ, trẻ em đem súng vào trường giết hại bạn bè như một trò chơi. Sự gian dối được xem như khôn khéo. Những lối sống lăng loàng được phơi bày trên mọi nẻo đường, trên những phương tiện truyền thông…

Chúng ta làm gì trước làn sóng gương mù tai hại đó? Chúng ta có cố gắng hết sức mình để ít ra, trong xứ đạo, trong gia đình, bớt gương mù không? Chúng ta làm gì để bảo vệ con cái chúng ta khỏi những thói xấu thế gian?

Chúng ta không chỉ tìm hạnh phúc trần gian. Hạnh phúc chúng ta ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải tìm mọi cách có thể để cứu vớt anh em chúng ta khỏi cái chết là “bị ném vào hỏa ngục”.

Linh hồn của chúng ta và anh em chúng ta đáng giá đến nỗi Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự để gìn giữ. Nếu cần phải “chặt tay móc mắt”. Các phần thân thể của chúng ta quý giá như thế nào thế mà Ngài đòi hỏi phải hy sinh cả những phần thân thể ấy vì hạnh phúc đời đời.

Đây là một cách nói có tính cách đanh thép để nhấn mạnh đến giá trị của linh hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy tính cách quyết liệt của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng rất mực nhân từ, Ngài không dã man đến nỗi đòi hỏi chúng ta chặt tay móc mắt, nhưng Ngài không khoang nhượng khi phải bảo vệ giá trị cao cả của con người.

Ngài cũng cho thấy giá trị của Nước Chúa, là hạnh phúc tối hậu của chúng ta. Với bất cứ giá nào, phải đạt đến hạnh phúc thiên đàng mà Ngài đã chuộc lại cho chúng ta bằng chính bản thân Ngài.

Hãy sống tính cách triệt để của Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy cuộc đời đầy vẻ đẹp. Phải dám từ bỏ tất cả, phải dám “chặt tay chặt chân, móc mắt” để chiếm hữu hạnh phúc Nước Trời: “Dù lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?”

Thà chột mắt, cụt tay mà vào Nước Trời còn hơn là đủ mọi chi thể mà bị ném vào hỏa ngục!

Các thánh tử đạo, từ xưa đến nay đã sống tính cách triệt để đó của Tin Mừng, hy sinh không chỉ một phần thân thể mà cả mạng sống cho Nước Trời.

Chúng ta thì sao?

Hãy nhìn vào Chúa chúng ta. Ngài sẽ có mặt nơi bàn thờ này. Ngài thực hiện trước mắt chúng ta những gì Ngài dạy chúng ta. Ngài đón nhận và cứu vớt mọi người. Ngài hy sinh tất cả cuộc đời và mạng sống cho chúng ta. Gương lành đó, chúng ta có nhận thấy không?

Ăn lấy Ngài đi! Chúng ta sẽ được củng cố để hy sinh, để “cho không” cuộc đời chúng ta, vì Giáo Hội, vì anh em. Vứt bỏ những gì cần vứt bỏ để đi vào cuộc sống như Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.

 

11. Chúa Nhật 26 Thường Niên

THÀ CHỘT MẮT MÀ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Ơn Chúa không dành cho riêng ai. Thiên Chúa là của mọi người. Thế nhưng vẫn có nhiều người làm như độc quyền trên Thiên Chúa, làm như Thiên Chúa là của riêng họ. Đó là thái độ của phái Pharisêu, và ông Gioan, môn đệ của Chúa Giêsu cũng lây nhiễm thứ tinh thần độc quyền đó.

Nhiều người tín hữu thiện chí cũng bị ảnh hưởng của thái độ độc quyền đó. Chúng ta cũng dễ bị giam tù trong những nếp sống đạo đức lỗi thời, những cái nhìn hẹp hòi, tưởng rằng phải bảo vệ chân lý, bảo vệ đạo Chúa, đừng để lây nhiễm những căn bệnh của thời đại. Sự khôn ngoan của loài người không bảo vệ được Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự sống. Ngài không nằm trong những khuôn mẫu của loài người. Chúng ta không thể giam hãm Thiên Chúa trong những nguyên tắc khoa học hay trong bất cứ khuôn mẫu nào.

Chúa Giêsu là đường chứ không là một phiến đá. Ngài là tương lai, Ngài luôn lôi kéo chúng ta về tương lai của Ngài. Ngài là cùng đích của mọi sự. Ngài gồm tóm nơi Ngài tất cả mọi thiện hảo. Thánh Thần của Ngài là một ngọn gió, muốn thổi đâu thì thổi. Chúng ta không ngăn cản gió bằng bàn tay nhỏ bé của chúng ta.

Hãy chăm chú tìm thấy dấu vết của Ngài trong mọi sự, trong nụ cười trẻ thơ, trong màu sắc của hoa, của mây, của nước. Mọi thiện hảo là của Chúa. Chúng ta đừng ngăn cản người ta trừ quỷ, nhưng hãy cùng với mọi người thiện chí, chống lại tất cả những gì là gian ác, xấu xa.

Sự thiện được phản chiếu trong mọi tạo vật. Thiên Chúa là ánh sáng, Ngài phản chiếu sự huy hoàng của Ngài trong mọi người, trong mọi giọt sương long lanh, trong những mặt nước phẳng lặng, trong từng ánh mắt.

Hãy tẩy sạch những vướng mắc trong ánh mắt chúng ta để có thể nhìn thấy những gì tốt đẹp nơi mọi người, trong từ cố gắng âm thầm của họ. “Ai không chống chúng ta là ủng hộ ta”.

Chúa Giêsu đã đột nhập vào thế gian để tẩy sạch tất cả những gì xấu xa, để canh tân tất cả, để cứu vớt tất cả. Ngài mang lại cho thế gian tăm tối nầy ánh sáng của Ngài. Ánh sáng đó phản chiếu trong mọi người thiện chí dù không đồng tín ngưỡng với chúng ta. Ngài phá đổ tất cả những gì là óc bè phái, cực đoan, quá khích.

Lắm lúc chúng ta phải hỗ thẹn vì những người khác quảng đại hơn chúng ta. Một linh mục nói một cách mỉa mai: “Người Công giáo chúng ta được dạy dỗ từ nhỏ, vì thế họ tính kỷ lắm!”

Chúa Giêsu đã gieo mầm tình yêu ròng rã hai mươi thế kỷ, nhưng các Kitô hữu vẫn chia rẽ, bè phái và thậm chí hận thù nhau. Vẫn còn những hẹp hòi, vẫn còn những tự mãn kiêu căng, vẫn còn những mù lòa đáng tiếc? Tại sao?

Tìn Mừng tình yêu chưa thấm vào xương thịt chúng ta. Ánh sáng đã lu mời rồi chăng? Muối đã lạt đi rồi chăng? Không. Chúng ta phải cùng với Ngài làm một cái gì đó cho anh em chúng ta. Đừng loại trừ. Phải gom những gì tốt nơi anh em chung quanh chúng ta. Hãy hiến dâng nhiều hơn. Nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta cũng dám hi sinh để làm cho thế giới nầy tốt hơn, nhân đạo hơn. Khuôn mặt của Chúa Giêsu ẩn hiện trong những hy sinh đó.

Chúa Giêsu nói đến một ly nước lã cho một người thuộc về Ngài, vẫn được phần thưởng. Ngài muốn nói gì?

Ngài muốn chúng ta nhìn người anh em là hiện thân của Ngài. Họ không là người xa lạ mà là người nhà của Thiên Chúa, người đã được cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. chỉ một ly nước mát thôi cũng được ân thưởng, nhưng… Nếu chúng ta làm cớ cho họ vấp phạm thì sao?

Không lúc nào chúng ta thấy Chúa Giêsu đanh thép đối với những người làm gương mù gương xấu, làm cớ vấp phạm cho những người bé mọn như thế. “Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”.

Chúng ta thấy Chúa quí chuộng những người bé mọn như thế nào! Còn chúng ta?

Chúa Giêsu đã trở thành người bé mọn nhất. Máng cỏ, Nadaret, những con đường nắng cháy và cuối cùng Giếtsêmani và đỉnh đồi Canvê thống khổ…

Sống cho ai? Cho những người bé mọn như Ngài. Ngài đến để cứu vớt. Ngài trả giá cho hạnh phúc của nhân loại. Ai làm cho một người bé mọn mất đi hạnh phúc mà Ngài đã chuộc lại bằng cả cuộc đời và đau khổ của Ngài, thì đương nhiên, không thể tránh hậu quả. Và nếu chúng ta làm cho chính mình mất đi hạnh phúc đó thì sao? Hậu quả cũng rất tai hại. Vậy nếu cần, phải dám móc mắt, chặt tay…

Đây chỉ là một cách nói nhưng là một cách nói hết sức đanh thép.

Hạnh phúc Chúa ban quí hơn cả mạng sống huống chi một phần thân thể! Tác giả thánh vịnh cũng nói: “Tình yêu Chúa quí hơn mạng sống, môi con ca ngợi Chúa muôn đời”.

Vì hạnh phúc của chúng ta, Chúa Giêsu đã trả một giá rất đắt. Chúng ta không dam trả giá sao? Nghe Chúa nói chúng ta ngao ngán sao?

Chúng ta chưa biết được vinh quang Chúa dành cho chúng ta sau cuộc sống nầy. Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”. Các thánh đã hiểu được điều đó, vì thế các ngài đã dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài. Các thánh tử đạo dám liều mạng. Chúng ta làm gì?

Chúa cũng nói: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Chúa đòi buộc gắt gao, nhưng phần thưởng Nước Trời thì không gì so sánh được. Con đường núi Sọ đau đớn thật, nhưng nó dẫn tới phục sinh và trường sinh.

Chúa còn đòi buộc hơn nữa: “Anh em hãy làm nhân chứng cho Thầy”. Chúng ta hiểu được không? Muốn như thế, phải móc mắt, chặt tay… Nghĩa là dám hi sinh đến mức cuối cùng và nếu cần chết cho Ngài.

Điều nầy xem ra như mơ mộng, nhưng là thực tế mỗi ngày là dám chống lại tội lỗi và gian ác dưới bất cứ hình thức nào. Cần hi sinh những cái nhỏ bé để đạt được những điều vĩnh cửu.

Chúa Giêsu đã làm gương suốt đời Ngài, một mẫu gương sống động, rõ ràng. Hiện nay vẫn còn hiển hiện trước mắt chúng ta qua cây thập giá mà chúng ta vẫn thấy hằng ngày mà chúng ta không còn chú ý.

Làm chứng cho Chúa là ơn gọi của mọi người chúng ta. Làm chứng bằng một cuộc sống yêu thương như Ngài, yêu thương đến mức độ liều mạng. Chúa vẫn đi trước và vẫn còn đồng hành với chúng ta qua bí tích Tình Yêu. Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Ngài khi chúng ta mặc lấy những tâm tình của Ngài, như thánh Phaolô đã dạy. Ăn lấy Chúa để nên một với Ngài, yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Con đường còn dài, cứ tin cậy và bước tới, vì cuối đường vẫn có Ngài ở đó.

 

12. Óc bè phái, cục bộ.

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

“Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9,40)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúa nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.

Ðoàn kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.

Chúng ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng con.

Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.

Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những người lương.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Ds 11,25-29)

Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói: “Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”.

  1. Ðáp ca (Tv 118)

Tác giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ “Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của mình?” Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng hay, trong đó có tội kiêu ngạo.

Phối hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của mình: mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập thể mình.

  1. Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)

Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu dạy hai bài học:

a/ Bài học bao dung và hợp tác: Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Ðức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Ðức Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.

Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”

Ðức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.

b/ Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho “những kẻ bé mọn”.

“Những kẻ bé mọn” không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.

Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…”

  1. Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)

Thánh Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người nghèo: (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng chứng buộc tội họ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà có; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Óc ganh tị bè phái… vì danh Chúa!

Những bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói gì.

– Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà người ta đã có tính ganh tị rồi.

– Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể: Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Ðức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Ðức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Ðức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Ðức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Ðức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại ta thì thuộc về ta”.

Qua hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tị đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Ðất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Ðức Giêsu yêu thương nhất. Ðó là óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa” bởi vì ganh tị có tới 3 cấp bực:

Cấp thứ nhất là Ganh tị: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái: là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.

Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.

Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Ðó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh Chúa.

Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Ðức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Ðức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.

Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Ðức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.

Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Ðiều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.

Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tị, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.

  1. Dịp tội

Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Ðức Giêsu:

Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.

Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.

Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.

Dĩ nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Ðông. Không ai hiểu những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có một trường hợp đặc biệt sau đây: Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.

Vậy, chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu theo tinh thần. Chúa Giêsu muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp tội.

Nhưng, dịp tội là gì? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.

Ðó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.

Ðó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.

Ðó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.

Ðể cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội:

Dịp tội gần: là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội. Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ hênh thì hầu như chắc chắn sẽ “chôm” liền. Gặp 10 lần thì phạm tội khoảng 7,8 lần.

Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể không ăn cắp.

Dịp tội gần lại được phân làm 2 loại nữa:

Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Ðây là một dịp nguy hiểm, nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng thiếu.

Dịp tự do: là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.

Sau khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải tránh loại dịp tội nào? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau:

Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ bị phạm tội.

Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh: vì đó cũng là một dịp tội gần nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho nên phải tránh đi.

Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi.

Con người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy: “Nếu tay con nên dịp tội cho con…”

  1. Giải phẫu.

Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.

****

Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi” (Mc.9,43). Kiểu nói “chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.

Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.

Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. “Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn”, đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể “cắt bỏ” một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt cánh tay”. Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: “Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.

****

Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

  1. Mảnh suy tư

a/ Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta:

Chúng ta có quyền nhân danh Ðức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không phải là độc quyền của chúng ta.

Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm cho chúng ta.

Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn làm cho chúng ta giàu thêm.

Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.

b/ Ai cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu:

Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.

Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần là một việc sưởi ấm cõi lòng.

c/ Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn:

Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.

Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.

Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”, và “Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa:

  1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh mọi gương xấu / mà nêu gương tốt cho mọi người.
  2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác / dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa / vẫn luôn sống lương thiện và không bao giờ chống đối Chúa.
  3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ nhỏ / gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời sống lương thiện.
  4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta / biết khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa / và biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.

Chủ tế: Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

  1. Trong Thánh lễ

– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ…”

VII. Giải tán

Trong tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

 

13. Bỏ đi và cho đi

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Một trong những tình bạn đẹp mà Linh mục Cao Vĩnh Phan (1924 – 2011) có được với các Đại đức và Thượng tọa phải kể đến tình bạn giữa Đại đức Thích Thiện Hiền và Thích Huệ Tánh. Đại đức Thích Thiện Hiền trụ trì tại chùa Phú Sơn gần nhà thờ giáo xứ Thánh Mẫu, nơi Lm Cao Vĩnh Phan làm Cha xứ từ 1975 đến 1991. Hai người đã kết nghĩa anh em với nhau; Lm Phan là anh và Đại đức là em, bởi vì ngài lớn tuổi hơn. Hai anh em thường gặp nhau, động viên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Lúc Đại đức đau ốm, Lm Phan đến thăm nom săn sóc, và ngược lại. Thân nhau đến nỗi nhiều lần Đại Đức đã nhờ Lm Phan cạo đầu cho mình.

Giữ lời đã nói với Đại đức: “Thầy tịch trước tôi không quên, thầy tịch sau tôi nhớ mãi”. Lm Phan thường đến thăm viếng Đại đức Thích Thiện Hiền trong thời gian bệnh nặng và có mặt lúc lâm chung cũng như đã tham dự đám tang. Tiếp theo sau nghi thức tôn giáo nhà Phật, Lm Phan cũng đọc Điếu văn phân ưu và một lời nguyện theo đức tin Công giáo.

Sau lễ an táng của Đại đức nhiều người nói với nhau rằng: “Đám tang của Thầy Hiền là đặc biệt hơn cả, vì có Linh mục và bổn đạo giáo xứ Thánh Mẫu tham dự một cách tích cực và có lời phân ưu nồng nhiệt chân tình chưa từng có.” Bà con họ hàng của Đại đức Thiện Hiền cũng đến giáo xứ Thánh Mẫu để cám ơn Cha xứ. Có mấy người ôm lấy ngài và khóc. Họ nghẹn ngào nói: “Như vậy là Thầy chúng tôi đã viên tịch, Cha không còn có dịp mà đến với chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi luôn coi Cha như người thân thay thế Đại đức Thích Thiện Hiền. Xin Cha thương chấp nhận lời khẩn cầu nầy!”

Từ ngày ngài bị bệnh phải nghỉ hưu tại Viện Dưỡng Lão Chí Hòa (cuối năm 1992), nhiều Đại đức, Thượng tọa và đạo hữu Phật giáo vùng Phan Thiết và Mũi Né thường xuyên vào thăm ngài. Có nhiều khi họ đi cả phái đoàn vài ba chục người. Dịp lễ Giáng Sinh năm 1993 có mấy Đại Đức đã đưa các đệ tử và đạo hữu vào thăm cha Phan. Họ nói rằng: “Muốn vào thăm Cha vào dịp lễ Noel vì từ khi Cha đi không còn ai mời đi dự lễ Noel nữa”. Hiểu được nguyện vọng của họ, sau khi trò chuyện thăm hỏi, Lm Phan mời họ vào nhà nguyện viếng hang đá. Sau một lúc quì cầu nguyện, ngài giải thích cho họ về ý nghĩa lễ Giáng Sinh, dựa vào câu Kinh Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Kết thúc buổi gặp gỡ thăm viếng, ngài bộc phát nguyện: “Lạy Chúa, đây là những vị Tăng Ni Phật tử thân thương từ Phan Thiết vào thăm con tại nhà hưu dưỡng nầy. Các vị thật là những “người thiện tâm”, các ngài muốn nghe Chúa nói. Vậy con tha thiết cầu xin Chúa nói cho các ngài hiểu biết về Chúa. Con muốn nói và nói nhiều lắm, nhưng con không đủ sức, và các ngài cũng không đủ thì giờ, vì phải về. Con tin Chúa thiêng liêng quyền phép. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho các vị như xưa Chúa đã tỏ mình ra cho ba Vua và các mục đồng. Con xin dâng tất cả các vị cho Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các vị đi về bằng yên. Con xin Chúa ở với các vị luôn mãi và ban ơn cho các vị và gia quyến để chúng con cùng được làm con Chúa như nhau. Con cầu xin như vậy nhân danh Chúa Giêsu là Chúa của chúng con. Amen!” (Lm Phêrô Đan-Minh, Lm GBT Cao Vĩnh Phan Với Định Hướng Truyền Giáo Mới)

Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu hoàn toàn bác bỏ thứ đạo “pháo đài” độc quyền, độc tôn, độc trị, mà rộng cửa đón nhận những người thiện tâm. Điển hình như cố Linh mục GBT Cao Vĩnh Phan thấm nhuần Lời Chúa, đã gần gũi với quý tu sĩ Phật giáo, cùng đồng hành trên đường hy vọng.

Để có thể đến với tha nhân, nhất là đến với anh em ngoài Kitô giáo, Đức Giêsu yêu cầu xả kỷ, bỏ đi chính bản thân, thậm chí chặt tay, chặt chân, móc mắt, bỏ đi những chướng ngại vật, ngăn cản, hay chệch đường đến với Nước Chúa. Rồi Người còn khuyến khích tích cực cho đi, hy sinh, dấn thân phục vụ vì danh Chúa.

Bỏ đi

Dĩ nhiên chẳng có ai ngây ngô hiểu theo nghĩa đen những ngôn từ gay gắt về xả kỷ của Đức Giêsu. Điều quan trọng là Người chẳng ngại biểu lộ một cách cứng rắn, thậm chí quá khích, kịch liệt chống lại tà tâm, tính tham lam và thói bạo lực của con người.

Con mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, mà làm dịp tội, chính là con mắt tà tâm, dục vọng, đam mê hưởng lạc, ham muốn xác thịt, sẽ dẫn dắt bản thân lụy vào cạm bẫy nguy hiểm, chìm vào bùn lầy nhầy nhụa, sa đọa, không còn lối thoát. “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5, 28) Do đó, cần dứt khoát đoạn tuyệt với tội lỗi, tựa như móc mắt bỏ đi. “Hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.”

Còn bàn tay tham lam vơ vét chiếm đoạt bao nhiêu cũng chưa đủ. Bàn tay thủ đoạn, chia rẽ, cướp giật, đánh đấm, gian lận, nhám nhúa, tham ô, rút ruột, móc ngoặc, trừ khử, xô đẩy, xua đuổi, khước từ. Đức Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo thói tham lam vụ lợi: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12, 15) Vì thế, “thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt.”

Hơn nữa, cái chân cứng rắn, đấu đá, tranh giành, bạo lực, bất nhân, vô liêm sỉ, leo lên đầu lên cổ thống trị thiên hạ, áp bức người lành, ức hiếp người yếu, chà đạp nhân phẩm. Tuy nhiên những người khốn khổ, bị đàn áp đó lại là chính Đức Kitô ẩn mình, nên đừng để Chúa phải lên tiếng cảnh cáo như với Saulô: “Khốn cho ngươi là kẻ dám đem chân đạp mũi nhọn.” (Cv 26, 14) Thế thì, cần can đảm loại bỏ, chặt đứt đi, “thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục.”

Tóm lại, Đức Giêsu khuyên người Kitô hữu hãy buông xả tất cả những gì dính líu, dây mơ rễ má, tham sân si, ngăn chận, cản trở con đường theo Người và đến với anh chị em: “Vậy ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Lc 14, 33)

Cho đi

Loại bỏ được những rào chắn, ngăn cách, bất đồng, chia lìa, hay dửng dưng, xa lạ với tha nhân, mới có thể trao cho nhau cái nhìn dịu dàng, nụ cười tươi tắn, câu chào hỏi thương mến. Trước hết đến với nhau bằng tấm lòng chân tình, thái độ cởi mở, thân thiện. Rồi mới có thể quan tâm đến nhau, cư xử lễ độ, lịch sự và tử tế với nhau, thân ái trao nhau một chút quà mọn, một tấm bánh, hay một ly nước, công khai thể hiện tình người và tình yêu Chúa: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

Ly nước chẳng đáng giá chi, nhưng tràn đầy tình yêu Đức Kitô, đang ẩn mình trong hình hài tha nhân tầm thường, nghèo khó, bệnh hoạn, cơ nhỡ, côi cút, bị bỏ rơi, đau khổ. Một việc nhỏ, xoàng xĩnh như cho một ly nước còn được khen thưởng hậu hĩnh, huống chi những việc ý nghĩa hơn càng đẹp lòng Chúa biết bao!

Cho đi tương thân tương ái, không đòi hỏi phải làm những việc bác ái, từ thiện hào phóng, quy mô, vĩ đại, mà thường nhật chỉ là những việc trong tầm tay, như chia sẻ, an ủi, khích lệ, giúp đỡ những người gần gũi, khi họ đang có nhu cầu cấp bách và chính đáng, như chăm lo kẻ khốn khó, thất nghiệp, đau yếu, hoạn nạn.

Cho đi tấm gương sáng chứng nhân, chứ đừng cho đi gương mù gương xấu, kẻo làm méo mó, lệch lạc dung nhan Đức Giêsu. Cố gắng cho đi con người đổi mới, nhân ái, tốt lành đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi xiềng xích của xác thịt, ma quỷ và thế gian.

Cho đi không chỉ tấm lòng mà còn cả thân xác, sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người, mọi lúc và mọi nơi. “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 7-8) Mà Thiên Chúa luôn hiện hữu trong tha nhân, nên sống hay chết cho Chúa, cũng là sống hay chết cho tha nhân vậy.

Cho đi thì sẽ được lãnh thưởng bội hậu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”(Lc 6, 38)

“Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn; hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm.” (Đường Hy Vọng, số 609)

Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình. (Kinh Hòa Bình)

Lạy Mẹ Maria nhân lành, Mẹ đã bỏ đi tất cả ý riêng, để hoàn toàn “Xin Vâng” theo Thánh Ý Chúa. Mẹ đã dấn thân sống cho Chúa và cho tha nhân. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, để luôn vinh dự được Chúa ở cùng. Amen.

 

14. Bạn & Thù

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Cuộc ngừng bắn diễn ra vào đêm trước Giáng Sinh, 24 tháng 12 năm 1914, khi binh sĩ Đức khởi sự trang trí khu vực xung quanh các chiến hào của họ, trong vùng Ypres thuộc nước Bỉ, để chào đón Giáng Sinh. Họ bắt đầu treo những ngọn nến trên cây, rồi ngồi lại với nhau để hát các ca khúc Giáng Sinh, nhiều nhất là bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng (Stille Nacht). Khi ấy, các binh sĩ Anh bắt đầu ra khỏi chiến hào ở bên kia chiến tuyến và đáp lời bằng những bài hát Giáng Sinh tiếng Anh.

Tiếp đó là những tiếng hô to “Chúc mừng Giáng Sinh” vang vọng từ hai phía. Rồi là những lời mời gọi để những người lính từ hai bên chiến tuyến, tìm gặp nhau và trao đổi quà tặng Giáng Sinh, rượu whisky, mứt trái cây, xìgà, sôcôla và các thứ tương tự. Đêm ấy hoàn toàn không có tiếng đạn pháo. Lúc đó, các chiến sĩ trận vong được an táng theo nghi thức, được thương tiếc và nghiêm chào theo quân cách, bởi những người lính từ hai bên chiến tuyến. Tại một tang lễ trong Vùng Hoang địa, những người lính từ hai phía cùng nhau đọc đoạn Thánh Vịnh 23. (Wikipedia)

Như thế, ngày Giáng Sinh đã xóa tan làn ranh thù địch, tất cả đôi bên đều trở thành bạn bè thân thiết với nhau, khi tình thương, nhân ái thay thế hận thù và tội ác. Bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói rành mạch về Bạn và Thù, nhất là thù trong, nội gián vô cùng hiểm nguy.

Đâu là Bạn?

Các Tông đồ khởi sự đã đơn giản hóa làn ranh rất tế nhị đó. Kẻ xa lạ biết đâu là bằng hữu. Kẻ thân thiết biết đâu thành kẻ thù. Chúa Giêsu đã kịp lý giải rành mạch, chỉ đích danh đâu là bạn và thù.

Hôm nay, trong trích đoạn sách Dân Số và Tin Mừng Thánh Mác Cô, đều nói về lòng khoan dung và tình bằng hữu. Đừng hẹp hòi khi thấy Thần Khí Chúa ban tràn đầy cho nhiều người. Ông Môisê đã phải bất bình khi có người phản đối: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người, để họ đều là ngôn sứ.”(Ds 11, 29)

Lòng khoan dung cũng được Chúa Giêsu tái khẳng định: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9, 38-40).

Chúa Giêsu muốn xác định những ai ủng hộ Người, lấy danh Người mà trừ quỷ, mà làm việc lành, thì đều xứng đáng coi như thân hữu hay bạn bè. Còn kẻ chống báng Người, mới là kẻ thù địch đích thực với Người.

Đâu là Bạn thân?

Hơn nữa, những ai giúp đỡ các môn đệ bé nhỏ của Người, thì còn được trọng thưởng, dù chỉ giúp việc nhỏ mọn, như một ly nước lã giải khát. Nhờ hành động bác ái đó, Chúa coi như họ như bạn thân thiết, vì cư xử tốt lành với Bạn của Người. “Ai cho anh em uống một chén nước, vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”(Mc 9, 41)

Đức bác ái luôn được Chúa hoan nghênh. Người không so đo, lớn nhỏ hay nhiều ít, mà căn cứ vào tấm lòng dành cho việc đó như thế nào. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta mới dặn dò chúng ta: “Hãy làm những sự bình thường với một tình yêu phi thường”

Đâu là kẻ thù?

Kẻ chống lại Chúa chính là Satan, ma quỷ. Đó cũng là kẻ thù muôn kiếp của chúng ta. Khi sống trong tình nghĩa, kết hợp mật thiết với Chúa, chúng ta trở nên bạn hữu thân thiết với Người. Nhưng khi chúng ta phạm tội do yếu đuối, hay quy hàng, chạy theo ma quỷ, lẽ đương nhiên chúng ta trở nên xa lạ với Chúa. Chính tội lỗi khiến chúng ta xa lìa Chúa, biến chúng ta trở nên đối nghịch với Thiên Chúa, như Adam và Evà ngày xưa phạm tội, bị Chúa xua đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Tuy nhiên, Người Cha Nhân Từ vẫn sẵn lòng khoan dung, đón chiên lạc sám hối trở về.

Nhưng Chúa Giêsu gay gắt cảnh báo kẻ sa đọa, cố tình sống theo tội lỗi, không chịu hoán cải, mà chống báng, trở nên thù địch với Người, lại còn nhẫn tâm làm gương mù, gương xấu, hoặc rủ rê, lôi kéo người khác phạm tội.” Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn!”(Mc 9, 42)

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tỏ ra quyết liệt với thù địch nội tại, ẩn nấp ngay chính trong bản thân mỗi người. Chúa ra lệnh trừ khử tội lỗi, trấn áp ngay lập tức, không khoan nhượng, Không thỏa hiệp, dù có phải hy sinh, như móc mắt, chặt tay hay chặt chân đi, để khỏi sa ngã, hầu được cứu thoát muôn đời.

“Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay được vào cõi sống còn hơn đủ cả hai tay mà sa hỏa ngục, phải vào lửa không thể tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là đủ cả hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục; nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”(Mc 9, 43-48) Lời tuyên chiến của Chúa với tội lỗi vô cùng dứt khoát và đanh thép!

Lạy Chúa, xin mở tai, mở mắt, mở lòng trí con ra, để con nhận biết phân biệt đâu là bạn và thù, hòng luôn củng cố, xây dựng và trung thành với tình bạn của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ gìn giữ con lánh xa các chước cám dỗ, kẻo con đánh mất tình nghĩa với Chúa, hầu con được cứu rỗi. Amen.

 

15. Diệt trừ gương xấu

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Gương xấu lây lan nhanh như đại dịch, bùng phát mạnh như cháy rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: gần mực ắt phải đen cũng như gần đèn tất phải sáng. Biết bao nhiêu thói xấu của thế hệ trước ảnh hưởng đến những thế hệ tiếp theo đang làm cho xã hội chúng ta điêu đứng.

Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên rượu; chút ít men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho lương thực nên thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc…

Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên Người cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: “Anh em phải coi chừng men biệt phái và men Hêrôđê” (Mc 8, 15).

Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ thói xấu tận gốc rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.

Trước hết, Người răn đe những người gây ra gương xấu bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42)

Và Người muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội lỗi cách rất quyết liệt: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.” (Mc 9, 43-48)

Khi phán dạy như thế, Chúa Giêsu không có ý nói là chúng ta phải huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Người có ý nói phải diệt trừ thói xấu cách quyết liệt, bằng bất cứ giá nào.

* * *

Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và thói xấu là điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại quay về.

Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó ghẻ trung thành. Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám, người nhà quyết xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp tục đánh đập và xua đuổi nó đi xa… nó cũng lại trở về!

Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ có nhiều rễ củ ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay nhổ sạch cỏ rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.

Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước thói hư tật xấu?

Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có thuốc trừ.

Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không được, người nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa ruộng lúa nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời gian cho cỏ thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ lúa xuống. Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ hết mặt ruộng, rồi bung phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che phủ mặt ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.

Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa mới lên liền được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế là cỏ dại dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.

Thế là nhà nông thắng lớn vì không cần tốn công làm cỏ mà lại thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào.

Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để loại trừ gương xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu: quyết tâm tạo cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập thói quen tốt để đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách báo đồi truỵ; lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho bạn bè xấu tính…

Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được cải thiện; tâm hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng trở nên người có phẩm chất cao.

 

16. Khổ chế với bản thân

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Thành công nào cũng đòi phải trả giá bằng hy sinh, bằng khổ luyện. Vì qua gian khổ mới tới vinh quang. Đôi khi muốn đạt được mục đích người ta phải từ bỏ rất nhiều, kể cả niềm vui và đam mê.

Trong kỳ Sea Games 2015 người ta ca ngợi một siêu kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên. Cô đã đạt được 8 HCV cá nhân. Với kỳ tích này cô đã trở thành thần tượng của nhiều người. Vinh quang này cô đã phải đánh đổi và hy sinh hầu hết những niềm vui bình dị đời thường của thời tuổi trẻ.

Không sử dụng internet, không điện thoại, không face book, thậm chí xe máy cũng chưa biết đi và hơn cả là những chuyến xa nhà dài dằng dặc khiến cô nhiều lần nhớ nhà rơi nước mắt. Một ngày Ánh Viên phải bơi từ 20-25 cây số với nhiều tốc độ và “biến thiên” khác nhau. Khối lượng bài tập được phân chia trong hai buổi/ngày, thời gian còn lại, Ánh Viên tiếp tục rèn thể lực với việc tập tạ.

Quả đúng như người ta nói: muốn có vinh quang cần phải hy sinh nhiều thứ. Một em bé muốn thành bác sĩ, kỹ sư phải hy sinh thời giờ vui chơi để học tập. Một bác sĩ muốn giỏi phải hy sinh thời gian để trau dồi kiến thức. Một nghệ sỹ muốn thành danh phải dày công khổ luyện. Một linh mục muốn nên giống Chúa thì phải từ bỏ rất nhiều mới mong trở thành mục tử như lòng Chúa mong ước.

Và hôm nay Chúa Giêsu bảo muốn vào Nước Trời thì cũng phải nghiêm khắc với chính mình qua việc rèn luyện bản thân. Rèn luyện để sống khổ chế hy sinh. Rèn luyện để sống gương mẫu trước tha nhân. Rèn luyện đến mực tuyệt đối nghiêm khắc với bản thân. Có khi còn phải hy sinh cả một phần thân thể như: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.

Xem ra con đường vào nước trời đòi hy sinh rất nhiều. Hy sinh cái tôi của mình để không ganh ghét, tị hiềm tha nhân. Hy sinh của cải của mình để sống quảng đại với tha nhân. Hy sinh cả những phần thân thể mình để được vào Nước Trời.

Nhưng xem ra có mấy ai lại hy sinh cái tôi của mình, có mấy ai lại không lo cho mình mà chỉ lo cho tha nhân, và nhất là có mấy ai chịu mất đi một phần thân thể của mình, dẫu biết rằng vì chiều chuộng thân xác mà hư mất đời đời. Con người luôn đề cao cái tôi, luôn lo lắng cho bản thân, luôn chiều chuộng bản thân. Đó là lý do mà cuộc đời vẫn còn đó những ganh ghét, tị hiềm; vẫn ích kỷ thiếu lòng quảng đại với tha nhân; vẫn chiều theo bản năng, chọn dễ dãi cho tính xác thịt…

Ước gì đời người tín hữu luôn biết khổ chế bản thân. Khổ chế tính bè phái để sống bao dung. Khổ chế tính xác thịt để sống gương mẫu. Ước gì mỗi người chúng ta biết rèn luyện bản thân mình nên giống Chúa Kitô để hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn.

 

17. Ảnh hưởng gương xấu

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Những ngày qua cộng đồng mạng bàn tán nhiều về kiểu dạy “công nghệ thực nghiệm” cho học sinh lớp 1, đa số không đồng ý cách dạy theo kiểu “Con Vẹt”, đọc mà không hiểu gì, hơn nữa còn rất nhiểu nội dung thiếu chuẩn mực làm người nhưng đã được thí điểm ở 49 tỉnh, thành.

Nhiều người cho rằng có những bài học nội dung không phù hợp với trẻ. Ví dụ bài “Quả bứa” (trang 87, sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1, tập 2”) kể câu chuyện 2 cháu Năm và Sáu đi qua vườn quả. Năm thấy quả liền la (hô) to và Sáu nhặt quả bứa. Hai cháu giành qua giành lại, cậu Cả đi qua và phân xử. Cậu Cả bổ quả bứa và phán: “Năm, mày thấy quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Dành phần ruột trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu Cả vừa ăn vừa bỏ đi”.

Chúng ta thấy gì? Lời lẽ trong câu chuyện rất phản cảm, gọi nhau bằng mày – tao, ý nghĩa thì chỉ dạy các cháu cách sống tiểu xảo, ăn đểu của cậu Cả! Chưa hết, sách còn có nhiều bài học mà trong câu chuyện lại ẩn hiện ý nghĩa “mớm” cho trẻ những thói xấu như tọc mạch, xu nịnh, nói dối, châm biếm người khác… Nhiều từ ngữ mang tính tiêu cực chứ không có ý nghĩa giáo dục. Điển hình như câu thơ:

Núi cao, sông hãy còn dài

Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen

– Đây là giáo dục hay đầu độc! Nếu kiểu “giáo dục theo nội dung công nghệ thực nghiệm này được tiếp tục và nhân rộng, lớp trẻ Việt Nam sẽ ra sao?

Ngày xưa các bài giáo dục làm người là những câu ca dao, những lời đồng dao mộc mạc nhưng đầy tính nhân văn, không lẽ không còn giá trị để phải thay vào đó một lối dạy văn hóa “ma quỷ”, “đánh ghen một đời”, và ăn nói mày tao sao?

Người Công Giáo phải đồng hành với dân tộc điều đó nói lên chúng ta không thể để cho dân tộc suy thoái mà chúng ta phải có trách nhiệm với cộng đồng, cách riêng với thế hệ mầm non của đất nước. Chúng ta không thể hủy diệt một thế hệ với nội dung giảng dạy quá thô thiển được!

Hôm nay Chúa Giêsu bảo “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”. Chúa Giêsu dường như nhấn mạnh đến ảnh hưởng của người đi trước với người đi sau. Vì những gì chúng ta làm hôm nay sẽ thay đổi cách sống và lối suy nghĩ của thế hệ sau.

Nhưng những gì đang diễn ra ỏ xã hội và gia đình khiến chúng ta thật xót xa cho thế hệ trẻ mai sau, vì chúng được thấy quá ít điều tốt mà chỉ thấy cái xấu lặn vào trong từng gia đình và trường học.

Thử hỏi một sự giáo dục không nhất quán năm nào cũng thay sách gọi là cải biên nhưng không nhằm giúp học sinh tốt mà quan trọng là vì tiền theo như lời ông Hồ Ngọc Đại đã nói?Thử hỏi một sách giáo khoa áp dụng cho phân nữa học sinh lớp 1 ngây thơ bằng những câu chuyện đánh ghen, ma quỷ, tráo trở… sẽ dẫn các em đi về đâu?

Là người Công giáo, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải sẵn sàng hy sinh cả những cái gần gũi và thân yêu nhất, khi những điều đó trở thành dịp tội và làm cho trẻ thơ vấp ngã. Nhìn lại các gia đình chúng ta không khỏi giật mình với thói xấu cha mẹ đang làm hư con cái như: Nghiện công nghệ, thích buôn chuyện, hay vượt đèn đỏ, nói tục… mà chúng ta thấy nhan nhản trong các gia đình.

Nếu người Phật Giáo họ tin rằng những việc xấu họ làm sẽ nhận quả báo thì người Công Giáo chúng ta phải biết rằng: những gương mù gương xấu của mình đều phải trả lẽ trước mặt Chúa vì đã làm hư con cháu của mình.

Con người sinh ra trên mặt đất đều được mời gọi làm cho vạn vật này tốt đẹp thêm, điều đó có nghĩa là chúng ta không được làm điều xấu và càng không được dạy điều xấu sẽ làm ô uế địa cầu.

Chúa Giêsu cả cuộc đời luôn giảng dạy để canh tân xã hội. Ngài còn làm gương về nhiều điều chân thiện mỹ cho con người. Và hôm nay, Ngài vẫn mời gọi chúng ta hãy canh tân thế giới bằng việc sống hòa hợp và bác ái chia sẻ với nhau, nhất là hãy làm gương sáng cho con cháu.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết thăng tiến bản thân để trở thành gương sáng cho anh em. Xin cho xã hội chúng ta biết tôn trọng luật pháp để đừng ai vì tiền mà đánh mất lương tri đến nỗi dẫn dắt thế hệ sau đi trong lầm lạc. Xin Chúa giúp chúng ta biết tự vấn lương tâm mình hằng ngày hầu kiện toàn con người mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

 

18. Hãy yêu như Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần thế.

Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: “Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt”. Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: “Lạy Ngài, con không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn”.

Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một người thực sự xấu xa”. Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: “Lạy Ngài, con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp… nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng tốt”.

Xem ra nhận xét về một con người tùy thuộc vào tình cảm của người nhận xét nhiều hơn là về bản thân của người được nhận xét. Không ai hoàn toàn xấu, và cũng không ai hoàn toàn tốt. Vì “nhân vô thập toàn”, và mọi sự trong trời đất đều tương đối. Nhưng đáng tiếc con người lại không nhận ra. Nhiều người vẫn cho rằng mình không sai lầm. Nhiều người vẫn tưởng rằng mình không có khuyết điểm. Con người cho mình là trung tâm điểm nên dễ dàng loại trừ, kết án, tẩy chay những ai khác với mình, hoặc không đồng quan điểm với mình.

Đó còn là lý do khiến người ta thường hay phân loại để chơi. Những người cùng sở thích, cùng quan điểm, cùng ý thức hệ thì liên đới với nhau, ngược lại thi xa lánh, đôi khi lại hiềm thù và đối nghịch với nhau. Khi yêu nhau người ta dễ cảm thông, tha thứ, nâng đỡ nhau, vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Khi ghét nhau thì “Cau sáu bổ ra làm mười”. Có khi còn “ghét cả tông ti họ hàng”.

Là người Kitô hữu Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người Kitô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.

Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng hay biết. “Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để sống vị tha và nhân ái với nhau.

Nhưng đáng tiếc con người lại thiếu tình thương nhưng lại đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung nhưng đầy hận thù. Thiếu sự cảm thông nhưng chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.

Có ai đó nói rằng: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù lòa”. Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.

 

19. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin Mừng Mc 9: 38-43.45.47-48: Chúa Giêsu phán: Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con…

Suy niệm:

Gần đây, các nhà báo lên tiếng trên trang Pháp luật, Báo mới, vtc.vn về việc một mạnh thường quân bị phạt vì tự làm đường nhựa dân sinh cho người dân trên địa bàn ấp 6, xã Trung An, huyện Củ Chi, Tp.HCM. Thấy con đường hẻm trời mưa trơn trượt, dễ gây té ngã cho người đi lại, bà con nơi đây có hoàn cảnh khó khăn, ông Bùi Hoàng Anh, một nhà thầu công trình tự thuê xe lu hỗ trợ miễn phí giúp bà con tráng nhựa con đường dài 100m, rộng 3m. Người dân háo hức và phụ việc khá đông nên con đường mau chóng hoàn thành. Thế nhưng, các cán bộ xã đến yêu cầu ngừng thi công mặc cho ông Hoàng Anh giải thích, và họ đã đưa ông cùng phương tiện thi công về trụ sở xã. Ngày 2/7/2018 chính quyền bắt ông cam kết phải tháo dỡ con đường nhựa đã làm, trả lại nguyên trạng đường đất, đồng thời đóng tiền phạt. Việc cá nhân hỗ trợ làm đường dân sinh lẽ ra đáng được biểu dương, thế nhưng, trớ trêu thay!

Trong một cộng đồng, lắm khi việc tốt lại bị ngăn cản thực hiện. Cũng trong Cựu Ước mà chúng ta nghe từ Bài đọc I, khi Môisen được Thần khí của Thiên Chúa ngự xuống, thì ông dùng một phần thần khí ngự trên ông mà đặt trên 72 kỳ mục trong lều trại. Còn hai kỳ mục nữa là ông Enđát và ông Mêđát không có mặt ở trong lều trại mà cũng nhận được thần khí nói tiên tri (Ds 11,27). Điều này làm ông Giôsuê thắc mắc và muốn ngăn cản họ. Tuy nhiên, ông Môisen bảo: “Ôi, ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những ‘người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con”. Ông Môisen đã khuyên Giôsuê rằng càng nhiều người nói tiên tri, thì Thiên Chúa càng được tôn vinh, sao lại ngăn cản.

Và đoạn Tin Mừng hôm nay càng làm rõ nét hơn về chuyện tốt cần phải được cổ võ và nhân rộng. Với trình thuật Tông đồ Gioan thưa lại với Chúa Giêsu về việc ông đã ngăn cấm một người muốn lấy danh Thầy mình mà trừ quỷ. Lý do rất đơn giản mà ông đưa ra là “vì người ấy không theo nhóm chúng ta”. Gioan tưởng rằng hành động của mình đã làm được một việc tốt để bảo vệ danh tiếng cho Thầy, và ông cũng háo hức khoe khoang để mong Thầy khen tặng. Các môn đệ Chúa Giêsu vì chân còn chạm đất, mà đầu thì chưa vươn tới trời, nên cũng còn đầy tính bất toàn của kiếp người, không những giành nhau về chỗ trước hết, lại còn có suy nghĩ cục bộ, phe nhóm, ganh tỵ và muốn thể hiện quyền. Đây là dịp để Chúa Giêsu chỉ dạy các môn đệ học biết bao dung.

Người chỉ ra sự ngụy biện nơi lời nói của môn đệ mình khi họ bảo rằng “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không phải là “vì người ấy không theo Thầy”. Một sự tiêu cực rất rõ mà Chúa Giêsu thấy cần phải chỉnh đốn trong đời sống cộng đoàn. Qua sự kiện này, Chúa đã dạy cho các môn đệ và mỗi người chúng ta một bài học đáng nhớ, một công thức nằm lòng để biết cân nhắc mỗi khi xử sự với người khác: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” Tuy nhiên, lắm khi con người chúng ta cũng hành xử với đầu óc hẹp hòi, tính cục bộ, muốn độc quyền cả trong việc bác ái. Nếu chúng ta tìm cách ngăn cản việc thiện của người khác, chẳng khác nào chúng ta đang muốn tự đề cao do bởi tính ích kỷ của mình hơn là lo sợ người khác tỏ lòng hảo tâm hơn mình.

Vâng, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện không những trong dòng lịch sử Giáo hội mà còn trong cuộc sống nhân loại, để không ai có thể sống ngoài quỹ đạo tình thương và sự quan phòng của Người. Và sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo cũng đã dạy: “Người không biết Thiên Chúa nhưng họ vẫn theo tiếng lương tâm mà ăn ở ngay lành và làm việc thiện, những người ấy cũng thuộc về Chúa”. (GLCG, 262). Vì thế, đối với chính mình, chúng ta cần tập biết khiêm tốn hơn, cũng như cứ tin tưởng vào Chúa và tiếp tục làm điều thiện để việc thiện càng phải được nhân rộng ra thêm nữa. Còn với người khác, chúng ta tôn trọng những nghiã cử tốt người ta làm cho nhau, đừng ngăn cản khi người khác muốn thực hiện điều tốt một cách thật lòng.

Lạy Chúa Giêsu, người môn đệ bước theo Thầy cần sống nhân danh Chúa mà thực thi hành động bác ái. Và việc làm tốt cần phải được nhân rộng nơi anh chị em để họ cũng tỏ bày tình thương Chúa cho người khác nữa. Xin cho con đừng làm cớ cho người khác sa ngã khi chỉ vì tính phe nhóm hay ghen tỵ mà ngăn cản anh chị em tìm đến với Chúa và gây trở ngại cho người khác muốn làm điều tốt lành. Amen.

 

20. Dân ngoại

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Dân ngoại là dân chưa biết nhiều về Đức Kitô. Chưa học Kinh Thánh, Lời Chúa. Họ không diễn tả niềm tin như người Kitô hữu. Họ có cách riêng. Điều quan trọng hệ tại ở chỗ thực hành Lời Chúa. Thực hành Lời Chúa có ích hơn học mà không hành.

Hành đạo là chính

Thánh Luca 6: 46tt dậy ai nghe và thực hành Lời Chúa thì ví như người khôn xây nhà trên đá. Mưa to, gió lớn nhà đó không lay chuyển. Học mà không hành khác chi ngọc quí đem chôn. Đó là người khờ dại xây nhà trên cát, mưa to gió lớn nhà đó sập tan tành. Hành đạo mà thiếu học sẽ có lúc hành đúng; lúc hành sai. Dù đúng hay sai đều đến từ lòng chân thành, do từ tâm phát sinh. Qua thực hành, dân ngoại chủ xướng điều lành, phát động, cổ võ và phát huy rất thành công và có tầm vóc lớn nhiều chương trình công ích xã hội.

Ghi khắc trong tâm

Dân ngoại làm được những việc vĩ đại vì khi tạo dựng, Thiên Chúa đã khắc vào tâm con người một tình yêu dạt dào, đầy yêu thương. Thực tại này không thể chối bỏ vì con người được tạo dựng do tình yêu Chúa.Không có tình yêu Chúa người đó chẳng có mặt trên đời. Có mặt trên đời là bằng chứng được Thiên Chúa yêu thương. Lớn lên người đó tự do chọn, tin nhiều, tin ít, hoặc ngay cả không tin. Dù tin hay không tình yêu Chúa luôn sống động và hiện hữu.

Giả hình

Ngoài môi miệng, người ta chối bỏ mọi sự: đức tin, sự sống trường sinh và Thiên Chúa, nhưng tự tâm con người khát khao được yêu thương. Chối bỏ được yêu thương là chối bỏ chính mình. Ai cũng biết yêu và muốn được yêu nhưng lại chê tình Chúa yêu ta. Đây chính là mâu thuẫn tự tâm. Ngoài tình Chúa ra không còn gì cao quí hơn vì Chúa là nguồn gốc chân, thiện, mỹ. Từ chối tình yêu chân chính, nên bù đầu yêu vật chất và địa vị.

Phản thần

Bao lâu còn sống người ta còn có thể tự nhận là vô thần. Thế giới bên kia, đời sau không có vô thần. Chỉ có trung thần, thần lành hoặc đối nghịch là phản thần, thần dữ. Thiên Chúa sống lại từ cõi chết, Phục Sinh Khải Hoàn, Ngài thống trị phản thần, thần dữ. Vì thế phản thần chuyên cám dỗ con người chia rẽ, hành hạ nhau. Phản thần không thể làm điều tốt vì tự bản chất chúng không có tình yêu chân chính, trái lại đầy mầm phản loạn.

Thiếu tình yêu chân chính thêm vào manh tâm phản loạn nên lời nói, việc làm của chúng đều thiếu chân thành, đoàn kết. Chúng ngầm xúi bẩy con người chia bè, kéo cánh, tạo thanh thế, hành xử nghịch lại tình yêu Chúa. Chúng xúi phân chia đẳng cấp, gây tị hiềm, gieo đau khổ, hận thù. Tin chúng là chọn sống trong ngờ vực, đố kị, chia rẽ và hận thù. Đối lại đường lối Chúa là yêu thương và tha thứ. Chối bỏ được yêu thương chính là chọn lựa đau khổ. Để bớt khổ đau thì bắt người khác chịu thế, nên tranh giành, chém giết, đè nén là điều không thể tránh.

Sống nhờ tình yêu

Tình yêu Chúa tạo dựng con người. Nhờ tình yêu này mà con người hiện hữu và được nuôi dưỡng bằng tình yêu. Con người lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa nên con người sống trong yêu thương, hoà thuận, chung sống. Hơn nữa Chúa còn thánh hoá tình yêu thành tình yêu lành thánh, giúp ta sống bác ái, yêu tha nhân.

Vì thế khi sinh ra con người mang tính thiện vì gốc của nó là thiện, tâm hồn nó hướng thiện. Chúa đặt vào nó một trái tim biết yêu thương, rung động. Ban cho một lương tâm công chính. Chính những yếu tố này nảy sinh việc lành thánh nơi mọi người, dù là dân ngoại. Dù chưa chính thức nhận biết Chúa nhưng bản chất Kitô hữu, bản chất lành thánh được gieo vào lòng từ lúc người đó được tạo thành. Nhận biết việc lành, việc tốt, lòng từ tâm, bác ái, yêu thương, sống ngay chính đều phát xuất từ tình Chúa yêu ta. Giavê Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán dậy:

Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi.

Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi.

Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho các dân. (Jer 1,4-5).

Để nhắc nhớ dân Chúa qua các thời đại và xác tín điều Giavê Thiên Chúa thực hiện cho dân Ngài. Tiên tri Isaiah quả quyết trước khi con người được sinh ra, Giavê Thiên Chúa khắc tên vào lòng bàn tay Ngài.

Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta (Is 49,16)

Như thế từ bản chất, từ nguyên thuỷ mỗi người đều có chung sứ mệnh, mang dấu ấn tình yêu Chúa trong mình. Mỗi người là một ngôn sứ của yêu thương, là cánh tay Kitô giúp người nghèo khổ, là bàn tay Kitô an ủi kẻ sầu thương.

Chối bỏ ơn làm con Chúa chỉ là ngụy biện. Chọn sống trái thiên mệnh, hành xử trái với đức yêu thương, bác ái. Tính tàn ác, hận thù, chém giết, gây đau thương, tham lam, ích kỉ đều do tà thần xúi bẩy, gài bẫy và khuyến dụ. Tự bản chất con người không thể nghĩ ra những mưu chước tàn ác, bất nhân, thất đức. Mưu chước đó phải đến từ bên ngoài, một loại tình yêu giả hình, lòng mến giả hiệu. Kẻ đó chính là thần dữ ẩn danh, nấp bóng, xúi bẩy con người làm điều sai trái, xằng bậy, trái với lương tâm công chính, trái lòng từ bi. Điều nguy hại là không biết rõ mình đang tỉnh hay mơ. Dù hữu thần hay vô thần

‘Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta’ (c.43).

 

21. Ngăn cấm

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Cuộc sống nào cũng có luật lệ cần phải tuân theo. Lỗi luật nhẹ thông thường mình có tha thứ cho mình dễ dàng nhưng khi bất tuân lỗi nặng, nếu tránh không bị phạt cũng sống trong phập phồng lo sợ hay ít nhất là áy náy. Điều này áp dụng cho cả đạo lẫn đời. Lo lắng vì nếu không ai biết thì mình biết, trời biết. Lo lắng vì mình không thể lừa dối mình. Lo lắng trở nên trầm trọng hơn khi điều sai trái đó gây thiệt hại vật chất nặng nề hay thiệt hại đến sinh mạng người khác.

Luật lệ ra đời vì có kẻ lỗi luật nên mới có người làm luật. Điều này xem ra không phải thế bởi trước khi có luật trên văn bản đã có luật bất thành văn. Luật thành văn đến từ bên ngoài, do luật lệ người lãnh đạo đưa ra trong khi luật bất thành văn đến từ trong, có sẵng trong tim, óc con người, có trước luật thành văn. Dù luật chưa được viết thành văn bản nhưng tự thâm tâm người ta biết phân biệt đúng sai, phải, trái mà chúng ta quen gọi là tiếng nói của lương tâm. Nghe theo tiếng nói lương tâm làm đúng tâm hồn thanh thản; chống lại, cưỡng lại, từ chối nghe tiếng lương tâm, cố tình làm sai lương tâm hướng dẫn, tâm hồn bị dày vò, dằn vặt, cắn rứt, bối rối. Vì có luật thành văn nên cần có người thi hành luật. Như thế sẽ có người giữ luật và người thi hành luật. Cả hai đều có thể sai lầm khi ứng dụng luật vào thực tế cuộc sống.

Các tông đồ Đức Kitô trên đường đi gặp một người không thuộc nhóm các ông nói về Đức Kitô các ông đã ngăn cấm không cho họ nói về Ngài. Chúng ta không rõ họ nói tốt hay xấu Đức Kitô. Theo suy đoán có lẽ người lạ mặt này nói tốt về Ngài nhưng các tông đồ ngăn cấm họ. Chúng ta biết chuyện vì các tông đồ thuật lại cùng Đức Kitô. Các ông nghĩ mình làm điều đúng. Đức Kitô nói cho các ông biết không nên ngăn cấm họ. Ngài hiểu các tông đồ làm vì tâm tình ngay lành, làm vì tự phán đoán đó là diều tốt lành, nên làm. Dù với ý ngay lành, tốt lành cũng có thể sai. Đức kitô không khiển trách nhưng nhắc cho các ông biết dù người lạ mặt không thuộc trong nhóm nhưng vẫn có quyền chia sẻ vinh hạnh của Thầy. Điều này cho thấy Ngài không thuộc về thế gian như chính Ngài có lần tuyên bố. Ngài cũng không thuộc về phe này, nhóm kia nhưng bất cứ ai yêu mến Ngài, tuân giữ lời Ngài đều là người thuộc về Đức Kitô. Ngài không thuộc về phe, nhóm nhưng chúng ta thuộc về Ngài. Xưa kia các tông đồ loại bỏ người không thuộc nhóm và Đức Kitô nói họ làm vậy là sai. Ngày nay chúng ta gọi người không thuộc vào Giáo Hội Kitô giáo là ngoại đạo, lối gọi này sai lầm thứ nhất vì tạo tinh thần chia rẽ, dù là vô tình với í ngay lành cũng không thể chấp nhận được. Thứ hai gây nên một hiểu lầm mà chính Đức Kitô cố tránh đó là cho rằng Ngài thuộc nhóm này, phe nọ. Ngài không thuộc phe nhóm nào cả nhưng bất cứ ai ăn ngay ở lành, sống hiền hoà, chân thành thực thi luật yêu thương, ăn ở bác ái, hiền hoà đều thuộc về Đức Kitô. Đây chính là căn bản giáo huấn Ngài truyền dậy và căn bản này được viết vào tâm hồn con người. Luật bất thành văn này không viết bên ngoài nhưng khắc sâu trong tâm con người. Luật này sống động và rất thực đến nỗi bất cứ khi nào ta làm điều sai trái luật đó đền lên tiếng ngăn cản. Chúng ta có nghe theo tiếng nói đó hay không lại là chuyện khác nhưng luật đó, tiếng nói đó không bao giờ ngủ yên để con người làm trái luật yêu thương trong tâm hồn.

Đừng tự biện hộ, đừng tự bào chữa, đừng đổ thừa tại người này hay tại hoàn cảnh tất cả những điều đó chỉ là cách tự lừa dối mình.

 

22. Cân nhắc

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Cân nhắc, chọn lựa là điều ai cũng làm và cần phải làm bởi cuộc sống đòi hỏi phải chọn lựa. Không phải chỉ chọn lựa khi mua hàng mà quan trọng hơn nữa là chọn lựa cách sống và quan trọng nhất là chọn lựa niềm tin bởi chính niềm tin làm nên con người. Đây là điều trái ngược với lối sống xã hội bởi lối sống xã hội dẫn đến việc con người làm nên niềm tin trong khi Thiên Chúa giáo dậy niềm tin vào Đức Kitô làm nên con người. Con người làm nên niềm tin khi người ta lí luận thiên hạ sống sao tôi sống vậy, bởi tin theo chủ thuyết hướng dẫn và chủ thuyết thường do một cá nhân đề xướng và phe nhóm chỉ đạo nên niềm tin xã hội làm nên con người phỏng theo khuôn mẫu của chủ thuyết.

Nếu sự kiện rõ ràng đen trắng thì việc chọn lựa rất dễ nhưng thực tế cho thấy cuộc đời đâu có rõ ràng như nét vẽ trong tranh mà nhiều vấn đề liên quan đến đức tin và đạo đức thì thoáng ẩn, thoáng hiện, mờ mờ, ảo ảo nên rất khó biết đâu là đúng đâu là sai. Tránh chọn lựa thì không thể bởi cuộc sống bắt phải chọn lựa cách sống và niềm tin. Như thế hai vấn đề quan trọng cần phải cẩn thận khi chọn lựa đó là vấn đề đạo đức và đức tin. Hai vấn đề này tạo nên con người bởi đức tin hướng dẫn cách sống đạo và chính cách sống đạo là khuôn mẫu tạo nên con người đạo đức thật hay đạo đức giả, con người thánh thiện thật hay thánh thiện giả. Cuộc sống tâm linh hướng dẫn đạo đức cuộc sống vì thế đạo đức tâm linh như rễ một cây giúp cây đó đứng vững trước gió bão, mưa to. Rễ mà yếu thì cây sẽ bị nghiêng theo chiều gió. Đức tin yếu kém sẽ ngả theo khuynh hướng xà hội. Đức tin yếu kém đã lung lay giờ tệ hơn nữa chuyển sang lung lạc. Nhiều trường hợp xem ra có vẻ hợp lí và tốt lành nhưng khi bắt tay vào việc mới biết chìm sâu trong đó ẩn dấu những điều độc hại làm cho lương tâm cắn rứt. Đây chính là trường hợp các tông đồ Đức Kitô mắc phải.

Thánh Marcô ghi lại hai trường hợp rõ ràng. Trường hợp thứ nhất, sau khi nghe Đức Kitô tiên báo về việc Ngài sẽ bị bắt bởi các Thượng Tế và Kì lão, bị đánh đập và bị giết treo trên thập tự và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Nghe điều đó Phêrô ngã ngữa, nên ông kéo Đức Kitô sang một bên nói vào tai Ngài là hy vọng những điều Ngài vừa tiên đoán đừng xảy ra. Khi làm điều đó Phêrô tin không những mình làm đúng, điều tốt lành mà còn là điều phải làm để cứu mạng sống người khác. Phêrô chỉ nhận ra sai lầm khi Đức Kitô nói với ông điều ông suy nghĩ chỉ là lí luận hợp lí trần thế mà điều đó trái nghịch với sự khôn ngoan của Thiên Chúa Mc 8, 30. Để cứu nhân loại khỏi chết muôn đời Đức Kitô tự nguyện chết thay cho nhân loại và khi sống lại từ cõi chết Ngài cũng sẽ ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Mầu nhiệm cao siêu này vượt khỏi trí tưởng của ta. Trường hợp thứ hai là ông Gioan khi thấy có người nhân Danh Đức Kitô làm phép lạ Gioan đã cấm họ và vui mừng về nói cùng Đức Kitô về điều ông đã ngăn cấm. Gioan làm điều danh chính bởi ông ngăn cản kẻ lạm dụng Danh Đức Kitô để làm phép lạ. Điều Gioan làm chính là điều hiện nay xã hội có luật lệ bảo vệ, ngăn cấm kẻ lạm dụng điều được gọi là tài sản tinh thần- cấm trích dịch, phóng tác dưới mọi hình thức vì phạm vào tội xử dụng mà không có phép bản quyền của tác giả hay nhà xuất bản. Đức Kitô không nghĩ thế nhưng nói với Gioan là không ai nhân danh Ngài làm phép lạ rồi sau đó đi nói xấu Ngài như thế thì không cần ngăn cấm họ Mc 9, 38tt.

Cả Phêrô lẫn Gioan đều phán đoán và hành động theo sự khôn ngoan trần thế và cả hai đều sai lầm trong vấn đề đức tin và đạo đức. Ngoài giáo huấn của Đức Kitô ra thì không còn giáo huấn nào đáng tin cậy để hướng dẫn đức tin. Giáo huấn của Ngài cần đi chung với cầu nguyện thì mới có thể hướng dẫn chọn cân nhắc, lựa lối sống chính xác. Xã hội hiện nay quảng cáo nhiều mẫu mực tâm linh khác nhau và nhiều lối sống khác nhau. Chúng được bầy bán nhan nhản trên thị trường như những món hàng thương mại. Hàng thương mại thì vừa tiện vừa lợi lại tiết kiệm thời gian, sống thoải mái nhưng chúng không ban sự sống trường sinh như thiên hạ quảng cáo bởi mẫu mực tâm linh nào cũng cho mình đúng và tốt hơn cả. Làm sao có thể có nhiều mẫu mực mâu thuẫn nhau mà tất cả đều đúng. Không có chi minh chứng cho những quảng cáo, cổ võ kia là sự thật. Đức Kitô kêu gọi một cuộc sống thanh lọc, chọn con đường khó, chọn cửa hẹp và điều bảo đảm chính là cuộc khổ nạn và sống lại vinh quang của Ngài làm bằng chứng cho giáo huấn của Ngài.

 

23. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Mc 9: 38-43.45.47-48: Dù ghen tỵ cách nào đi nữa thì chúng ta vẫn bị Chúa khiển trách như đã khiển trách Gioan: “đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay cả sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan đã phàn nàn với Chúa Giêsu rằng,  có ai đó không thuộc về nhóm mười hai đã làm dấu lạ nhân danh Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản vì người ấy không theo chúng ta.”

Rõ ràng trong đầu óc ông có tư tưởng phe phái và cố chấp. Ông sợ thiên hạ chia sẻ quyền lực của mình. Gioan cho rằng, chỉ có các ông mới là những người được hưởng đặc ân, được tham dự vào sứ vụ của Thầy, cho nên ông muốn ngăn cấm người ta trừ quỷ.

Gioan tưởng như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ vì “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cái óc ghen tỵ đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân Ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất.

– Chúng ta có thể ganh tỵ khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

– Chúng ta có thể ghen tỵ chỉ đơn giản là  họ không thuộc phe nhóm của mình.

– Chúng ta có thể ghen tỵ bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ghen tỵ với những người không có đạo khi những người không có đạo làm được những điều hay điều tốt.

Dù ghen tỵ cách nào đi nữa thì chúng ta vẫn bị Chúa khiển trách như đã khiển trách Gioan: “đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay cả sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, đã kể câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” trong tập truyện “Bài ca của loài chim” (The Song of Bird) như sau:

“Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trận đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1- 0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời.

Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:

– Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời: “Tôi à? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”.

Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại càng bực hội hơn. Ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”

Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả những ai không thuộc về tôn giáo của họ”.

Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao Thầy không ủng hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.

Anh chị em thân mến,

Tuy là câu chuyện vui, nhưng nó lại mang sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay.

Gioan đã ngăn cản người khác trừ quỉ. Ông tưởng là ông có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu, nhưng ông không ngờ được phản ứng quyết liệt của Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Không ai có đặc quyền đặc lợi trong sứ vụ của Chúa Giêsu! Tất cả đều bình đẳng, tất cả đều là anh em trong tình yêu của Ngài: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Tiêu chuẩn để theo Chúa Giêsu, làm môn đệ Ngài chỉ có bấy nhiêu! Và chúng ta thấy có nhiều người trong xã hội hôm nay, bên Ðông cũng như bên Tây, da trắng cũng như da màu, nghèo cũng như giàu. Họ nuôi dưỡng cô nhi quả phụ, chăm lo bệnh nhân, người già cả, trẻ bé thơ, bụi đời, xì ke, ma tuý, aids. Họ cổ võ hoà bình, chống chiến tranh, bất công xã hội, lập nhà thương, xây dựng trường học, xoá đói giảm nghèo, phân phát thuốc men miễn phí. Tất cả đều đang thi hành sứ mệnh của Chúa giữa đồng loại. Việc làm của họ nhắc nhở chúng ta phải gạt bỏ mọi khuynh hướng chia rẽ bè phái.

Tinh thần của Ðức Kitô, quả thật, đã bẻ gãy mọi rào cản, đạp đổ mọi tường thành mà linh mục, tu sĩ, giáo dân chúng ta đã dựng nên.

“Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Lạy Chúa, xin cho tinh thần của Chúa luôn tác động nơi cuộc sống mỗi người chúng con. Amen.

 

24. Tránh gương xấu và dịp tội

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dạy dỗ các Tông đồ. Bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay ăn khớp với nhau. Cũng như ông Maisen khiển trách ông Giôsuê ganh tị không cho hai người khác nói tiên tri chỉ vì họ không đến dự lễ tấn phong. Chúa Giêsu cũng khuyên các Tông đồ đừng ganh tị với những người không thuộc Nhóm 12 mà vẫn nhân danh Chúa mà trừ quỉ, trái lại phải có tinh thần hợp tác. Sau đó, Chúa Giêsu hứa thưởng công bội hậu cho những ai giúp đỡ các môn đệ của Ngài.

Điều mà chúng ta muốn bàn đến trong bài chia sẻ hôm nay là gương xấu và dịp tội. Chúa Giêsu lên án cách mạnh mẽ và quyết liệt đối với những ai nêu gương xấu cho những kẻ bé mọn, tức là những người còn kém đức tin, yếu đuối, dốt nát, bị khinh bỉ: “Thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.

Ngoài ra, Chúa Giêsu còn khuyên phải tránh các dịp đưa đến tội. Ngài dùng một kiểu nói cường điệu mà nói lên tính cách nặng nề của dịp tội: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi…”. Thực ra, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen câu nói của Ngài mà phải hiểu theo nghĩa tượng trưng, vì nếu tay, chân, mắt nên dịp tội thì phải chặt đi thì chắc mọi người phải chặt hết, và như vậy Hội thánh Chúa chỉ bao gồm toàn những người què cụt sao?

Vì thế, chúng ta phải quyết tâm loại trừ mọi gương xấu và dịp tội. Chúng ta phải chống lại các chước cám dỗ, lánh xa các dịp tội và tránh xa những dịp nguy hiểm có thể đưa đến tội, theo nguyên tắc: “Đào vi thượng sách”: lánh đi là tốt nhất. Nguyên tắc này cũng phù hợp với Lời Chúa: “Ai thích sự nguy hiểm sẽ rơi vào sự nguy hiểm”(Gv 3,27), ai yêu thích dịp tội thì sẽ dễ dàng sa ngã vào tội đó.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Ds 11,25-29.

Để chia sẻ gánh nặng trong việc cai trị dân, ông Maisen đã chọn ra 70 vị kỳ mục, làm lễ tấn phong cho các ông, chuyển giao Thần Khí của mình cho các ông để các ông nói tiên tri. Trong số đó có 2 vị không đến dự lễ tấn phong mà vẫn nói tiên tri. Giosuê thấy thế rất khó chịu và bảo ông Maisen cấm hai ông ấy nói. Nhưng ông Maisen chẳng những không ngăn cấm mà còn nói: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là tiên tri”.

+ Bài đọc 2: Gc 5,1-6.

Bài đọc 2 này chỉ là chủ dề phụ. Như các tiên tri xưa, thánh Giacôbê cảnh cáo người giầu có một cách dữ dội. Sở dĩ thánh nhân phê phán nặng lời bởi vì:

– Họ tích trữ tiền của một cách phi pháp như không trả công cho thợ…

– Họ bóc lột người vô tội mà họ không ngại kết án.

– Họ dùng tài sản để thoả mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.

+ Bài Tin Mừng: Mc 9,38-48.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần:

  1. a) Tránh óc bè phái.

Cũng giống như ông Giosuê và ông Maisen trong bài đọc 1, ông Gioan thấy có một số người không thuộc Nhóm 12 mà vẫn nhân danh Chúa mà trừ quỉ và ông xin Đức Giêsu ngăn cấm họ. Nhưng Ngài chẳng những không ngăn cấm mà lại còn cho một bài học: “Ai không chống Ta là ủng hộ Ta”. Ngài nói như thế là có ý dạy cho các môn đệ đừng nhìn người khác bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, mà còn phải hợp tác với những người thiện chí.

  1. b) Tránh gương mù, gương xấu.

“Đừng làm gương xấu cho kẻ bé mọn”. Chúng ta không được hiểu kẻ bé mọn đây là trẻ con, ngây thơ, yếu đuối, nhưng còn phải hiểu nghĩa rộng hơn, đó là những kẻ còn kém đức tin. Nếu những người lãnh đạo mà làm cớ cho họ vấp phạm thì “phải buộc thớt cối xay vào cổ mà ném xuống biển còn hơn”.

Ngoài ra, khi nói tới gương xấu hay dịp tội đến từ bản thân mình làm nên cớ vấp phạm thì Chúa khuyên: hãy chặt nó đi.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Gương xấu và dịp tội

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, thuật lại việc Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ. Trong bài này, Marcô kể lại câu chuyện sau khi khiển trách Gioan về tội ganh tị, Chúa Giêsu hứa ban phần thưởng cho những ai tiếp đón các môn đệ Ngài; đồng thời, Ngài dạy không được làm gương mù gương xấu và còn phải tránh các dịp tội. Trong bài này, chúng ta chỉ bàn đến phần thứ ba là tránh gương xấu và dịp tội mà thôi.

  1. TRÁNH GƯƠNG XẤU.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra nhiều điểm rất quan trọng liên quan tới đời sống cộng đoàn. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu nhằm gửi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn, nhưng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.

Trước tiên Ngài khuyên các Tông đồ hãy có tinh thần hợp tác đừng ngăn cản những ai góp phần vào việc làm sáng danh Chúa. Tiếp đó Ngài chúc phúc cho những ai giúp đỡ các ông và hứa phần thưởng bội hậu cho những người ấy.

Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho người khác phạm tội. Ngài tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Ngài đi lạc lối. Ngài nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà ném xuống biển thì hơn”(Mc 9,42)

Thiên chức của người tông đồ cao quí như vậy nên Đức Giêsu dạy các Tông đồ không được làm gương xấu cho những kẻ bé mọn. Vậy “những kẻ bé mọn” đây là ai? Chúa muốn ám chỉ những người hèn kém, khờ dại, dốt nát, không được học hỏi những vấn đề luật pháp: Hạng ngươi này, trong Do thái giáo, có khuynh hướng khinh bỉ họ. Những kẻ bé mọn có lòng tin này là những người thuộc giai cấp bình dân có thiện chí muốn học hỏi Kinh Thánh, luật pháp, thường được các thầy thông luật giải thích Thánh Kinh, luật pháp, nhưng lại bị giải thích sai lạc vì những gương xấu.

Vì thế, việc cảnh giác đề phòng làm gương xấu cho những “kẻ bé mọn” này, Chúa Giêsu muốn nhắm tới các thủ lãnh tôn giáo mà Ngài đã có lần tố cáo họ đã độc quyền chiếm đoạt sự giải thích Thánh Kinh và đóng cửa không cho kẻ muốn vào (Lc 6,39; Mt 15,14) và dụ ngôn về con chiên lạc (Lc 15,3-7; Mt 18,12-14).

Chúa Giêsu đã răn đe rất nghiêm ngặt những ai gây gương mù gương xấu: “Thà buộc cối xay vào cổ người ấy mà ném xuống biển còn hơn”. Lời răn đe rất thẳng thắn và quyết liệt. Thớt cối xay nặng như thế mà kéo dìm một tội nhân dưới nước thì không thể nào ngóc đầu lên được: ý nói đến sự xấu xa, ghê tởm, nặng nề của tội làm gương xấu.

Trong bức thư của Lentulô, tổng trấn Do thái gửi cho hoàng đế Tiberiô, để diễn tả chân dung Chúa Kitô, có câu này: “Khi ông (Chúa Kitô) quở trách sửa phạt, thật cả là một sự ghê sợ; nhưng khi khuyên bảo dạy dỗ ông lại rất hoà nhã đằm thắm, làm cho thiên hạ tin phục say mê”.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy lộ ra hai tính cách đó: nửa trước Chúa khuyên bảo nhân từ dịu dàng; nửa sau Chúa rất nghiêm thẳng đối với hai vấn đề gương xấu và dịp tội.

Truyện: Cha Béc-na Vô-gan

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khói trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu”? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.

  1. TRÁNH CÁC DỊP TỘI.

Đối với dịp tội Chúa Giêsu nói tiếp: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi, thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục” (Mc 9, 43).

  1. Phải hiểu Lời Chúa như thế nào?

Chúng ta thấy Đức Giêsu nói một cách quyết liệt như thế, ta phải hiểu thế nào? Thực ra, Ngài dùng lối nói cường điệu của những nhà hùng biện như thế là muốn cho chúng ta thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mọi người.

Nếu chúng ta hiểu lời Chúa theo nghĩa đen thì chúng ta thấy Giáo hội sẽ ra làm sao? Chắc chắn sẽ xẩy ra trong hai trường hợp:

  1. a) Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị chột…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình.
  2. b) Trường hợp 2: Giáo hội sẽ không tồn tại, vì không có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những không bao giờ thực hiện điều ấy, mà Giáo hội còn dạy những điều ngược lại. Sách giáo lý Công giáo của Giáo hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách giáo lý cho biết: “… Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe doạ đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người. Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, huỷ hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý”(GLCG số 2297).

Thực ra, những lời nói của Chúa Giêsu không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể làm được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Ngài là in sâu vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xoá được, rằng Nước Thiên Chúa đáng cho chúng ta hy sinh mọi thứ khác.

  1. Nói về dịp tội.
  2. a) Nguyên nhân.

+ Thiên Chúa cho phép.

Không ai có thể phủ nhận được sự hiện hữu của dịp tội, của cám dỗ. Chính ma quỉ đã cám dỗ để làm hư hoại loài người, dĩ nhiên là Thiên Chúa cho phép cám dỗ để thử thách lòng trung thành của con người. Chúng đã cám dỗ ông Adong và bà Evà, và ông bà đã sa ngã, đã bất trung với Chúa. Ngay Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ trong hoang địa nhưng đã chiến thắng một cách vẻ vang. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”(Mt 26,41; Mc 14,38; Lc 22,40).

Nếu nói rằng Chúa cám dỗ chúng ta thì không đúng, không bao giờ Chúa cám dỗ chúng ta mà Ngài chỉ cho phép ma quỉ cám dỗ chúng ta trong mức độ chúng ta có thể chịu đựng được để thử thách chúng ta thôi, vì”lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức”. Như vậy, cám dỗ tự nó không xấu, nó chỉ là một sự thử thách và nó có lợi cho những ai cố gắng chiến thắng nó để vượt qua thử thách vì như người ta nói: “Vô hoạn nạn, bất anh hùng”.

+ Loài người gây ra.

Con người sống trong xã hội có tương quan với nhau, do đó có ảnh hưởng tương tác, hoặc là ảnh hưởng tốt hoặc là ảnh hưởng xấu. Vì vậy mà Chúa Giêsu đã nói: “Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”(Mt 18,7). Và Chúa còn lên án mạnh mẽ hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”(Mc 9,42; Mt 18,6).

Ngày nay người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Người ta có thể đi từ châu lục này đến châu lục kia trong vòng mấy giờ đồng hồ, cho nên ảnh hưởng giữa con người càng nhanh chóng và càng mạnh. Dù chúng ta có biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp phạm hay tảng đá giúp cho người khác vượt qua trên con đường đến ơn cứu độ (x. Mt 21,42-44).

Chúng ta có thể trở thành tảng đá vấp ngã hay tảng đá giúp cho người khác vượt qua là tuỳ ở cách sống của chúng ta: nếu chúng ta gây gương mù gương xấu thì chắc chắn đã trở thành tảng đá vấp ngã. Ngược lại, nếu chúng ta nêu gương sáng giúp người khác sống tốt hơn thì chúng ta trở thành tảng đá giúp người ta vượt qua:

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ

Lại trở nên đá tảng góc tường.

Đó chính là công trình của Chúa,

Công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta (Tv 118,22-23).

Dựa vào câu Thánh vịnh trên, Chúa Giêsu nói: “Bởi đó, Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân làm cho nước ấy sinh hoa lợi. Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt” (Mt 22,43-44).

  1. b) Phải chống trả chước cám dỗ.

Cám dỗ hiện diện khắp nơi mà không ai có thể thoát được. Chính Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ. Chúa đã nhắc bảo các Tông đồ: “Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Như vậy công việc của chúng ta là chỉ việc chống lại chước cám dỗ. Cuộc chiến chống ba thù là một cuộc trường kỳ kháng chiến, không bao giờ kết thúc. Và trong cuộc chiến này phải phân thắng bại, không được thoả hiệp: một là thắng, hai là bại. Adong Evà đã để lại gương thất bại, còn Đức Giêsu đã nêu gương chiến thắng rực rỡ.

Dĩ nhiên trong cuộc chiến một mất nột còn này đòi phải gian khổ, hy sinh, từ bỏ có khi ngay cả đến bản thân mình, không có từ bỏ không chiến thắng được.

Truyện: Đánh bẫy khỉ.

Người ta đồn thổi rằng: An thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên người ta tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam mà lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn thay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông quả cam ra để bàn tay được tự do. Đã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt quả cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương (Thiên Phúc).

Thế giới chung quanh ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội khiến chúng ta lỗi luật Chúa. Chúa Giêsu nói hơi mạnh: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi” (Mc 9,43). Chúng ta phải hiểu rằng kiểu nói: “chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình.

Nói tới cắt tỉa, chặt bỏ, từ bỏ là những động từ gợi lên cho chúng ta sự đau đớn, nhưng như người ta nói: “Thuốc đắng đã tật”(Tục ngữ), đau đớn lại là một điều cần thiết cho sự lành mạnh, nó là một điều kiện” bất khả thiếu”. Chính vì vậy, Ludovic Giraud đã viết: “Nỗi đau đớn với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất mầu mỡ, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khoẻ và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

Xét ra Lời của Chúa cũng không xa thực tế lắm. Có người chỉ vì lòng tham lam của cải chứ không phải vì Nước Trời mà đã dám hy sinh một phần thân thể. Họ dám hy sinh cái nhỏ để chiếm được cái lớn. Đó là ông O Neil, nhà thám hiểm đã tìm ra đất Ai nhĩ lan. Khi nhóm thám hiểm đến gần phần đất mới, vị thuyền trưởng tuyên bố: “Hễ ai chạm tay trước hết vào phần đất trên bờ thì người ấy làm chủ phần đất ấy”. Ông O’Neil quyết tâm chiếm cho bằng được. Ông chèo chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Nhận thấy có kẻ khác vượt lên trên mình, ông quyết định lấy rìu chặt đứt cánh tay trái và liệng vào bờ, chạm đất trước hết, thắng cuộc.

Nhà thám hiểm cụt một tay để được một nước thế gian, thì trong việc chiếm lấy Nước Trời, Chúa dạy chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì thân thiết và quí mến.

  1. c) Tránh dịp nguy hiểm.

Người ta thường nói: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ở trong một môi trường tốt thì người ta dễ nên tốt, người ở trong một môi trường xấu thì dễ trở nên xấu, đó là định luật tâm lý vì người ta hay bắt chước một cách vô ý thức.

Kinh Thánh nói: “Ai thích sự nguy hiểm thì sẽ rơi vào sự nguy hiểm” (Gv 3,27): chơi với lửa có ngày sẽ bỏng, chơi với dao có ngày đứt tay, chơi với bùn có ngày lấm áo… Đó là kinh nghiệm ngàn đời của dân gian. Nên người ta khuyên:

Chim khôn tránh lưới tránh dò,

 Người khôn tránh chốn xô đồ mới khôn.

(ca dao)

Người xưa cũng khuyên: “Cá, giải chán vực sâu mà ra chỗ nông, cho nên mắc phải chài lưới. Chim, muông chán rừng rậm mà xuống đồng bằng, cho nên bị phải cạm bẫy” (Hàn Thi ngoại truyện).

Chống lại chước cám dỗ là tốt, việc phải làm, nhưng cũng không nên gây ra dịp thuận tiện để cho cám dỗ ập tới. Tại sao không cố mà tránh cơ hội gây ra cám dỗ để khỏi bị mắc bẫy?

Chim ham mồi sa lưới,

Cá ham thính mắc câu.

Con người phải nghĩ cho sâu,

Đừng ham danh lợi, sắc hầu sa cơ.

Tài danh là cạm giữa trời,

Hồng nhan là bả những người tài hoa.

(ca dao)

Người xưa cũng còn dạy: “Cẩn tắc vô ưu”: cẩn thận thì khỏi phải lo. Không ai dám nói được mình khôn ngoan, không bị sa vào cạm bẫy. Chúa Giêsu đã từng khuyên: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 26,41; Mc 14,38). Cẩn thận đề phòng là phương pháp tốt nhất để khỏi bị rơi vào cạm bẫy của ma quỉ đang giăng ra khắp nơi, như lời thánh Phêrô khuyên: “Anh em hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1Pr 5,8-9a).

Truyện: Thuê tài xế lái xe.

Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.

Người giầu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.

Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.

Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.

Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.

Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá”.

(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20)

Hôm nay Chúa nói với chúng ta: nếu tay hay chân, hay mắt nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn chúng ta lánh xa dịp tội. Đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội. Ngoài ra, chúng ta còn phải nỗ lực hy sinh nhiều để giữ lòng trong sạch và trung thành với Chúa. Thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời rút ra từ bài hát cổ xưa mà Giáo hội thường sử dụng trong kinh Nhật tụng giờ Kinh chiều của một số ngày Chúa nhật trong năm phụng vu:

“Nghe danh hiệu Giêsu, mọi gối phải quì xuống.

Mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ngài là vua vinh quang… Hãy để Ngài ngự trị tâm hồn bạn. Hãy để Ngài chinh phục những gì chưa thánh thiện, những gì chưa đúng. Ước gì bạn biết lên tiếng gọi Ngài trong cơn cám dỗ. Hãy để Ngài che phủ bạn bằng ánh sáng và quyền năng của Ngài.

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Ngài, để ngự trị trên trái đất. Ngài là Thiên Chúa cứu độ. Ngài là Đấng Kitô Chủ tể chúng ta” (M. Link).

 

25. Gương xấu và dịp tội

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quý giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.

Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèm kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài thì không bao giờ bỏ qua đâu.

Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: “Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?”. Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay. Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.

Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quý giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.

Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân hay móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội…thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.

Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp…đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.

 

26. Tinh thần đại kết

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin Mừng Mc 9: 38-43.45.47-48: Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẻ cho anh em hạnh phúc ấy.

Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” (trong tập truyện “Bài ca của loài chim” – The Song of Bird) như sau:

“Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trận đấu rất gây go giữa hai đội tuyển Tin lành và Công giáo. Khi đội Công giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:

– Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại bực bội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”

Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả những ai không thuộc về tôn giáo của họ”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao Tôi không ủng hộ đội tuyển Tin lành hay đội tuyển Công giáo, mà chỉ ủng hộ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.

Anh chị em thân mến,

Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền nói tiên tri cho Nhóm Bảy Mươi vị Kỳ mục, đã xin Môisê ngăn cấm hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!” (Bđ. 1)

Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi”, “đừng dập tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vẻ trong sáng. Con người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình. Công đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các văn hóa khác.

Cuộc “hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang thiên niên kỷ thứ ba. Trong Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (10/11/1994), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).

Thưa anh chị em,

Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ nam nữ, các kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật giáo, Khổng giáo, Tin lành, Cao đài, Công giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa thưởng công, dù chỉ là một ly nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm thì “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn dùng kiểu nói cường điệu: “chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý báu ấy nên cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què chân, mù mắt hơn là phải vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống đời đời.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẻ cho anh em hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản chứng và gây gương mù. “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba, hết thảy chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của thiên niên kỷ thứ hai. Muốn thế, cần phải nổ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Chúa Kitô tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong Chúng Ta” (Ga 17,21) (số 43).

 

27. Gương mù gương xấu

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh Mác-cô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là vấn đề gương mù gương xấu.

Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà cho nhiều người khác dễ vấp ngã.

Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gướng xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là những kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin, làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp muời lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Pa-lét-tin có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rô-ma mang vào Do Thái, và rất kinh sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.

Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai ở trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.

Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.

 

28. Chặt tay

Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu châu đi tìm đất mới. Nhà lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số mệnh, và ông đã tuyên bố: Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể lãnh thổ ấy. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm giành được đất mới. Ông gắng sức chèo, nhưng rồi một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất liền thì đã ở ngay trước mặt. Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay không? Con người sắt đá này đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông cầm lấy chiếc búa, chặt đứt bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.

Kể lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được lời nói của Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ cho con phạm tội, thì hãy chặt nó đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn nhắm tới? Tôi nghĩ rằng những người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả những cái gần gũi và thân yêu nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng ta vấp ngã. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Nước Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu của chúng ta, muốn đạt được thì phải hy sinh.

Đúng thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Đối với một số người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất cũng đau đớn như là cắt đứt một bàn tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng ta: Nếu chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú trọ thì chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để nâng đỡ những hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm lấy Nước Trời có thể cũng đớn đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện rượu thì bỏ đi một xị hay chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng vì vui lòng Chúa, anh ta phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi lễ sáng Chúa nhật. Cố gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức và khó chịu ở một mức độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước Trời. Ngồi theo dõi truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh. Thưa chuyện với Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời, nhưng nó là đòi hỏi chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay nói chuyện tào lao với nhau.

Chúa Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái lại Ngài còn hiến dâng trọn vẹn mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng để cứu chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta biết từ bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa của chúng ta. Hay nói các khác, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên Thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.

 

29. Chúa Nhật 26 Thường Niên

“ĐỪNG NGĂN CẢN NGƯỜI TA” (Mc 9,39)

Môn đệ của Chúa Giêsu lấy làm khó chịu khi có người nhân danh thầy mình mà trừ quỷ, cụ thể là Gioan, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến một cách đặt biệt nhưng Chúa Giêsu giải thích cho môn đệ của mình: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Có hai cái nhìn về một sự việc: cởi mở và đố kỵ, cái nhìn của con người và cái nhìn của Chúa.

Phản ứng của Gioan tuy chưa đến mức độ gay gắt nhưng cũng cho thấy ẩn tàng thái độ tranh giành hơn thua và loại trừ người khác. Những ai không cùng phe cùng nhóm với mình thì khó lòng chấp nhận hành động của họ cho dù họ làm đúng, làm tốt. Ông ỉ lại sự ưu ái của Chúa và khư khư giữ chân lý dành cho mình. Con người thường hay đố kỵ, ganh tỵ với thành công, ưu điểm của người khác, sợ ảnh hưởng của mình bị chi phối. Lòng đố kỵ và cái nhìn nhỏ hẹp làm cho đời sống con người không thể phát triển, nhất là đời sống đức tin không thể trưởng thành và những người xung quanh không thể nhận ra hình ảnh của Chúa. Co cụm trong suy nghĩ và hành động chỉ thêm cho mình sự cằn cõi và ù lì.

Ngược lại, Chúa Giêsu nhìn sự việc rất cởi mở và thanh thoát, người khác nhân danh mình để làm điều tốt đó là một thành công và uy tín được xác định, nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến điều đó. Ngài mời gọi sự hoà hợp và đón nhận nhau khi làm việc tốt và nhất là loại trừ cái xấu, đó là “trừ quỷ”, cùng nhau xây dựng, bảo vệ cái tốt. Đặc biệt hơn trong lòng mỗi người phải giữ cho mình một thứ “muối” thật mặn để ướp cuộc sống thêm mặn mà, nồng ấm tình người hơn và “sống hoà thuận” với nhau. Khi con người đón nhận ưu điểm, ngay cả giới của nhau và nhìn cuộc sống với tấm lòng rộng mở thì cuộc sống trở nên tốt đẹp.

Sống cởi mở, đón nhận nhau cùng nhau lên tiếng bảo vệ sự thật, lên án bất công và cái xấu là điều cần phải làm cũng như không thể vì lòng đố kỵ mà cản trở người khác đang xây dựng một môi trường sống tốt đẹp. Với Chúa Giêsu mỗi người cùng nhau mang hạnh phúc, bình an và chan chứa tình huynh đệ cho cuộc sống ngày hôm nay.

Lạy Chúa, xin cho con có tấm lòng quảng đại như Chúa để thật lòng đón nhận ưu khuyết điểm của người khác, sống hoà thuận và yêu thương để cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.

 

30. Sống bác ái và làm gương tốt

Minh Họa Lời Chúa

  1. Chấp nhận hy sinh

Sau khi tốt nghiệp đại học, Thomas More dấn thân vào con đường chính trị. Chàng thăng tiến chức rất nhanh. Năm 1529, chàng được vua nước Anh là Henry VIII phong lên chức Đại Pháp quan. Nhưng thảm kịch lại xảy đến cho Thomas More. Vua Henry VIII ly dị hoàng hậu và tái hôn bất hợp pháp. Để chống lại những kẻ phản đối cuộc tái hôn này, vua bắt buộc các quan trong triều đình ký tên chấp nhận cuộc tái hôn là hợp pháp. Ai bất tuân sẽ bị tống ngục vì tội phản loạn. Vì sợ mất chức tước, các quan đều ký tên, chỉ trừ ông Thomas More. Ông cương quyết chống lại gương xấu của nhà vua. Bạn ông là Norfolk khuyên, “Cuộc tái hôn này có hợp pháp hay không thây kệ nó, bạn cứ ký tên vào, bạn thấy các quan đều ký tên cả rồi.”

Thomas More vẫn từ chối không chịu ký tên, vì ông không thể làm điều lỗi luật Chúa, nhất là nêu gương mù gương xấu cho dân chúng. Thế là ông đã bị tống ngục và bị hành hình năm 1535.

  1. Cạm bẫy

Người ta đồn ăn thịt nhất là óc của khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp, nên nhiều người tìm cách đánh bẫy khỉ. Họ lấy trái dừa, bổ ra làm đôi, bỏ vào đó trái cam thơm ngon, khoét một lỗ nhỏ vừa nắm tay khỉ, rồi cột trái dừa lại, đem treo trên cây. Nghe mùi thơm của cam, khỉ tìm đến, thọt tay vào trái dừa, nắm lấy trái cam lôi ra. Nhưng nó không thể rút tay ra được, vì tay nó nắm trái cam quá lớn so với cái lỗ của trái dừa. Biết mình bị mắc bẫy, nhưng nó cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la. Thế là người ta bắt được con khỉ khờ dại đó.

  1. Cột cối đá lớn vào cổ nó

Ông Henry nổi tiếng về cách kết thúc câu chuyện gây ngạc nhiên của ông. Có một câu chuyện liên hệ đến một đứa trẻ thiếu thốn về mặt tình cảm. Nó luôn hỏi cha nó có thể ngồi vào lòng ông được không? Nhưng người cha luôn gạt đi và bảo nó ra ngoài chơi.

Điều không thể tránh khỏi đã xảy ra, cô bé lớn lên và chấp nhận tình yêu thương từ bất cứ ai. Cô trở thành một cô gái điếm. Khi cô chết, thánh Phêrô thưa với Chúa Giêsu, “Hôm nay có một người tội lỗi xấu xa đến.”

Và đây là kết luận ngạc hiên khi Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô, “Lúc cô ấy đến, hãy cho cô vào thiên đàng. Còn khi cha của cô đến, hãy bắt ông chịu trách nhiệm về cuộc đời của cô.” Tôi có cảnh giác để không làm điều gì khiến cho người khác, đặc biệt là trẻ nhỏ, mất niềm tin vào Chúa Giêsu không?

  1. Gương tốt khơi dậy gương tốt

Một thanh niên bị án tử hình vì tội sát nhân. Trước khi thi hành án, anh xin nhà vua hoãn lại cho anh hai ngày và cho anh về nhà sắp đặt mọi việc. Nhà vua sợ anh trốn luôn nên nói với dân chúng có mặt ở đó, “Trẩm sẽ cho người thanh niên này về nhà, nếu có ai trong các ngươi dám bảo lãnh, và nếu người thanh niên này không trở lại thì kẻ đó phải chết thay.”

Nhà vua nghĩ là không ai dám bảo lãnh như thế, nhưng có người dám đứng ra bảo lãnh. Mọi người đều cho rằng người này phải chết thay cho người thanh niên đó, vì chắc chắn hắn sẽ trốn luôn.

Nhưng đúng hai ngày, người thanh niên đó đến phủ phục trước mặt vua, “Tâu bệ hạ, tôi đã làm xong mọi việc, hôm nay tôi xin đến để chịu án tử.”

“Thế là ngươi không trốn luôn à?”

“Thưa tôi không muốn thất tín, để cho không ai nói được sự tín trung đã bến mất khỏi thế giới con người.”

Quay sang người bảo lãnh, nhà vua hỏi, “Còn ngươi, sao ngươi dám bảo lãnh cho người xa lạ này?”

“Tâu bệ hạ, vì tôi muốn chứng tỏ lòng nhân hậu và can đảm hy sinh cho kẻ khác vẫn còn trong xã hội loài người.” Và từ trong đám đông, người con của kẻ bị chàng thanh niên giết chết tiến ra phủ phục trước măt vua và nói: “Tâu bệ hạ, giờ đây tôi xin bệ hạ tha cho chàng thanh niên bị án tử hình này. Tôi và gia đình đã tha cho anh ta rồi, vì tôi muốn chứng minh trong xã hội con người còn có kẻ biết tha thứ cho nhau.”

  1. Tinh thần đoàn kết xây dựng

Có sáu người đi lạc giữa đêm giá lạnh miền Bắc cực. Họ xúm xích nhau bên đống lửa để đỡ giá lạnh như cắt da xé thịt. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người đang cầm một thanh củi trên tay, mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.

Người thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen. Bà tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?”

Người thứ hai nhìn thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ, “Tại sao mình phải hy sinh khúc củi này sưởi ấm kẻ thù?”

Người thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có sang trọng. Anh tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh miếng củi của mình để sưởi ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?”

Người thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh ta thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ, “Dại gì mình bỏ thanh củi của mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh mạt kiếp và lười biếng đó.”

Người thứ năm chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng đã khinh dễ hà hiếp người da màu. Anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để trả thù bọn da trắng.

Người sau cùng thuộc thành phần du đãng, không tin ai cũng chẳng làm việc gì cho ai nếu không có lợi. Hắn tự nhủ, “Nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.”

Như thế, tất cả sáu người đều sưởi ấm nhờ đống lửa đang tàn lụi, nhưng không ai muốn bỏ thanh củi của mình vào cho nó tiếp tục sưởi ấm cho mình và cho những người cùng lạnh lẽo như mình. Cuối cùng sáu người đều chết cóng vì giá lạnh, không chỉ giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe phái.

  1. Ấn tượng xấu

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khóai trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu”? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.

  1. Thuê tài xế lái xe.

Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.

Người giầu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.

Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.

Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.

Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.

Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá”.

(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20)

Hôm nay Chúa nói với chúng ta: nếu tay hay chân, hay mắt nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn chúng ta lánh xa dịp tội. Đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội. Ngoài ra, chúng ta còn phải nỗ lực hy sinh nhiều để giữ lòng trong sạch và trung thành với Chúa. Thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

 

31. Óc bè phái.

Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất cảm động, khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc người ta đã hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.

Câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới óc phe nhóm và tinh thần bè phái của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của Gioan. Thực vậy, ông không thể chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa, không thuộc về phe mình, mà lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm được.

Tên của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy có một sức mạnh, nhưng đối với Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của Chúa mới có quyền xử dụng sức mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà ngay cả nhóm môn đệ, đều cố sức ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu. Họ muốn giữ độc quyền. Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai cũng lấy danh Chúa mà trừ quỷ thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa. Chúng ta không biết các ông đã làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.

Chắc hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay của bản thân Ngài. Vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Hẳn anh ta phải có một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta không phải là môn đệ chính thức trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có những môn đệ theo sát Chúa Giêsu và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng trái tim họ thì lại rất gần Ngài.

Các môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai không ủng hộ các ông đều là kẻ thù của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài hiền lành và bao dung, nên Ngài có nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến chúng ta phải nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch một đường thật rõ để tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và dân ngoại. Chúng ta sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi với người khác, chúng ta sẽ có nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một Đức Kitô mà có thể họ đã mang lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần gọi tên Ngài trên môi. Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn nhát và khiếp đảm.

Hơn thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta thực hiện: Hãy mở ra với thế giới, hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng như hãy mở ra với những người chưa tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính chiếu soi trên mọi người và cho mọi người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn hoạt động giữa các dân tộc.

 

32. Tinh thần cởi mở

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá – ViKiNi)

Tin mừng kể: “Một người không theo chúng ta, nhưng lại nhân danh Thầy mà trừ quỷ”. Người đó bề ngoài không đi theo Chúa như các môn đệ, nhưng chắc chắn bên trong, tâm trí ông đã tin theo Chúa rồi. Ông có tin Chúa là Đấng quyền phép hơn ma quỷ, ông mới nhân danh Chúa, mới tin cậy danh Chúa mà đuổi quỷ. Ông vừa có đức tin, vừa có lòng bác ái thương cứu giúp kẻ bị quỷ hành hạ.

Thời trước, cứ đến tối 30 tết, các cụ đạo đức nhất gia đình, đến nhà thờ xin nước thánh về rảy khắp các gia đình con cháu. Các cụ xin nước thánh của Chúa có sức đuổi ma quỷ để sang năm mới, mọi gia đình con cháu được thoát khỏi mọi ám ảnh sự dữ của ma quỷ hãm hại. Năm mới được mọi sự nên mới, nên tốt đẹp, cả hồn an xác mạnh.

Phong tục Việt Nam xưa, trước khi bước sang năm mới, nhà nào cũng trồng cây nêu thật cao và thẳng vút, dưới sân vẽ những mũi tên bắn đi tứ phương để xua đuổi ma quỷ ngay từ những ngày đầu năm mới, mong được mọi sự an lành suốt năm, phải chăng đó là cách tham gia vào công cuộc xua trừ quỷ dữ của Đức Giêsu? Họ tin có quỷ hãm hại con người. Họ quyết tâm trừ khử chúng, coi chúng là nguyên nhân gây ra tội ác và tai họa. Chúng gieo rắc tội lỗi xấu xa cho con người.

Họ đã thực hiện công cuộc như Đức Giêsu đã thực hiện là giải thoát con người khỏi ách nô lệ của quỷ dữ, khỏi mọi ảnh hưởng của quỷ xấu xa để con người được sống an lành, tốt đẹp trong ánh sáng chí thiện, chí mỹ là Thiên Chúa.

Mục đích việc trừ quỷ của họ rất hợp với mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Người đến thế gian để cứu loài người thoát vòng nô lệ ma quỷ, để trở về làm con Thiên Chúa. Vì thế, trong bí tích Rửa tội, Linh mục hỏi kẻ sắp chịu phép Rửa tội: “Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ bỏ ma quỷ, là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không? Họ trừ khử ma quỷ là họ muốn sống trong tự do của con cái tốt lành, tức là con cái Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, những ai tốt lành đều là con cái Thiên Chúa. Như vậy, việc trừ quỷ của “người không theo chúng ta” xét về mục đích và thiện tâm thiện chí, thì tự căn bản nền tảng, họ đã theo Chúa thực sự rồi. Cho nên, họ đáng được Thiên Chúa chúc phúc bình an và cứu độ, như các thiên thần đã hát khi Chúa giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Họ chỉ khác chúng ta là họ chưa được nhận những nghi thức bên ngoài như chúng ta. Chúng ta trừ quỷ thì đọc lời Chúa, dùng nước thánh, tuyên xưng đức tin rõ ràng bằng lời nói và chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn họ, họ diễn tả theo cách thức dùng cây nêu, mũi tên là dấu chỉ như một quyền phép siêu phàm mạnh mẽ hơn quỷ để trừ quỷ, nhờ một Đấng tốt lành để bảo vệ họ mà xua đuổi những loại xấu xa, độc hại. Như vậy, họ chỉ khác chúng ta về phương diện dụng cụ diễn tả bên ngoài, chúng là những dấu chỉ phụ thuộc để diễn tả điều căn bản nền tảng bên trong.

Bí tích của đạo Chúa cũng là dấu chỉ bên ngoài chỉ những mầu nhiệm huyền bí thiêng liêng bên trong. Đức Giêsu đã dùng rất nhiều những dấu chỉ của trần thế để diễn tả những mầu nhiệm nước Trời như thế. Người đã dùng những hình ảnh sinh hoạt, văn hóa hay thiên nhiên, hữu hình để diễn tả mầu nhiệm nước Trời vô hình, như: men, muối, ánh sáng, hạt cải, cỏ lùng, người gieo giống, người quản lý, nén bạc, tiệc cưới hoàng tử, chàng rể, các cô phù dâu … nhất là Người đã dùng thân xác phàm trần của Người cũng như thập giá, và lưỡi đòng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người. Đó là cách hội nhập văn hóa, là tinh thần cởi mở đại kết của Đức Giêsu, biết trân trọng những giá trị trần thế, những giá trị khác biệt chúng ta. Nhưng những giá trị ấy cũng thực là những giá trị Thiên Chúa đã dựng nên. Chính vì thế, Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta làm gì. Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Họ trừ quỷ là họ đã thực sự nhân danh Đức Giêsu, họ đã tích cực ủng hộ công cuộc cứu thế của Người. Sao lại ngăn cản họ? Sao không đón rước họ vào hàng môn đệ của Đức Giêsu? Nhiều khi chúng ta ăn phải đũa của Pharisiêu quá lệ thuộc vào nghi thức bên ngoài, mà lòng thì xa Thiên Chúa, ngăn cản họ, coi chừng chúng ta ngăn cản Thánh Linh, vì “Thánh Linh muốn thổi đâu thì thổi”. Họ có thể đã được rửa trong Thánh Thần. Họ là những Giakêu, đã tìm cách nhìn thấy Đức Giêsu. Họ là những sĩ quan La mã đã đến xin Người cứu chữa đầy tớ, là những người Samari nhân hậu đã được Đức Giêsu khen ngợi và nêu gương cho chúng ta. Họ là gia đình viên thái giám, người Thêôphi, là những gia đình Cornêliô (Cvtd. 8, 26-40 và 10, 1-48). Họ cũng có thể là “Người đã cho anh em một ly rước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu?”. Còn chúng ta, hãy coi chừng, rất có thể chúng ta làm cho một trong những tín hữu bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn. Hãy coi chừng tay, chân, mắt, mũi, miệng lưỡi chúng ta đừng để ma quỷ xúi giục làm gương mù gương xấu cho kẻ khác, kẻo sẽ bị ném vào lửa hỏa ngục, là nơi dòi bọ rúc rỉa người ta và lửa không hề tắt.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được tâm hồn quảng đại cầu nguyện như Môisen: “Phải xin Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ. Xin cho chúng con biết bước vào nhà chư dân như thánh Phêrô đã bước vào gia đình Cornêliô để tất cả đều được lãnh nhận Thánh Thần. Amen.

 

33. Nạn độc quyền

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Độc quyền kinh doanh sản xuất, độc quyền phân phối, buôn bán, độc quyền lãnh đạo đất nước, độc quyền làm việc thiện, độc quyền phụ trách công tác giáo dục…Con người xưa lẫn nay đều dễ vướng vào chước cám dỗ độc quyền. Khi đã nắm độc quyền dù ở lãnh vực nào đi nữa thì vị thế, vai trò của chúng ta là như bất khả xâm phạm, chưa kể trong nhiều lãnh vực, khi đã được độc quyền thì lợi ích của chúng ta luôn được bảo đảm. Đằng sau những thứ độc quyền ấy, có một thứ độc quyền chủ yếu chi phối tất cả, đó là độc quyền chân lý, nghĩa là chỉ riêng mình ta mới đúng và như thế những ai khác ta hay ngược với ta đều là sai lạc.

Xưa dân do Thái đúc con bò vàng trong hoang địa không phải là muốn bỏ Thiên Chúa để tôn thờ sản phẩm do tay mình làm nên. Nhưng thực ra họ muốn làm một cái bệ, cái ngai bằng hình con bò để Thiên Chúa ngự. Từ đây khi họ đem cái ngai hình con bò ấy đi đâu thì buộc Thiên Chúa phải đi theo đấy. Thế là họ đã nắm được Thiên Chúa, thần của các thần, chúa của các chúa, nghĩa là họ đã độc quyền được Đấng toàn năng.

Cám dỗ độc quyền còn thể hiện nơi các sinh hoạt của con người dưới nhiều hình thức như thuốc gia truyền, môn võ bí truyền, nhãn hiệu, thương hiệu, bằng sáng chế, phát minh… Có nhiều thứ độc quyền xem ra hữu lý nhằm để bảo vệ quyền lợi nhà sản xuất, quyền tác giả…Tuy nhiên từ việc bảo vệ những quyền lợi chính đáng người ta cũng dễ dàng bị cám dỗ ganh tương đố kỵ và tìm cách loại trừ những ai có quyền lợi tương đồng như mình bằng nhiều hình thức.

Khi Đức Chúa ban Thần khí cho cả những người không đến Lều Hội Ngộ, Giosuê đã xin Môsê ngăn cấm họ. Giosuê đã ngỡ ngàng trước câu trả lời Môsê: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần khí của Người trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11,29). Chắc chắn Môsê muốn nhắc bảo Giosuê rằng chớ nên độc quyền ân ban của Đức Chúa. Thần Khí Thiên Chúa luôn tự do như gió trời, muốn thổi đâu thì thổi (x.Ga 3,8).

Người hành xử bằng sự độc đoán, độc quyền, chuyên chế vốn thường canh cánh trong lòng nỗi lo sợ kẻ khác tranh quyền, tranh lợi. Nguyên việc người ta như mình hay ngang hàng với mình họ cũng không chịu nỗi huống là qua mặt mình hay hơn mình. Lòng ganh tương, đố kỵ xui khiến chúng ta tìm đủ lý do, đủ mọi cách thế để kìm hãm tha nhân, dìm kẻ khác xuống hoặc ít ra là ngăn cản không cho người ta phát triển hay tiến lên. Thánh Giacôbê khẳng định “ Ở đâu có ganh tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ xấu xa” (Gc 3,16). Điều xấu xa, tồi tệ nhất đó là cả người ganh tương và người bị đố kỵ, cả hai đều bị hạn chế phát triển và khó có thể làm được sự gì tốt đẹp cách đúng nghĩa.

“Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9,38). Ngài Gioan nêu một lý do xem ra có phần hữu lý. Nhưng đằng sau hai từ chúng ta, không biết thầy Giêsu có được bao nhiêu phần, nhưng phần của tập thể nhóm Mười Hai và cách riêng phần của ngài Gioan thì không nhỏ. Ẩn sâu dưới sự độc quyền chính là sự kiêu ngạo, tham danh, hám lợi. Chỉ có ta hay phe nhóm chúng ta mới là duy nhất đúng, vì thế chỉ có ta hay phe ta mới có quyền giáo dục, mới có quyền lãnh đạo… và rồi chỉ có ta, phe ta mới được hưởng lợi lộc và được tôn vinh. Đã từng có thời, Kitô hữu chúng ta cũng rơi tình trạng độc quyền chân lý. Chỉ có chúng ta, người Công Giáo mới nắm được sự thật, còn ngoài ra đều là tà đạo hay lạc đạo. Hậu quả của thái độ độc tôn, độc quyền thật đáng ghê sợ mà lịch sử đã minh chứng mà đáng kể là những cuộc chiến tranh, những sự đàn áp bất công, loại trừ tha nhân cách này cách khác… Đã sám hối và thú lỗi cách minh nhiên, thì chúng tin chắc rằng trong tương lai sẽ chẳng còn xuất hiện những bước chân của đoàn quân thập tự hay các phiên tòa xử người dị giáo.

Biết rằng muốn được hạnh phúc đích thực và trường tồn thì phải qua Chúa Kitô, vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (x.Ga 14,6). Thế mà Chúa Giêsu đã nói với Gioan: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9,40). Lời khẳng định của Người giúp ta xác quyết rằng cho dù chân lý là duy nhất nhưng vẫn có đó nhiều ngõ lối để tiếp cận. Hạnh phúc Nước Trời chỉ có một, nhưng Thiên Chúa có nhiều cách thế để ban chính mình cho nhân loại mọi thời và mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Chúa Giêsu trong chuyện dụ ngôn ngày thế mạt đã minh họa sự thật này. Ngay cả những người tự nhận là khi sinh thời đâu có biết Người, thế mà họ cũng “ủng hộ” Người, nghĩa là tiếp bước theo Người và sống cho Người, để rồi đáng được hưởng phúc muôn đời (x.Mt 25, 31-46).

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Một trong những chước cám dỗ mà ta cần xin Chúa cứu đỡ, đó là mặc cảm tự tôn. Tự tôn là một hình thái của kiêu ngạo. Khi mặc cảm tự tôn được hổ trợ bằng chút thế, chút lực thì người ta sẽ tìm cách giữ độc quyền trong hành động và sẽ độc đoán trong phán quyết. Độc quyền, độc đoán là một lối sống, một cung cách hành xử của kẻ độc tài và hệ quả tất yếu là những hành vi độc ác. “Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Lịch sử cho thấy chưa từng có kẻ độc tài nào đem lại điều tốt đẹp cho con người, cho xã hội, mà toàn là những sự xấu xa, tồi tệ, vì đã là kẻ độc tài thì ít nhiều cũng là người ác độc. Dù rằng vẫn có một vài ý kiến không đồng thuận, nhưng người ta cũng thấy có lý phần nào khi gần đây đã đưa lên phim ảnh để gợi lên sự tương đồng giữa nhà độc tài Hitler với nạn dịch chết người HIV- AIDS.

Xin được lưu ý điều này: cầu nguyện không phải là bắt Chúa làm theo ý chúng ta, nhưng để chúng ta nhận biết ý Chúa mà nỗ lực thực hiện. Nạn “độc quyền” là một trong những nguyên nhân làm cho con người sa ngã và nhân loại sẽ lầm than trong sự băng hoại nhiều phương diện. Ngoài việc cảnh giác và khử trừ sự độc tôn, độc tài nơi bản thân, thì bạn, tôi, chúng ta cần làm gì để hạn chế và tiến dần đến chỗ loại bỏ những hình thái độc quyền, độc tôn trong Giáo Hội và những cơ chế độc tài phi nhân, bất chính ngoài xã hội? Hãy chặt chúng đi! Hãy móc chúng đi! Đây là mệnh lệnh mang tính sống còn, không chỉ cho bản thân chúng ta mà còn cho những kẻ bé mọn là những người luôn được Thiên Chúa ưu ái.

 

34. Cùng nhau rao truyền chân lý

Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trên thế giới cũng như trong lòng mỗi người, cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chân lý tối hậu hầu được ơn cứu độ.

Thế nhưng trong việc rao truyền chân lý, Chúa không chỉ trao cho một số người, nhưng kêu gọi mọi người hãy sống và làm chứng cho Sự thật, ai đứng về phía Sự thật thì nghe tiếng Chúa. Sự thật là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc loài người. Tất cả những ai nghe biết Tin mừng này đều được phép và có bổn phận loan báo cho mọi người xung quanh.

Ngay từ thời Cựu ước, trong Bài đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa lấy thần trí của Môsê ban cho 70 vị bô lão để họ cùng với Môsê lo cho dân Chúa. Tuy nhiên, lúc đó có một số người ganh tỵ dùm cho Môsê và xin Môsê cấm các ông bô lão nói tiên tri. Môsê đã tỏ rõ lập trường của mình: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban thần trí Người cho họ”. Môsê không dành độc quyền cho mình trong việc giảng dạy nhưng sẵn sàng cho nhiều người cộng tác với mình, miễn sao cho danh Chúa được cả sáng.

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa giêsu cũng không dành độc quyền giảng dạy và chữa bệnh cho nhóm tông đồ mà sẵn sàng cho phép những ai tin mến Chúa được cộng tác vào công việc này. Chúa giêsu đã sửa lại quan niệm độc quyền của các ông: “đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh thầy làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu thầy. Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con”. Ai nhân danh Chúa làm điều tốt thì Chúa ủng hộ, còn ai làm điều xấu thì đáng bị phạt, nhất là khi điều xấu đó làm ảnh hưởng đến người khác và trở nên gương xấu cho những kẻ bé mọn.

Như vậy, mọi người trên thế giới dù thuộc tôn giáo hay dân tộc nào cũng hãy sống tốt, sống nhân hậu, hợp tác với nhau để chân lý được sáng tỏ như vầng hồng chính ngọ, chân lý về một Thiên Chúa nhân từ hay xót thương nhưng công bằng vô cùng. Ngài là Đấng tạo dựng nên muôn loài và cũng là Đấng ban ơn cứu chuộc cho nhân loại. Những ai rao truyền chân lý, trước tiên hãy là tấm gương phản chiếu lòng nhân từ, yêu thương, công bình của Thiên Chúa nơi chính mình, Nhờ đó, mọi người nhận thấy Thiên Chúa trong công việc và đời sống của mình, họ sẽ ca khen Thiên Chúa và đáp trả lại tình thương của Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô và các môn đệ của Người.

Những ai còn sống trong đố kỵ, phân biệt giai cấp, kỳ thị chủng tộc, loại trừ người khác là đang làm ngược lại ý Chúa và đang tiêu diệt chính mình. Chuyện kể rằng: có 6 người đi lạc giữa đêm giá lạnh vùng băng tuyết. Họ xúm xít nhau bên đống lửa để đỡ giá lạnh. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người đang cầm một thanh củi trên tay mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.

Người thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen. Bà tự nhủ: tại sao mình hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?

Người thứ hai thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ: tại sao mình phải hy sinh khúc củi này để sưởi ấm kẻ thù?

Người thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có sang trọng. Anh tự nhủ: tại sao mình phải hy sinh miếng củi này để sưởi ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?

Người thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ: dại gì mình bỏ thanh củi mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh lười biếng này.

Người thứ 5 chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng hay hà hiếp người da màu, anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để trả thù bọn da trắng.

Người sau cùng thuộc nhóm xã hội đen, không tin ai và cũng chẳng làm việc gì cho ai nếu không có lợi. Hắn tự nhủ: nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.

Do đó, đống lửa từ từ tàn hết. Cuối cùng cả sáu người đều chết cóng vì giá lạnh, không chỉ vì giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe phái…

(x. Minh Hoạ Lời Chúa – LMTV- Tập 3, tr.142, “Tinh thần đoàn kết xây dựng”)

Nếu mọi người biết bỏ qua những khác biệt nhỏ nhen và những tính toán ích kỷ thì thế giới ngày càng phát triển trong ổn định. Nếu loài người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương, quãng đại, hy sinh, nếu loài người biết loại bỏ óc bè phái và sống cho Sự Thật, thì Nước Chúa được trị đến và nhân loại hạnh phúc biết chừng nào.

 

35. Nhân ái trong thực hành

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Thánh Phaolô đã từng phát biểu, ‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu…, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả… nhưng vui khi thấy điều chân thật’ (1 Cr 13:4-7), phải chăng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn đề cập cách thực tế tới các đặc tính của đức mến này, cũng như coi chúng không chỉ như thuộc tính của con người, mà còn áp dụng cho cả Thiên Chúa nhân ái nữa?

‘­Đức mến tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả!’ Sự khác biệt giữa môn đệ Gio-an và thầy Giêsu không chỉ hệ tại nơi hành động ngăn cản hay đừng ngăn cản một việc thiện không rõ mục đích, ‘có người lấy danh Thầy mà trừ quỉ’. Sự khác biệt lớn giữa hai người là ở chỗ, Thầy Giêsu có lòng nhân còn Gio-an thì không. Môn đệ của một Đấng Kitô nhân ái và hay xót thương không thể là người hành động thế này hay thế khác, nhưng phải là người có lòng nhân. Bao lâu còn khắt khe, xét nét… thậm chí lên án người anh em trong cách cư xử của họ, thì chưa đáng coi mình là môn đệ chân chính của Đức Kitô. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”; trước một việc thiện, dù nhỏ nhất hay xuất phát từ một con người bất xứng nhất, Tin Mừng không những đòi ta có thái độ khoan nhượng, mà còn đòi phải đón lấy như một sự ủng hộ tích cực. Trong tinh thần đó, Don Bosco, vị thánh hết lòng yêu thương giới trẻ, đã lên tiếng: “Hãy yêu mến những gì trẻ yêu thích”, hay “Các con cứ việc la hét chơi đùa thỏa thích… miễn là đừng phạm tội”. Cũng trong tin tưởng và hy vọng của Tin Mừng mà ta nhận ra giá trị to lớn của các việc phục vụ thường ngày, dầu nhỏ bé nhất… như ‘cho người anh em uống một chén nước lã’. Đương nhiên ‘vì lẽ anh em thuộc về đấng Kitô’ được hiểu là nhân danh lòng nhân ái xót thương vô biên của Thiên Chúa ‘được tỏ hiện nơi Đức Kitô Giêsu’.

‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’; chính trong đức mến đối thần này mà ta nhận ra sự trầm trọng của cái gọi là ‘làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, trầm trọng tới độ, trong cách nói ngoa ngữ của người Do Thái, ‘thà buộc cối đá lớn vào cổ mà ném xuống biển còn hơn’. Cũng vậy để tránh dịp tội, nếu cần, ta cũng phải sẵn sàng hy sinh mất mát tất cả, ‘thà chặt tay, chặt chân, móc mắt…’ Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, khi bàn về vấn đề ăn thịt cúng (chương 8), Phao-lô cho chúng ta thấy, vì đức mến, ông đã tự buộc mình vào sự từ bỏ quyết liệt như thế nào; “Nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1 Cr 8:13). Và lý lẽ ông đưa ra cũng rất thuyết phục: “Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc! Như vậy, phạm đến anh em và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến đức Kitô!” (câu 11-12).

Như vậy theo Phao-lô, Đấng đã tôn trọng sự yếu đuối của con người tội lỗi trước hết lại là chính Thiên Chúa xót thương. Cái chết tự hiến của Giêsu – Con Một Ngài cho thấy Thiên Chúa đã nhẫn nhục và hiền hậu trước sự yếu hèn của từng người chúng ta như thế nào. Và còn hơn cả ‘chặt tay, chặt chân, móc mắt…’, còn hơn cả ‘không bao giờ ăn thịt nữa’, Thiên Chúa đã trao nộp chính người Con Một chí ái để chết trên thập giá vì chúng ta (xem Ga 3:16). Mạch văn của Phao-lô cũng cho chúng ta hiểu rằng, ‘làm cớ sa ngã’ không chỉ mang nội dung làm gương mù gương xấu trong lãnh vực luân lý, mà còn hàm cả Tin Mừng và thần học nữa. “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, câu xác quyết này của Đức Giêsu rõ ràng chất chứa nội dung đức mến nhân ái của Tin Mừng khi chính Người tự giời thiệu mình như sau, ‘không bẻ gẫy cây lau bị dập, khộng giập tắt tim đèn còn khói’ (Mt 12:20). Nếu Thiên Chúa nhân ái đã thà hy sinh Con Một mình để cứu lấy nhân loại tội lỗi, trước cả khi họ hoán cải để trở nên hoàn thiện, thì tôi là ai mà dám nhân danh sự thánh thiện, công chính, đạo đức hay hiểu biết của mình để loại bỏ người anh em? Làm như thế là tôi đang gây cớ vấp phạm, ‘làm tổn thương lương tâm yếu đuối của người anh em’. Chỉ cần nhìn vào thái độ Đức Giêsu cư xử với người phụ nữ Sa-ma-ri thấp kém bên bờ giếng Gia-cóp, khi kêu mời bà hãy kín múc Nước Hằng Sống bất chấp tình trạng sống chung chạ của chị (Gio-an chương 4), là tôi hiểu ra ngay ‘đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’ phải như thế nào. Trong môi trường Tin Mừng chân chính, ‘kẻ bé mọn đang tin’ phải được trân trọng và bảo vệ hơn hết. Do đó tôi không được phép nhân danh bất cứ giá trị nào, dầu lớn lao tới mấy, để kết án hay loại trừ họ.

Nếu tôi muốn trở nên mục tử nhân lành như Đức Kitô mong ước, bài học nhân ái này dứt khoát phải được tôi thuộc lòng, và tôi cũng mơ ước được cùng các anh em tiến bước và phục vụ trong một Hội Thánh nhân ái.

Lạy Chúa Giêsu nhân ái! Có lẽ còn lâu con mới hiểu thấu lòng nhân ái của Chúa, cũng như phải sống đức mến thần linh này với hết mọi người ra sao. Trong công tác mục vụ, xin cho con nằm lòng câu xác quyết của Phao-lô: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến… thì chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13:1-3); chỉ như thế con mới thực sự dõi theo bước chân của vị Mục Tử Nhân Hậu. Amen.

 

36. Sống theo Thần Khí

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt, làm sao để hình thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống bình an hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại?

  1. Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có

Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả, Ngài là Cha của tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang sở hữu hoặc đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad và Medad nói tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng làm cho những người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với Môsê được nói tiên tri.

Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe phái: nếu không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói tiên tri. Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được Thiên Chúa thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa. Cũng tương tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép lạ, vì “người đó không là một trong chúng ta”. Ai có thể làm phép lạ nếu không phải chính Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả lời Yoan: “đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng không phải là kẻ chống lại Thầy”. Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo chúng ta.

Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên Chúa ra khỏi hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực ra Thiên Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để tất cả được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do Thiên Chúa mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của mình, là muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.

  1. Những người bám víu vào của cải đời này

Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều người đời thường tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất, thỏa mãn xác thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất cả. Tiền bạc giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người đời kính trọng.

Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà chẳng được: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Với đồng tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con người, kể cả những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc là quan trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và phương tiện có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.

Làm sao để con người có một bậc thang giá trị đúng đắn, nghĩa là đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên đời này, điều gì là quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể đạt được hạnh phúc trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và theo đuổi những điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ, và chính người đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một giá trị tuyệt đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt đối, thì người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới hạnh phúc đích thực.

III. Dứt khoát với dịp tội

“Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!

Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các tông đồ: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Thân xác có những nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do tại sao Phêrô đã “không thể thức với thầy được một giờ”. Những lề luật, thường là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình ở vào dịp tội.

Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường xảy ra khi người ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những dịp tội, và cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong những trường hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do, họ sống dưới những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những trường hợp này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn rượu hay một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ sẽ lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu đối với con người của mọi thời đại.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá trị đúng đắn? Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con người và vạn vật?
  2. Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người khác khổ nhất? Tại sao?
  3. Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm cho chính mình cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh phúc đích thực?

 

37. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin Mừng Mc 9: 38-43.45.47-48: Để làm gương sáng thì chính bản thân mỗi người phải biết rèn luyện, phải can đảm quyết liệt từ bỏ những sự sai trái…

Thiên Chúa vĩ đại hơn tư tưởng của loài người; thế nên con người không có quyền hạn hẹp Thiên Chúa vào trong định kiến của mình, trong tôn giáo của mình. Con người không thể nào độc quyền về Thiên Chúa “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3, 8). Nơi nào có điều thiện hảo và tình yêu, nơi đó có Thánh Thần Thiên Chúa. Ngay cả những người chống đối Kitô giáo không phải tất cả đều do ý xấu. Có lẽ họ đã chống đối những điều chúng ta đã làm không xứng danh là Kitô hữu.

  1. Tìm Hiểu Tin Mừng: Mc 9, 38-45.47-48

Máccô thu tập một số lời của Đức Giêsu rất riêng lẽ, đặt chúng lại với nhau qua việc nối kết bằng từ “Danh Thầy” (cc. 37, 38, 39 và 41), phần hai được nối kết bằng thuật ngữ “cớ sa ngã”. Hai từ “lửa” và “muối” nhấn mạnh ba câu cuối (c. 48. 49 và 50)

Giáo Hội non trẻ vừa lớn lên , nhưng gặp nhiều nguy cơ có thể gây sự tan rã: sự bách hại từ bên ngoài và các tư tưởng lạc giáo từ bên trong. Thêm nữa, vấn đề gây cấn là cộng đoàn có nên đón nhận những kẻ chối đạo trở về cộng đoàn hay không. Những ý kiến chống đối nhau nảy sinh giữa Hội Thánh. Nhiều người có cái nhìn bảo thủ, thường loại nhiều hạng người ra khỏi cộng đoàn. Đức Giêsu luôn chống đối cái xấu và cả người chia rẽ, nhưng không cuồng tín “ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Hội Thánh không còn độc quyền về Đức Kitô, về Thánh Thần, về bác ái, cũng như phục vụ.

Phần hai (cc.42-47) là những lời cảnh cáo nghiêm trọng, không được phép gây Scandanle, cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, những người mới gia nhập đạo, đức tin còn yếu kém. Mỗi người phải cẩn trọng trong cộng đoàn, trong liên hệ với các kẻ khác: “Nếu trong anh em …chân anh…mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, hãy chặt đi !”tay chân mắt là ba cơ quan trọng yếu để sống tương quan với kẻ khác. Nếu chúng ta gây hại cho anh em phá vỡ cộng đoàn “Hãy chặt chúng đi !”. Đương nhiên không thể thực hành theo mặt chữ vì giới răn thứ năm không cho phép. Nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta phải dứt khoát loại cái xấu, để bảo đảm ơn cứu độ cho chính mình, dù có phải chiến đấu đau khổ, cũng phải loại bỏ bằng được cái xấu ra khỏi chúng ta. Thế thì người Kitô hữu phải luôn tự thanh luyện mình để đức tin tinh tuyền sẽ làm cho cuộc sống ra tốt đẹp.

  1. Gợi Ý Suy Niệm
  2. Nơi Thiên Chúa, Ân Sủng Dành Cho Mọi Người: Trong thời buổi kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt ngày nay, Công ty xí nghiệp nào độc quyền một ngành hàng, độc chiếm một thị phần thì có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ. Cho nên, trong thế cạnh tranh họ làm sao cho mình là một thương hiệu độc quyền, nhà phân phối độc quyền, khai thác độc quyền. Họ nhanh tay đăng ký nhãn hiệu độc quyền để được pháp luật bảo hộ khỏi bị người khác chia bớt doang thu, chia bớt thị phần …

Trong đời sống đức tin cũng có xuất hiện những thứ độc quyền, đòi độc quyền ân sủng như thế. Trong bài đọc I, Giôsuê bực tức ganh tỵ khi thấy có hai người nói tiên tri, mặc dầu họ không được ủy quyền, cũng không được ‘thụ phong’. Xem ra họ là những người ‘nhái’ ân sủng, ăn trộm ân sủng của Thần Khí. Trong Tin Mừng cũng xuất hiện một Gioan ( đại diện cho các môn đệ) ghen tỵ thực sự. Các ông hãnh diện vì thuộc nhóm Tông đồ được tuyển chọn và được quyền ‘xua trử ma quỉ’ nhân danh Đức Giêsu. Các ông thấy đăc quyền của mình bị đe dọa bởi một người không đi theo nhóm ‘chúng ta’ mà làm được phép lạ. Các ông giận dữ chống đối, ngăn cản, tố cáo đòi lên án. Rõ ràng nơi Giôsuê, hay nơi Gioan và các môn đệ xuất hiện một não trạng bè phái, một não trạng muốn độc quyền ân sủng. Phản ứng của Môsê cũng như của Chúa Giêsu cho thấy một giáo huấn hoàn toàn khác. Ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ, trao ban chan hòa cho mọi người vượt qua mọi biên giới. Ân sủng không phải là đặc quyền của một người, một nhóm, một dân tộc mà là của mọi người. Trước ân sủng của Thiên Chúa, ai cũng có quyền bình đẳng, ai cũng có quyền được thụ hưởng. Thiên Chúa là của mọi người. Không có bất kỳ một thứ đăc quyền, độc quyền ân sủng nào trong Giáo Hội, trong Nước Chúa. Ngày nay Kitô hữu cũng cần phải cẩn trước thái độ độc quyền sử dụng Lời Chúa để rồi lên án mọi việc của người khác. Không minh nhiên tỏ ra mình là người có quyền giải thích Lời Chúa nhưng cứ khư khư bảo thủ với cách hiểu Tin Mừng của mình để rồi có những lập luận lên án Giáo Hội, lên án giáo quyền, lên án người khác vì tất cả đã không thuận theo ước muốn của mình.

  1. Quảng Đại Đón Nhận Mọi Người Hiệp Thông Trong Chúa: Giáo huấn của Chúa Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, Chúa Giêsu không đồng ý, Ngài cảnh giác các môn đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về Đức tin và Thánh Thần. Chúa Giêsu không muốn cho cho Hội Thánh của Ngài có tinh thần ‘kín cổng cao tường’, ‘tinh thần pháo đài’ co cụm. Lệnh của Chúa là phải mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy mọi người, những ai không tỏ ra thù nghịch với mình. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Và xa hơn nữa ai giúp các môn đệ dù chỉ một ly nước lã thôi nhưng giúp vì danh Chúa thì cũng không mất phần thưởng. Như thế, giáo huấn của Chúa rõ ràng là muốn cho mọi người biết quảng đại mở lòng ra đón nhận nhau. Ngài không chấp nhận một sự co cụm, khép kín. Ơn cứu độ của Ngài là dành cho muôn dân. Ngay cả các môn đệ thân tín của Ngài thì càng phải mở rộng vòng tay, phải quảng đại đón nhận người khác hơn nữa không chỉ vì họ không chống đối mà còn vì họ biết vì Danh Chúa mà giúp đỡ các môn đệ. Xem ra chính các môn đệ phải cám ơn những người anh em ấy. Sứ mạng của môn đệ Chúa Giêsu là loan báo Tin Mừng đến với muôn dân thế mà có người lại công tác, ủng họ cho sứ mạng của mình vì Danh Chúa, đó chẳng là một hậu thuẫn tốt đẹp hay sao.

Trong đời sống đức tin, Kitô hữu chúng ta ngay nay cũng dễ có thái độ khép kín khi mà không biết mở lòng ra tôn trọng sự đóng góp, sự nhiệt tình nhà Chúa của những anh em khác. Khi mà chỉ biết có Giáo xứ mình, hội đoàn mình, nhóm của mình là ngon lành nhất, còn những ai mới hay ở ngoài là những người không ưu tiên, hông được quyền lợi như mình. Những nguy cơ đó không giúp xây dựng phát triển được đức tin và Hội Thánh trái lại càng làm cho Hôi Thánh bị chia rẽ ran nứt và đới sống đức tin của cá nhân bị hao mòn đi.

  1. Nguyên Tắc Giữ Sự Hiệp Nhất Và Quảng Đại: Óc cục bộ, tinh thần bè phái, não trạng đặc quyền hay độc quyền ân sủng là những nguyên cớ làm cho người khác vấp phạm, nhất là những anh em bé mọn tức là những người mà đức tin còn non yếu. Đến với Hội Thánh những anh em Tân tòng, những anh em Dự tòng hay những anh em mới có cảm tình với Hội Thánh, tất cả mong đều mong chờ những điều tốt đẹp đến với họ. Họ cần sự đón tiếp chân thành để qua đó được gặp Chúa. Chính vì thế, khi chứng kiến những rạn nứt, những cục bộ bè phái chắc hẳn sẽ làm họ nản lòng nản chí rất nhiều. Thực tế, đã có nhiều người không còn tin vào Chúa nữa chỉ vì cách hành xử của những người có đạo. Chúa đã lên án rất nặng những ai làm cớ cho những anh em ấy vấp phạm. Thà buộc cối xay vào cổ nén họ xuống biển còn hơn để họ làm cớ vấp phạm cho người khác. Chúa muốn phải làm gương sáng, phải là người đại diện xứng đáng của Chúa để đón nhận anh chị em đến với Chúa, tin vào Chúa.

Để làm gương sáng thì chính bản thân mỗi người phải biết rèn luyện, phải can đảm quyết liệt từ bỏ những sự sai trái, những mầm mống gây chia rẽ, gây cớ vấp phạm cho dù chúng có liên hệ chặt chẽ đến chính bản thân như là chi thể của mình. “Nếu trong anh em …chân anh…mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, hãy chặt đi !”tay chân mắt là ba cơ quan trọng yếu để sống tương quan với kẻ khác. Nếu chúng ta gây hại cho anh em phá vỡ cộng đoàn “Hãy chặt chúng đi !”. Đương nhiên không thể thực hành theo mặt chữ, nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta phải dứt khoát loại cái xấu, để bảo đảm ơn cứu độ cho chính mình, dù có phải chiến đấu đau khổ, cũng phải loại bỏ bằng được cái xấu ra khỏi chúng ta. Thế thì người Kitô hữu phải luôn tự thanh luyện mình để đức tin tinh tuyền sẽ làm cho cuộc sống ra tốt đẹp.

III. Lời Nguyện Chung

Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa đến để ban ơn cứu độ cho muôn dân và mời gọi chúng ta hãy yêu thương tôn trọng đón nhận nhau. Trong sự hiệp nhất chúng ta cùng dâng lên Chú những lời nguyện xin.

  1. Hội Thánh mang tính Công Giáo nghĩa là dành cho mọi người không ngoại trừ ai. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội Thánh chúng ta luôn thực sự là nơi đón tiếp và cưu mang tất cả những ai tin Chúa, tìm đến Chúa.
  2. Óc bè phái, nạn kỳ thị chủng tộc ngày nay vẫn đang tiếp diễn trên thế giới làm cho biết bao người, bao dân tộc nhỏ bé sống lầm than cực khổ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các Quốc Gia, Các thành Viên Liên Hiệp Quốc luôn thành tâm, thiện chí nỗ lực xây dựng sự bình đẳng và công bình giữa các Quốc gia, các Dân tộc.
  3. “Ai không chống các con là thuận với các con”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết tôn trọng nhau, yêu thương nhau và hiệp nhất với trong trong các công việc của Giáo xứ, Giáo hội.

Kết Nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban tặng chan hòa và dồi dào ân sủng trên mỗi người chúng con. Xin cho chúng con biết hiệp nhất, biết cộng tác với nhau và mở rộng lòng đón nhận mọi người thành tâm thiện chí đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

 

38. Giải phẫu

(Trích trong ‘Như Thầy đã yêu’ – Thiên Phúc)

Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.

*****

Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi” (Mc.9,43). Kiểu nói “chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.

Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.

Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. “Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn”, đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể “cắt bỏ” một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt cánh tay”. Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: “Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.

****

Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen.

 

39. Lời cảnh báo

(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

“Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi”

“Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết”.

“Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi” (x. Gc 5, 1-6)

Phát biểu trong giờ chia sẻ Lời Chúa, các anh gia trưởng bàn bạc:

– “Thư Thánh Gia-cô-bê hôm nay có câu mở đầu nghe rợn cả người! Chắc mình không dám ước mơ giàu có đâu. Xin Chúa cho hằng ngày dùng đủ là mừng rồi”.

– “Anh em mình ở đây có ai giàu có gì đâu. Nhưng tôi thì nghĩ mình không nên nói vậy. Đâu phải ai giàu có cũng gặp tai họa đâu. Tai họa nhãn tiền thấy toàn người nghèo. Chị Ba Ốm làm nghề hái dừa, nuôi chồng bịnh hoạn và ba đứa con nhỏ, mới té từ trên cây dừa 13 mét, tiêu cột sống cỏ, tiêu cột sống lưng, nát bét cái xương chậu, BV Chợ Rẫy trả về rồi! Nằm một chỗ.

– “Không phải vậy. Chỉ có con mắt đức tin mới nhìn ra cái tai họa đời này là hồng phúc cho đời sau. Tôi không nghĩ rằng tai họa là sự trừng phạt của Thiên Chúa. Nhưng là sự thanh luyện đức tin chúng ta”.

– “Đúng rồi, Thánh Gia-cô-bê cảnh cáo những ông lớn không biết thương dân chỉ lo tận hưởng khoái lạc, cảnh cáo những người giàu có toa rập với quyền lực sát hại người công chính”.

“Như vậy thì đoạn thư này không dính dáng gì tới chúng ta sao?”

– “Có chứ, chính chúng ta, những gia trưởng, những người làm cha mẹ trong gia đình bao lâu chưa sống công chính, chưa làm gương sáng cho con cái về đời sống đạo đức, thì bấy lâu chúng ta cũng còn phải được cảnh cáo về một “cơn thịnh nộ trong ngày sau hết”

Dừng lại phần chia sẻ, anh trưởng nhóm mời mọi người nghe Đoạn Tin Mừng.

Đoạn Tin mừng đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề. (x. Mc 9, 37-42. 44. 46-47)

Phần thưởng dành cho người biết sống tinh thần bác ái vì Chúa.

“Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

Chúa Giêsu không nói chuyện giàu nghèo, nhưng Chúa hứa chắc cho ai vì Chúa Giêsu mà sống đời công chính. Đời sống công chính ấy là đời sống chan hòa yêu thương nhau, bắt đầu từ sự quan tâm đến nhau, thao thức trăn trở cùng nhau, và cuối cùng là chia sẻ cho nhau chính sự sống của mình để người khác được sống. Thánh Gia-cô-bê cảnh cáo những người giàu có không biết sẻ chia, nhưng lại ích kỷ để tân hưởng khoái lạc riêng cho mình. Họ sẽ bị trả lẽ trước mặt Thiên Chúa trong ngày sau hết.

Phần phạt dành cho những người làm gương xấu

Có ai nói trẻ nhỏ làm gương xấu cho người lớn đâu. Khi nói đến làm gương xấu, ắt phải hiểu ngày “người lớn làm gương xấu cho trẻ nhỏ”. Và phần phạt cho kẻ làm gương xấu nghe mới rợn người làm sao: “kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.

Liên kết từ ý tưởng phần thưởng Chúa hứa ban, thì thiết tưởng, một gương xấu tối tệ nhất và cũng là thứ tội lỗi tồi tệ nhất mà Chúa muốn nói đến là đời sống ích kỷ, hẹp hòi, không quan tâm đến ai, đời sống vô cảm trước nỗi bất hạnh của con người. Tất cả các thứ tội trong bảy mối tội đầu đều chống lại đường lối yêu thương của Thiên Chúa, chống lại lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa. Kiêu ngạo vì tôn vinh mình, không khiêm nhường nổi để tôn vinh người.. Hà tiện vì chỉ lo cho mình, không rộng rãi để bận tâm tới ai. Mê dâm dục cũng chỉ vì tìm khoái lạc cho mình. Mê ăn uống vì chỉ vì quá chú trọng tới mình mà quên đi niềm vui kiêng bớt, chia sẻ. Ganh tỵ, ghen ghét, vì không muốn ai hơn mình. Làm biếng việc Thờ Phượng Đức Chúa Trời, bởi vì tưởng cuộc sống mình là muôn thuở!

Như thế, bao lâu con người còn chỉ bận tâm lo lắng cho mình mà không nghĩ đến ai, thì có thể xem như là đã gây một gương xấu kinh khủng không? Thiết nghĩ là như vậy.

Chiến đấu quyết liệt với dịp tội, để tránh gây gương xấu.

Mỗi lần tôi nghĩ đến “cái tôi” của tôi, là một lần đứng trước một dịp tội. Tôi càng làm ông lớn trong nhà, trong xã hội, trong Giáo Hội, thì “cái tôi” của tôi càng to. Cái tôi càng to, càng khó dứt bỏ. Tôi không thể đổ thừa cho tay tôi, cho chân tôi, không thể đổ thừa lỗ tai, con mắt hay một phần thân thể của tôi làm tôi sinh tội. Nhưng chắc chắn tội đã sinh ra từ sự đồng thuận của lòng tôi, vì tôi chỉ nghĩ đến tôi.

Chúa Giêsu thật có lý khi bảo: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt…..”. Vì quả thật, tay chân hay phần thân thể tôi chỉ là dịp tội, mà nếu tôi có thể làm chủ được nó, thì hẳn nó phải nghe lệnh của tôi mà làm điều công chính. Ngược lại, nếu tôi không làm chủ được nó, hẳn nó sẽ sai khiến tôi, và hẳn nhiên là sẽ sai khiến tôi làm điều bất chính.

Lạy Chúa, Chúa đã phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”.

Xin cho chúng con kết hiệp mật thiết với Chúa, nên bạn hữu chí thiết của Chúa, để tư tưởng trong lòng con là tư tưởng của Chúa, mắt nhìn của chúng con là mắt nhìn của Chúa…, thân thể của chúng con là thân thể của Chúa, cuộc sống con là họa ảnh của Tình Yêu Chúa trong hành trình Đức Tin của chúng con giữa cuộc đời. Amen.

 

40. Hãy tránh xa dịp tội

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng)

Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?

Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hội chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man r?. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.

Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách Giáo lý cho biết: “…Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người.

Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý” (GLCG 2297).

Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?

Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.

Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt… Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.

Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.

Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.

Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa… là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.

 

41. Chúa Nhật 26 Thường Niên

ĐỨC KITÔ, CON ĐƯỜNG CỨU RỖI DUY NHẤT

(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)

Các môn đệ của Ðức Giêsu quan sát thấy có người không thuộc về nhóm của họ, nhưng đã nhân danh Thầy mình để trừ đuổi ma quỉ. Chắc chắn người này không hề được Ðức Giêsu trao phó cho sứ vụ đó, vì thế các môn đệ đã tìm cách ngăn cản anh ta không được tiếp tục làm như thế nữa! Và đương nhiên họ tin chắc rằng Sư Phụ mình sẽ đồng ý với họ ngay.

Thế nhưng, Ðức Giêsu lại có thái độ hoàn toàn khác hẳn: «Các con đừng ngăn cản anh ta làm gì! Vì không có ai vừa nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi lại quay ra nói xấu Thầy một cách dễ dàng được. Vậy, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta! » (Mc 9,39-40).

Ðúng vậy, những « kẻ đứng ngoài » thường làm cho những « người đứng trong » bực mình khó chịu! Ðó là điều vẫn xảy ra trong bất cứ thời đại nào và ở bất cứ nơi nào: trong những đoàn thể và những nhóm nhỏ, trong những bè phái lẻ tẻ hay trong những giáo phái và những Giáo Hội rộng lớn hơn. Những người « đạo đức » luôn trung thành và gắn bó với Mẹ Giáo Hội thường hay dễ nghĩ tưởng và phê phán một cách tương tự về những kẻ đã xa lìa Giáo Hội bất cứ vì lý do gì: Một cách đơn giản là những con người đó không còn thuộc về chúng tôi nữa, và như thế họ cũng không còn thuộc về Ðức Kitô nữa; họ không còn được nhân danh Người để nói năng hay làm bất cứ điều gì có liên quan đến tôn giáo chúng tôi. Vâng, người ta còn cho là những con người như thế đã liều mình đánh mất phần rỗi! Bởi vì, nguyên tắc của Thần học là « ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi »! Dĩ nhiên, ngày nay người ta hiểu nguyên tắc đó khác với trước kia!

Một điều chắc chắn là Ðức Kitô muốn có một Giáo Hội duy nhất mà thôi và tất cả những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một điều xấu, đã xảy ra ngoài ý mưốn của Người. Nhưng trách nhiệm về những rạn nứt và chia rẽ đó thường là do cả hai phía, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể phân xử được! Còn những kẻ thừa kế những rạn nứt và chia rẽ đó, tức những thế hệ con cháu sau này ở cả hai phía, tuy phải gánh chịu những hậu quả, nhưng không chịu trách nhiệm về những nguyên nhân đem đến những chia rẽ đó. Do có một đức tin chắc chắn và ý chí ngay lành họ cũng có thể sống, nói năng và hành động nhân danh Ðức Giêsu. Ðó cũng là điều mà chính Công Ðồng Chung Vatican II đã khẳng định. Chỉ những ai phạm tội mà xa lìa Giáo Hội, thì liều mình đánh mất phần rỗi. Ðối với những kẻ như thế, được áp dụng nguyên tắc thần học « Ngoài Giáo Hội không có sự cứu rỗi ». Công Ðồng dạy: « Vì thế, những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Ðức Giêsu Kitô, như một phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không được cứu rỗi » (Hiến chế Lumen Gentium, số 14).

Một câu hỏi khác đầy gai góc và có tính cách thúc bách, đó là: Những kẻ vô tín ngưỡng, tức những người chẳng những ở ngoài Giáo Hội, nhưng còn không tin kính Ðức Giêsu Kitô, có được cứu rỗi không? Con số những người như thế trên khắp thế giới lại là đại đa số!

Ðức tin Kitô giáo tin nhận Ðức Kitô là « Nguồn » (Dt 2,10; 5,9) và là « Ðấng Trung Gian » Tm 2,5) của sự cứu độ vĩnh cửu. Vì thế, thánh Phêrô « đầy ơn Chúa Thánh Thần » đã công bố những lời sau đây: « Ngoài Ðức Giêsu Kitô ra, không một ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ » (Cv 4,12). Như vậy, đương nhiên những ai không tin nhận được Kitô sẽ không được cứu rỗi?

Về vấn nạn này, Công Ðồng Vatican II cũng đã đưa ra những phán quyết một cách khác hẳn. Bởi vì, Thiên Chúa luôn muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi, như đã được ghi rõ trong Kinh Thánh: « Người mong muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi và đạt tới sự hiểu biết chân lý » (1Tm 2,4) và « Người là Ðấng Cứu Ðộ của tất cả mọi người, nhất là của các tín hữu » (1Tm 4,10), nghĩa là không chỉ các người tín hữu mà thôi! Vâng, không phải tất cả mọi người đều có được điều kiện thuận lợi để có thể tìm hiểu đức tin và tin nhận Ðức Kitô. Nhưng chính Ðức Kitô đã chết cho mọi người, không phân biệt hay loại trừ ai. Người đã đền thay cho tội lỗi của tất cả mọi người và chuộc lại đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người! Trong điểm này Công Ðồng đã dạy tiếp: « Thực vậy, vì Ðức Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là một ơn Thiên Chúa ban, do đó chúng ta phải tin tưởng cách chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh theo cách thức đã được Thiên Chúa ấn định » (Gaudium et Spes, số 22; x. Lumen Gentium, số 16; Ad Gentes, số 7).

Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Ðức Giêsu Kitô, hành động một cách âm thầm trong tâm hồn của tất cả mọi người. Người soi sáng cho họ và qui hướng lòng trí họ về với Thiên Chúa. Nếu con người biết vâng nghe theo tiếng lương tâm của mình, họ sẽ được cứu rỗi nhờ vào sức mạnh của ân sủng Ðức Kitô ban. Nói cách khác, không có Ðức Giêsu thì không một ai có thể được cứu rỗi. Ðồng thời điều đó cũng minh nhiên khẳng định rằng ý kiến của rất nhiều người ngày nay cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều giống nhau, đều dạy người ta ăn ngay ở lành và mỗi người nếu sống theo niềm xác tín của tôn giáo mình một cách trung thực đều có thể nên thánh, là hoàn toàn sai lầm. Ngoài niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô, không được Phúc Âm soi sáng hướng dẫn và không thông công với Giáo Hội, con đường dẫn tới sự cứu rỗi sẽ trở nên vô vàn khó khăn và đầy hiểm nguy. Ðiều đó đã được chứng minh trong suốt giòng lịch sử của nhân loại. Ðúng vậy, « con người bị ma quỉ gạt gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ tráo đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối và phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21-25), hoặc: « vì họ sống chết ở đời này như thể không có Thiên Chúa, nên bị rơi vào cảnh hoài nghi thất vọng tột độ » (Lumen Gentium, số 16).

Bởi vậy, đức tin Kitô giáo không phải một loại hàng xa xỉ, không cần có nó người ta vẫn có thể sống chết một cách tốt lành được, nhưng là một ơn lành tối quan trọng mà Thiên Chúa đã ban cho con người, để dẫn đưa họ đạt tới sự cứu rỗi.

Vì thế, Giáo Hội không trình bày đức tin Kitô giáo một cách dửng dưng hời hợt như bất cứ một ý thức hệ nào mà con người có thể tuỳ ý lựa chọn, nhưng Giáo Hội loan báo đức tin một cách hết sức hăng hái và khẩn cấp như Ðức Giêsu đã làm. Một khi con người được nghe biết sứ điệp Tin Mừng, cần phải quyết định. Con người phải sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, để giữ trọn sứ điệp đó, hầu có thể đạt tới được sự cứu rỗi đời đời; Vì thà mất mát một phần cơ thể còn hơn là mất luôn cả cuộc sống (x. Mt 18,8). Nói cách khác, sự cứu rỗi hay hạnh phúc vĩnh cửu luôn có cái giá của nó và chỉ những ai chấp nhận trả cái giá đó, thì mới có thể chiếm hữu được nó!

 

42. Một dân tộc ngôn sứ

(Suy niệm của Jean Yves Garneau)

Sự dữ bị tố cáo.

Lời Chúa hôm nay thật là khắt khe. Thánh Giacôbê tỏ ra không khoan nhượng đối với những người giàu có: “Hãy khóc than… tai họa chờ đợi các ngươi đó. Của cải các ngươi bị mục nát…” Những lời thánh nhân mô tả gây ấn tượng mạnh mẽ, liệu ngài có nói khác đi vào thời đại chúng ta không? “Các ngươi không trả tiền công cho người gặt lúa. Các ngươi tìm kiếm lạc thú và sự xa hoa, các ngươi tiệc tùng trong lúc người ta chém giết kẻ khác…”.

Tin Mừng cũng gắt gao như vậy khi đòi hỏi ta phải dùng những phương thế quyết liệt để thoát khỏi sự dữ: “Nếu tay ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy chặt nó đi… Nếu mắt ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy móc nó đi…”.

Cám dỗ để mặc.

Nơi chúng ta và ngoài chúng ta, trong đáy lòng chúng ta và trong xã hội vẫn có sự dữ và tội lỗi. Ta biết thế, ta nhận thấy thế, ta nghe nói đi nói lại như thế. Và ta có khuynh hướng là đành chịu vậy thôi. Ta sẽ nói: “Không làm gì được đâu. Bao giờ cũng thế mà, ta không thay đổi được thế giới đâu”. Rồi một khi đã nói như vậy rồi, người ta đồng lõa với một thế giới tầm thường và quen đi với chính sự tầm thường của mình nữa. “Tôi không đến nỗi tệ hơn kẻ khác. Có những người còn dở hơn tôi nữa. Tôi quá già rồi thay đổi sao được, phải chấp nhận con người mình như vậy thôi, và chấp nhận thế giới như hiện có”.

Những ngôn sứ không được tín nhiệm.

Nhưng, may mắn thay, không phải mọi người đều phản ứng như vậy, không phải mọi người đều cam chịu cả. Ở giữa chúng ta vẫn còn có những ngôn sứ đang kêu gào, tố cáo, răn đe. Họ không chỉ nói mà thôi –điều này thường quá dễ– họ hành động nữa. Họ dám chịu liên lụy với những kẻ không được kính trọng, những kẻ chịu thiệt thòi về quyền lợi của mình, bị ngược đãi. Họ đấu tranh chống lại sự dữ chung quanh và sự dữ nơi chính mình.

Ta thấy đó, đây là lịch sử được lập lại. Trong đoạn sách dân số, người ta nói với chúng ta về hai người: Eldad và Médad, nói tiên tri trong lúc những ngôn sứ khác đã ngưng nói. Người ta tìm cách bắt họ im đi ngay. Họ không nói đúng lúc, họ không theo luật lệ đã được thiết lập. Họ xáo trộn hết thảy mọi sự.

Một biến cố tương tự được kể lại trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người trừ quỷ nhân danh Thầy; Chúng con đã ngăn cản nó vì nó không thuộc nhóm chúng ta”.

Môsê và Chúa Giêsu có cùng một phản ứng như nhau: “Hãy để các ngôn sứ nói tiên tri. Hãy để họ nói. Hãy để họ hành động”.

Ta hãy xem những kẻ nói hơi mạnh một chút trong môi trường của chúng ta, họ tố cáo những sự hèn nhát của chúng ta, làm xáo trộn những tư tưởng chúng ta đã nhận được, làm cho chúng ta hoang mang, bắt chúng ta phải ra khỏi những lối suy tư và ứng xử của chúng ta. Những ngôn sứ này có thể là con cái, người phối ngẫu, một người láng giềng, một bạn đồng nghiệp của ta. Chúng ta dành cho họ số phận nào? Chúng ta có nhạy cảm trước lời kêu gọi của họ không?

Nhiều ngôn sứ.

Cứ để cho các ngôn sứ nói tiên tri, nâng đỡ, khuyến khích họ và để họ thách thức mình, đó là thái độ nên có. Nhưng xem ra còn phải làm hơn nữa. Chúng ta có nhớ lời ước mong của Môsê không: “Ôi! Ước gì Chúa có thể đặt Thần Khí của Ngài nơi họ “hết thảy” để làm cho toàn thể dân Ngài trở thành một dân ngôn sứ!”.

Cần có những ngôn sứ trên thế giới, trong Giáo Hội, trong các cộng đồng giáo xứ, trong các gia đình. Cần có những người đàn ông và đàn bà trẻ tuổi hoặc cao niên nói và hành động thế nào để khắp nơi trên thế giới mọi người được mời gọi và khuyến khích đẩy lui những gì làm cho con người mất tính người và làm tăng trưởng những gì giúp họ nên người hơn. Cần tăng số –ngày càng đông hơn- những ngôn sứ để nói tiên tri làm vinh danh Thiên Chúa và gây ích cho con người. Trở thành một cộng đoàn các ngôn sứ, chúng ta có dám thành thật xin Chúa điều này không?

 

43. Chúa Nhật 26 Thường Niên

AI KHÔNG CHỐNG ĐỐI CÁC LÀ ỦNG HỘ CÁC CON

(Suy niệm của Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)

Một ngày kia, các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu và than phiền có những kẻ tuy không cùng nhóm nhưng dám nhân danh Ngài mà trừ quỷ! Thái độ này chẳng qua cũng chỉ là một phản ứng tự nhiên khi các môn đệ muốn bảo tồn sự độc quyền rao giảng Tin Mừng và công tác sứ đồ. Bài đọc thứ nhất cũng kể lại trường hợp tương tự: Giosuê bất mãn khi thấy Thần Linh Thiên Chúa ngự trị trên hai bô lão và hai vị này nói tiên tri khi chưa được ủy nhiệm. Nhưng Môisen thay vì khó chịu lại tuyên bố: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”.

Qua những đoạn sách hôm nay, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên tự kiểm thảo thái độ cá nhân hoặc tập thể của mình trước tình trạng những người đấu tranh cho công ích và chân lý. Thời nay cũng như thời Môisen, không thiếu những người tuy khác biệt tuổi tác màu da sắc tộc hay tín ngưỡng, nhưng hiên ngang lên tiếng báo động dư luận thế giới về những vấn đề quan trọng như: nhân quyền, hòa bình, sự tự do, nạn đói khổ, v.v… Nếu những người đó dám phát ngôn và hành động thật sự vì lợi ích nhân loại, dĩ nhiên là Thần Trí đã ngự trị trên họ, và ta có thể thừa nhận họ là những tiên tri thời đại mới.

Dầu vậy, ta cũng khó tránh khỏi phân vân và sẵn sàng kiểm tra lý lịch của họ để xem có cùng quan điểm hoặc tôn giáo chăng! Nếu không thì chúng ta dễ khước từ hành vi của họ. Như thế thì, thật lòng mà nói, ai trong chúng ta dám tự khoe là không có óc bè phái hoặc hẹp lượng cố chấp? Thông thường, chúng ta rất muốn ngắm nhìn những hoa quả tốt, nhưng lại muốn những thứ tốt này phải mọc trên những nhánh cây do chúng ta tuyển lựa và chỉ định, nhứt là phải thuộc vườn cây của Thiên Chúa hoặc của chúng ta chớ không của ai khác.

Thế giới ngày nay cũng như thời Chúa Giêsu đều có những kẻ trừ tà diệt quỷ. Và yêu quái thời đại chúng ta không thiếu chi trong đời sống thường nhật, điển hình là: sự vắng bóng niềm tin chân thực vào Thiên Chúa trong nhiều lãnh vực, sự đánh mất thiện giác, luân thường đạo lý bị chà đạp, những bất công và hiếp đáp bóc lột kẻ yếu, khinh miệt những người nghèo khổ, kỳ thị những kẻ không như mình… và ma quỷ cũng còn là sự thù ghét, lòng ganh tị hoặc thái độ kêu căng ngạo mạn, v.v…

Trái ngược các điều ác này, chúng ta lại biết hoặc thấy có những người, vì nghề nghiệp hoặc do tự nguyện, đang dấn thân vào các tổ chức, hội đoàn, phong trào để đấu tranh mang lại một chút tình thương cho kẻ khác hoặc cổ võ góp phần xây dựng một cuộc sống thoải mái tốt đẹp hơn… và ta có thể nghĩ ngay đến những nhà giáo dục, những y tá bác sĩ hoặc những người hy sinh thời giờ của mình để bảo vệ chính nghĩa hoặc phục vụ kẻ khác trong các công tác từ thiện bác ái…

Trước những cử chỉ cao đẹp này, ta không cần biết những vị đó có cùng tín ngưỡng, quan niệm hoặc đảng phái với ta hay không, vì chính Đức Kitô, Người duy nhất có lời ban sự sống, đã phán: “ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con. Vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền đó lại nói xấu Thầy”. Qua lời nói này, Đức Kitô mời gọi chúng ta nên thoát khỏi những tranh chấp ý niệm tôn giáo hoặc đảng phái để nhận thức Thần Trí của Ngài ngự trị trên bất cứ những ai có thiện chí, với lòng trung thực và sẵn sàng phục vụ trong tình yêu thương nhân loại dưới mọi hình thức… do đó, không ai có quyền độc chiếm sứ mệnh truyền bá Tin Mừng. Công Đồng Vaticanô II có nói: “Ước gì giữa lòng Giáo Hội, chúng ta biết phát sinh lòng quý mến, tôn trọng và hoà hiệp lẫn nhau trong sự nhận biết những khác biệt chính đáng, cũng như biết cởi mở đón nhận những người anh em không cùng tín ngưỡng, nhưng có những truyền thống tàng trữ nhiều sở trường đạo hạnh và nhân phẩm quý giá…”

Vậy thì chúng ta cũng đừng nên ngạc nhiên khi thấy có nhiều kẻ ngang hàng hoặc kém sút hơn nhưng lại sống trung thực với Thần Linh Thiên Chúa và thực thi những công việc kỳ diệu hơn chúng ta. Thay vì ganh tị, ta nên ngưỡng mộ họ và chúc tụng Thiên Chúa trong kinh nguyện của chúng ta. Thay vì chống đối chỉ trích những ai không đồng bạn đồng hành, ta nên vui mừng về những hồng ân đã được trao ban cho họ, về những điều thiện được thực thi bởi kẻ khác và biết công nhận nơi họ có sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần.

Ước gì Thiên Chúa khơi dậy nơi chúng ta ngọn lửa tin yêu để thừa nhận ơn của Ngài vượt trên sự hiểu biết của chúng ta và hiện diện trong những hành vi cao thượng và tốt đẹp, để rồi chúng ta cùng thốt lên như Môisen: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”.

 

44. Mẹ của sự khám phá

(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’ – Charles E. Miller)

Phải nói rằng nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Khi kỷ nguyên kỹ nghệ hóa bắt đầu làm cho nhu cầu ánh sáng trở nên tốt hơn là những cây nến hoặc cây đèn dầu và Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Trong Giáo Hội nhu cầu là mẹ của sự khám phá, đó là một sự khác nhau. Chúng ta có thí dụ trong bài đọc một.

Khi Môisê nhận thấy dân Israel ở nơi hoang địa đã trở thành quá đông số, quá sức chăm sóc của ông, ông đã phàn nàn với Chúa về gánh nặng của mình. Chúa đã nói với ông hãy thành lập một hội đồng bô lão gồm có bảy mươi bô lão để giúp vào việc cai trị. Trên họ, Thiên Chúa sẽ gởi xuống tinh thần của Môisê, điều có nghĩa là Thiên Chúa muốn chia sẻ quyền lực và sức mạnh của Môisê cho họ. Bởi nhu cầu, Môisê đã khám phá ra mình không thể làm tất cả mọi chuyện tự sức mình. Thiên Chúa muốn cho những người khác chia sẻ sứ vụ của ông trong việc hướng dẫn và chăm lo cho dân.

Khổ thay, Giosuê đã không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa và có một lúc ông đã không lớn đủ để sẵn lòng chia sẻ tinh thần của Môisê với Eldad và Medad, là những người đã không hiện diện khi tinh thần ấy ngự xuống trên những người khác. Một điều gì đó quen thuộc đã xảy ra với Chúa Giêsu và các tông đồ. Chúa Giêsu đã chia sẻ sứ vụ của Ngài với các tông đồ nhưng khi Gioan thấy một người đàn ông không phải là một trong nhóm Mười Hai mà lại dùng danh Giêsu để xua đuổi quỷ, nên oán hận giống như Giosuê đã làm. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không bị điều khiển bởi ganh tỵ. Ngài đã vui mừng vì sứ vụ của Ngài đã được lan rộng.

Trong Giáo Hội ngày hôm nay, nguyên tắc của nhu cầu là mẹ của sự khám phá vẫn được tiếp tục. Bởi vì các phong trào bên trong Công Đồng Vatican II, các Giáo hoàng và các giám mục đã luôn luôn nhớ rằng, Thiên Chúa ngay từ kỷ nguyên đầu đã ban cho Giáo Hội một thừa tác vụ, được biết như là phó tế. Đó cũng là một hình thức khám phá, bởi nhu cầu của cộng đoàn. Trước Công Đồng Vatican II chỉ một mình vị linh mục mới được cho rước lễ, (ngay cả thầy sáu chủng viện cũng cần có phép đặc biệt). Sau Công Đồng, số những người Công giáo rước lễ tăng lên rất nhiều, Giáo Hội khám phá ra rằng những giáo dân có thể trở thành những thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ và một chức thừa tác đã được cho phép bởi Thiên Chúa và làm hài lòng Ngài. Trước Công Đồng Vatican II linh mục đã làm mọi chuyện trong Thánh Lễ, gồm cả việc đọc Thánh Kinh, nhưng sau khi trở lại với truyền thống, Giáo Hội mới khám phá ra rằng, từ xa xưa những thừa tác giáo dân cũng được biết như là những người đọc sách thánh.

Khổ thay, một số người trong chúng ta giống Giosuê và Gioan, chúng ta kháng cự lại sự khám phá. Chúng ta có thể oán hận bởi vì người đàn ông có vợ rồi vẫn có thể được truyền chức phó tế. Chúng ta cũng bực bội bác bỏ ý kiến về những thừa tác đặc biệt cho rước lễ và nhấn mạnh rằng họ chỉ được quyền trao Thánh Thể cho những trường hợp đặc biệt. Một số người khác trong chúng ta lại không thể chịu được những sự kiện, như là phụ nữ đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ.

Bởi vì nhu cầu mang ánh sáng lan tỏa trong Giáo Hội ngày hôm nay, ánh sáng đã được chiếu sáng hơn phát minh của Thomas Edison. Đó cùng là ánh sáng của Thánh Thể chiếu sáng trên chân lý để cho Giáo Hội thấy sáng tỏ hơn. Trong Thánh Vịnh nơi bài đáp ca, chúng ta đón nhận Thiên Chúa đã ban niềm vui cho trái tim. Đó là sự thật trao ban cho trái tim của chúng ta, để chúng ta mở rộng cho sự thúc đẩy của Thánh Thể trong Giáo Hội ngày hôm nay. Không nên phàn nàn về những thừa tác viên trong phụng vụ, chúng ta phải cám ơn Chúa và cầu xin cho ân sủng tuôn trào nơi Thánh Thần của Người sẽ tiếp tục ban xuống trên Giáo Hội.

 

45. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Achille Degeest)

THỜI ĐẠI CHÚNG TA CÓ ĐÁNG BỊ TRÒNG CỐI ĐÁ VÀO CỔ KHÔNG?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).

Các thánh chép sử không chủ tâm làm những bản tường thuật chính xác, đầy đủ về những lời Chúa Giêsu giảng dạy. Các ông truyền lại cách chính xác cho chúng ta giáo huấn của Thày tùy theo những điều nhớ được và tùy những lúc lưu tâm ghi – chép, nhưng theo thứ tự và cách sắp đặt không tuyệt đối đúng sự thật. Dường như thánh Marcô thuật lại trong bài đọchôm nay những đoạn rời rạc của một bài giảng của Chúa, chúng ta không sao hiểu được toàn bài như thế nào. Những đề mục gợi ra rất khác biệt, có thể là đề tài cho những công trình bình giải đi vào chi tiết. Về phần chúng ta, chỉ cần giữ lấy 2 chủ đề suy niệm gợi ý chúng ta về hai cung cách trong số nhiều cung cách khác, để biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu trong đức ái thực tế.

1) Chúa không muốn các môn đệ đối lập với một người tuy không gia nhập nhóm các ông, nhưng nói và hành động nhân danh Ngài.

Ta thấy rằng Chúa phân biệt giữa sứ mệnh đặc biệt của nhóm Tông đồ và hiệu năng tỏa rộng của đức tin. Tông đồ Gioan bất bình thấy một người lấy tên Chúa mà hành động tuy không được chính thức nhìn nhận là 1 trong nhóm 12. Thày phản ứng, cho họ biết rằng muốn làm môn đệ hoạt động thì không bắt buộc phải ở trong tập đoàn Tông đồ Diễn giải Lời Chúa, ta thấy điều này có nghĩa tương tự như sau: hàng Giáo phẩm mà sứ mạng đặc biệt là bảo đảm đức tin, có bổn phận tôn trọng tính tự phát của Chúa Thánh Thần trong mỗi người đã chịu Phép Rửa. Hàng Giáo phẩm có thể và có bổn phận xem xét tính chất đích thật của sự tự phát này và phải vui mừng về tính sinh động của đức tin xuyên qua mọi tín hữu.

Mở rộng viễn tượng ra, người ta có thể dẫn chứng tư tưởng sau đây được Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: Giáo hội vui mừng được nhìn thấy bất cứ hoạt động nào trong thế giới phù hợp với Phúc âm, dù cho hoạt động ấy không xuất phát từ thiên chức của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI không quân phát biểu tư tưởng đó mỗi lần. Ngài tiếp kiến đại sứ một nước không theo Kitô giáo.

Liệu chúng ta có chấp nhận không giữ độc quyền tuyệt đối về Phúc âm không? Có những người gần gũi Phúc âm tuy không biết Phúc âm – trong khi có những Kitô hữu bất trung biết rõ Phúc âm mà lại xa cách Phúc âm.

2) Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trẻ trong các trẻ nhỏ này…

Những ai là ‘trẻ nhỏ’ Chúa nói đến ở đây? Chúa nghĩ đến em bé mà Cháu đem ra làm tấm gương thiêng liêng. Người cũng nghĩ đến nhóm môn đệ thiếu sáng suốt, khiêm nhường, quảng đại nhưng ít học, có xu hướng tự nhiên theo gương các lãnh đạo. Cấp lãnh đạo phải giữ mình sao cho đừng nên cớ cho họ vấp phạm, tức là đừng có trở thành dịp cho họ lầm lạc hay phạm tội.

Vấn đề trên đang rất hợp thời.

Nói chung, rất nhiều nhà ‘chế tạo dư luận’dẫn dắt chúng xa lìa chân lý và sự thanh khiết của Phúc âm.

Nói riêng, trong Giáo hội có những nhà viết sách báo và đôi khi cả những nhà tìm tòi nghiên cứu không cư xử như người có ý thức trách nhiệm. Cách khinh xuất, họ gieo rắc những nghi ngờ vào những tâm trí thiếu chuẩn bị, do đó làm suy yếu đức tin và quá nhiều phen giết chết đức ái. Vì họ thiếu một tình thương tạm đủ, cái cối đá Chúa gợi ý, đáng lẽ khiến họ phải hồi tâm.

 

46. Tinh thần đại kết

(Trích trong ‘Niềm vui chia sẻ’)

Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” (trong tập truyện “Bài ca của loài chim” The Song of Bird) như sau: “Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:

– Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”

Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao tôi không ủng hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.

Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”(Bđ. 1).

Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi”, “đừng dập tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình, Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn hoá khác.

Cuộc “hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).

Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm thì “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn dùng kiểu nói cường điệu: “chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý báu ấy nên cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què chân, mù mắt còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống đời đời.

Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản chứng và gây gương mù. “Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong chúng ta” (Ga 17,21) (số 43).

 

47. Nghiêm luật

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Thuận ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Thế nhưng hiếm có người muốn nghe lời thật – lời của sự thật, lời của chân lý.

Ca dao nói: “Mật ngọt nên mới chết ruồi – Những nơi cay đắng là nơi thật thà”. Thật vậy, người nịnh ta là kẻ thù của ta, người khen ta mà khen đúng là bạn của ta, người chê ta mới là thầy của ta. Khó nghe quá! Khó chịu lắm! Nhưng đó lại là sự thật! Sự phục thiện rất quan trọng. Phải tâm niệm “mất lòng trước, được lòng sau” thì mới là người chính trực.

Cái ác càng ngày càng hoành hành, tự tung tự tác. Thậm chí chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà kẻ thủ ác không ngại rút dao lụi cho một cú, dù người bị hại không hề có lỗi gì. Đúng như tiền nhân nói: “Nhân dục thắng, thiên lý vong” [Ham muốn của con người thắng thì lẽ công (trời) sẽ bị mất]. Cũng vậy, ngạn ngữ Trung quốc nói: “Con cưng chiều khó giữ cơ nghiệp, vợ quay quắt khó giữ cửa nhà”.

Cái gì cũng có hệ lụy tất yếu: Gia luật bất minh, con cái hư hỏng; quốc pháp bất nghiêm, đất nước suy vong.

TƯ TƯỞNG DẪN TỚI LỜI NÓI

Lời nói là kết quả của tư tưởng. Vì phản ứng não quá nhanh, nhanh như chớp, chúng ta không thể nhận ra điều đó, nhưng quả thật là vậy!

Sách Dân Số kể: Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Môsê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa. Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại.

Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Môsê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!” (Ds 11:27). Ông Giôsuê, con ông Nun, từng theo hầu ông Môsê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Môsê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” (Ds 11:28). Nhưng ông Môsê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11:29).

Lời nói có thể chỉ là “lời theo gió bay”, nhưng lời nói vẫn quan trọng: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Một lời nói ra, bốn ngựa cũng không đuổi kịp. Thế mà người ta không chịu “uốn lưỡi 7 lần” nên mới “nói nhịu” hoặc “lỡ lời”. Sự thật là chính Thần Khí mới tạo nên sự sống, vì có sống thì mới nói được. Mọi người đều được Thiên Chúa trao trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài, nghĩa là ai cũng phải dùng lời nói mà tuyên xưng và loan báo Thiên Chúa nhân lành vô cùng.

Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Luật có sau con người nên luật phải vì con người, chứ con người không vì luật. Bởi con người không còn “nhân chi sơ tính bổn thiện” nên phải có luật, như hàm thiếc tra cho con ngựa chứng, nếu không thì mọi tôn ti trật tự đều bị đảo lộn. Thật vậy: “Ở đâu không có Lề Luật, thì cũng không có vi phạm” (Rm 4:15). Phàm cái gì cũng phải có luật: Luật giao tế, luật kinh tế, luật kinh doanh, luật quốc gia, luật quốc tế, luật đời, luật tôn giáo, luật đoàn thể, luật gia đình,… Ngay cả chuyện giản dị như ăn và nói cũng có luật. Nhưng tất cả đều phải dựa vào Luật Chúa, gọi là Thánh Luật, vì Chúa Giêsu xác định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Thánh Luật là Ý Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật đời có thể khiến người ta khổ sở, nhưng Luật Chúa luôn làm người ta hạnh phúc. Ai yêu mến Chúa thì chuyên chăm thi hành Thánh Luật, luôn miệt mài tìm kiếm Ý Chúa để vâng theo: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:10). Tác giả Thánh vịnh nói thay chúng ta: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14). Chúng ta chỉ là những tội nhân, thế nên rất cần Luật Chúa để cải thiện cách sống, và đó mới là hạnh phúc đích thực mà các tôi trung của Chúa hằng mơ ước: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời” (Tv 119:1).

LỜI NÓI DẪN TỚI HÀNH ĐỘNG

Thánh Giacôbê khuyên một lèo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người” (Gc 5:4a). Vì thế, “tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (Gc 5:4b).

Thánh nhân nói quá tỉ mỉ, quá rõ ràng, không hề bóng gió. Những lời đó hẳn chúng ta rất “chói tai” khi nghe, hoặc “xốn” mắt khi đọc. Sự thật mất lòng là thế! Ngài còn nói thêm: “Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:5-6). Càng đọc/nghe, chúng ta càng thấy tự hổ thẹn với lương tâm của chính mình. Dù chúng ta có đấm ngực bao nhiêu lần mà không thay đổi cách sống, không bớt hung ác mà thêm tốt lành, không bớt ngu mà thêm khôn, thì cũng chỉ là vô ích!

Một hôm, ông Gioan tâm sự với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9:38). Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40). Ôi, Sư phụ Giêsu “dễ ghét” quá chừng! “Không chống lại là ủng hộ”, Ngài nói vậy chứng tỏ Ngài quá chừng dễ thương, vì Ngài chẳng đòi hỏi chi cả.

Ngài không đòi hỏi điều chi lớn lao, thậm chí chỉ một hành động nhỏ cũng được Ngài ghi công: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Tuy nhiên, Ngài cũng thẳng thắn cảnh báo: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất thật, tất nhiên cũng rất… “chói tai”. Ngài tiếp tục so sánh cụ thể hơn: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48). Nghe mà giật thót mình như sét đánh. Nhưng đó là nghiêm luật của Chúa, không bao giờ lay chuyển. Ngài là Đấng trung tín và công minh, hễ NÓI là LÀM. Chúng ta không thể biện minh bằng bất kỳ lý do nào!

Thế mà chúng ta thấy ai không “hợp ý” mình hoặc không theo phe mình, chúng ta liền tìm mọi cách gièm pha, lườm nguýt, “hạ bệ”, hoặc trù dập. Tất nhiên Thiên Chúa biết rõ chúng ta là gì và thế nào, chỉ là cát bụi và tội lỗi, ích kỷ và kiêu ngạo. Nhưng chúng ta cũng đừng quá thất vọng, mà hãy luôn nhớ rằng lòng thương xót của Ngài còn lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này, như Thánh Giám mục Phanxicô Salê nói: “Đừng bao giờ lo buồn vì sự bất toàn của mình, nhưng phải luôn luôn can đảm đứng dậy sau khi vấp ngã”. Vế thứ hai trong câu nói của thánh nhân rất quan trọng!

Đặc biệt là Chúa Giêsu đã hứa: “Tôi muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Đó là niềm hy vọng và niềm an ủi đối với chúng ta. Ngài không chỉ muốn chúng ta sống mà còn phải được sống dồi dào (Ga 10:10). Nhưng Ngài cũng bắt chúng ta tự vấn lương tâm: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12:7).

Kiêu ngạo dẫn đến cố chấp. Đó là tội “siêu trọng”, tội nặng nhất, tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12:31-32).

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết cẩn trọng mọi thứ ngay từ trong ý nghĩ để chúng con đêm ngày tìm kiếm Thánh Ý Ngài và hết lòng thi hành Thánh Luật. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

48. Nhỏ mà to

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.

Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này: “Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!

Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!

Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.

Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.

Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.

Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.

Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.

Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,…), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).

Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.

Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,… là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!

Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).

Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).

Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.

Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).

Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.

Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!

Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.

Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!

Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).

Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.

Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.

Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).

Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

***

(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ, báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…

 

49. Chặt tay bạn đi

(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)

Ngày xửa, ngày xưa, một đoàn thám hiểm từ lục địa Châu Âu đi tìm đất mới. Bạn biết gì về hòn đảo Ireland ngày nay – Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với số mệnh. Ông tuyên bố: Ai dựng lều đầu tiên, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm dành được đất mới. Ông rán sức chèo, nhưng một chiếc thuyền đối thủ rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông có thể làm gì? Người đàn ông tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay trái liệng lên bờ. Như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới, và nó là của ông.

Tôi kể câu chuyện đẫm máu và rùng rợn này để giúp chúng ta hiểu được những lời đẫm máu và rùng rợn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay bạn làm cớ cho bạn phạm tội, hãy chặt nó đi. Thà bạn tàn tật mà được vào cõi hằng sống hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục. Chúa Giêsu muốn nói điều chi?

Người nói rằng những ai theo Người phải sẵn sàng hy sinh những cái gần gũi nhất, thân yêu nhất hơn là bất tuân luật Chúa bởi phạm tội. Cắt tay, chặt chân, hay móc mắt không hiểu theo nghĩa đen. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân. Đó chỉ là cách nhấn mạnh của Người và gây ấn tượng mạnh mẽ trên chúng ta, để chúng ta hiểu rằng Nước Thiên Chúa, đất vĩnh cửu của chúng ta muốn đạt được, xứng đáng mọi hy sinh.

Để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một vài việc quyết liệt và đau đớn như chặt chân, cắt tay. Với một số người, xa lìa một vài món đồ vật chất cũng có thể đau đớn như cắt một bàn tay. Tuy nhiên Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người không nhà ở trọ, chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Chúng ta phải làm một vài hy sinh để nâng đỡ Giáo Hội Chúa, công cuộc của Chúa là truyền bá đức tin. Cái đó thường cũng đau đớn.

Hy sinh để đẹp lòng Chúa và chiếm đoạt Nước Trời có thể cũng đau đớn như cắt một bàn tay. Với một người nghiện rượu, bỏ một chai rượu hay chỉ một ly thôi cũng có thể gây khổ sở cho anh. Nhưng để làm đẹp lòng Chúa, anh phải bỏ.

Chúng ta thích ngủ nướng trên giường vào sáng Chúa Nhật hơn là đi lễ. Cố gắng chiến đấu để vượt thắng tính lười biếng, có thể gây phiền phức, khó chịu ở một mức độ nào đó. Nhưng đó là phương cách để chúng ta chiếm đoạt Nước Thiên Chúa. Thường dễ ngồi chăm chú nhìn màn kính truyền hình đến phút chót, hơn là dành chút thời giờ cầu nguyện hay đọc vài dòng Kinh Thánh, hoặc đọc báo chí Công giáo, và ngay cả nói chuyện với người thương.

Hầu chuyện với Chúa là một đặc ân lớn lao, một niềm vui tuyệt diệu nhưng nó đòi hỏi cố gắng cắt bớt một vài việc không quan trọng và gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu đã cố gắng, Chúa Giêsu đã hy sinh. Người không chỉ cắt tay, Người hiến cả thân mình, chúng ta tưởng niệm sự dâng hiến đó nơi đây trên bàn thờ này. Hãy xin Chúa Giêsu sức mạnh để từ bỏ chính mình. Xin Chúa chúc lành bạn.

 

50. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Noel Quesson)

AI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA

Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác, cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi tượng trở nên đen thùi xấu xí.

Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó coi.

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người đồng đạo, người Công giáo.

Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này. Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản anh ta, vì anh ta không theo chúng ta”. Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng ta cũng thấy cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.

Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay, tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập thể. Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó đã đạt tới thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra công gắng sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói khác: “Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).

Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn đệ: “Không ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy”, nghĩa là có những lúc Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý” (1Tm 2,4).

Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi người, sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.

 

51. Dịp tội

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về dịp tội.

Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?

Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.

Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối với dịp tội?

Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được phép làm gương mù gương xấu cho người khác.

Rất nhiều lần chúng ta đã nói:

– Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, trái lại, chúng ta sống là sống với người khác.

Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo nên một hậu quả xấu nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:

– Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.

Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:

– Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh hay anh là người như thế nào.

Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù gương xấu, trở thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.

Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài nói:

– Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.

Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng, góp phần làm cho Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm sút.

Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh những dịp tội.

Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:

– Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày đứt tay.

Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:

– Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.

Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một cuốn sách, người này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ nặng nề về đức tin hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm việc nọ việc kia là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ, cân nhắc, bàn hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp tội, bởi vì trước mỗi hoàn cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng báo động và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải tránh.

Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn, chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:

– Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó đi, vì thà rằng chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.

 

52. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Đaminh M. Cao Tấn Tĩnh, BVL)

THIÊN ĐÀNG TOÀN LÀ THÀNH PHẦN QUÈ CỤT ĐUI MÙ TỬ ĐẠO

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI tuần này có hai vấn đề rõ rệt, tất cả đều được chất chứa theo bố cục của bài Phúc Âm. Vấn đề thứ nhất đó là vấn đề tinh thần bè phái của thành phần tông đồ được Thánh Ký Marcô ghi lại ở phần đầu của bài Phúc Âm, và vấn đề thứ hai đó là vấn đề gương mù gương xấu ở phần thứ hai của bài Phúc Âm. Bài đọc thứ nhất hợp với phần đầu của bài Phúc Âm, phần về tinh thần bè phái của thành phần tông đồ; và bài đọc thứ hai lại ăn khớp với phần thứ hai của bài Phúc Âm, phần về gương mù gương xấu.

Vấn đề tinh thần bè phái. Vì các vị tông đồ còn đầy tinh thần thế gian, tinh thần tranh chấp ngôi vị, một tinh thần phản lại với tinh thần phục vụ của Chúa Kitô, của Mầu Nhiệm Vượt Qua, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước đã cho thấy, bởi thế không lạ gì khi có vị tỏ ra tinh thần bè phái trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “Thày ơi, chúng con đã thấy một người sử dụng danh Thày mà trừ quỉ, và chúng con đã cố ngăn cản hắn vì hắn không thuộc về nhóm của chúng ta”. Nghe thấy tông đồ Gioan trình báo và có thái độ như thế, Chúa Giêsu đã lợi dụng dạy cho riêng vị tông đồ được Người yêu riêng và chung các tông đồ khác tinh thần hiệp thông như sau: “Đừng có ngăn cản họ. Không ai sử dụng danh Thày làm phép lạ mà đồng thời lại nói xấu Thày. Ai không chống lại chúng ta là hợp với chúng ta…” Ở đây, theo câu nói của tông đồ Gioan, thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ rằng vị tông đồ này tỏ ra muốn ngăn cản người khác trừ quỉ là vì họ nhân danh Thày của mình mà làm, tức muốn bảo vệ tên tuổi lừng lẫy của Thày mình mà thôi. Tuy nhiên, người đọc cũng có thể hiểu sâu xa hơn nữa là thái độ ngăn cản của tông đồ Gioan có nghĩa là chỉ có thành phần tông đồ của Đấng các vị tuyên xưng ”Thày là Đức Kitô” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật cách đây hai tuần, mới có quyền năng làm và mới được thẩm quyền làm mà thôi, một quyền lực mà các vị đã được Thày của các vị ban cho các vị khi Người sai đi rao giảng, như được nhắc tới ở bài Phúc Âm Chúa Nhật XV năm B.

Không biết có phải vì tinh thần bè phái này, tinh thần tranh chấp chẳng những trong nội bộ tông đồ đoàn, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước cho thấy, mà còn cả với phương diện đối ngoại nữa, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho thấy, mà các vị không nhìn ra rằng tên tuổi của Thày các vị sẽ càng được rạng danh hơn khi có người không thuộc về nhóm của các vị cũng làm được phép lạ, cũng trừ được quỉ như các vị. Đáng lẽ các vị phải mừng mới đúng, vì thấy ảnh hưởng của Thày mình vươn tới hết mọi giới người. Bởi vì, quyền năng trừ quỉ không phải ai cũng có, ngoại trừ duy nhất Con Thiên Chúa, Đấng “tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), và những ai được Người ban cho, được thông phần vào quyền năng của Người. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai sử dụng danh Thày làm phép lạ mà đồng thời lại nói xấu Thày”. Câu khẳng định này của Chúa Giêsu chẳng khác nào câu Người phán với những người Pharisiêu là thành phần cho rằng Người đã nhờ quỉ cả mà trừ quỉ con: “Làm sao Satan lại đi trừ Satan chứ? Một vương quốc chia rẽ nhau thì tồn tại thế nào đây?” (Mk 3:23-24). Bởi thế, thái độ bè phái nơi các tông đồ cũng chẳng khác nào thái độ của thành phần Pharisiêu tự cao tự đại, cái gì cũng cho mình là hay, là đệ nhất thiên hạ, không ai bằng. Và đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã bảo các tông đồ phải coi chừng men gương mù gương xấu của nhóm Pharisiêu (x Mt 16:6) và dạy cho các tông đồ một nguyên tắc sống hiệp thông, ở chỗ hễ ai không phản lại mình là hợp với mình!

Thật vậy, công ích là do mọi người xây dựng, và công ích là trách nhiệm chung chứ không phải là việc riêng của một cá nhân nào hay của một phái nhóm nào; mọi người cần phải đóng góp vào việc chung, bằng những việc lành theo khả năng, ơn gọi và hoàn cảnh của mình; và không phải chỉ có việc lành hay việc làm của mình mới là việc đóng góp xây dựng công ích, còn việc của người khác làm dù hay đến mấy, lợi đến mấy cũng không bằng mình, có thể còn chướng tai gai mắt mình, động đến lòng ghen tương và tinh thần tranh chấp của mình, thậm chí, như thời đại văn minh nhân bản trọng nhân quyền ngày nay cho thấy đã xẩy ra bao trường hợp, khiến con người đi đến chỗ tẩy chay nhau, kỳ thị nhau, sát hại nhau, chỉ vì không hợp với nhau, về mầu da, về tôn giáo, về văn hóa.

Thế nhưng, vấn đề ở đây là nếu người được ban cho quyền trừ quỉ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này không làm sinh lợi nén bạc quyền năng trừ quỉ của mình, người ấy sẽ phải trả lẽ trước Đấng Tối Cao, ở chỗ, người đó đã trở thành một kẻ phá đám, đã không sử dụng những gì được ban cho để làm lành, để chia sẻ, để phục vụ, để ban phát, như lời Chúa Giêsu khẳng định: “Ai không xây dựng là phá đám” (Mt 12:30), như trường hợp của người đầy tớ được trao cho 2 nén bạc lại đem đi chôn giấu, nhưng vẫn bị phạt dù không làm thiệt hại gì cho 2 nén bạc còn nguyên ấy cả (xem Mt 25:24-30). Trái lại, nếu biết đóng góp, thì dù việc làm có nhỏ bé mấy đi nữa, vật cho đi có tầm thường hầu như không có giá là bao chăng nữa trước mắt thế gian đi nữa, như một ly nước lạnh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, cũng có công trước mặt Chúa. Bởi vì, yếu tố làm cho ly nước lạnh có giá trị không phải là chính việc làm cho bằng ý hướng làm, làm vì Chúa, vì yêu mến, vì “các con thuộc về Chúa Kitô”. Tức là chính Chúa Kitô, danh Chúa Kitô làm cho tất cả mọi sự con người làm, dù tầm thường đến đâu, âm thầm đến mấy, cũng trở thành vô giá. Tuy nhiên, nếu một việc lành hay việc làm tầm thường mà còn trở thành vô giá bởi liên quan đến thần linh, đến Chúa Kitô như thế, thì những việc xấu xa con người làm, dù nhỏ mọn mấy đi nữa, thầm kín mấy đi nữa, nếu liên quan đến Chúa Kitô, cũng trở thành trầm trọng, cần phải tuyệt đối tránh.

Thánh Âu Quốc Tinh đã nói đến tác hại của gương mù gương xấu, nhất là trong trường hợp gây ra bởi các vị mục tử như sau: “Vị mục tử sống một đời sống tội lỗi trước dân chúng là người sát hại chiên do các vị chăm sóc.Vị mục tử này đừng có tự lừa dối mình khi thấy chiên không chết, vì dù nó vẫn sống thật, vị ấy cũng trở thành một kẻ sát nhân – giống hệt như người đàn ông nhục dục nhìn người đàn bà một cách thèm thuồng, thì hắn đã phạm tội ngoại tình dù cho người đàn bà đó có còn trong sạch… Hắn không lên giường với nàng, nhưng hắn đã chiếm đoạt nàng trong phòng ngủ của lòng mình rồi. Bởi thế, kẻ nào sống đời sống tội lỗi trước mặt những ai thuộc quyền chăm sóc của mình là những kẻ sát hại bởi chính họ cho dù những người ấy khỏe mạnh. Những ai bắt chước họ thì chết; ai không thì sống. Nhưng đối với chính họ, họ đã sát hại cả hai…” (Bài Giảng về Các Vị Mục Tử, sermo 46, 9: CCL 41, 535-536 – dịch theo cuốn The Office of Reading, Saint Paul Edition, 1983, trang 1077).

Điển hình nhất là trường hợp làm gương mù gương xấu tác hại đến tâm linh, đến đức tin của con người, làm cho họ bỏ đạo, bỏ Chúa. Vẫn biết việc bỏ đạo, bỏ Chúa, mất đức tin là do mỗi một con người có ý thức và tự do, nhưng kẻ gây ra gương mù gương xấu vẫn không tránh được trách nhiệm của họ, cả ở đời này lẫn đời sau, như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Ở đời này, hình phạt của kẻ gây ra gương mù gương xấu, kẻ làm cho anh chị em mình mất đức tin, bỏ Chúa, là bị thắt cối đá vào cổ mà quăng xuống biển; còn ở đời sau là bị tống vào hỏa ngục. Hình ảnh bị thắt cối đá đây chính là hình ảnh tiêu biểu cho thấy con người phải chịu trách nhiệm về việc xấu mình làm, một việc tự nó tác hại đến công ích, dù làm một mình không ai biết, vì trước hết và trên hết nó tác hại đến chính bản thân đương sự, một bản thân thuộc về cộng đồng nhân loại và phải sống cho công ích, như một chi thể yếu kém làm ảnh hưởng đến cả toàn thân. Biển đây là hình ảnh tiêu biểu cho tình trạng hỗn độn bất ổn trên thế gian, một tình trạng sẽ qua đi khi trời đất mới xuất hiện (x Rev 21:1). Vậy nếu bị cột cối đá là chịu trách nhiệm về việc xấu xa tác hại do con người làm, và biển là tình trạng lộn xộn hỗn độn trên thế gian, thì Chúa Giêsu có ý nói gì đối với trường hợp người làm gương mù gương xấu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này khi phán “thà bị cột cối đá mà quăng xuống biển thì hơn”? Phải chăng Người cố ý nói họ bị chết về phần xác còn hơn là người khác bị thiệt mất phần hồn, giống như trường hợp thà mất hết cả đàn heo, thiệt hại vật chất mà cứu được một con người khỏi bị quỉ ám còn hơn (x Lk 8:32-37)?

Căn cứ vào mạch văn của bài Phúc Âm, ý nghĩa của cụm từ “còn hơn” đây còn có một ý nghĩa khác nữa, đó là ý nghĩa giá trị giữa đời này và đời sau. Con người làm gương mù gương xấu thà biết nhận trách nhiệm của mình về những việc làm gây lộn xộn tác hại trên thế gian, hay làm cho lương tâm của mình cắn rứt, để sửa mình còn hơn mù quáng đến nỗi sau này sẽ bị đời đời trầm luân trong hỏa ngục. Đó là lý do Chúa Giêsu kêu gọi con người hãy dứt khoát với bản thân mình, hãy chân nhận sự thật lầm lỗi của mình, để rồi mới có thể từ bỏ bản thân và xa tránh dịp tội, mới có thể cải thiện đời sống và nhờ đó được trường sinh vinh phúc. Bằng không, như Người đã cho con người thấy trong bài Phúc Âm, dù họ có được lành lặn toàn thân song mất linh hồn thì được ích gì. Nếu chỉ qua cửa hẹp và đường gồ ghề con người mới được cứu độ, mới được vào Nước Trời (x Mt 7:13-14), thì có thể kết luận là trên Thiên Đàng toàn là thành phần què cụt, đui mù, bởi họ đã móc mắt, chặt tay, cắt chân của họ đi mất rồi vì những phần thể này đã làm cho họ làm mất lòng Chúa. Thế nhưng, dù không có mắt họ cũng có thể mò được vào Nước Trời, không có chân họ vẫn có thể bước tới Thiên Đàng. Bởi vì họ đã sống bằng đức tin, một đức tin đã làm cho họ tái sinh với một con người mới hoàn toàn hơn trước, một con người được sống sự sống viên mãn hơn (x Jn 10:10), một sự sống được thể hiện nơi chính thân xác của họ, một thân xác được thông phần vinh quang của Chúa Kitô phục sinh, một Chúa Kitô phục sinh vẫn mang trên thân xác của Người những dấu vết tử giá, những dấu vết tử giá cứu độ tràn đầy sự sống vinh quang!

Thật ra, tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên và ban cho con người đều tốt lành. Mắt, tay và chân của con người cũng thế. Con người không được làm hại đến chúng, bằng không sẽ phạm đến Chúa. Chúng được ban cho con người như phương tiện để sử dụng trong việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Sở dĩ chúng trở thành những dụng cụ hay phương tiện cho sự dữ là vì những gì xấu xa phát xuất từ bên trong con người mà ra, như được Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 22 cách đây 4 tuần. Nếu những gì từ ngoài vào (hay ở bên ngoài như mắt, tay, chân) không làm cho con người ra xấu xa dơ bẩn mà là những gì từ bên trong như Chúa Giêsu dạy, thì những gì cần phải loại trừ, cần phải móc bỏ hay chặt bỏ đây chính là đam mê nết xấu và ý hướng xấu của con người. Tuy nhiên, một khi con người nhất định cố gắng hoán cải, không còn ý hướng xấu nữa, không theo đam mê nhục dục nữa, thì, theo bản tính tự nhiên, mắt của con người cũng chẳng khác nào như bị móc bỏ đi, vì chúng không còn được tha hồ xem những phim con heo nữa, và tay chân của con người cũng như bị chặt đi, vì chúng không còn được thủ dâm nữa, ăn cắp ăn trộm nữa, không còn động một tí là đấm đá anh chị em của mình khi tức lên nữa v.v. Tuy nhiên, chính lúc con người bị đui mù què cụt như thế, một thứ tàn tật thiêng liêng, một dấu chứng sẵn sàng tử đạo, thậm chí chẳng những chột mắt, cụt tay, què chân, mà còn dám mất cả đầu mình nữa, như một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, thì bấy giờ chẳng những các phần thể này của họ mà còn cả toàn thể tạo vật mới hoan hưởng tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa (x Rm 8:21)!

 

53. Nhân danh

Trong trận thế chiến II, ba vị tuyên úy Công giáo, Tin lành và Do thái trở thành những người bạn thân của nhau. Họ thề hứa với nhau nếu một người trong nhóm bị giết chết, thì những người còn sống sót phải báo tin cho gia đình của người qua đời và lo việc chôn cất.

Thế rồi, vị tuyên úy Do thái bị giết chết. Hai người còn lại không thể tìm thấy một Rabbi hay một hội đường Do thái nào. Cuối cùng, trong một làng ở nước Pháp, họ tìm thấy một nhà thờ Công giáo xinh đẹp với một nghĩa trang được chăm sóc cẩn thận. Vị tuyên úy Công giáo đề nghị: “Chúng ta hãy đi gặp vị linh mục chánh xứ, may ra ông ấy có thể giúp chúng ta”.

Cha xứ muốn giúp họ. Nhưng ngài lại không bảo đảm chắc chắn được nên mới nói: “Ngày mai, xin các ông trở lại đây. Tôi sẽ tìm kiếm trong các sách vở để xem có luật nào cho phép chôn một người không phải Kitô hữu trong một nghĩa trang Công giáo hay không “.

Cha xứ đã tìm kiếm suốt đêm đó, nhưng không có kết quả. Ngài bảo họ: “Hãy chôn ông ấy ngay sát hàng rào của nghĩa trang. Chính tôi sẽ chăm sóc ngôi mộ của ông ấy”.

Khi chiến tranh kết thúc, họ quay lại để viếng ngôi mộ của người bạn. Nhưng họ không thấy dấu vết gì ở sát bên hàng rào của nghĩa trang. Họ tìm cha xứ và yêu cầu ông giải thích. Cha xứ mỉm cười và nói: “Tôi thấy ngôi mộ nằm bên ngoài nghĩa trang trông cô độc quá. Do đó, tôi tiếp tục tìm kiếm”. Họ liền hỏi: “Cha đã tìm thấy một luật cho phép dời ngôi mộ vào bên trong hàng rào?” Cha xứ trả lời: “Tôi không thấy một luật nào cho phép như thế. Nhưng không có luật nào cấm tôi dời hàng rào ra bên ngoài”.

Thái độ loại trừ đang phổ biến khắp nơi. Không chỉ trong lãnh vực tôn giáo, nhưng còn trong các tổ chức, các hiệp hội và mọi nơi khác trong xã hội. Ngay cả trong các gia đình nữa, khi cha mẹ thương đứa con này hơn đứa khác.

Chúa Giêsu không có quan niệm loại trừ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Không có độc quyền trong sự thánh thiện. Chúa Giêsu Kitô không chỉ thuộc về những người Công giáo, Tin lành, Chính thống… và những Kitô hữu khác. Người thuộc về tất cả những ai có thiện chí, có thiện tâm. Tất cả mọi người chúng ta đều thuộc về Chúa Giêsu Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, con tin, nhưng xin trợ giúp đức tin yếu kém của con.

 

54. Chiến hữu của Thiên Chúa

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta. Đức Giêsu đáp: Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ. Rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

Xem ra Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, được mô tả như là chiến hữu của Thiên Chúa tay cầm lưỡi đòng, đạp trên mình satan ác quỷ. danh hiệu của Ngài cho người đời đủ biết rằng Ngài luôn sát cánh cùng với Thiên Chúa; trong cuộc chiến không khoan nhượng với tội lỗi ma quỷ.

Các Tông Đồ và môn đệ là chiến hữu của Chúa Giêsu. Các ngài được Chúa yêu thương bảo bọc như ta đã biết, qua Thánh Kinh và Thánh Truyền. Cuộc chiến của Chúa Giêsu chống lại Satan và tội lỗi là cuộc chiến chỉ kết thúc khi trời mới đất mới mở ra, mà chính những người theo Chúa, có nhiệm vụ đem trời mới đất mới đó mở mang trên thế giới này!

Thật ra, phải nhìn nhận cách chính xác và hết sức nghiêm túc rằng: các Tông và các môn đệ là những vị tướng tiên phong trong cuộc chiến đó. cho nên, những ai đón tiếp các ngài, đối xử tử tế với các ngài, khác nào đón tiếp và đối xử tử tế với Chúa, khác nào góp phần làm cho cuộc chiến chống lại tội lỗi ngày càng oanh liệt để nước Trời hiện trên trần gian này,

Thế nhưng hết sức nghiêm khắc, Chuá Giêsu là Đức Vua, nhắc nhở các vị tướng lãnh của mình phải tuyệt đối trung thành với sứ mạng: LOAN BÁO TIN MỪNG TÌNH YÊU THIÊN CHÚA cho chư dân! Muốn nói điều gì với người khác, thuyết phục người khác tin, thì chính bản thân mình phải sống điều đó! Muốn kêu người ta bỏ đàng tội lỗi, chính mình phải bỏ trước; chưa đủ, còn phải sống gương mẫu, nếu làm cho người ta sa ngã thì theo cách nói nhấn mạnh trách nhiệm của ta đối với Chúa Giê su thà buộc cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn! vậy chúng ta hãy cố gắng sống theo ý Chúa như các trẻ em về niềm tin của các em vào Đức Giêsu?

GỢI Ý SỐNG:

  1. Đoạn Tin Mừng trên đây dạy ta điều gì về cách thức ta phải đương đầu với cơn cám dỗ?
  2. Chúng ta có nghiêm túc lưu ý về tội lỗi như Thiên Chúa muốn không?
  3. Tin Mừng hôm nay trình bày thế nào về trách nhiệm của ta đối với tha nhân cách rêng là đối với trẻ em, Về niềm tin của các em về Đức Giêsu?

 

55. Gương mù

Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh Marcô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là gương mù gương xấu.

Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “Mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.

Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.

Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.

Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.

 

56. Một ly nước lã

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)

Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.

Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.

Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “ Trị giá hóa đơn = một ly sữa”. (Trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).

Khi đọc câu chuyện này, chúng ta nhận ra được giá trị của việc làm phúc đức, bác ái dù nó là một ly sữa thôi, nhưng đã cứu cả mạng sống của một con người. Việc làm đó được ghi rõ trong Tin mừng của thánh Mác-cô: “ Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Một chỗ khác Chúa Giêsu bảo: “Khi Ta đói các người không cho ăn. Ta khát các người không cho uống…” Rõ ràng, điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời là thể hiện lòng bác ái, yêu thương tha nhân.

Thế nhưng, nhìn xung quanh ta, còn có biết bao người đang sống cảnh lầm than, đói khát, kiếm từng hạt cơm qua ngày. Người bán hàng rong, kẻ làm thuê, trẻ em đi bán vé xố… Sau một ngày vất vả, họ lại trở về trú ẩn trong mái nhà dột nát, khi gặp trời mưa, bão tố thì không có chỗ để che thân. Trong khi đó, có những kẻ thì dư thừa phung phí, họ vẫn dửng dưng trước những con người đang từng ngày từng giờ đi tìm miếng ăn dư thừa của kẻ giàu sang.

“Nếu anh em làm cớ cho kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển. Nếu tay anh em làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn có hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.

Khi nghe những lời răn đè này, chúng ta có suy nghĩ gì về số phận của con người?. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì chắc hẳn con người trên thế gian này toàn là những người khuyết tật, bị cụt tay, què chân, mù mắt. Khi con người ta đang chạy theo sự văn minh của nhân loại, nhu cầu đời sống hưởng thụ càng ngày càng cao, thì con người ta lại đang mất dần niềm tin, họ không cần đến Chúa. Ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng quên nhiệm vụ truyền đức tin cho con cái mình. Họ không còn thời gian để đến nhà thờ, đọc kinh dự lễ. Phải chăng đó là cái cớ cho kẻ khác vấp phạm! Có thể chúng ta không mù về thể lý, nhưng một cách nào đó chúng ta cũng đang bị mù tâm linh mới là điều đáng sợ nhất. Khi làm điều gian ác, nhưng người ta vẫn không cảm thấy là tội. Khi thấy người ta gặp tai nạn, nhưng ta vẫn đứng cười một cách vô tư. Một thái độ, một trái tim vô cảm thật là đáng sợ.

Nếu nói cái tay, cái chân, cái miệng và con mắt làm nên dịp tội, thì tội đó được xuất phát từ bên trong con người chúng ta. Theo lời của thánh Gia-cô-bê nói rất rõ: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi khoái lạc của anh em đang gây ra trong con người anh em đó sao?. Thật vây, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết và ganh ghét; anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý”. Cho nên, chúng ta chỉ có thể chữa lành vết thương tâm hồn khi chúng ta ý thức được mình là kẻ có tội, cần được Chúa thứ tha với thật lòng ăn năn và sám hối thì mới có thể làm những việc lành và là tấm gương sáng cho người khác. Người ta không thể cho những cái mình không có. Chúng ta có thể rút lấy kinh nghiệm của thánh Augustino, ngài nói: “ Lòng con khuâng buâng khắc khoải đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa”. Chính kinh nghiệm quá khứ tội lỗi của Augustino đã dạy cho ngài bài học quý giá của sự sám hối và trở về với Chúa. Vì Chúa cần chúng ta biết quay trở về cùng Chúa sau những lần lầm lỡ, nhờ đó, chúng ta biết cảm thông và chia sẻ nỗi khổ đau và bất hạnh của anh chị em đang cần lòng quảng đại của chúng ta.

Một ly sữa đã đổi lấy mạng sống một con người, thì ly nước lã dù cho người anh em uống thì cũng chẳng mất đâu. Đó là hứa của Chúa Giêsu cho những ai đặt niềm tin vào sự sống mai sau.

Lạy Chúa, đã biết bao lần tay con không biết nắm lấy một cụ già cần con dắt qua đường; đã biết bao lần chân con đi lạc bước vào những nơi tội lỗi xấu xa, và làm điều gian ác hại đến tha nhân; đã bao lần đôi mắt con thấy người ăn xin ven đường, nhưng chẳng biết xót thương. Thế là Chúa vẫn nói với con rằng: “ Chỉ một ly nước lã thôi!”.

 

57. Bắt ông ấy chịu trách nhiệm

William Porter một nhà văn nổi tiếng, bút hiệu là O. Henry, viết về một em bé gái mồ côi mẹ từ hồi còn bé. Bé gái này thường hay ở nhà và ngóng chờ ông bố đi làm về để có thể ngồi lên trên đùi bố để hưởng chút tình cha con.

Nhưng thương thay, mỗi buổi tối sau khi người cha làm các công việc ông vẫn thường làm là ăn, rồi đọc báo, hút xì gà, rồi đi ngủ.

Khi người con gái nhỏ của ông đến gần thì ông thường bảo: “Con không thấy cha mệt sao? Con hãy ra ngoài tìm bạn mà chơi.”

Người con gái thấy cha bảo vậy thì cũng ra ngoài đường để tìm bạn chơi và nó cố gắng nhí nhảnh bao nhiêu có thể.

Chuyện không may đã xảy ra. Sau khi đứa con gái đó lớn lên, cô bắt đầu đi tìm những mối tình cảm từ bất cứ ai trao tặng. Cô đã trở thành một con đĩ.

Một ngày nọ, cô gái đĩ đó chết đi và tiến về cửa thiên đàng. Thánh Phêrô thấy vậy liền nói với Chúa Giêsu: “Nó là một đứa tội lỗi, Chúa ơi. Nó là một con đĩ. Nó chỉ có thể đến một nơi thôi!”

Tiếp đến là khúc cuối của câu truyện gây cho khán giả ngạc nhiên. Chúa Giêsu quay sang bảo Thánh Phêrô rằng: “Con hãy mở cửa thiên đàng cho cô ấy vào. Khi người cha của cô ấy đến đây, con hãy bắt ông ấy chịu trách nhiệm.”

Thiên Chúa rất nhân từ đối với những kẻ lầm lạc mà không do lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa sẽ yêu cầu những kẻ nào làm cho người khác bị lầm lạc phải chịu trách nhiệm.

Chúng ta có thể thêm vào rằng cách chúng ta làm cho kẻ khác lầm lạc thường không phải là chúng ta đã làm gì nhưng thường là chúng ta đã không làm điều gì cho họ.

Cách đây vài năm, trong cuốn ‘Reader’s Digest’ có đăng tải một bài báo của Jane Lindstrom. Bài báo này có tên là “Làm Sao Bạn Biết Nếu Tôi Không Nói?”: “Các trẻ em thèm muốn sự yêu thương từ nơi cha mẹ. Nếu tình yêu bị khóa lại trong trái tim chúng ta, nó không thể tới các em được. Nó cũng giống như là một lá thư đã viết mà không đem đi gởi. Nhưng nếu những đứa trẻ được tình yêu bảo đảm, chúng sẽ nghe được những lời nói của chúng ta: con ngoan của mẹ cha. Mẹ cha rất lấy làm hãnh diện với con. Cha mẹ hết sức lấy làm vinh dự có một người con như con.”

Nếu chúng ta từ chối không bày tỏ tình thương, chúng ta có thể làm cho người mình thương đi vào con đường lầm lạc. Và Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm như trong trường hợp câu truyện của O. Henry.

Bài Phúc Âm hôm nay kêu gọi chúng ta tự vấn mình câu hỏi quan trọng. Chúng ta có làm gì, hoặc không làm gì, để có thể gây cho người khác đi vào con đường lầm lạc? Hoặc là chúng ta đã quá lo lắng cho những sự đau thương và lo nghĩ riêng mà bỏ đi những cách biểu lộ tình yêu với những người chúng ta quí mến?

 

58. Ghen tức

Qua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một thái độ, đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.

Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông đã được Maisen tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng qua sa mạc cát nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa, chiếm lại phần lãnh thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức vì hai ông Eđát và Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen ngăn cản, nhưng Maisen đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.

Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ trẻ tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác nhân danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút ghen tức và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc quyền. Và như chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy

Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta chúng ta có thể rút ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người khác được may mắn và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu xét mình, chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng ta. Một người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi nói hành nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng ta ghen tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.

Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ được hạnh phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ điên.

Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi nặng nề khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.

Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu thương khiến cho các người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ của mình. Nào là những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse. Nào là mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse…Từ thài độ ghen tức ấy, những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn và sau cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai cập. Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp biết là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.

Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào thập giál

Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình vào nếp sống của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt chước thánh Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút, trong khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã nói:

– Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.

Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy trở nên như đày tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc sống thường ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.

 

59. Phe này cánh nọ

(Suy niệm của Anmai)

Con người, tự lâu lắm rồi, đã mang trong mình cái đầu óc bè phái. Thấy người khác, nhóm khác thành công hơn mình, làm được việc hơn mình thì không chịu cố gắng, nỗ lực để được như người khác, nhóm khác. Hành động của những người ấy hết sức buồn cười là họ dèm pha, chỉ trích, nói hành, nói xấu.

Một kinh nghiệm hết sức thực tế ngay ở dân tộc Do Thái. Thuở xa xưa, khi đưa dân Do Thái ra khỏi nô lệ của Ai Cập thì Thiên Chúa đã nhờ đến bàn tay của Môsê. Ông quá vất vả với đám đông ô hợp. Mệt mỏi quá nên ông than thân trách phận với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nghe lời than vãn ấy, Thiên Chúa sợ ông phải cán đáng công việc một mình mệt nhọc nên Thiên Chúa đã gọi Môsê và truyền cho Môsê quy tụ 70 kỳ mục lại để cộng tác với Môsê.

Khi Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên 70 người thì có 2 người trong nhóm họ tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều như sách Dân Số vừa thuật lại. Vì lý do nào đó không đến lều nhưng Thần Khí của Thiên Chúa vẫn đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Thấy sự kiện như vậy, Ông Giô-suê con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à?”

Thế đấy, ông Giô-suê đã ghen tương khi thấy Thần Khí đậu trên 2 người kia khi họ còn ở trong trại và xin Mosê ngăn cản 2 người ấy. Với Môsê thì khác, Môsê đã mắng rằng họ đã ghen tuông với 2 người ấy.

Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại hình như cũng mang âm hưởng của sự ghen tuông. Các môn đệ đã ghen tuông khi những người không thuộc nhóm với Chúa Giêsu, không thuộc nhóm các môn đệ mà trừ được quỷ.

Nếu để ý trình thuật trước trình thuật này bối cảnh là “ở nhà”, nơi đó Chúa Giêsu “ngồi” giảng dạy cho các môn đệ. Thánh ký Máccô tiếp nối khung cảnh bằng cách chuyển mạch từ câu hỏi của môn đệ Gioan nhằm trình bày những giáo huấn mới của Chúa Giêsu.

Phải chăng việc gợi nhắc Gioan ở đây nằm trong dụng ý của thánh ký liên hệ đến một vấn nạn dù nhiệt tình song cũng không ít phần cục bộ: “lấy danh Thầy mà trừ quỉ, nhưng hắn lại không theo chúng tôi, và chúng tôi đã cố ngăn cản vì hắn không theo chúng tôi”. Vì chưng, trong một truyền thống khác chỉ có trong Tin Mừng Luca (Lc 9,54), chính Gioan và anh mình là Giacôbê đã đòi khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt dân Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ.

Trong thời đại của Chúa Giêsu việc chữa bệnh bằng cách trừ quỉ cũng được một số người Do Thái thực hành. Sử gia Flaviô Giôsêphê (Antiquités VIII, 46t) có kể lại trường hợp một người Do Thái tên là Elêazar chuyên chữa bệnh bằng một việc trừ quỉ rất mê tín và phù phép nhân danh vua Salômon.

Ở đây, thánh ký đề cập tới việc trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu, gợi nhắc đến bối cảnh thời Giáo hội sơ khai, ở đó việc trừ quỉ được coi là khá thịnh hành.

Sách công vụ tông đồ 8,19-24 có kể lại trường hợp Simon phù thủy muốn mua ở Phêrô quyền làm các phép lạ. Sách Cv 19,13t cũng trình thuật câu chuyện một số người Do Thái trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu: “Có ít người trừ tà rong đường, gốc Do Thái, cũng đã thử kêu danh Chúa Giêsu trên những người có quỉ ám” (Cv 19,13).

Cách miêu tả: không theo chúng tôi là một chi tiết biên soạn đậm nét thời Giáo hội sơ khai ở đó công đoàn các Kitô hữu tiếp tục quanh quẩn bên nhóm môn đệ, những kẻ đã từng theo Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nói: “chớ ngăn cản người ấy, vì không có ai nhân danh Ta làm phép lạ, rồi lại có thể vội nói xấu Ta. Vì ai không chống cự chúng ta là ủng hộ chúng ta, Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước, vì danh nghĩa các ngươi thuộc về Đức Kitô… nó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Câu 39-41).

Sự kiện các môn đệ muốn ngăn cản những kẻ không theo họ, gợi nhắc tinh thần hẹp hòi của họ sánh với cái nhìn của Thầy họ. Từ đó, Chúa Giêsu đã dựa vào suy tư của các môn đệ để đưa ra những lời dạy nhằm khơi mở tâm hồn họ. Trong bối cảnh Chúa Giêsu đang tiến về cuộc khổ nạn cũng như đang đối diện với phe Biệt phái ký lục tìm cách hãm hại Người, câu trả lời của Chúa Giêsu (câu 39) có thể được hiểu như sau: một kẻ nại đến Ta, nhân danh Ta, dựa vào sức mạnh của Ta để làm phép lạ, thử hỏi Người đó có thuộc về phe Biệt phái ký lục không? Thử hỏi kẻ ấy có chủ ý tìm cách hãm hại Ta không?

Cách miêu tả: vội nói xấu ta Gợi nhắc rằng việc làm các phép lạ và trừ quỉ… chưa hẳn diễn tả được một cách dứt khoát đức tin bền vững vào Chúa Giêsu.

Dầu sao, trong nhãn quan thần học của Maccô, câu trả lời trên của Chúa Giêsu nói lên chủ đích của Người muốn các môn đệ hiểu thái độ thiếu nền tảng của họ. Vì chưng, “ai không chống đối chúng ta, là ủng hộ chúng ta” (câu 40).

Làm sao dung hợp được kiểu này và câu nói được trình bày ở Tin Mừng Matthêu cũng như ở Luca: Bản Mt 12,30 viết: “Ai không đi với Ta, tức là chống lại Ta. Kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan nát” (x. Lc 11,23). Phải chăng đây là bằng chứng của các truyền thống mâu thuẫn nhau?

Một lần nữa, độc giả Tin Mừng được mời gọi để hiểu những lời của Chúa Giêsu trong mạch văn biên soạn tùy theo nhãn quan thần học của thánh ký.

Như vậy, mạch văn ở đây của Máccô là gì? Đó là sự mời gọi của Chúa Giêsu ngỏ cho các môn đệ biết theo chân Người làm tôi tớ mọi người (câu 35c), nhất là những ai thấp hèn hơn. Nếu Người đã từng nặng lời kết án phe Biệt phái ký lục và Hêrôđê như những kẻ mù quáng đối nghịch lại với Người, thì ngược lại, Người cũng luôn tỏ bày khuôn mặt của Đấng Thiên sai mang ơn cứu độ cho hết mọi người, Do Thái hay dân ngoại. Thế nên, chỉ có những kẻ chủ ý chống lại Người, phủ nhận quyền năng của Người, sẽ phải hụt mất cơ may cứu độ. Còn bất cứ ai không chống lại quyền năng của Người, cũng như muốn làm những sự thiện nào đó, đều được mời gọi để tin theo Người…

Lồng kết vào trong bối cảnh thời Giáo hội sơ khai ở đó Tin Mừng Maccô được biên soạn, kiểu này ngỏ cho các môn đệ và qua đó cho cộng đoàn Kitô hữu của sơ thời cũng như của mọi thời, như là lời mời gọi họ biết vượt qua tinh thần ích kỷ hẹp hòi phe phái. Vì chưng những ai theo Chúa không được phép trở thành những nhóm đóng kín, kẻo có nguy cơ sống trái ngược với tinh thần của Thầy họ. Ai tự cho mình là môn đệ đích thực của Đức Kitô và ai dám kết án người khác không phải là môn đệ của Người? Ai dám xác quyết rằng quyền lực cứu độ của Người chỉ tỏ bày cho họ chứ không cho kẻ khác? Ai có thể biết được quyền lực đó hoạt động như thế nào nơi người khác không?

Đang khi đó về bản văn của Matthêu và Luca: Nếu các Tin Mừng này trình bày một kiểu với ý nghĩa đối chọi, chính vì mạch văn đổi khác. Nơi Matthêu chẳng hạn, mạch văn nói về ý nghĩa vẫn đục của nhiều kẻ gán quyền lực trừ quỉ của Chúa Giêsu như xuất phát từ Satan. Hơn nữa trong bối cảnh của cộng đoàn mà Tin Mừng Mathêu được biên soạn, mối bận tâm nằm ở tầm vóc nội bộ cộng đoàn: “không phải mọi kẻ nói với Ta, Lạy Chúa, là sẽ vào được nước Trời” (Mt 7,21).

Trở lại với mạch văn Máccô người môn đệ của Chúa Giêsu được kêu mời ý thức sâu sắc về tâm nhìn cứu độ phổ quát của Người. Họ cần biết vượt thoát tinh thần phe nhóm để thấy được nơi mỗi sự thiện, mỗi sự góp phần tích cực nào đó như là khởi điểm cho ơn cứu độ, cho sự đón nhận Tin Mừng. Vì chưng, như đã được gợi nhắc ở trước trong Tin Mừng, sự thiện thuộc về Thiên Chúa, Đấng đã nhìn thấy mọi sự Ngài sáng tạo đều tốt lành quá đỗi.

Nhìn vào cuộc sống của chúng ta, cái máu phe nhóm, cái máu cục bộ nó len lỏi vào trong đầu của con người chúng ta lúc nào không hay.

Tâm trạng phe nhóm rất dễ thấy nơi các công sở, xí nghiệp và ngay cả trong gia đình. Chẳng hiểu vì sao và lúc nào mà tinh thần cục bộ, phe nhóm, bè phái nó đã len vào trong gia đình, trong công sở, trong xí nghiệp. Nhìn ở góc độ nào đi chăng nữa thì tinh thần cục bộ, óc bè phái và phe nhóm vẫn mang yếu tố tiêu cực hơn là tích cực dẫu rằng có chuyện thi đua để cho mọi sự nên tốt. Con người vẫn mang trong mình những giới hạn để rồi nhóm này thành công thì nhóm kia sẽ thất bại và rồi hai bên cứ kình địch nhau mãi. Tốt hơn hết là ta nên dung hoà và ta nên cùng làm việc chung với nhau chứ đừng vì hư danh mà ganh tỵ.

Anh em vẫn dùng cơm chung với nhau, thi thoảng Cha Sở đã nhắc nhở anh em nên sống công bằng, sống cư xử mọi người như nhau chứ đừng tạo phe nhóm, đừng tạo nên não trạng cục bộ. Chắc có lẽ kinh nghiệm với biết bao nhiêu năm sống cộng đoàn, giúp mục vụ nên Cha Sở đã thấy được những tổn thương, những thiệt hại của tinh thần bè phái, phe nhóm và cục bộ.

Mỗi thành viên góp phần cho sự phát triển của gia đình và cộng đoàn. Nếu từng thành viên ấy chung tay góp sức lại thì gia đình, cộng đoàn ấy vững mạnh và hạnh phúc. Nếu như gia đình, cộng đoàn nào gặp phải tình trạng phe nhóm thì buồn thật vì khi ấy, căn nhà, cộng đoàn ấy cứ mãi bị khập khiễng do sự ganh ghét, hơn thua của phe này nhóm nọ.

Thiệt hại về phe này cánh nọ chúng ta thấy hết sức bi đát. Dẫu bên ngoài họ có che lấp bằng những vẻ đẹp hào nhoáng đi chăng nữa nhưng bên trong nội bộ vẫn là sự bất an. Bất an là vì một bên thì cố gắng hết sức thủ cho mình hết chiêu này đến thức nọ để bảo vệ cho phe của họ còn phe kia thì cứ rình rập xem phe kia có sơ hở gì không và nếu có sơ hở là họ bắt đầu chỉ trích, bắt đầu lên án, bắt đầu dèm pha như các môn đệ hôm nay trong Tin mừng.

Nguyện xin Chúa Giêsu, Vua của Bình An, Vua của Hiệp Nhất đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta dẹp bớt đi cái tôi của mình, dẹp bớt đi cái não trạng bè cánh để cộng đoàn, gia đình chúng ta được bình an và hạnh phúc hơn.

 

60. Dịp tội

Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.

Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ bỏ qua đâu.

Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: “Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?”. Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.

Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.

Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.

Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội… thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.

Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.

 

61. Lời khuyên

Tin Mừng nêu ra nhiều điểm rất quan trọng có tính thực hành. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu gởi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn nhưng chúng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.

  1. Các Tông đồ đề cập đến một người không lấy tư cách đoàn thể của họ, để chữa lành dân chúng nhân danh Đức Giêsu. Các ông tìm cách ngăn cản người ấy. Tại sao? Bởi vì các ông ganh tị quan hệ đặc biệt của người ấy với Đức Giêsu (có một ví dụ tương tự trong Bài đọc 1). Chúng ta nhớ đến thái độ hẹp hòi của chúng ta đối với các Kitô hữu thuộc các Giáo hội khác trước Công đồng Vaticanô II.

Nhưng Đức Giêsu nói: “Đừng ngăn cản người ta “. Sự kiện người ấy nhân danh Người có nghĩa là người ấy không chống lại các Tông đồ. Kế đó Đức Giêsu cho họ một bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung. Thật vậy, mọi lời cầu nguyện trong thánh lễ, và trong mọi bí tích được cử hành nhân danh Đức Giêsu và quyền năng của Người. Nhưng người Công giáo không độc quyền về Đức Giêsu.

Một số người e ngại các ơn huệ và thành tựu của những người khác. Nếu như họ có một thái độ cởi mở hơn hẳn họ sẽ thấy mình được phong phú thêm thay vì giảm bớt đi bởi những ơn huệ ấy. Người nào khác tôi không thu nhỏ tôi nhưng làm tôi thêm phong phú. Thiên Chúa ban phát những ơn huệ của Người một cách tự do. Trách nhiệm của chúng ta là vui mừng tiếp nhận những ơn huệ ấy dù chúng xuất hiện nơi đâu.

  1. Đức Giêsu đã nói rằng ai cho những người bé mọn dù chỉ một chén nước lã sẽ được tưởng thưởng. Một chén nước lã là tượng trưng cho một loại công việc tốt lành nhỏ bé. Ít người trong chúng ta có cơ hội làm những việc lớn. Nhưng cơ hội cho một chén nước có thể đến với chúng ta nhiều lần trong một ngày. Một hành động nhân từ nhỏ bé có thể biến đổi một mùa đông ít nhất thành một khoảnh khắc mùa hè cho một người khác.

Không cần có những hành vi to lớn để có thể giúp đỡ và an ủi con người mà hành vi ấy nhắm đến. Chỉ cần những sự nồng ấm. Mọi hành vi xuất phát từ tâm hồn đều có sự nồng ấm ấy.

  1. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho người khác phạm tội. Người tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Người đi lạc lối. Khi chúng ta nghĩ đến những tội ác mà người ta gây ra cho các trẻ em hôm nay, dù là qua sự thờ ơ hay lạm dụng thì lời cảnh cáo của Đức Giêsu chúng ta phải coi là rất quan trọng.
  2. Rồi Đức Giêsu nói đến nguyên nhân của tội nằm trong chính chúng ta. Một kẻ thù của con người nằm trong chính con người. Những cơ hội gây ra tội phải bị đoạn tuyệt không chút thương tiếc. Đức Giêsu khuyên người ta phải thực hiện những hy sinh đắt giá nhất để tránh xa tội lỗi, kể cả phải cắt bỏ tay chân hoặc móc mắt mình.

Những lời này không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Người là in sâu vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xóa được, rằng nước Thiên Chúa đáng cho chúng ta hy sinh mọi thứ khác.

  1. Đức Giêsu nói về hỏa ngục và so sánh nó với Ghê-hen-na, Ghê-hen-na là một hẻm núi ở phía nam Giêrusalem. Có một thời, người ta giết các trẻ nhỏ ở đó để tế thần Mô-lốc. Giô-xua đã chấm dứt việc thờ cúng đó, và sau này nơi đó dùng làm nơi đổ rác và xác thú vật. Là một mảnh đất báo điềm gở, nó trở thành biểu tượng cho nơi trừng phạt sau này.

Và lúc nào cũng thế, Lời Đức Giêsu đem lại cho chúng ta nhiều điều để suy nghĩ. Nếu chú ý đến Lời Người, những việc chúng ta làm sẽ trở nên tốt đẹp.

 

62. Tảng đá

Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Vì thế, ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn hơn. Dù chúng ta có biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp ngã hoặc viên đá giúp cho người khác vượt qua trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc. Ở đây xin đưa ra một vài thí dụ về việc chúng ta có thể là cố gây ra sa ngã hay tảng đá gây vấp ngã cho người khác.

Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn không tử tế hoặc bất công trong cách đối xử với tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy rằng tôi là người xấu.

Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn làm tôi bị sỉ nhục chỉ vì tôi không sống theo những gì bạn mong mỏi. Bạn làm tổn thương lòng tự hào của tôi và làm hại hình ảnh mà tôi có về mình.

Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn hạ thấp tôi và đẩy tôi ra phía sau. Khi bạn đứng dưới ánh đèn sân khấu, còn tôi buộc phải lùi về làm cái bóng của bạn. Điều này làm tôi cảm thấy mình thấp kém.

Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn loại trừ tôi hoặc không biết đến tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy mình là một người xa lạ hoặc một người ở bên lề.

Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn luôn phê bình tôi một cách bất công làm tôi chua cay vì sự vô liêm sỉ của bạn. Bạn làm lý tưởng tôi sụp đổ và phá hủy những mơ ước của tôi.

Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn trả tiền lương ít ỏi cho tôi (xem Bài đọc 2). Bạn biến tôi thành nô lệ để bạn có thể sống như một ông hoàng. Bạn làm tôi nghèo đi để làm giàu cho bạn.

Nếu bạn làm những điều đó cho tôi, bạn là bóng tối đối với tôi. Bạn là một trở ngại trong đường lối của tôi. Bạn là một cớ gây vấp ngã, một tảng đá làm tôi vấp ngã trên con đường phát triển của bản thân, và bạn làm cho tôi khó đến được Nước Trời.

Nhưng bạn cũng có thể là viên đá vượt qua cho tôi.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn nâng đỡ tôi trong những lúc yếu đuối và nghi ngờ.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn làm tôi tin vào chính mình, khi tăng thêm niềm tự tin cho tôi.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi tôi cảm thấy không đầy đủ, nhưng bạn giúp tôi khám phá các khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn đòi hỏi thách đố mà không làm tổn thương tôi, trái lại giúp tôi trưởng thành và phát triển tiềm năng của mình.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn chấp nhận tôi, dù những người khác bỏ rơi tôi.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn từ chối hùa theo đám đông để ném viên đá buộc tội và phán xét tôi khi tôi phạm tội.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn tha thứ cho tôi. Bạn giải thoát cho tôi khỏi quá khứ của tôi, và tôi được tự do để lại tiến bước.

Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn sử dụng tôi và trả lương cho tôi một cách công bằng.

Nếu bạn làm cho tôi bất cứ điều nào như thế, bạn là ánh sáng cho tôi trong bóng tối. Bạn là một bảng chỉ đường cho tôi trong những lúc nghi ngờ. Bạn là một cái cầu bên trên dòng nước lo âu, bối rối. Bạn làm cho việc vào Nước Trời của tôi được dễ dàng hơn.

Đức Giêsu nói nếu bạn đã cho tôi dù chỉ là một chén nước lã, bạn sẽ được tưởng thưởng về điều đó. Nhưng bạn đã làm nhiều hơn thế. Bạn đã dẫn tôi đến giếng nước của bạn và chia sẻ với tôi.

 

63. Hướng tâm hồn lên

Cha Zundel đã có định nghĩa nghe rất lạ tai nhưng cũng rất hay rằng: “Thiên Chúa là khi bạn tốt”. Nói như thế có nghĩa là bất kì khi nào chúng ta “tốt”, chúng ta đều là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, trong suốt với Thiên Chúa và trở nên giống Thiên Chúa mọi đàng. Nhưng thế nào là tốt? Một người được gọi là tốt thì phải như thế nào? Nếu liệt kê từng chi tiết nhỏ thì có lẽ chúng ta không thể ra hết được. Nhưng chúng ta có thể nói, một người tốt là người sống theo tinh thần Phúc Âm, mà cụ thể là sống theo tình yêu thương như Chúa đã yêu.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta một tiêu chuẩn, một phương thế để sống tình yêu là không ghen tị và ghen tương; không sống tinh thần cục bộ. Biết sống đoàn kết trong tổ chức, trong nội bộ của mình là tốt, nhưng chưa đủ. Do đó, chúng ta còn phải biết hướng nhìn về những người khác nữa. Nói cách khác, chúng ta không được phép loại trừ những người khác phe nhóm với mình, khác tổ chức của mình. Chúng ta cần phải sống tinh thần mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Các tông đồ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng phạm phải tội ghen tương và đầu óc cục bộ khi thấy có những người không thuộc nhóm các ông lại nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Các ông nói với Chúa Giêsu câu chuyện ấy với ý định là nhờ Chúa Giêsu cấm những người ấy không được phép làm những chuyện mà các ông đang làm nhân danh Chúa, vì các ông nghĩ rằng chuyện trừ quỷ là ân huệ chỉ dành riêng cho ông mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không những không làm theo ý các môn đệ của mình mà còn sửa dạy các ông, giúp các ông biết mở lòng ra và hướng tâm hồn lên để “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Ghen tị, ghen tương, đầu óc cục bộ không làm cho con người ta lớn lên được mà chỉ quanh quẩn trong những chuyện nhỏ nhặt, kéo ghì con người xuống. Vì thế, chúng ta rất cần sống tinh thần vui với người vui, khóc với người khóc mà Thánh Phaolô đã dạy chúng ta. Điều này, mới nghe tưởng dễ nhưng thực hành là điều rất khó. Có thể, chúng ta “khóc với người khóc thì dễ hơn vì khi đó, chúng ta thấy mình ở trên người khác; may mắn hơn người khác, thành công hơn người khác… Nhưng vui với người vui thì khó hơn nhiều. Bởi lẽ, khi thấy người ta thành công hơn mình, may mắn hơn mình, ở vị trí cao hơn mình thì khó lòng mà vui theo người ta được lắm. Nếu có thì chỉ ơ bên ngoài mà thôi, còn trong lòng có thể mình đang bực tức lắm đây. Con người ta phức tạp lắm. Vì thế, chúng ta cần phải hướng tâm hồn lên, bay cao lên trên những tình cảm tự nhiên của chính con người mình để chúng ta không bị lệ thuộc vào những chuyện nhỏ nhen, ích kỷ nơi ta, là nguyên dân làm tâm hồn ta không thể nâng lên cùng Chúa được.

Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.

Để chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.

Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi… Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: “Tôi xin được móc một con mắt…!”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị móc hai con mắt.

Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.

Tình trạng phe này đối nghịch với phe khác, đoàn thể này không hợp với đoàn thể kia… hình như ngày nay càng càng gia tăng, đặc biệt là trong xã hội văn minh và hiện đại như hôm nay. Ai cũng muốn cho công việc của mình là độc quyền, không ai có thể thay thế được. Sợ rằng mình bị mất ảnh hưởng, sợ mình không còn được ai nhắc đến, cần đến hay hết còn được đề cao nữa. Có một số người nhất quyết không truyền lại “nghề” của mình cho bất cứ ai dù là con hay cháu của mình. Gần đây, chúng ta chắc có nghe đến chuyện hai tập đoàn viễn thông Viettel và Mobifone kiện cáo nhau vì cho rằng đối tác của mình “chơi xấu” mình khi cố tình nói ra những chuyện không tốt của nhau, để rồi cuối cùng ai cũng bị thiệt hại nặng nề cả! Vậy mà họ vẫn thấy vui khi mình chỉ ra được cái xấu của người khác. Một niềm vui không quân tử và không thánh thiện chút nào!

Chúng ta cũng dễ thấy tình trạng tôn giáo này nói xấu tốt giáo khác, mục đích là loại trừ người khác và để nâng mình lên. Thật ra, truyền giáo bằng cách nói xấu đạo khác, chê bai, chỉ trích người ta thì chắc chắn không được ai kính trọng và nể phục bao giờ. Đó là chuyện làm của trẻ con quen làm, chuyện của những đầu óc tiểu nhân, suốt đời chỉ mong làm những chuyện chia rẽ, hạ bệ, gây đau khổ cho người khác.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy sống hết lòng cho tình yêu của Chúa và vui lòng chấp nhận anh em mình với những hoàn cảnh và tình trạng của họ đang có. Đó là thái độ khôn ngoan của con người và là phương cách tốt nhất giúp ta nâng cao tâm hồn mình lên để đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng ta hãy trở nên tốt để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc êm đềm với Chúa mãi mãi, vì “Thiên Chúa là khi bạn tốt”. Amen.

 

64. Lên án

Rất nhiều người thán phục và ao ước như người giàu có. Thế mà thánh Giacôbê đã tấn công gay gắt những người giàu. (Bài đọc 2) Tuy nhiên, không phải vì họ giàu mà bị lên án. Thánh Giacôbê đưa ra hai điểm cơ bản.

Trước hết là sự giàu sang sau cùng không có giá trị gì. Bất cứ tiện nghi và xa hoa nào mà giàu sang đem lại đều tạm bợ; sau cùng, nó là sự hư ảo phù vân. Sự giàu sang không dẫn đến hạnh phúc. Vì thế, đặt hy vọng vào của cải vật chất là điên rồ.

Đây là điều mà đôi khi tất cả chúng ta phải nhớ lại, bởi vì chúng ta sống trong một nền văn hóa nói với chúng ta điều ngược lại. Bằng rất nhiều cách, nền văn hóa ấy nói với chúng ta rằng sở hữu của cải dẫn đến hạnh phúc. Đây là một sứ điệp đầy sự quyến rũ làm hư hỏng nhiều cuộc đời.

Điểm thứ hai mà thánh Giacôbê nêu ra liên quan đến cách mà người ta trở nên giàu có. Trong nhiều trường hợp, được giàu có và giữ sự giàu có lâu dài bao hàm hành động bất công và bóc lột người yếu kém. Ở đây, chúng ta không nói về sự điên rồ mà nói về một điều vừa ác vừa có tội.

Còn hai điểm nữa cũng cần phải nói đến.

Sự giàu có tạo ra một ảnh hưởng trên người sở hữu nó. Mối bận tâm đến những sự vật chất cuốn hút mọi suy nghĩ và ưu tư của người ấy về đời này và loại bỏ đời sau. Hơn thế nữa, sự chiếm hữu còn làm cho một người trở nên kiêu ngạo, tự cao, tự mãn. Giàu có nuôi dưỡng ích kỷ, làm cho tâm hồn người có của thành ra chai cứng. Không ai thấy sự nguy hiểm của những sự vật chất bằng Đức Giêsu.

Sau cùng tất cả những điều đó phải được nhìn trong sự tương phản với một hậu cảnh ở đó hàng triệu người đang sống trong cảnh nghèo nàn và đói khát. Đối với một người có quá nhiều, thì ít nhất có đến mười người có quá ít. Một vài người ăn uống no nê trong lúc nhiều người khác lại rất thiếu thốn. Trong một số nơi trên trái đất những đứa trẻ bị chết trước mắt của mẹ chúng.

Theo một bài báo trong tờ The Tablet (Tháng 12-1996) tài sản của 358 tỉ phú giàu nhất thì tương đương với tài sản của 2,3 tỉ dân nghèo, chiếm 45 /o dân số của thế giới. Có sự bất bình đẳng rất to lớn. Khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng xa thêm.

Sự bất bình đẳng ấy là một điều xấu lớn. Nó giải thích sự bất an mà con người ngày nay cảm thấy, một sự bất an mà không chỉ người nghèo nhưng cả người giàu cũng cảm thấy. Nó đòi hỏi một giải pháp kiên quyết. Nhưng phải bắt đầu ở đâu và phải làm gì? Bước đầu tiên là phải ý thức về nó.

Giàu có là một trách nhiệm. Người ta sẽ bị phán xét bởi hai tiêu chuẩn: họ có được của cải như thế nào và họ sử dụng nó như thế nào?

 

65. Hiệp thông để làm sáng danh Chúa

Tự bản chất Giáo hội Công giáo là hiệp thông. Hiệp thông trong cùng một đức tin và một phép rửa. Hiệp thông giữa các thành phần dân Chúa. Dĩ nhiên, trong sự hiệp thông này mỗi người vẫn còn giữ được nét độc đáo của mình. Miễn sao mỗi người cùng hướng về một mục tiêu chung. Mục tiêu ấy là làm sáng danh Chúa.

Thánh Gioan trong đoạn Tin mừng hôm nay đã chưa hiểu và đã chưa sống tốt sự hiệp thông này. Ông đã ngăn cản một người lấy danh Chúa Giêsu để trừ quỷ. Mà người này lại không thuộc về nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu. Làm xong chuyện đó, ông đã hồ hởi về trình báo cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” (Mc 9, 38b)

Không những ông không được khen mà ông còn được Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự hiệp thông: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9, 39 – 40)

Chúa Giêsu tin tưởng vào người đã lấy danh của Người để trừ quỷ vẫn hiệp thông với Người. Trong việc ấy người này đã làm sáng danh Chúa. Các Tông đồ khi hiểu được điều này nên các ông đã cố gắng hết sức mình để làm sáng danh Chúa mặc dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

Trong Giáo hội luôn có nhiều ơn gọi khác nhau. Có nhiều dòng tu và tu hội với những đặc sủng khác nhau. Dầu vậy dù đặc sủng nào thì tất cả đều nhắm tới mục tiêu làm sáng danh Chúa.

Trong một họ đạo có nhiều thành phần khác nhau. Nhưng nếu như tất cả mọi người đều hiệp thông đoàn kết yêu thương nhau để xây dựng và phát triển họ đạo thì đó là điều tốt để làm sáng danh Chúa.

Trong từng tập thể lớn nhỏ của Giáo hội nếu biết cùng nhau từ bỏ ý riêng để cùng cộng tác làm một công việc nào đó thì danh Chúa sẽ được rạng rỡ biết bao.

Trong một gia đình, nếu mỗi sáng tối các thành viên cùng ngồi lại trước bàn thờ Chúa để cùng nhau đọc kinh thì đó cũng là cơ hội tốt để làm sáng danh Chúa.

 

66. Chúa Nhật 26 Thường Niên

KITÔ HỮU TRƯỚC ĐIỀU THIỆN VÀ ĐIỀU ÁC

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Tin nhận Đức Kitô không chỉ là đi theo Ngài đến những nơi mà Ngài đã đi qua, mà còn là tham dự vào cách sống của Ngài, tức là thực thi giáo huấn của Ngài. Cụ thể giáo huấn của Ngài hôm nay là giáo huấn về điều thiện và điều ác.

– Chúa Giêsu đề cao giá trị các việc thiện, dù việc thiện ấy do bất cứ ai làm và nhỏ đến đâu đi nữa. Ngày nay, người ta lên án nhiều về mọi hình thức độc quyền: độc quyền về điện nước, độc quyền về xăng dầu, độc quyền về sách giáo khoa,… Những thứ độc quyền này đã và đang hành hạ người dân và làm tê liệt sự phát triển về kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác nữa. Trong đời sống tôn giáo cũng có một thứ độc quyền mà Chúa Giêsu mạnh mẽ đả phá, đó là độc quyền về ơn sủng, độc quyền làm điều thiện.

Đây là một vấn đề rất phổ biến trong lịch sử Dân Thánh. Câu chuyện về ông Giôsuê trong Cựu Ước và ông Gioan trong Tân Ước mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trưng dẫn cho ta thấy điều này. Sau khi được báo cáo cho biết có những người trong trại đã nói tiên tri, ông Giôsuê rất lấy làm khó chịu và bẩm báo sự việc cho ông Môsê (x. Ds 11,26-28). Cứ theo lời lẽ ông nói, thì ông muốn việc nói tiên tri là độc quyền của một số người nhất định, chứ không phải ai muốn nói là nói.

Tương tự, khi thấy một số người mặc dù không thuộc nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu mà lại ra tay trừ quỷ, ông Gioan tìm mọi cách để can ngăn. Ông hãnh diện về việc này và kể công với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cấm, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9,38). Cứ ngỡ sẽ được Chúa Giêsu khen, ai ngờ ông bị Chúa Giêsu “sửa lưng”: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi sau đó lại nói xấu về Thầy” (Mc 9,39). Rất rõ ràng, quan điểm của Chúa Giêsu là việc tốt, việc thiện, việc lành do bất cứ ai làm nhân danh Ngài đều có giá trị.

Hơn thế nữa, một việc tốt, việc lành, nhất là việc phục vụ anh chị em đồng loại, dù nhỏ bé tầm thường đến mấy vẫn không mất công phúc: “Thầy bảo thật anh em, ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41). Ta có thể cho nhiều hay cho ít, điều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là ta đã cho “như thế nào”, bao nhiêu tình yêu mến được đặt vào nghĩa cử mà ta làm cho người khác. Ðôi khi chỉ cần cho một chén nước lã mà lại được ghi công. “Cho một chén nước lã” là một cử chỉ tầm thường, nhỏ bé, song lại lớn lao trước mắt Thiên Chúa khi được thực hiện nhân danh Người, nghĩa là thực hiện vì lòng yêu thương. Giá trị của nó còn nằm ở chỗ “làm cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa” (x. Mt 25,40). Đây là một mạc khải đầy bất ngờ. Bất ngờ vì chính Chúa Giêsu đã “đồng hoá” mình với những kẻ thấp hèn bé mọn. Từ nay, việc bái ái yêu thương mà ta làm cho anh em đồng loại nhân danh Chúa, nhất là cho những kẻ bé nhỏ, không chỉ đơn thuần là việc thuộc về “đức ái đối nhân”, tức là việc nhân ái giữa người với người; mà, hơn thế, còn là việc thể hiện “đức ái đối thần”, tức là việc yêu thương đối với chính Chúa. Cái phúc cái phần ấy thế mà được nhân lên gấp bội.

– Về việc tốt việc thiện là vậy, còn về việc xấu việc ác thì sao? Cũng trong chiều hướng trên, Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta trước những việc xấu việc ác dù nhỏ. Nhất là làm cớ, hay là làm gương xấu cho những kẻ bé mọn sa ngã là tội lớn, tội đáng “buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển”. “Buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển” là cầm chắc cái chết, dù có là vận động viên bơi lội, vì không còn trồi lên được. Đây là một trong hai hình phạt nặng nề đối với người Dothái thời bấy giờ. Qua giáo huấn này, Chúa Giêsu muốn đặc biệt lưu tâm đối với các bậc cha mẹ, thầy cô, bề trên,… là những người có trách nhiệm giáo dục hướng dẫn người khác.

Không chỉ dừng lại ở đó, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta can đảm và dứt khoát tránh chiều theo những cám dỗ, những thói hư tật xấu làm cho chính mình sa ngã. Dứt khoát với sự xấu, sự tội cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt… nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh.

“Mắt” đối với ngưới Do thái, là cửa ngõ của con tim, là lối vào của tâm hồn (gần với quan niệm của người Việt Nam: mắt là cửa sổ tâm hồn). Tội tư tưởng thường đến từ đôi mắt. Cũng theo quan niệm của người Dothái, “tay chân” diễn tả hành động. “Chặt tay chặt chân” nghĩa là phải dứt khoát với các duyên cớ dẫn đến hành động tội lỗi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho ta thấy rằng dứt khoát với tội lỗi không dễ chút nào. Tội lỗi một khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân. Dứt bỏ nó cũng đau đớn như chính những chi thể trong thân thể bị chặt bỏ, cắt lìa. Ta hãy xem những người bị nghiện ngập ma tuý chẳng hạn. Cơn nghiện vật vã giày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma tuý trở thành một phần thiết thân của đời sống, đến nỗi khi phải dứt lìa, họ đau đớn khổ sở như thể đánh mất chính sự sống của họ vậy.

Đặt mình trước giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta được mời gọi có những phản tỉnh nào? Đối với những điều thiện tôi đã bỏ qua không làm, hay làm không ý thức: tôi đã đánh mất bao nhiêu cơ hội để làm điều thiện, vì cho rằng đó là điều nhỏ? Bao nhiêu lần tôi làm điều thiện, điều tốt mà tôi không ý thức làm vì danh Chúa Kitô?

Đối với những điều xấu, điều tội: bao nhiêu lần tôi đã tích lũy án phạt vì đã làm cớ cho người khác vấp phạm, sa ngã? Bao nhiêu lần tôi đã thiếu dứt khoát đối với các dịp tội và đã chiều theo cám dỗ để rồi sa ngã phạm tội đều đều?

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết thành tâm kiểm thảo mình mỗi ngày và can đảm điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp với giáo huấn của Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

67. Chiêm ngắm bức tranh 3 mầu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm bức tranh gồm 3 hình ảnh với 3 gam màu sống động:

  1. Gam màu vàng cam: hình ảnh các tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung tín với Thầy Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm đọc công thức trừ tà,…. Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp chứng chỉ tốt nghiệp hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!

Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm qui chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạnh nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “báo cáo thành tích”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã dạy. Dù thành công hay thất bại thì các ông vẫn một lòng gắn bó mật thiết với Thầy của mình.

Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?

  1. Gam màu xanh thẳm: hình ảnh đám đông dân chúng là những con chiên hết lòng đi theo Chúa và khao khát được nghe lời Ngài. Quả vậy, nhiều lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh bị quấy rầy, hay tránh bị tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao, dưới biển khơi, hay trong hoang địa… Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như trình thuật mà thánh sử Máccô mô tả.

Rõ ràng là họ đi theo Chúa một say sưa. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin mừng hôm nay.

Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu vời” rát cả cổ mà dân đàn chiên của ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.

  1. Gam màu hồng thắm: Đây là gam màu nỗi bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, vị mục tử nhân hậu và từ tâm.

Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: Chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Tuyệt vời thay người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên Chúa làm người!

Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, đã thế Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người mục tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn thuê dắt mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một vị mục tử có tấm lòng vàng. Bởi đó dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6, 34).

Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc tông đồ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương, nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.

 

68. Óc ganh tỵ

Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại Ta thì thuộc về Ta”.

Qua câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tỵ đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa “bởi vì ganh tỵ có tới ba cấp bực:

. Cấp thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

. Cấp thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với người không thuộc phe nhóm của mình.

. Cấp thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tỵ với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.

Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người Công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa.

Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc về phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.

Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hòa với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.

Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.

Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tỵ, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hòa với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những điều tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.

 

69. Thuận hay chống

(Suy niệm của Antôn Lê Ngọc Sinh Nhật)

Bài Tin Mừng hôm nay cho biết câu chuyện xảy ra trong khung cảnh truyền giáo của các Tông đồ và có thể cuộc sống của cộng đoàn tín hữu Thánh Marcô.

Bối cảnh xảy ra đó là sau khi các Tông đồ đi truyền giáo: rao giảng, trừ quỷ, chữa bệnh nhân danh Chúa Giêsu. Các Ngài đã thấy có người không thuộc nhóm Tông đồ của Chúa Giêsu mà dám kêu danh Ngài để trừ quỷ. Các Tông đồ đã ngăn cấm và Thánh Gioan còn trình bày sự việc này cho Chúa Giêsu phân xử. Chúa đã trả lời ông: “Ðừng ngăn cấm họ, vì không ai nhân danh Thầy làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Vì ai không chống lại Ta là ủng hộ Ta”.

Theo các Tông đồ thì quyền trừ quỷ, quyền ban ơn, quyền rao giảng chỉ dành cho những môn đệ được Chúa gọi rõ ràng, người khác không có quyền đó. Nhưng ơn Chúa không bao giờ bị hạn chế, không dành đặc quyền cho người nào, nhóm nào cả. Bất cứ ai tin tưởng và cầu xin, hoặc kêu cầu danh Chúa để làm việc tốt, Chúa đều nhậm lời. Chúa Giêsu còn mở rộng thêm: ngay cả những người yên lặng, kẻ không chống đối đạo Chúa, cũng phải xem họ như những cảm tình viên, như những người thuận với mình.

Nếu ai ra mặt ủng hộ sứ mạng truyền giáo, dầu bằng một việc cỏn con như cho nhà truyền giáo, dầu một bát nước, kẻ đó không mất phần thưởng đâu. Còn kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé nhỏ đã tin này thì thà cột cối đá dìm xuống biển còn hơn. Lý do dễ hiểu vì người mới trở lại, Ðức tin còn non nớt giống như mầm non mới mọc đang cần bám đất màu mỡ là gương lành, gương tốt của người tín hữu, của công đoàn giúp phát triển, thế mà người Kitô hữu tạo ra gương mờ, gương xấu làm họ sa ngã hoặc không còn tin tưởng vào đạo Chúa nữa. Như câu chuyện về nhà ái quốc Ghandi chẳng hạn (chuyện Ghandi vào nhà thờ).

Ngày nay cũng có thể xảy ra. Một người tìm đạo, thấy người công giáo sống xấu quá, họ không cần tìm hiểu đạo nữa. Một người mới gia nhập đạo bị người có đạo lôi cuốn họ vào con đường tội lỗi (tội ác). Một bạn học cùng lớp, có thiện cảm với đạo Chúa, một em có đạo gây gỗ, đánh đập bạn bè trong giờ chơi khiến bạn đó thấy người Công giáo sao dữ quá, không dám học đạo…

Tội làm gương xấu cản trở việc truyền giáo là tội hết sức lớn, Chúa ra lệnh phải trừ tận gốc rễ, trừ tuyệt, trừ hoàn toàn. Tin Mừng ghi lại những lời quyết liệt sau: “Nếu tay người làm ngươi vấp phạm thì chặt phăng đi, nếu chân người làm dịp tội cho ngươi thì chặt bỏ đi, nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm thì móc vất đi vì thà mất tay, mất chân, chột mắt mà vào nước Thiên Chúa còn hơn có hai tay, hai chân, hai mắt mà vào hỏa ngục”. Ở đây, Chúa dạy ta theo nghĩa bóng chứ không theo nghĩa đen, vì có kẻ thì bỏ beer, bỏ gái, bỏ thuốc lá rồi chặt ngón tay, ngón chân xin thề mà vẫn không chừa. Nghĩa bóng ở đây dạy phải từ bỏ ngay, từ bỏ hẳn mọi gương xấu, không được chần chừ, không được khất lần khất lựa, vì đó là cớ làm ta mất lòng Chúa và bị đày trong hoả ngục.

Lời Chúa dạy trong bài Tin mừng hôm nay còn nóng hổi trong Giáo Hội, trong Giáo xứ, trong cộng đoàn và nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta thường cho mình độc quyền về chức vụ, về ơn Chúa để ganh tỵ với người khác, lên án người không hợp ý mình. Nhưng còn lối sống của chúng ta, sống bê bối, đối xử bất công với người khác (có đạo cũng như không có đạo) khiến họ sợ hãi khi nghe đến tôn giáo. Qua bài Tin mừng hôm nay xin cho mọi người trong chúng ta ý thức hơn về chức vụ Tông đồ của mỗi người chúng ta.

Xin Chúa chúc lành cho anh chị em. Amen.

 

70. Dứt khoát không chớp nhoáng

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Ông bà và anh chị em rất thân mến! Thái độ dứt khoát trong mỗi quyết định rất ư cần thiết. Sống ở đời, biết bao lần chúng ta phải đắn đo suy nghĩ đưa ra sự lựa chọn dù khó khăn, nhưng lại hết sức cần sự dứt khoát, kiên vững!

Nhiều người đã trải qua kinh nghiệm chữa trị khi bị rắn cắn hay bị kiến ba khoang đốt rất hiểu rõ về sự dứt khoát này. Một khi nộc độc của rắn hoặc độc tố của kiến ba khoang loang ra từ vết cắn hay vết đốt thì việc dứt khoát hy sinh cắt đi bộ phận bị nhiễm độc hầu tránh hoại tử và dẫn tới tử vong quả thật rất hệ trọng.

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, thái độ dứt khoát với tội lỗi, với thói quen xấu xa tồi tệ của chúng ta không thể thiếu được. Tuy Đức Giê-su dùng lối diễn tả mạnh mẽ, và có thể khiến ai đó cảm thấy lo sợ, nhưng Ngài chủ yếu nhắm tới thái độ, hành động dứt khoát với tội lỗi như thể thà mất đi một bộ phận, còn hơn toàn thân bị huỷ hoại: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục…” (x. Mc 9, 43-47). Lẽ dĩ nhiên, muốn có được thái độ dứt khoát này, chúng ta phải khởi sự từ trong tư tưởng, tâm trí và tâm hồn của chúng ta. Lời nói không hay, hành vi hoặc hành động không tốt đều bắt đầu từ tư tưởng đen tối của mình. Để dứt khoát, cắt đi cơn đau nơi thân thể, chúng ta nên chặn đứng mọi điều khiến mình sa ngã, lạc lối ngay trong lối suy nghĩ bất chính, mưu mô, v.v…

Hơn nữa, thái độ dứt khoát này khiến chúng ta năng chạy đến với Chúa, kín múc ân sủng của Ngài, rồi vui vẻ cộng tác, xét mình mỗi ngày và từng giây phút trong đời sống thường nhật. Nếu chúng ta quên đặt mình trước Chúa, nhìn lại bản thân, thì chắc hẳn thời gian ấy dường như dành cho việc ‘nhận xét người khác, hơn là xét mình’, mà tệ hơn là ‘xét đoán’. Chuyện này cũng đã xảy ra thời ông Mô-sê, được sách Dân Số kể lại: “…có hai vị ở lại trong lều trại, một người tên là El-đad, và người kia tên là Mê-đad. Thần Trí đã ngự trên hai ông: vì hai ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp…Tức thì Gio-suê, con ông Nun, tuỳ tùng của ông Mô-sê, và là kẻ được chọn trong số đông người, liền thưa rằng: “Hỡi ông Mô-sê, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi”…Ông Mô-sê đáp lại rằng: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Ngài cho họ”” (x. Ds 11, 26. 28-29). Thái độ kiên quyết dứt khoát với tội lỗi thường gắn liền với tâm tình ăn năn sám hối tận căn (metanoia), thú nhận tội lỗi mình và thật lòng quay về với Thiên Chúa như Thánh Gia-cô-bê đã chỉ ra một phần nào đó trong bài đọc II: “Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi…Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính…” (x. Gc 5, 4-6).

Sau cùng, để có thái độ dứt khoát với tội lỗi, chúng ta không thể gây cớ hoặc tạo dịp cho người khác vấp phạm đươc. Đúng hơn, chúng ta thật sự phải sống gương mẫu, hân hoan thực thiện những gì Đức Giê-su truyền dạy, chứ không trở nên gương mù gương xấu cho người khác, vì “nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn” (Mc 9, 42). Trong gia đình, bố mẹ sống làm gương cho con cái chăng? Nơi hàng xóm láng giềng, chúng ta là những người Công Giáo có ý thức sống yêu thương, tha thứ, sống chứng tá cho Chúa không? Nơi cộng đoàn dòng tu,  giáo xứ lớn nhỏ, chúng ta có sống hợp nhất, và làm gương chia san, hiệp thông với nhau chăng? Với vai trò, trách vụ và bậc sống của mỗi người, chúng ta đã nỗ lực, cộng tác sống như Chúa dạy và làm gương lành gương tốt trong môi trường xã hội chung quanh mình chưa? Khi nhìn lại bản thân một cách kỹ lưỡng, chúng ta thấy mình thường làm những gì ngược lại với Chúa dạy, hoặc chúng ta chưa dứt khoát ‘gạn khơi đục trong’, và chưa hết lòng kiên vững theo Chúa! Vì vậy, biết bao nhiêu sự cố đã diễn ra vô tình hay hữu ý, gây tổn hại cho nhau, cho gia đình, cho cộng đoàn!

Với ơn Chúa và nhờ ơn Ngài, chúng ta chạy đến van nài được luôn kiên vững trong đức tin, dứt khoát với mọi điều khiến mình xa lìa Chúa và anh chị em!

Chúa yêu con nồng nàn

Chẳng một lời than van

Hy sinh trót xác hồn

Tận hiến cùng trao ban.

Xin cho con theo Ngài

Chân tiến bước không ngại

Dứt khoát và vững chãi

Không hề xét đoán ai…Amen!

 

71. Chúa Nhật 26 Thường Niên

PHẢI DIỆT TRỪ MỌI GHEN TỊ VÀ THAM LAM

(Suy niệm của Lm. Antôn Đinh Minh Tiên)

NHẬP LỄ:

Tính phe đảng, ghen tị, và tham lam, làm con người dễ quên đi mục đích và khai trừ những ai không có cùng quan niệm hay không thuộc nhóm của mình. Người tín hữu phải nhớ điều quan trọng hàng đầu là làm cho Phúc Âm được lan rộng khắp nơi; còn cách thức làm sao để thực hiện điều này là tùy vào ơn riêng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Cần tránh thái độ chỉ có người của mình hay cách của mình mới quan trọng. Đừng ghen tị khi người khác được bằng mình hay hơn mình. Vì một người không thể làm hết, và cũng không có sức để chịu đựng tất cả; do đó, Thiên Chúa cần nhiều thợ nhiệt thành để làm việc trong vườn nho của Ngài. Trong tâm tinh đó, chúng ta hãy cùng nhau ăn năn thống hối mọi tội lỗi mình đã trót phạm vì tính ghen tị và tham lam của mỗi người chúng ta.

CHIA SẺ PHÚC ÂM:

Các Bài Đọc hôm nay muốn dạy con người phải diệt trừ tính phe đảng, ghen tị, và tham lam. Trong Bài Đọc I, ông Moses ước mong ơn Thánh Thần được ban cho mọi con cái Israel, để họ đừng than phiền, kêu trách Thiên Chúa, và kêu trách ông nữa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê quan niệm của cải trong trời đất là của Thiên Chúa ban cho mọi người; không ai có quyền vơ vét và tích trữ của cải cho mình đến nỗi để người khác phải chịu thiệt thòi và túng thiếu. Trong Phúc Âm, khi Gioan nói với Chúa Giêsu ông ngăn cấm một người đã lấy danh Chúa Giêsu trừ quỉ, vì người đó không ở trong nhóm môn đệ của Chúa. Ngài trả lời ông: đừng ngăn cản họ vì “ai không chống đối chúng ta là thuộc về chúng ta.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động ở mọi nơi và trong mọi người.

1.1/ Thần Khí được ban cho cả bảy mươi kỳ mục, Eldad và Medad.

(1) Bảy mươi kỳ mục: Tổng số dân chúng khi ra khỏi Ai-cập cả gần triệu người. Họ tiếp tục đòi hỏi, than phiền, và trách mắng ông Moses về việc thiếu bánh ăn, nước uống, thịt, rau cải… Ông Moses đã quá mệt mỏi khi nghe những lời than phiền của dân chúng, nên ông tâm sự với Đức Chúa, ông không thể tiếp tục vác gánh nặng từ dân nữa. Thiên Chúa hiểu nỗi đau khổ và gánh nặng của Moses; nên Ngài bảo ông chọn 70 kỳ-mục (những người lớn tuổi trong dân) để họ cùng chia sẻ gánh nặng với ông (Num 11:17). Trình thuật hôm nay tường thuật: “Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Moses. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục.”

(2) Endad và Medad: Thánh Thần của Thiên Chúa không chỉ hoạt động trên 70 kỳ-mục; nhưng bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là Eldad, một người tên là Medad. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thánh Thần đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại.

1.2/ Sự ghen tị của ông Joshua: Khi thấy những điều này xảy ra, một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Moses rằng: “Ông Endad và ông Medad đang phát ngôn trong trại!”

(1) Phản ứng của ông Joshua: Ông Joshua con ông Nun, từng theo hầu ông Moses từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Moses: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”

(2) Phản ứng của ông Moses: Ông Moses hiểu Thánh Thần, cũng giống như Thiên Chúa, hoạt động và điều khiển mọi người trong mọi nơi, chứ không phải chỉ trên những người Moses đã chọn; nên ông trả lời ông Joshua: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”

Chúng ta thường có khuynh hướng giới hạn hoạt động của Thiên Chúa hay của Thánh Thần nơi một số người hay chỉ trong Giáo Hội; nhưng hoạt động của Thiên Chúa cũng như của Thánh Thần bao trùm cả vũ trụ này. Kinh Thánh nhiều lần chứng minh quyền lực Thiên Chúa hoạt động trên các vua Dân Ngoại như Ai-cập, Assyria, Babylon, và Ba-tư… khiến họ phải thi hành thánh ý Ngài; và Thánh Thần hoạt động trên những người Dân Ngoại chưa chịu Phép Rửa, như gia đình Cornelius, viên sĩ quan người Rôma (Acts 10).

2/ Bài đọc II: Của cải Thiên Chúa ban trong vũ trụ, phải được chia sẻ cho mọi người.

2.1/ Kẻ tham lam sẽ phải đền tội: Một khuynh hướng xấu xa nơi con người là lòng tham lam vô đáy. Kẻ tham lam muốn thu tích của cải cho mình bằng mọi cách, mà không cần biết mình sẽ gây đau khổ và thiệt hại cho người khác thế nào. Thánh Giacôbê đã chứng kiến kẻ giầu bóc lột người nghèo trong cộng đồng của ngài, nên ngài tuyên cáo họ: ”Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các ngươi. Tài sản của các ngươi đã hư nát, quần áo của các ngươi đã bị mối ăn. Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các ngươi. Các ngươi đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này.”

2.2/ Những tội gây ra bởi lòng tham lam của con người: Kẻ tham lam không chỉ phạm tội vơ vét của cải; nhưng còn kéo theo nhiều tội khác nữa.

Lỗi đức công bằng: ”Các ngươi đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ngươi. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các ngươi, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh.”

Tiêu xài xa hoa vào những việc bất chính: Trong khi người nghèo không có của ăn, kẻ giàu có phung phí tiền bạc trong những sòng bạc và những cuộc truy hoan. Thánh Giacôbê trách cứ hành động bất công của họ: ”Trên cõi đất này, các ngươi đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các ngươi đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại.”

Giết hại người công chính: Để thỏa mãn lòng tham, kẻ gian ác loại trừ tất cả những ai dám ngăn cản, phê bình, hay tố cáo lối sống của họ: ”Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi.”

3/ Phúc Âm: Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

3.1/ Cần có tâm hồn rộng lượng bao dung: Một hôm, ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Sở dĩ, môn đệ Gioan nói những lời này, vì ông muốn đặc quyền trừ quỉ chỉ giới hạn trong thành phần môn đệ của Chúa Giêsu; vì nếu bất cứ ai cũng làm được, nhóm môn đệ của Chúa Giêsu sẽ không còn gì đặc biệt nữa.

(1) Cần loại trừ tính phe đảng, độc tài: Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” Nguyên lý Chúa đưa ra là một người không thể mâu thuẫn với chính mình: hoặc có hoặc không, chứ không thể chọn cả hai một lượt. Để một người trừ được quỉ, họ phải có một đức tin vững mạnh nơi Chúa Giêsu và phải nhân danh Ngài mà nói, thì mới trừ được. Nếu một người không có đức tin, và không nhân danh Chúa, họ không bao giờ họ có thể trừ được quỉ. Đức tin có được hay mất đi phải có thời gian lâu dài; chứ không một sớm một chiều mà có hay mất được. Vì thế, khi họ trừ được quỉ là họ đã có đức tin vào Thiên Chúa, tại sao cần phải ngăn cấm họ.

Hơn nữa, mục đích của Chúa Giêsu khi chọn các môn đệ là để huấn luyện các ông loan truyền Tin Mừng, chứ không chú trọng đến danh nghĩa và quyền lợi của cá nhân hay của nhóm. Ngài ban cho các ông quyền trừ quỉ để khơi dậy niềm tin, chứ không phải là đặc quyền để bảo vệ. Tính phe đảng nhiều khi làm con người không còn biết chú trọng đến mục đích, nhưng chú trọng đến tiếng tăm, quyền lợi, và dễ dàng khai trừ người khác.

(2) Con người có tự do để chấp nhận sự thật: Chúng ta cần biết rộng lượng để chấp nhận tự do của con người. Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ có thể trình bày sự thật để thuyết phục con người tin vào Ngài, đồng thời kèm theo những phép lạ; nhưng nếu họ cứng lòng, Chúa Giêsu không bắt họ phải tin vào Ngài. Chúng ta cũng thế, chúng ta cũng chỉ có thể trình bày sự thật, hay phân tích cái lợi và cái hại của việc không sống theo sự thật, rồi để tha nhân có quyết định muốn theo hay không. Chúng ta không thể bắt người khác làm theo ý mình.

(3) Trên con đường tìm kiếm sự thật, có nhiều cách để dẫn con người đến sự thật và khơi dậy niềm tin của con người vào Thiên Chúa; chứ không phải chỉ có một cách. Hãy để Thiên Chúa làm việc trong tha nhân và cho họ có thời gian để nhận ra sự thật. Cần tránh thái độ võ đoán: chỉ có cách của chúng ta mới làm cho con người nhận ra sự thật hay mới được cứu độ.

3.2/ Bác ái và gương sáng là hai cách hiệu quả để rao giảng Tin Mừng.

(1) Phải biết chia cơm sẻ áo cho mọi người: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Đạo của Chúa Giêsu là đạo bác ái yêu thương. Người môn đệ của Chúa không thể mến Chúa mà không yêu người. Tiêu chuẩn Chúa dùng để phán xét người môn đệ là đức bác ái (x/c Mt 25). Nếu ai làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa, người đó sẽ được hưởng cuộc sống đời đời.

(2) Phải làm gương lành cho người khác: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” Cùng một tư tưởng như trên: ai không làm cho tha nhân, là không làm cho chính Chúa. Hậu quả là họ sẽ không được hưởng hạnh phúc với Ngài. Nếu đã không làm điều tốt cho tha nhân, họ còn ngăn cản tha nhân đến với Chúa bằng gương xấu họ làm, chắc chắn họ phải sống xa Thiên Chúa.

3.3/ Phải đoạn tuyệt mọi tội lỗi: Năm câu kế tiếp có vấn đề về văn mạch: câu 44 và câu 46 được các nhà chú giải coi giống như câu 48: “nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.” Năm câu được sắp xếp như sau: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.” Có ít nhất hai cách để hiểu đoạn văn này:

(1) Theo những người theo chủ thuyết Fundamentalism, những người hiểu theo nghĩa đen, Chúa Giêsu muốn con người phải cắt bỏ các phần thân thể, nếu họ muốn được vào Nước Trời.

(2) Con người phải nhận ra nguy hiểm của tội: Tội lỗi làm con người có nguy cơ sa hỏa ngục; vì thế, cần phải tìm mọi cách để diệt trừ tội lỗi. Nếu hiểu theo nghĩa đen như trên, con người chắc chẳng còn gì để cắt hay loại bỏ nữa, vì con người vẫn thường xuyên phạm tội. Chúa Giêsu muốn con người nhận ra nguy hiểm của tội, vì tội có thể làm con người sa hỏa ngục, và không đạt được cuộc sống đời đời.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Thánh Thần của Thiên Chúa hoạt động ở mọi nơi và trong mọi người. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn hoạt động của Thánh Thần nơi mình, nơi một cộng đoàn, hay chỉ trong Hội Thánh mà thôi.

– Mục tiêu quan trọng của cuộc đời là làm sao cho Nước Chúa trị đến, và ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Để được như thế, chúng ta cần sự cộng tác của tất cả mọi người.

– Của cải trong vũ trụ là của Thiên Chúa ban cho mọi người. Chúng ta đừng tham lam thu tích của cải để tích trữ cho mình; trong khi bao anh chị em phải đói khát.

– Chúng ta có bổn phận làm gương sáng cho mọi người bằng cuộc sống nhân đức. Chúng ta cũng phải cố gắng để tránh mọi tội và đừng tạo gương mù làm lung lạc đức tin của tha nhân.

 

72. Lý trí và đức tin

(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)

“Buộc thớt cối xay vào cổ mà xô xuống biển; chặt tay; chặt chân; móc mắt v.v…” Mới nghe qua tưởng chừng như một bản án dành cho những tội phạm dưới thời Taliban bên A Phú Hãn.

Nhưng không! Những cụm chữ rất tượng hình kia thoát đi chính từ môi từ miệng Đức Giêsu -Người Chăn Chiên nhân hậu; Đấng Cứu Độ trần gian! Tại sao một người yêu thương toàn nhân loại nhất là những kẻ tội lỗi đến nỗi hy sinh chính thân xác mình lại đề nghị những hình phạt kinh khiếp như trong thời Trung Cổ?

Và mới nghe qua có thể đã vội vàng nghĩ rằng Đấng đem bình an đến cho toàn thế giới lại cổ súy việc dùng bạo lực là phương cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Trong bối cảnh hiện nay, lối suy diễn kia có thể đã được các nhóm quá khích Hồi Giáo tận tình khai thác để biện minh cho những hành động khủng bố trong cuộc chiến tranh tôn giáo, ý thức hệ một mất một còn này.

Nhưng trước khi đi sâu vào cách dùng chữ cũng như ý nghĩa đích thực về những hình phạt khi “kẻ nào làm cớ vấp phạm cho cho một trong những người bé mọn có lòng tin vào” Chúa, thiết tưởng cũng cần nên khách quan nhìn lại những phản ứng về bài nói chuyện của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cùng các giáo sư và sinh viên tại đại học Regensburg gần đây.

Trọng tâm của bài nói chuyện là sự quan hệ giữa lý trí và niềm tin. Hơn bao giờ hết, sự liên hệ giữa niềm tin và lý trí là điều kiện ắt có và đủ để vãn hồi hoà bình thế giới đồng thời triệt tiêu những nhóm quá khích đội lốt tôn giáo dùng bạo lực là cách thức duy nhất để biểu lộ niềm tin. Và chắc chắn không phải ngẫu nhiên hoặc thiếu tinh tế nhạy bén chính trị mà Đấng kế vị Thánh Phêrô đã chọn chủ đề này. Phản ứng nông nỗi bốc đồng của các nhóm Hồi giáo cực đoan đã minh chứng rằng với họ, niềm tin chỉ có thể rao giảng bằng súng đạn với giáo gươm thôi.

Mà không liên hệ làm sao được khi nhìn những phụ nữ đầu mặt che kín tay vung cao đầy sát khí hằn thù!!! Không liên hệ làm sao được khi nhìn những đứa bé mặt búng ra sửa nhưng đã tay súng tay dao!!! Chắc chắn họ đã không dùng lý trí để phân biệt thực hư nhưng đã mù quáng điên cuồng bị lôi cuốn vào sự thù nghịch bạo động nhân danh tôn giáo và niềm tin.

Khi trích dẫn lời Hoàng Đế Manuel II là Mohammed đã “truyền bá giảng dậy đức tin bằng gươm giáo”, Đức Thánh Cha đã chỉ muốn giải thích rằng một tôn giáo chân chính không thể cổ súy bạo lực và niềm tin phải luôn luôn đi đôi với lý trí. Nói một cách khác, nếu “đức tin không có hành động quả là đức tin chết,” (Gc 2.17) thì đức tin dùng bạo lực là cách thức thước đo là một đức tin sai trái, cạn hẹp, lầm lạc, đóng khung.

Tôn trọng tự do tôn giáo không thể đồng nghĩa đồng tình với việc dùng bạo lực là công cụ và phương thế duy nhất để biểu lộ đức tin. Trái lại, tôn giáo chân thật đòi buộc một sự đối thoại liên lĩ trong sáng giữa lý trí hôm nay và đức tin vĩnh hằng.

Bạo lực không có chỗ đứng trong niềm tin Kitô giáo. ‘Buộc thớt, móc mắt, chặt chân tay” chỉ là một cách nói chứ không phải để cổ súy bạo lực; trái lại, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự tôn trọng tuyệt đối những người bé mọn nhất nhưng đã dám liên kết lý trí con người với niềm tin vào Sự Thật và là Sự Sống.

 

73. Hãy tránh xa dịp tội

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?

Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hột chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì không có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách Giáo lý cho biết: “…Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người”.

Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý” (GLCG 2297).

Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?

Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.

Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt… Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.

Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.

Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.

Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa… là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.

 

74. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

“TÌNH THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA”

Câu hỏi mà rất nhiều người trong chúng ta, không biết bao nhiêu lần đã thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa có thương con không?” Tôi tin chắn rằng, tận trong cõi thâm sâu của lòng trí mình, với tiếng lương tâm, lần nào chúng ta cũng nghe được lời đáp trả của Chúa: “Ta rất thương con!” Thiết tưởng, chúng ta cũng sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên luôn lại hỏi Chúa: “Lạy Chúa, hãy chỉ cho con thấy tình thương của Chúa, hay làm sao để cho con biết được là Chúa đang thương con!”

Trong lời nguyện nhập lễ của cả tuần này, chúng ta sẽ thân thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng Chúa tỏ tường hơn cả”. Vậy thưa AEC, quyền năng của Chúa là gì nếu không phải là tình yêu thương, quyền năng của yêu thương này, giúp cho con người chúng ta đạt đến và cảm nghiệm được niềm vui-hạnh phúc thực sự mà Chúa muốn trao ban và cũng là điều mà mỗi người chúng ta đang hết lòng tìm kiếm, mong đợi. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, đang soi sáng và giúp chúng ta hướng lòng về Thiên Chúa với quyền năng yêu thương của Ngài.

Trong bài đọc một (Ds 11, 25-29), quyền năng tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua vai trò lãnh đạo của ông Môisê và qua Môisê, ơn ban của Thánh Thần lại được trao ban đến cho các kỳ mục, để nhờ đó mà toàn thể dân chúng đều có thể nhận biết, cảm nếm được những huấn lệnh và thánh ý Chúa. Thật vậy, nhờ qua những huấn lệnh này, mà mọi người có thể sống tốt, sống đẹp lòng Giavê Thiên Chúa, sống đúng với phẩm giá là dân riêng của Chúa. Thế nhưng, khi con người không biết mở lòng và khiêm tốn để đón nhận, thì họ lại sinh lòng ghen tức, ganh tị, thế nên họ đã đi báo cho Môisê để ngăn cấm những người được trao ban sứ vụ ngôn sứ này. Chúng ta hãy gẫm suy điều mà Môisê nói với dân chúng: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”. Thật vậy, thay vì phân bì, ghen tức, con người phải biết cảm tạ và tri ân, vì Đức Chúa đã yêu thương dân Ngài mà ban Thần khí và quyền năng của Chúa cho những con người được chọn này, để họ thay mặt Chúa mà chuyển tải, rao truyền thánh ý tình thương của Chúa cho mọi người.

Thật vậy, trước ơn ban của tình yêu, con người chúng ta phải biết khiên tốn để tìm kiếm và tin nhận. Đây chính là sứ điệp mà bài đọc hai (Gc 5, 1-6) đã mời gọi chúng ta suy niệm. Tại sao chúng ta phải tìm kiếm thánh ý và tình thương của Chúa? Tại sao Chúa không tỏ ra cho chúng ta thấy cách tỏ tường luôn? Thật ra, vì trong cuộc sống chúng ta luôn chạy theo và tìm kiếm của cải vật chất, tiền bạc, danh vọng và địa vị ở trần gian này. Không những thế, thay vì tìm kiếm Chúa, chúng ta chạy theo để tìm những thú vui, khoái lạc, đời sống sa hoa, để làm sao mình có thể vui sướng thỏa thích những nhu cầu trần tục tạm bợ của cuộc sống này. Và kết cục mà con người nhận lại được là gì, nếu không phải là những đau khổ, hận thù, chia rẻ, tai họa, tội lỗi và sự chết. Thế nên, thay vì chạy theo những nhu cầu tạm bợ và hư vô, rồi phàn nàn than trách Chúa không thương, thì chúng ta hãy nỗ lực để tìm kiếm và tinh nhận tình thương và quyền lực của Chúa qua những hành động bác ái yêu thương, qua những việc tốt lành đem lại ơn ích cho ACE mình.

Hãy tìm kiếm Chúa qua các điều lành, điều thiện, hãy làm điều tốt cho tha nhân, chính là sứ điệp mà bài tin mừng hôm nay (Mc 9, 37-47) Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và mỗi người chúng ta. Khi các môn đệ, thấy một vài người nhân danh Chúa để trừ quỷ thì các ông muốn ngăn cấm và trình báo với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Nếu đọc lại bài đọc một, chúng ta cũng sẽ thấy cách hành xử của các môn đệ giống như những người đến báo với Môisê. Chúng ta hãy cùng nhau suy gẫm lời dạy của Chúa cho các môn đệ: “Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Chúa Giêsu khuyến khích mỗi người chúng ta hãy làm điều tốt, điều lành, vì mỗi người chúng ta, trong vai trò và sứ vụ của người con cái Chúa, mỗi người chúng ta luôn được Thánh Thần ban cho những ân sủng khác nhau. Thế nên, nhận ra được những ơn ban, những đặc sủng riêng biệt từ Chúa là để yêu thương và phục vụ Chúa qua tha nhân, đây thật là điều mà Chúa đang mong muốn nơi chúng ta.

Tuy nhiên, trong khi thi hành sứ vụ, Chúa cũng khuyến cáo mỗi người chúng ta là hãy khôn ngoan và khiêm tốn dưới sự linh ứng của Thánh Thần, vì bản tính yếu đuối của con người, nên nhiều khi, chúng ta mang danh Chúa, thay vì để làm đều tốt-điều thiện, chúng ta lại gây nên những gương mù-gương xấu. Do đó, nếu lời nói, cử chỉ, hành động hay việc làm của chúng ta mà không giúp ích cho ACE mình, để họ cũng nhận ra được tình thương và ơn thánh Chúa thì sẽ luôn bị lên án: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”. Thật vậy, quyền năng và tình thương của Chúa luôn trao ban để cho chúng ta làm mà tôn vinh danh thánh Chúa, làm để trở nên gương sáng, nên ơn ích giúp cho tha nhân. Thánh Têrêxa HĐ. Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta mỗi khi làm bất cứ điều gì: “Lạy Chúa, con làm việc này, vì con yêu mến Chúa và vì muốn cứu rỗi các linh hồn”.

Lạy Chúa, xin ban thêm sức mạnh ơn thánh Chúa cho chúng con, để với tình thương và quyền năng Chúa, chúng con luôn sống và làm mọi việc, hầu làm lan tỏa tình thương và ơn thánh Chúa cho tha nhân. Amen.

 

75. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Chiara Lubich)

“NẾU CHÂN ANH LÀM CỚ CHO ANH SA NGÃ, THÌ CHẶT NÓ ĐI; THÀ CỤT MỘTCHÂN MÀ ĐƯỢC VÀO CÕI SỐNG CÒN HƠN LÀ CÓ ĐỦ HAI CHÂN MÀ BỊ NÉM VÀO HỎA NGỤC”

Đây là những lời làm ta sững cả người. Đức Giêsu bảo ta hãy chặt chân, chặt tay và móc mắt nếu chân ta, tay ta, mắt ta khiến ta phạm tội. Hẳn rằng những lời này có đầy đủ sức mạnh của một thanh gươm hai lưỡi (xem Dt 4,12), nhưng ta biết rằng không được hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa muốn nói ở đây là trước bất kỳ dịp tội nào, ta phải sẵn sàng khước từ tất cả, kể cả những gì và những người mà ta rất yêu dấu, còn hơn để mất đi điều thực sự quý giá: “được vào cõi sống”, nghĩa là được hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu độ.

Cụm từ “cớ sa ngã” trong Phúc Âm chỉ tất cả những gì ngăn trở giữa ta và Thiên Chúa, ngăn cản ta thi hành ý của Người; bất kỳ điều gì thọc gậy bánh xe chặn ta đi theo Đức Giêsu, như một cái bẫy làm ta sa ngã, phạm tội. Có những lúc con mắt, bàn tay, bàn chân “làm ta sa ngã”, nghĩa là chúng dường như dẫn ta đến chỗ chối bỏ Đức Giêsu, phản bội Người, yêu chuộng những cái khác hơn Người.

Santa Scorese, một thiếu nữ hai mươi ba tuổi, người thành phố Bari, miền nam nước Ý, đã hiểu rõ điều đó. Năm 1991, khi bị một thanh niên trạc bằng tuổi mình đe dọa, cô thà chết còn hơn mất sự trinh khiết. Đối với cô, Thiên Chúa đáng quý hơn chính mạng sống của mình.

“Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục”.

Lời Sống này lột mặt nạ “con người cũ” (xem Ep 4,22) trong ta. Thực vậy tội lỗi không đến từ sự vật, từ bên ngoài mà xuất phát từ thâm tâm, từ trong lòng ta. “Con người cũ” sống trong ta khi ta chiều theo những lôi cuốn của tội lỗi và khi ta tìm cách thỏa mãn những xu hướng thấp hèn nhất của ta: thói ích kỷ, thèm khát quyền lực, vinh quang, tiền bạc….

“Con người cũ” phải nhường chỗ cho “con người mới” (xem Ep 4,24): Đức Giêsu ở trong ta.

Tự sức ta, liệu ta có thể nhổ tận gốc các đam mê thác loạn ra khỏi tâm hồn và làm trổ sinh trong ta sự sống thần linh không? Chỉ có Đức Giêsu, bằng cái chết của Người, mới có thể làm chết đi “con người cũ” của ta, và với sự phục sinh, Người biến đổi ta trở nên những con người mới. Người có thể ban cho ta lòng can đảm và quyết tâm trong cuộc chiến chống lại sự dữ, và một lòng mến sắt son, nồng nàn những gì là thiện hảo. Từ nơi Người xuất phát tự do nội tâm, bình an và niềm vui khôn tả, nâng ta lên khỏi tất cả những xấu xa của thế gian và cho ta được nếm trước niềm vui thiên đàng.

“Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục”.

“Con người mới” trong ta phải lớn lên và phải được gìn giữ khỏi các cám dỗ của “con người cũ”. Về phần ta, ta phải làm gì? Năm 1949, tôi đã viết như sau: “Có rất nhiều cách để dọn dẹp một căn phòng – lượm lên từng cọng rác một; dùng chổi nhỏ, chổi chà, hoặc máy hút bụi. Hoặc ta có thể dọn sang một phòng khác, mọi thứ đều sạch sẽ, ngăn nắp. Hành trình nên thánh của ta cũng giống như thế. Thay vì khó nhọc bứng đi hết khuyết điểm này đến tật xấu kia, thì ngay lập tức ta có thể tránh sang một bên và để cho Đức Giêsu sống trong ta. Nghĩa là ta “chuyển hộ khẩu” để sống trong người khác, chẳng hạn như trong những người chung quanh ta. Đúng vậy, ta sống viên mãn cuộc sống của người đó”.

Hãy yêu mến! Đó là toàn bộ giáo lý của Đức Giêsu. Hãy tinh luyện tâm hồn để ta có khả năng lắng nghe tha nhân, biết đón nhận các vấn đề và các ưu tư của người bên cạnh làm của mình, và chia vui sẻ buồn với họ, phá bỏ những hàng rào vẫn còn gây chia rẽ giữa chúng ta, vượt qua những thành kiến và thói chỉ trích phê bình, ra khỏi thế cô lập của ta và đặt mình phục vụ những người túng thiếu, cô đơn, và xây dựng ở khắp nơi sự hiệp nhất mà Đức Giêsu đã muốn.

Nếu ta sống như thế, Thiên Chúa sẽ lôi kéo ta sống kết hợp với Người ngày càng thân mật hơn và sẽ làm cho ta kiên vững và hầu như không thể bị tấn công trước những sai lầm và lôi cuốn của thế gian.

“Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục”.

Đức Giêsu còn bảo ta hãy dứt khoát “chặt đi” bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là “từ bỏ chính mình” (xem Mc 8,34). Kitô hữu là người có được lòng can đảm cần thiết để chống trả các xu hướng ích kỷ, không để cho chúng trở thành lối sống của mình.

Ta hãy ra khỏi con người mình bằng cách yêu mến những người bên cạnh và chặt đứt mọi dính bén với bất kỳ điều gì không đáng để ta yêu mến. Ta hãy quét sạch tất cả những gì cần được đưa ra khỏi tâm hồn của ta. Không có hi sinh nào gọi là quá lớn nếu hi sinh aáy duy trì được sự hiệp thông của ta với Thiên Chúa. Mỗi xén tỉa sẽ làm nảy sinh trong tâm hồn ta hoa trái mừng vui, một niềm vui đích thực, niềm vui mà thế gian không biết đến.

 

76. Tin Mừng dữ dội

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, đọc giả có lúc cười lúc khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủian hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm thấy bị chói tai, bị cay cú… Tin Mừng nluôn nói lên những chân lý và dạy những bài học thích đáng.

Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Linh mục Nguyễn Hồng Giáo dùng cụm từ “Tin Mừng dữ dội”.

Đầu đề “Tin Mừng dữ dội” chắc sẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất nước.

Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18, 8-9; x. Mt 5, 19-20).Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. (x.nguoitinhuu.com)

Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất “dữ dội” của Tin Mừng.

Phải tránh gương mù gương xấu “Nếu ai làm cớ cho người khác phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn”.

Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội“chặt tay, chặt chân, móc mắt” khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM Arthur Tonne gọi đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là những kiểu nói vùng Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

  1. Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát “chặt đi” bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là “từ bỏ chính mình” (x. Mc 8,34).

Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches Dominicales). Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. “Chặt bỏ” một tật xấu một thói quen, “cắt đứt” một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu lộ nơi thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.

Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta phải quyết liệt với tội lỗi cho dù phải “chặt tay, chặt chân, móc mắt”. Chúamuốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, đó là tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người.Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi “dữ dội” của Tin Mừng.

Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ bỏ để tăng trưởng, sinh nhiều hoa trái “Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt bỏ, còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn” (Ga 15,1-2).

Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì rất “nhẹ nhàng”, nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24); “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: ‘Chớ giết người’; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 21-22); “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Chớ ngoại tình’. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28); “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Đức Giêsu đáp: ‘Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 21-22); “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Mắt đền mắt răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài…” (Mt 5, 38-40). Hoặc: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù’. Con Thầy. Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em…”(Mt 5, 43-44).

Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự hoàn thiện và tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36). Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải quyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng “bạo lực” với mình, nếu nói được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).

Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai hại và nguy hiểm vô cùng. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau. Phải tránh gương mù gương xấu. Mỗi người có thể gây dịp tội khiến người khác sa ngã, và đôi khi thân xác mình lại có thể là dịp tội cho chính mình. Càng tránh dịp tội, càng ít phạm tội.

Có câu chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.

Một hôm, cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời tham dự Đại hội này.

Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!

Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!

Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến cây cổ thụ.

Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi, là bạn sẽ hối tiếc cả cuộc đời! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa. Tội lỗi tàn phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những đổ vỡ trong Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!

Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù chỉ là một một sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó! “Đừng để ma quỷ lợi dụng!” (Ep 4, 27).

Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận với lời “dữ dội” của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó, bạn sẽ làm chủ những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong mọi mối tương quan.

Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật, thường loan truyềntheo chiều rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời những nét đẹp, cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.

 

77. Cái giá người môn đệ phải trả

(Suy niệm của Lm Mark Link)

“Người môn đệ phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh vì nước trời…”

Cuốn phim “A man for all seasons” (Người thích ứng mọi mùa) được xây dựng dựa theo cuộc đời thánh Thomas More.

Khi Kha Luân Bố khám phá ra Mỹ Châu, Thomas More mới là một thiếu niên mười mấy tuổi tại Anh Quốc. Chàng theo học tại Đại học Oxford. Sau khi tốt nghiệp Đại học, chàng dấn thân vào cuộc đời chính trị. Là một viên chức của triều đình, chàng được thăng quan tiến chức rất mau lẹ, năm 1529, vua Henri thứ VIII đã phong chàng lên chức Đại pháp quan của Anh Quốc.

Nhưng thảm kịch đã xảy đến cho Thomas More. Khi vua Henri VIII ly dị với hoàng hậu và tái kết hôn không đúng theo luật lệ. Để chống lại bất cứ ai phản đối cuộc hôn này, Henri ra lệnh cho một số quan chức triều đình ký vào một văn bản tuyên thệ rằng sự tái hôn của ông là hợp pháp. Ông truyền cho các vị chức sắc này là nếu họ từ chối không chịu ký vào văn bản ấy họ sẽ bị hạ ngục vì tội phản loạn. Và rồi thảm kịch đã xảy ra khi ngài Norfold mang văn bản ấy đến cho Thomas More. Ông này chẳng chịu ký bất chấp biết bao lời thuyết phục khuyên ông thay đổi ý. Cuối cùng, Norfolk không còn kiên nhẫn được nữa, ông nói với bạn:

“Tôi không biết cuộc kết hôn có hợp pháp hay không, nhưng thây kệ nó! Thomas ơi, ông hãy nhìn vào tất cả những kẻ đã ký vào đây! Ông biết rõ những người này mà! Tại sao ông không thể làm như chúng tôi, nhân danh tình bạn của chúng ta?” Thomas More vẫn từ chối. Ông không muốn tuyên thệ điều gì mà tận thâm tâm ông biết là sai trái. Cuối cùng, Thomas More bị tống giam. Vào ngày 6 tháng 6 năm 1535 ngài đã bị hành hình vì tội phản loạn.

***

Câu chuyện thánh Thomas More làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay: “Nếu tay con làm mất đức tin, hãy chặt nó đi!… Nếu chân con làm con mất đức tin, hãy chặt phăng nó đi!… Nếu mắt con làm con mất đức tin, hãy móc nó quẳng đi! vì thà rằng con bị chột mà vào nước trời hơn là còn toàn vẹn hai mắt mà bị ném vào hoả ngục”.

Chúa Giêsu không bảo chúng ta chặt chân tay, móc mắt, theo nghĩa đen, Ngài chỉ muốn dùng những thành ngữ quen thuộc của thời đại Ngài để nhấn mạnh một điểm quan trọng là:

Các môn đệ Ngài phải sẵn lòng hy sinh tất cả sự gì cần thiết để giữ mình khỏi phạm tội, phải sẵn lòng hy sinh cả những gì quí báu nhất đối với ta để được vào nước trời. Trong trường hợp Thomas More, điều này có nghĩa là hy sinh cả mạng sống mình.

Chúng ta chớ vội nghĩ rằng vì Thomas More là một vị thánh nên ngài đã tự hiến dâng đời sống một cách dễ dàng. Chúng ta hãy lắng nghe những lời trong lá thư ngài viết cho cô con gái của ngài ít lâu sau khi ngài bị giam, những lời này sẽ cho ta biết cuộc đấu tranh khủng khiếp xảy ra bên trong tâm hồn ngài như thế nào:

“Meg thân yêu, Bố sẽ không bất tín với Chúa, dù bố cảm thấy yếu đuối khi sắp phải đương đầu với nỗi sợ hãi. Bố nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm xuống nước vì thiếu đức tin, khi thấy gió thổi mạnh, bố sẽ bắt chước ông kêu cầu Chúa Kitô nài xin Chúa giúp đỡ Bố. Bố tin rằng Chúa sẽ đặt đôi tay thánh thiện lên Bố và ngay trong cơn bão biển Chúa sẽ giữ cho bố khỏi bị chìm xuống… vì thế hỡi con gái yêu của bố, con đừng bối rối âu lo về bất cứ điều gì sẽ xảy đến cho bố trong cuộc sống dương trần này, không điều gì xảy ra ngoài ý Chúa, Bố rất xác tín rằng bất cứ điều gì tồi tệ xảy ra, thì chắc hẳn đó là điều tốt nhất đấy”.

Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi này: chúng ta có biết phòng tránh tội lỗi để đạt nước trời không? Chúng ta có biết canh chừng đối với bất cứ điều gì có thể khiến chúng ta đánh mất nước trời không?

Trong một lá thư của mình, một vị thánh danh tiếng người Pháp, Francis de Sales, đã nói về vấn đề cám dỗ và việc canh phòng chống lại tội lỗi như sau;

“Mặc cho quân thù gào thét ở ngoài cửa,

mặc cho nó gõ, nó la, nó gào, nó làm bậy làm bạ.

chúng ta biết chắc rằng nó không thể đi vào nhà trừ khi chúng ta bằng lòng mở cửa cho nó”.

Vậy chúng ta cần tỉnh thức đề phòng tội lỗi. Khi cơn cám dỗ xảy đến – và chắc chắn nó sẽ đến chúng ta hãy nhớ lại những lời thánh Thomas More đã viết cho Meg con gái ngài:

“Bố sẽ nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm xuống vì thiếu đức tin khi thấy gió mạnh thổi lên, và bố cũng sẽ bắt chước ngài kêu lên với Chúa Kitô và khẩn cầu Ngài giúp đỡ. Bấy giờ bố tin rằng Chúa sẽ đặt tay lên người bố và giữ bố khỏi chìm xuống giữa cơn bão biển”.

Tóm lại, sứ điệp của Chúa Giêsu ẩn chứa trong bài Phúc Âm hôm nay như sau; chúng ta phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội và để đạt được nước trời. Và chúng ta cũng phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội và để đạt được nước trời. Và chúng ta cũng phải sẵn sàng bắt chước Thomas More Người đã hy sinh mạng sống mình vì nước trời.

Chúng ta sẽ kết thúc với những lời rút ra từ bài hát cổ xưa mà Giáo hội thường xử dụng trong Kinh nhật tụng giờ Kinh chiều của một số ngày Chúa Nhật trong năm phục vụ.

“Nghe danh hiệu Giêsu, mọi gối phải quì xuống, mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Ngài là Vua vinh quang…” Hãy để Ngài ngự trị tâm hồn bạn. Hãy để Ngài chinh phục những gì chưa thánh thiện, những gì chưa đúng. Ước gì bạn biết lên tiếng gọi Ngài trong cơn cám dỗ. Hãy để Ngài che phủ bạn bằng ánh sáng và quyền năng của Ngài. Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Cha Ngài, để ngự trị trên trái đất. Ngài là Thiên Chúa cứu độ. Ngài là Đấng Kitô Chủ tế chúng ta”.

 

78. Chúa Nhật 26 Thường Niên

 (Suy niệm của Lm. Peter D. Hill, C.Ss.R. – Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)

Hoàn tất thủ tục lên chuyến bay vừa xong, tôi nhận được thẻ lên máy bay có in dòng chữ “đã kiểm tra trước” (Pre-Check). Tôi không hiểu tại sao lại như vậy, nhưng tôi vô cùng biết ơn khi đi vào lối kiểm soát an ninh nhanh hơn và không phải trút bỏ hầu hết áo bên ngoài mình. Tôi nhớ đã nói điều này với bạn tôi, người đã trả tiền cho đặc quyền kiểm tra trước này, và anh ấy không lấy gì làm vui. Anh ấy nhắc đi nhắc lại với tôi rằng tôi đã được hưởng quyền lợi mà không cần phải là thành viên. “Hội viên có đặc quyền” là khẩu hiệu cũ của thẻ tín dụng American Express. Bài đọc I và bài Tin Mừng thách thức não trạng coi đặc quyền chỉ dành riêng cho những ai là thành viên.

Trong bài đọc I trích sách Dân Số, chúng ta gặp hai người là En-dat và Mê-đat, những người đã nhận được đặc ân của Thần khí và bắt đầu nói tiên tri, mặc dù các ông đang ở bên ngoài trại, nơi 70 bô lão đang tụ tập. Bực tức và có phần ghen tị vì hai người này đang nói tiên tri, Giô-suê chạy đến ông Mô-sê để xin ngăn cản họ. Chúng ta nhớ rằng Gio-suê từ khi còn trẻ là phụ tá của ông Mô-sê, nên ông ta cảm thấy có quyền đặc biệt, muốn kiểm soát Thần khí và kiểm soát ai là người được nói tiên tri. Nhìn thấy toàn bộ vấn đề và không muốn cản trở Thần khí, ông Mô-sê khuyên Giô-suê đừng ngăn cản điều gì là tốt lành và ân phúc. Ông Mô-sê thốt lên: Chớ gì toàn dân Chúa đều là những nhà tiên tri!  Ông còn nhắc Giô-suê rằng Thần khí Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho những thành phần có đặc quyền.

Qua đến bài Tin Mừng, ở đây ngay cả Gio-an cũng có thái độ tương tự như Giô-suê. Gio-an đến gặp Chúa Giêsu và thưa: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Gio-an ghen tị và tức giận vì ai đó không thuộc nhóm môn đệ Chúa lại có thể xua đuổi ma quỷ. Điều trớ trêu ở đây là chỉ vài câu Kinh Thánh trước đó, Gio-an và các môn đệ Chúa đã không thể xua trừ một tên quỷ ra khỏi một cậu bé (Mc 9, 14ff). Chúa Giêsu quở trách Gio-an và dạy ông rằng ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta. Người lại còn xác nhận bài học là công việc của Thiên Chúa không dành riêng cho người thuộc phe nhóm.

Các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta là những người có đức tin, phải chú ý đến những điều quan trọng. Cả Giô-suê lẫn Gio-an đều không nhận ra được điều cốt yếu, đó là sứ mệnh của Thiên Chúa trên thế giới. Chúa Giêsu không thắc mắc về những việc lành người ta làm nhân danh Người, Người cũng chẳng quan tâm ai làm những việc đó. Trong khi Gio-an bận tâm đến những đặc quyền đặc lợi của nhóm môn đệ, thì Chúa Giêsu lại nhắc nhở các môn đệ rằng đi theo Người là phải phục vụ.

Giáo huấn của Chúa Giêsu là “ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” đặc biệt phù hợp cho thế giới ngày nay. Đó là lời kêu gọi hiệp nhất và lời kêu gọi lòng bao dung giữa dân Thiên Chúa. Khi chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng mình có danh nghĩa và quyền năng của Chúa Giêsu, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mở rộng tầm nhìn của mình xa hơn. Bất cứ khi nào chúng ta chứng kiến​​những việc làm của tình yêu, tha thứ, bác ái, công lý, chữa lành, giải phóng, xây dựng hòa bình, lòng thương xót, và những việc tương tự – bất kể từ đâu đến – thì những việc làm ấy đều là công việc của Chúa Kitô.

Chúng ta không biết tại sao người đó trừ được quỷ, nhưng chúng ta biết rằng việc trừ quỷ là một điều tốt. Người đó có ý tốt khi ý thức rằng thực sự có một quyền nhân danh Đức Giêsu, và quyền năng này luôn phải được sử dụng để mở mang Nước Thiên Chúa. Xin cho chúng ta là những người theo Chúa Kitô đừng bao giờ trở thành chướng ngại vật cho công việc của Thiên Chúa trên thế gian.

Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review – (hprweb.com)

 

79. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B này có thể được gọi là “chia sẻ”.

Ds 11: 25-29

“Chia sẻ” những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để các ông trở thành những người cộng tác với ông Mô-sê trong việc hướng dẫn dân Chúa chọn.

Gc 5: 1-6

Thánh Gia-cô-bê khuyên “chia sẻ” những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng Tin Mừng về đức khó nghèo.

Mc 9: 38-43, 45, 47-48

Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết “chia sẻ” những ân ban Thần Khí, thậm chí cả bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.

BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)

Sách Dân Số là sách thứ tư của bộ Ngũ Thư, sách này được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Nhan đề của sách: “Dân Số”, do từ cuộc điều tra dân số mà ông Mô-sê tiến hành trước khi dân rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.

Tiếp đó, sách thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại trong sách này, thường với những biến thể hay với những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn thuật lại việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc hướng dẫn dân chúng: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.

  1. Bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26):

Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-đến gặp con rể của mình là ông Mô-sê. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc hướng dẫn dân chúng quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy… Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên khôn ngoan này.

  1. Bản văn đặc sủng (Ds 11):

Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về trọng trách quá khó nhọc mà ông phải đảm nhận trong việc hướng dẫn dân cứng cổ cứng đầu này. Việc dẫn dắt dân này, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề, một mình ông khó gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.

  1. Việc Tấn Phong

Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức này nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục này lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc vào ông và đường lối của ông.

“Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông, thì các ông bắt đầu phát ngôn”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được biểu hiện bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được Thần Khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục này bắt đầu phát ngôn, nghĩa là “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng này “không tái diễn nữa”. Ân ban Thần Khí được biểu hiện qua việc “xuất thần ngôn sứ” chỉ diễn ra trong một giai đoạn ngắn, như được gặp thấy trong các ngôn sứ thời xưa, và sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau đó. Trong đoạn văn này, chúng ta nên ghi nhận rằng hiện tượng xuất thần ngôn sứ này chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức phù chú hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.

  1. Thần Khí hoàn toàn tự do trong ân ban của Ngài

 Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? Hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ; mặc dầu không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh theo lời hiệu triệu của ông Mô-sê, hai ông cũng được ân ban Thần Khí.

Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, người hầu cận trung thành của ông Mô-sê. Cậu lo lắng rằng hai người được ân ban Thần Khí này đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Thánh, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê chăng? Vì thế, Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn ngăn cản họ!”. Ông Mô-sê phê phán tinh thần bất khoan dung và hẹp hòi của ông Giô-suê khi trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời này, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân cứng cổ cứng đầu này cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu toàn dân được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay lòng đổi dạ biết mấy.

Ước nguyện của ông Mô-sê sẽ được thực hiện vượt quá khung cảnh này, trong truyền thống ngôn sứ sau này và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí ngự xuống đầy tràn trên các Tông Đồ (Cv 2: 16-21) và trong toàn thể Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân huệ của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số này; bài học này được Tin Mừng hôm nay xác nhận.

BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)

Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.

Thánh Gia-cô-bê vừa mới bài xích sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); giờ đây thánh nhân lên án những người giàu có tích trữ của cải bằng cách áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của thánh nhân thật dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”. Những lời này nhắc nhớ những lên án nghiêm khắc của các ngôn sứ. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những án phạt đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.

  1. Sự phù du của tài sản

Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải và tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “Tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh này rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).

Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “Vàng bạc của các ông bị rỉ sét”. Thật ra, vàng không bị rỉ sét và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: trước tòa án Thiên Chúa, việc tích trữ của cải cho riêng mình mà không chia sẻ với những anh em khốn khổ của mình là một trọng tội. Vì thế, thánh nhân khuyên: “Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, tức là trong thời kỳ này, thời kỳ khai mạc kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất vào ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa, phần thưởng cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một quan niệm như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến, những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người cách phong phú và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.

  1. Người nghèo

Thánh Gia-cô-bê còn phê phán người giàu có nặng lời hơn nữa: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chính hay những thương nhân, nhưng những điền chủ. Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ phải được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình, như huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).

Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là vị phạm sự công bình giao hoán. Hiền nhân Si-rác đã bày tỏ nỗi công phẫn trước những kẻ giàu có bắt tay với những kẻ quyền thế mà tước đoạt những phương tiện sống của những người nghèo: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).

  1. Thiên Chúa của những người nghèo

Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” này, những kẻ sống xa hoa vô độ trên xương máu của anh em đồng loại của mình, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, Đấng bênh vực những người nghèo. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ minh oan cho những người công chính và hủy diệt mọi kẻ gian ác.

Câu kết thúc của đoạn văn này quả thật khó hiểu: “Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi”. Vậy, ai là người công chính đã bị những người giàu có kết án và giết hại mà không hề cưỡng kháng? Có người nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị người giàu áp bức, bóc lột, tước đoạt đất đai như phương tiện sống, đó là tội sát nhân, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Người khác nghĩ rằng người công chính này được hiểu theo nghĩa tổng quát, đối lập với quân gian ác như các sách minh triết thường gợi lên. Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.

TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)

Trong bản văn Tin Mừng này, thánh Mác-cô quy tụ những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, thánh ký không đánh mất mục đích của mình: Đức Giê-su huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.

  1. Tinh thần khoan dung của người môn đệ Chúa Ki-tô

Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn này được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không thuộc nhóm chúng ta, không theo phe chúng ta. Thái độ bất khoan dung này của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau này chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của thánh Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như thái độ của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong Bài Đọc I.

Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan khi trả lời với thánh Gioan bằng một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người này nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, thì người ấy đã bước một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho các môn đệ phải trải lòng ra tối đa với bất cứ ai không công khai bày tỏ sự thù địch với các ông: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Những lời dạy này được giải thích tốt nhất chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).

Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón, một thái độ bày tỏ sự thân thiện rồi.

  1. Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động

Được liên kết với Bài Đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền về những ân ban của Thần Khí, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.

Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những thường dân, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để nhân danh Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không  phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).

Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa. Trái lại, các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ này mà Do thái giáo không đóng khung việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc hội hè, nhưng còn mở ra mối dây liên đới với anh chị em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn: “mến Chúa và yêu người”, của Đức Kitô.

Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn, nhưng tràn ra bên ngoài nữa, như câu chuyện của ông Bi-lơ-am (Ds 22-24). Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi không phải là người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng và nhạy bén trước tình đồng loại, họ xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy rằng những thiện ý của họ phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài, như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).

  1. Kính trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình

Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin này. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.

Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn, dể bị thương tổn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp này với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.

 

80. Chúa Nhật 26 Thường Niên

CỘNG TÁC TRONG VIỆC LÀM SÁNG DANH CHÚA

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Khi so sánh mình với người khác, người ta có thể nẩy ra cảm giác ghen tuông, ganh tị. Sở dĩ có cảm giác ganh tị, ghen tuông vì người ta sợ bị nép vế, bị mất ảnh hưởng hoặc bị đe doạ. Khi ông Môsê được thần khí của Thiên Chúa ngự xuống nói chuyện, thì ông dùng một phần thần khí ngự trên ông mà đặt trên 72 kì mục trong lều trại. Còn hai kì mục nữa là ông En-đát và ông Mê-đát không có mặt ở trong lều trại mà cũng nhận được thần khí nói tiên tri (Ds 11:27). Điều đó làm ông Giôsuê thắc mắc. Ông Môsê khuyên ông Giôsuê đừng quan tâm, vì càng nhiều người nói tiên tri, thì Thiên Chúa càng được vinh danh.

Đến lượt thánh Gioan tông đồ cũng quan ngại về việc Đức Giêsu ban tặng quyền năng cho người nghe. Ông Gioan sinh ghen tị vì có người không cùng nhóm các tông đồ đã dùng danh Chúa mà trừ quỉ (Mc 9:38). Ông Gioan muốn nói là có người nào khác cũng đã hành động theo thần trí của Thiên Chúa. Ông tưởng đó là sai trái, và không được phép vì người đó không thuộc nhóm các tông đồ. Chúa bảo ông Gioan: Không ai lấy danh nghĩa Thày mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó có thể nói xấu về Thày (Mc 9:39).

Theo lời Chúa dạy, người môn đệ Chúa không thể để cho đầu óc hẹp hòi đến nỗi đòi độc quyền làm việc từ thiện nọ, việc bác bác ái kia, mà ngăn cản người khác hay nhóm khác không được làm. Ngăn cản người khác hay nhóm khác, không cùng tổ chức, hay cùng tôn giáo với mình làm việc từ thiện bác ái là hạn chế vinh danh Thiên Chúa. Người tín hữu phải vui mừng khi có người làm việc thiện và việc lành, dù người đó không thuộc về nhóm, hay mình không ưa thích người đó. Người tín hữu cần cộng tác với những người có thiện chí và thiện ý trong việc làm giảm bớt nỗi thống khổ của loài người, làm tăng phẩm giá con người, và làm việc cổ võ công bình bác ái.

Cộng tác với người khác, với những hội đoàn xã hội và tôn giáo khác trong việc bác ái, xã hội, không có nghĩa là ta phải nhượng bộ những điều ta tin tưởng về đạo giáo. Trái lại ta phải giữ vững lập trường về đức tin công giáo. Cộng tác với người khác cũng không có nghĩa là không cần tìm sự hiệp nhất trong một đức tin. Chúa Giêsu không bảo người lấy danh Chúa mà trừ quỉ (Mc 9:38) không cần tìm hiệp nhất với nhóm tông đồ. Chúa chỉ bảo ông Gioan đừng ngăn cản người ấy mà thôi. Vì thế mà người tín hữu vẫn cần cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong một đức tin vào Chúa Kitô.

Nếu Chúa dạy ta phải vui mừng với người làm việc thiện và cộng tác với họ, thì Chúa cũng bảo ta phải xa tránh sự dữ và gương xấu vì gương xấu và sự dữ làm lu mờ danh Chúa. Chúa bảo ta không được làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là cho người yếu đức tin phải sa ngã. Chúa bảo ai làm cớ vấp phạm cho người yếu đức tin thì đáng trách phạt. Cớ vấp phạm có thể gây ra bằng lời nói hay việc làm khiến người khác có thể bắt chước. Như vậy làm cớ vấp phạm hay gương xấu là tội gấp đôi: do tội của đương sự và làm cớ sinh tội cho người khác.

Nếu Chúa bảo ta phải cộng tác và cổ võ công việc thiện hảo, thì Người cũng bảo ta phải tẩy chay việc dữ, tẩy chay những tệ đoan, những bất công trong xã hội loài người. Nếu sự việc ta làm, sự vật ta có, nếu chi thể ta gây dịp tội, gây nguy hại cho đức tin, cho sự cứu rỗi, Chúa bảo ta phải kiểm soát và canh chừng, phải làm chủ chính mình và làm chủ tình thế, chứ không để mình làm nô lệ cho dục vọng và ham muốn. Như vậy nếu truyền hình, phim ảnh, sách báo và mạng tin có thể làm sa đoạ đời sống tinh thần, làm suy giảm đức tin, làm cản trở mối liên hệ với Chúa, và làm nguy hại cho phần rỗi linh hồn, người tín hữu phải kiểm soát, hoặc loại bỏ.

Điều Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay là người môn đệ phải sẵn sàng chịu mất một tay, một chân, một mắt nếu những chi thể này làm cản trở cho phần rỗi linh hồn. Khi Chúa nói thà vào nước Trời với một tay, một chân, một mắt còn hơn là sa hoả ngục với hai tay, hai chân và hai mắt là nói theo nghĩa ẩn ý, nhấn mạnh đến giá trị của nước trời hơn một phần chi thể, chứ không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa đen. Ta có thể cảm thấy khó tin lời Chúa, bởi vì đường lối của Chúa khác với đường lối loài người, và những giá trị siêu nhiên khác với những giá trị trần thế. Tuy nhiên lời Chúa vẫn là sự thật, và lời Chúa là lời ban sự sống. Chúa đến để làm đảo lộn những giá trị của loài người vì hệ thống giá trị của loài người đã bị tội lỗi làm nhiễm độc. Do đó mà Chúa đã ban cho loài người Mười Giới răn và những giáo lí Phúc âm nêu ra những gì phải làm, những gì phải tránh để được vào nước Trời.

Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các tông đồ cầu nguyện: Nguyện cho danh Cha cả sáng. Vậy làm sao ta có thể làm cho danh Chúa cả sáng? Nói cách khác, làm sao ta làm cho danh Chúa được vinh danh? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta cộng tác với những người có thiện chí và thiện ý trong việc làm sáng danh Chúa bằng cách làm việc từ thiện, bác ái, xã hội và nhân đạo cũng như xa tránh những việc làm lu mờ danh Chúa là tội lỗi và gương xấu.

Lời cầu nguyện xin cho danh Chúa được cả sáng:

Lạy Chúa Giêsu,

Trong kinh Lạy Cha,

Chúa dạy chúng con cầu nguyện cho danh Cha cả sáng.

Xin dạy con biết làm việc và cộng tác với người khác

trong những việc tìm kiếm vinh danh Chúa.

Xin cũng dạy con biết xa tránh và chận đứng

những việc làm lu mờ danh Chúa là tội lỗi và nết xấu

để danh Chúa được lan rộng. Amen.

 

81. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

Lời Thiên Chúa là lời sống động hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người (Heb 4, 12). Chúng ta có thể thấy điều này nơi lời Chúa Giêsu hôm nay.

Tin mừng cho chúng ta thấy có những lời của Chúa Giêsu  được gọi là tin mừng dữ dội như câu: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: Thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”.

Cha Nguyễn Hồng Giáo gọi những lời này và cả bài giảng trên Núi là Tin Mừng dữ dội. Còn Đức Giám mục Athur nói đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Chúng ta có thể hiểu đây là lối nói ngoa dụ vùng Sêmit quá mạnh mẽ và điều chắc chắn là Chúa Giêsu không bắt ta hiểu theo nghĩa đen, chẳng vậy thì các Kitô hữu đều là những người cụt tay cụt chân và chột mắt hết, đàng khác mất đi một chi thể nếu không quyết tâm chừa bỏ, người ta vẫn có thể phạm tội được như khi có đủ cả hai chân hai tay và hai con mắt, nhưng Chúa cũng muốn chúng ta không được làm nhẹ ý nghĩa của Lời Chúa dạy vừa rồi.

Về phương diện y khoa, nhiều khi chúng ta phải chấp nhận giải phẫu cắt bỏ khối u, cắt đi một bên ngực, tháo khớp đi một cái chân do biến chứng bệnh tiểu đường để cứu lấy sự sống của toàn thân thế nên ở đây khi dạy phải chặt tay chặt chân và móc mắt là Chúa muốn chúng ta phải có thái độ quyết liệt với tội lỗi và cố gắng tránh xa dịp tội để không đánh mất sự sống đời đời.

Về phương diện tu đức: Càng biết tránh dịp tội thì càng ít phạm tội. Vậy khi có dịp tội, ta cần phải khước từ kể cả những gì ta rất yêu quí như lời kinh Ăn năn tội: “thì con sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen”. Giáo hội phong thánh cho Maria Goretti, một thiếu nữ mới 13 tuổi vì cô đã hi sinh mạng sống để bảo vệ đức trinh khiết và tha thứ cho kẻ giết mình cầu mong anh ta sám hối để được lên Thiên đàng với cô. Thánh thiếu niên Đa minh Saviô ngày Rước lễ lần đầu đã viết vào nhật kí: “Tôi thà chết chứ không phạm tội”.

Tinh thần bao dung: Ông Gioan thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỉ, kẻ đó không theo chúng ta, và con đã ngăn cấm y” Chúa Giêsu  không đồng ý với  việc làm có tính cách cục bộ hẹp hòi  như vậy của Gioan khi ông chỉ muốn dành độc quyền cho nhóm mình được nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỉ, nên Chúa nói: “Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà trừ quỉ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con”.

Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta cũng thấy ông Môsê cũng có quan niệm rộng mở tương tự: Các vị bô lão được tuyển chọn có trong danh sách đều tới lều Hội Ngộ để được tấn phong nhưng có 2 vị không biết vì lí do gì không tới được mà cứ ở lại trong lều của mình, và khi Thiên Chúa lấy thần trí của Môsê mà phân phát cho các vị bô lão kia thì hai người  có tên là El-đad và Mê-đad mặc dù ở trong lều mình vẫn được ơn nói tiên tri. Giosuê thấy vậy thì không bằng lòng nên bá cáo với ông Môsê và xin ông Môsê hãy cấm chỉ hai ông ấy. Nhưng ông Môsê đáp lại: “Ngươi phân bì dùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần trí Người cho họ”.

Quan niệm rộng mở của Môsê là đúng với đường hướng của Chúa Giêsu và Giáo hội sau này. Cho nên chúng ta thấy ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống tràn đầy không những trên Đức Mẹ và các tông đồ mà còn trên tất cả mọi người hiện diện lên tới con số 120 trong phòng họp trên lầu (Cvtđ 1,15). Thánh Phaolô nói: “Không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa mà người ấy không ở trong Thần khí (1Cr 12,32) Và phàm ai được Thần khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa (Rm 8,14)” Chúa Giêsu đã nói về sự tự do hoạt động của Thần khí Thiên Chúa với ông Nicôđêmô qua hình ảnh: “Gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).  Công đồng Vatican II nối tiếp quan niệm rộng mở đó nên đã canh tân Phụng vụ rất nhiều như không buộc làm lễ bằng tiếng la tinh như trước mà được làm lễ bằng ngôn ngữ địa phương, giáo dân được lên cung thánh đọc sách thánh, các tu sĩ và ngay cả giáo dân cũng có thể cho Rước lễ… rồi Công đồng còn tái lập chức Phó tế vĩnh viễn cho những người đàn ông có khả năng và đạo đức đã sống đời sống hôn nhân gia đình.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói trong ngày lễ Đăng quang: “Các bạn đừng sợ nhưng hãy mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô”. Chúng ta đón nhận lời Chúa dạy về việc quyết liệt tránh dịp tội và sống theo tinh thần rộng mở bao dung của Chúa Giêsu: không hẹp hòi kì thị, cục bộ nhưng hãy để Chúa Thánh Thần thổi luồng gió mới canh tân tâm trí chúng ta để trở nên con người mới như Chúa mong muốn. Amen.

 

82. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ

(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Bản văn này dường như là một tổng hợp những chất liệu khác biệt.

Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay khi nhìn bề ngoài nơi việc thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi thứ nhất số nhiều, Đức Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít, rồi bằng một câu khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ lời với các môn đệ (hymas, “anh em”). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn là nối với cc. 38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết nhằm giải quyết một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và cấu trúc sê-mít: c. 39 là một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng văn một cách ngôn. Dường như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi…”; bản văn nói về đề tài “những kẻ bé nhỏ” đã được tác giả Mc chuyển thành đề tài “các môn đệ”.

Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận thấy có những câu nói thuộc các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề tài những kẻ bé mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên kết với nhau chỉ về mặt từ ngữ, bằng những “từ móc nối”. Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc. 48-50: “lửa” ở c. 48 đưa đến “lửa” ở c. 49; tại đây “(ướp bằng) muối” đưa tới “muối” ở c. 50. Nhưng trước đó, động từ “làm cớ sa ngã” làm cho cc. 42-48 được thống nhất. Và thuật ngữ “vì danh” móc nối cc. 37 (“vì danh Thầy”), 38-39 (“vì danh Thầy, “vì danh Ta [Thầy]”) và 41 (“vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” diễn tả trong hy ngữ là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra “một em nhỏ như em này” ở c. 37 móc nối với “một trong những kẻ bé mọn đang tin đây” ở c. 42 (cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).

Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được liên kết với nhau bằng những “từ móc nối”, nhưng khi đã thành một đơn vị văn chương, và đưa vào trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi đặt nó vào một chỗ nhất định.

Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra “ở nhà” (c. 33), một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được xác định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần có để diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn Đức Giêsu ban riêng cho các môn đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò chuyện, Đức Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ còn tìm cho được ăn trên ngồi trước.

Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương Khó lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó, mỗi lời đều có kèm theo những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu của các môn đệ, khiến Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng cộng đồng sinh mệnh giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần hai, vì các môn đệ còn quan tâm đến việc “trên trước”, Đức Giêsu dạy cho họ biết đâu là đường lối của Thiên Chúa.

2.- Bố cục

Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia thành hai đơn vị:

1) Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);

2) Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).

3.- Vài điểm chú giải

– Người lấy danh thầy mà trừ quỷ… không theo chúng ta (38-40): Trong Cựu Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là câu truyện Enđa và Mêđa không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv 8,18; 19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc, người trừ quỷ đã sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24; 5,7). Đức Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của Người dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một câu tổng-quát-hoá giáo huấn trong c. 39 thành dạng châm ngôn.

Công thức “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không phải là “vì người ấy không theo Thầy” khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là một thực thể khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của cộng đoàn.

– Cho anh em uống một chén nước (41): Nên nối kết lời khẳng định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy Đức Giêsu nói về em nhỏ bằng những từ ngữ thích hợp với một sứ giả, một vị thừa sai hơn. Chính truyền thống Tin Mừng đã áp dụng cho các môn đệ những lời và những cử chỉ của Đức Giêsu liên hệ đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi từ em nhỏ sang người môn đệ được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37) hoặc sang “kẻ bé mọn đang tin”, nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm thường nhất (Mc 9,42; Mt 18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như nối kết hai câu được nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu kia (c. 37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga 13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với người môn đệ được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có giá trị đến thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt 25,35-45).

Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức rằng họ thuộc về Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện nơi thế gian này.

– Làm cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã (42): “Những kẻ bé mọn” đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng suốt hơn những người khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng có thể trở thành cớ khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29; Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm giá của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.

– ai làm cớ cho… sa ngã (43-48): Phân đoạn này có cấu trúc giống nhau (“Nếu tay … nếu chân … nếu mắt…”; x. cc. 43.45.47): nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó đi để tránh được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm hiểu xem những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại, loại bỏ những chi thể này đâu hẳn là loại trừ được mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người (x. Mc 8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;…).

“Sự sống” thì đối lại với “hoả ngục”, được coi như nơi có những khổ hình dành cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi “sự sống”. Câu trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng ta về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị ngôn sứ gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới, trong khi đó ở bên ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm (hoặc “con cái Hinnôm”: ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần các cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã lên tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách thế xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán cải. Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa vào những bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ trợ sự chọn lựa con đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14 so sánh với cc. 24-27).

Ghi chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của J.R. Harris: tác giả TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative (đối-cách) (salem) rồi liên kết từ ấy với Híp-ri salem nghĩa là “bình an, hoà bình” (x. Dt 7,2). Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các môn đệ giữ cho được sự bình an nơi chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc 9,50).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Người ở ngoài nhóm (38-41)

Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu. Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ khác về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa chữa. Các môn đệ không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe khoang về những đặc quyền. Đó là một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức Giêsu đánh giá hoạt động trừ quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một nhóm khép kín để hưởng các đặc quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ ai, trong âm thầm, khiêm tốn.

* Các cớ làm sa ngã (42-48)

Trong khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ, các môn đệ phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường hợp và phải sẵn sáng chấp nhận những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự hiệp thông giữa các thành viên. Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa ngã, bởi thái độ khinh bỉ những người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).

+ Kết luận

Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức Giêsu luôn luôn có thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã trình bày các lời này như những chỉ thị ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo đường đã từng đưa Đức Kitô đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng một cộng đoàn trong đó mọi người sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những người ở ngoài nhóm trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc phục vụ ít lộ liễu. Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm giác mạnh, nhưng là tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly nước cho người đang khát.
  2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ làm cớ cho người khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ hay một lời răn đe tùy người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích lệ cho những người đạo đức, để họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế gian khinh bỉ. Là lời răn đe đối với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối ăn nói, cư xử của các ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin phải mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không phù hợp với người môn đệ của Đức Kitô.
  3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải phục vụ như Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế cô thân, và cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó, vì kiến tạo được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế giới thấy rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
  4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở ra với làn hơi Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức năng của Hội Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu chỉ thực tại hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá nhân và trong các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần đưa tới chỗ hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần được liên tục kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng.

 

83. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)

HUẤN DỤ TRUYỀN CHO CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU (9,38-50)

Những gì chúng ta đang đọc xem ra không có liên hệ rõ ràng với diễn tiến trước đó (9,33-37). Người ta vẫn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi dạy dỗ các môn đệ. Tuy nhiên rõ ràng các vấn đề đang được bàn đến vượt quá giới hạn của vấn đề trước đó. Với tư cách một giáo lý viên giàu kinh nghiệm, Maccô đã gom góp ở đây nhiều huấn lệnh Chúa Giêsu nói với cộng đoàn Kitô hữu. Sự thu gom này được xác định bởi cách dùng một phương thức cổ xưa của các nền văn minh truyền khẩu để giúp cho dễ nhớ: đó là kỹ thuật dùng các “từ móc”. Các lời nói của Chúa Giêsu thoạt đầu không liên hệ với nhau đã được ghép lại với nhau bằng một từ, một lối diễn tả. Việc này được khởi đầu bằng lối nói: “Vì danh Thầy”. Lối nói này kết bốn câu lại với nhau: 37,38,39 và 41. Tiếp đó, một chuỗi lời nói được dệt chung quanh các từ “làm cớ cho sa ngã” mà người ta gặp bốn lần ở các câu 42,43,45 và 47. Cuối cùng hai đơn ngữ “lửa” và “muối” được dùng để làm cho ba câu 48,49 và 50 ăn khớp với nhau.

Lời giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu được nói lên nhân việc can thiệp của Gioan, một trong nhóm Muời Hai (c. 38). Lời đề nghị của một trong hai anh em vừa mới được phong biệt danh “Con của Sấm Sét” (3,17) quả đáng ngạc nhiên. Nó bộc lộ cho thấy một tính cách bất bao dung nào đó nói nhóm các tông đồ. Nhóm này có khuynh hướng khai trừ những kẻ đang đứng ngoài lề, dù họ không hoàn toàn bộc lộ ra điều này. Chúa Giêsu không cổ vũ “anh thần pháo đài” (khép kín) trong Giáo Hội Ngài. Ngài nhắc nhở các môn đệ phải biết cởi mở với người anh em lân cận (c. 39). Ngài truyền họ phải rộng mở tiếp đón tối đa mọi kẻ công khai thù nghịch với họ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Ta hãy nghĩ đến tầm quan trọng của những lời này đối với một Giáo Hội như Giáo Hội của Maccô hiện đang vị sự bách hại dồn vào thế co cụm, khép kín. Chúa Giêsu còn đi xa hơn với thí dụ về ly nước, dùng để giải khát và tăng sinh lực theo quan niệm Đông phương. Hành vi bác ái nhỏ nhặt nhất mà một kẻ đối nghịch làm cho một Kitô hữu trong một khu vực hết sức thú hằn với nhau, mang rất nhiều giá trị. Chúa Kitô sẽ nhớ đến hành vi ấy trong ngày chung thẩm (x. Mt 25, 31-46).

Trong các câu tiếp theo (42-47) cung giọng thay đổi và trở nên nặng nề nghiêm trọng hơn. Một chuỗi lời nói tác động vào nhau nhờ động từ tiếng Hy Lạp “làm cớ cho sa ngã” (c. 42a). Lời cảnh giác rất nghiêm trọng. Dứt khoát không được “dựng lên chướng ngại” trên con đường của những kẻ tin Chúa. “Những tín hữu bé mọn này” chính là các Kitô hữu mà đức tin phôi thai của họ vẫn còn mỏng manh. Mọi “gương xấu”, theo nghĩa mạnh có thể ví như bẫy gài dưới chân họ, đều sẽ gây tai hại trầm trọng cho lòng trung thành của họ. Phải tuyệt đối đề phòng mọi việc làm gương xấu. Vì thế mỗi anh em trong cộng đoàn phải chú tâm đến tương giao giữa mình và kẻ khác. Chúa Giêsu ra lệnh tới ba lần: “Nếu tay con… nếu chân con… nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã”, thì hãy cắt, chặt, móc nó đi! (c. 43a; 45a; 47a). Tay, chân, mắt là những bộ phận chính của cơ thể dùng để liên lạc. Mỗi bộ phận này đều tác động đến cả thân thể. Nếu chúng là cớ gây thương tổn cho kẻ khác thì thà quẳng chúng đi. Đã có trường hợp cắt một phần chi thể bệnh hoạn có thể cứu sống toàn bộ cơ thể. Về mặt thiêng liêng, vấn đề này rất trọng yếu. Thà cụt tay, thọt cẳng, chột mắt mà được vào chốn trường sinh còn hơn là nguyên vẹn mà bị quẳng vào “hỏa ngục là nơi sâu bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (c. 43b; 45b; 47b-49).

Các lời nói này xem ra quá cứng cỏi nếu không muốn nói là tàn bạo! Ở đây người ta gợi lên số phận của kẻ tội lỗi bằng những hình ảnh về cái chết vĩnh cửu kèm theo các nhục hình gớm ghiếc (sâu bọ và lửa). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vấn đề này. Trước hết chúng ta hãy bỏ đi lối đọc theo nghĩa đen các hình ảnh được sử dụng. Không bao giờ Giáo Hội đọc thấy nơi trong Phúc Âm này lời kêu gọi hủy hoại thân thể. Đối với mỗi Kitô hữu, đây chính là lời mời gọi thúc bách họ tự thoát khỏi những gì xấu xa nơi bản thân để đảm bảo phần rỗi cho mình. Quả thế, điều này có liên quan đến sự thành công hay thất bại của cuộc sống loài người. Một bên là cuộc sống đời đời vô tận với Chúa Kitô Phục Sinh, còn một bên là “địa ngục”, từ này muốn nói lên điều gì? Đây là hình ảnh bắt nguồn từ thụ kiến bi đát về hỏa ngục xét như một tình trạng hủy diệt đớn đau những kẻ tội lỗi cứng lòng! “Địa ngục” ở đây là một thung lũng sỏi đá nằm ở mạn nam ngọn đồi của thành Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, kể từ các cuộc điều tra dân số, chốn hoang dã ấy được dùng làm chỗ xả rác công cộng của thành đô. Ở đây người ta có thể thấy hàng đống rác rưởi, thú vật hoặc cây cối bị dòi bọ đục khoét; thường xuyên người ta thiêu cả những xác người. Tóm lại, đối với những kẻ do Thầy với Chúa Giêsu, địa ngục gợi lên số phận thích đáng dành cho những kẻ khép lòng lại trước lời kêu gọi của Thiên Chúa. Thị kiến kinh khiếp này đã từng được tiên tri Isaia mô tả: “Trong khi bước ra (khỏi thành phố), người ta có thể trông thấy các thây người từng nổi dậy chống đối ta (Chúa phán). Dòi bọ rúc rỉa chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tắt. Mọi xác thịt sẽ nhờm tởm chúng (Is 66,24).

Quang cảnh được hình dung ở đây tác động mạnh đến các trí tưởng tượng, nhất là từ thời Dantê (thi sĩ nổi tiếng người Ý thể kỷ XIV) đối với nhiều người hỏa ngục và lửa thiêu kinh khiếp nơi đó từ một hình ảnh tượng trưng đơn sơ đã biến thành một thực tế không thể nào chịu nổi. Vì vậy cần phải tái lập lại chân lý. Dù cho lối dùng khoáng đại của nó, Kinh Thánh cũng chỉ muốn diễn đạt một ý tưởng đơn giản đó là Thiên Chúa công bình sẽ trừng phạt tất cả những kẻ hoàn toàn khép lòng lại trước Tình yêu Ngài. Họ sẽ không được hiệp thông với Chúa, bị xa cách Chúa Kitô và các thánh. Mặc dù được Kinh Thánh xác nhận, hỏa ngục vẫn còn là một thực tại mầu nhiệm, khó dung hòa được với hình ảnh một vị Thiên Chúa Tình yêu!

 

84. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Chú giải của Noel Quesson)

Trên con đường đi Xêdarê – Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của “Con Người” cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:

– Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một “luật lệ” được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.

Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.

Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố” nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?

Gioan đã thấy một “người trừ quỷ” mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).

Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).

Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có “những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.

Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những “con quỷ” này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé… tất cả đều phải “khử trừ” sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.

Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.

Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo… hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến… Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.

Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.

Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên “kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người”. Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh “Quyền lực của Đức Kitô”. Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.

Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới “thấy được” của Giáo Hội hay sao?

Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?

Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:

“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió” (Ga 3,8).

Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài “nhóm” (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ “đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: “ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những “người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con”.

Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài” nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu “các con đừng ngăn cản người ấy” đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.

Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa… Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là “những con người phổ quát”, “nhưng con người biết thông cảm những khác biệt” như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: “Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ” (GS 9,2).

Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. “Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn”. Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?

Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

‘Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước” lạ thường của người môn đệ: “Người ấy thuộc về Đức Kitô”. Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.

Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.

Sau những lời khuyên luận lý tích cực (“cho một chén nước”), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực (“không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã”). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.

Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.

Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

 

85. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Chú giải của Fiches Dominicales)

“Ở NHÀ”, VÀI LỜI NHẮN NHỦ ĐỨC GIÊSU GỞI ĐẾN CỘNG ĐOÀN CÁC MÔN ĐỆ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Đi theo Con Người

Chúng ta vẫn “ở nhà” tức tại Caphácnaum, nơi đây mang một ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là nơi Đức Giêsu dạy dỗ riêng cho các môn đệ. Đức Giêsu dừng chân ở đây trên đường lên Giêrusalem. Người sẽ chịu cuộc tử nạn mà trước đây Người loan báo hai lần tại thành này.

– Đặt trong bối cảnh trên đường lên Giêrusalem, chúng ta sẽ rất dễ hiểu những lời Đức Giêsu. Trong “Tin Mừng theo thánh Maccô, B. Standaert nhận xét như sau: “Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích dẫn luật lệ trong Kinh Thánh này nọ, ông không nhìn nhận nền tảng đời sống luân lý Kitô giáo nào khác ngoài việc noi gương bắt chước Đức Kitô. Những trình thuật lớn loan báo số phận của Con Người thật ra không phải là những lời khuyến khích, nhưng khởi đi từ thân phận Đức Kitô, ta có thể hiểu ra những việc làm cần thiết mà người Kitô hữu phải tuân giữ. Ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống thực hành này là quyết liệt, không khoan nhượng. Thập giá hiện diện không những trong việc đảo lộn thân phận, làm cho người lớn nhất trở nên kẻ phục vụ mọi người, mà còn trong khả năng dám chặt tay, chặt chân, móc mắt bỏ đi, nếu những chi thể này làm cớ sa ngã”. (Cerf, tr. 78-79)

Những lời Chúa nói được Maccô thuật lại còn vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ, để nhắm đến các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này có thể làm cho óc suy luận kiểu Tây phương của ta kinh ngạc và lạc hướng. Điều quan trọng trong các những lời Đức Giêsu nói, không phải là những đề tài, mà là những từ đặt trong ngoặc kép, “nhân danh” Đức Giêsu, trong phần đầu đoạn Tin Mừng này, “kẻ bé mọn”và “làm cớ sa ngã” trong phần cuối.

  1. Dẹp bỏ tinh thần bè phái.

Giáo huấn đầu tiên của Đức Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, con ông Giêbêđê, có biệt danh là “con của sấm sét” (3,17). “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy, mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu không đồng ý, Người cảnh giác các môn đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về đức tin và Thánh Linh J. Hervieux cắt nghĩa: “Đức Giêsu không chấp thuận cho Hội Thánh của Người có “tinh thần kín cổng cao tường” “tinh thần pháo đài”. Lệnh của Chúa là phải mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy những ai không ló ra thù nghịch với mình. “Ai không chống lại chúng ta, ủng hộ chúng ta”. Chắc hẳn những lời này rất quan trọng đối với một Hội Thánh như cộng đoàn của Maccô, vì lú c đó cuộc bách hại thúc đẩy họ co cụm lại, sống kín cổng cao tường” (Lvangile de Marc”, Centurion, trang 137-138).

Chúa còn đẩy ý tưởng đó đi xa hơn, nên nêu thí dụ “ly nước lã” Một cử chỉ nhỏ bé nhất được thi hành giúp các môn đệ Người “vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” có giá trị trước mặt Chúa: “người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

  1. Dám liều chọn lựa hy sinh.

Giọng điệu còn trở nên nghiêm trọng hơn với một chuỗi dài câu được liên kết bằng ‘từ mấu chốt’: “làm cớ sa ngã”.

Trước hết, một lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người dựng lên chướng ngại vật, làm cho những “kẻ bé mọn” (tức là những tín hữu mà đức tin còn non yếu) bị vấp ngã. Ta còn nhờ thánh Phaolô đã cống hiến một phần lớn thư của Người bàn về nguy cơ làm cớ sa ngã. Khi giải thích cho những Kitô hữu đang hoang mang ở Côrintô rằng họ đã được giải phóng khỏi những luật lệ Do thái giáo, thánh tông đồ liền dặn thêm: “Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã… Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc” (1 Cor 8, 9-12).

Hôm nay từ miệng Đức Giêsu, chúng ta cũng đón nhận giáo huấn đó. Vào lúc, Đấng Mêsia-Tôi Tớ, đi lên Giêrusalem để trao nộp mạng sống vì yêu thương, Người long trọng tuyên bố: Trong cộng đoàn các môn đệ, phải hết sức tôn trọng người nhỏ bé nhất trong số các anh em của Người.

Kế đó là ba lời cảnh giác đối với ba chi thể của ta, vì chúng có thể lôi kéo người môn đệ sa ngã: “Nếu tay anh… Nếu chân anh… Nếu mắt anh…”

  1. Quesnel tự hỏi: “Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu” (Mc 7, 21-22).

Ngoài ra, tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe.

Thật ra cách nói khoa trương cũng không phải là không có trong những câu có hình thức mâu thuẫn này. Hội Thánh không bao giờ giải thích theo nghĩa đen; ngôn ngữ thì đầy hình ảnh và có tác dụng là nhờ những câu đối lập nhau. Géhenne là thung lũng sâu khó xuống được, nằm ở phía dưới thành Giêrusalem, là nơi người ta đốt những rác rưởi, đồ phế thải, nên ở đó luôn xông lên mùi nồng nặc kinh khủng, như vậy, Géhenne đối lập với sự sống hay Nước Thiên Chúa. Mọi người cần tránh xa nó, vì đó là nơi tiêu huỷ tận diệt. Trái lại, sự sống và Nước Thiên Chúa là một thách thức đáng cho ta tận dụng mọi nỗ lực để đạt tới. Tất cả những gì làm ta tách xa sự sống và Nước Thiên Chúa đều xấu xa. Sự sống và Nước Thiên Chúa ấy đáng cho ta quyết tâm lựa chọn, dù có phải thiệt mất một phần thân thể. (Comment lire un évanglie Marc, Seuil, trang 170).

BÀI ĐỌC THÊM

  1. Rừng cấm

Mọi câu lạc bộ ưu tuyển, dòng tộc, giáo phái hoặc ghettô, dù chúng thuộc dòng tu hay triều, thường gây ra và nuôi dưỡng những cơn ganh tị. Mọi cộng đoàn hoặc nhóm khép kín, co cụm, đều ra sức bám víu vào những đặc quyền, đặc lợi đã có.

Sách Dân số cung cấp cho ta một thí dụ điển hình. Khi Giosuê ganh tị, bực tức thấy có hai người nói tiên tri, mặc dầu họ không được uỷ quyền, cũng không được “thụ phong”. Họ là những tay săn trộm trong rừng cấm.

Đây cũng là một cơn ghen thực sự mà Gioan, đại diện cho Nhóm Mười Hai, mắc phải. Hãnh diện vì thuộc về nhóm tông đồ tuyển chọn và được quyền xua trừ các thần dữ nhân danh Giêsu, các ông thấy đặc quyền của mình bị đe dọa bởi ‘một người không đi theo Đức Giêsu mà làm được các phép lạ’. Các ông giận dữ, chống đối, tố cáo, đòi lên án. Khốn cho tên cạnh tranh bất lương!

Phản ứng và câu trả lời của Môsê cũng như của Đức Glêsu, tuy rất vắn gọn, nhưng mang cùng một ý nghĩa và một giáo huấn trong sáng có thể đưa đến những kết quả khôn lường. Các anh la lối tức giận vì thấy một điều thiện, một điều tốt được thực hiện bởi một người không công khai, chính thức thuộc về nhóm “ưu tuyển”, hoặc thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô sao? Trái lại, nào các anh không nên vui mừng vì thấy Thần Khí Chúa tỏ mình, và thấy thần dữ bị xua trừ sao? Các anh lấy quyền gì để hạn chế Thiên Chúa can thiệp; tự mình đặt ra những biên giới, những điều kiện bắt Thiên Chúa phải tuân theo? Các anh nghĩ rằng Thiên Chúa của Apraham, của Isaac, của Giacóp và của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, là tư hữu độc quyền của một dân tộc, một Giáo Hội, một đường lối tu đức, hoặc một đường lối mục vụ sao?

Trong lúc họp nhau cử hành Thánh Thể, ta ý tứ đừng tạo ra một “nhóm người sạch”, và hãy áp dụng cho ta lời Thánh Vịnh: sai có thể nhận ra những lầm lỗi của mình? Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi những tội con không hay biết. Xin gìn giữ tôi tớ Người khỏi tính kiêu căng: xin cho nó đừng bao giờ chiếm giữ lòng con”.

  1. Cạm bẫy của ngôn từ “xin” và “cho”

(Points de repère en pastorale sacramentelle”, Document – Episcopat, số 10-11, juin 94, introduction, trang 2-3).

Chúng ta thường bị mắc kẹt bởi cách dùng ngôn từ: cho và xin. Ta tự nghĩ mình, và chỉ có mình, là những người cho, vì mình có các bí tích, như thể chúng ta tạo ra và phân phát các ơn lành do bí tích ban. Nhưng phải nhìn nhận rằng cả chúng ta cũng chỉ là những người xin khi lãnh nhân hoặc ban các bí tích. Vì lý do thần học, có một điều ta không dám nêu lên trong lãnh vực mục vụ bí tích, đó là Chúa Thánh Linh đã hoạt động trong tâm hồn con người trước chúng ta, và rằng Nước Thiên Chúa luôn vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Nhờ hoạt động của mình, Thánh Linh thực hiện tác vụ ngôn sứ nơi những người nhận lãnh, để mạc khải cho ta công trình Thiên Chúa thực hiện nơi họ.

(..) Nói cách khác, chúng ta cần học hỏi nơi những người đến với ta hoặc ta đến gặp họ: đó là học để biết nhìn họ với con mắt khác, để tìm ra một điểm gặp gỡ khác, chứ không chỉ qua các bí tích. Phải chấp nhận để Thánh Linh được tự do nói với ta qua họ, về Thiên Chúa và về cách khám phá ra Người.

Vì những lý do này, mục vụ bí tích không chỉ là mục vụ đức tin hoặc khai mở đức tin. Nó còn là mục vụ tình thương vô vị lợi, biết đón tiếp và biết lắng nghe. Chúng ta có thể cải hoá bản thân mình nhờ điều mà những người này nói với ta về cuộc sống của họ, hoặc nhờ những câu họ hỏi về Thiên Chúa, về Hội Thánh, nhất là khi lòng họ bị tổn thương, oán giận hoặc những ước muốn mơ hồ.

Đón tiếp luôn đi đôi với cố gắng để nhận định những mong muốn thầm kín thường được che giấu bởi một đòi hỏi trực tiếp.

  1. Tự do của Thiên Chúa

(Các Giám mục Pháp, trong “Lettre aux catholiques de France”, Cerf, trang 76-77).

Kinh nghiệm về việc Phúc âm hoá ngày nay giúp ta có nhận xét sơ khởi này: ngày nay trong xã hội chúng ta, có một số nơi đang mong đợi điều gì đó từ Hội Thánh, và họ có thể bày sự mong đợi đó khi tiếp xúc với Hội Thánh bằng cách này hay cách khác: hoặc đến xin lãnh bí tích rửa tội, hôn phối; hoặc vào lúc, những biến cố vui mừng hay thử thách xảy ra trong đời họ; hoặc do tình cờ họ gặp một cộng đoàn Kitô hữu, một nhóm nào hoặc cũng có thể họ gặp một phong trào có tổ chức, giới thiệu cho họ con đường khai tâm dẫn tới Tin Mừng, tuỳ theo hoàn cảnh sinh sống của họ.

Ta không công nhận rằng: những gặp gỡ như vậy thường chất vấn ta và đẩy lùi kiểu lô-gíc truyền giáo đã in sâu trong tâm trí ta đó sao? Bởi vì theo lô-gíc thương mại, hoặc lô-gíc chức năng, chúng ta tưởng rằng muốn truyền giáo, Giáo hội cần phải giữ một thứ luật cung cầu, nghĩa là Giáo Hội ở phía người cung, còn những kẻ khác, những người mong đợi, ở phía người cầu.

Trong hoàn cảnh thực tế cũng như trong kinh nghiệm thực tiễn mà Giáo Hội có qua sự gặp gở những người này, điều gì đã thực sự xảy ra và con đường dẫn tới đức tin đã diễn tiến như thế nào?

Không được phép coi những người mong đợi này như những khách hàng của Giáo Hội luôn sẵn sàng tiêu thụ điều mà chúng ta bày ra, theo kiểu lô-gíc thương mại. Trước hết, ta nên nhở, họ là những người nam hoặc nữ, do lòng mong đợi và sự tìm kiếm, họ làm chứng cho sự tự do của Thiên Chúa và công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng có thể khơi dậy nơi mọi người ước muốn vượt lên trên những gì họ đang sống. Bằng cách thế, đôi khi gây sửng sốt, họ nhắc nhở ta rằng địa chỉ hàng đầu cho Phúc âm hoá chính là cuộc sống con người, rằng sẽ không có Phúc âm hoá nếu không có đối mặt thực sự giữa Tin Mừng Đức Kitô, mạc khải của Thiên Chúa và sự mong đọi thẳm sâu nơi mỗi người.

Nhưng đối lại, khi hiểu được mong đợi của con người và đáp lại lòng mong đợi ấy, Giáo Hội có trách nhiệm phải bày tỏ cho thấy, Giáo Hội không chỉ muốn đáp lại những mong đợi tức thời của họ, mà còn có sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu, sứ mạng đó là trình bày và mở đường dẫn họ đến với Người.

Trong nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau, Giáo Hội được mời gọi không những phải đón tiếp rộng rãi và vô vị lợi rnà còn phải tỉnh thức tích cực, để nhận ra những dấu chỉ bất ngờ của Chúa qua vô số những đòi hỏi của con người thời nay, đồng thời cũng hiểu rằng những đòi hỏi này kêu gọi có một cuộc khai tâm kéo dài dẫn đến mầu nhiệm Đức Kitô, Lời Người, các bí tích và sự sống mới mà Người là nguồn mạch”.

 

86. Chúa Nhật 26 Thường Niên

(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

CHÚA GIÊSU DẠY DỖ CÁC MÔN ĐỒ

  1. Bản văn này bàn đến mấy vấn đề tất cả? Mc đã dùng cách nào mà liên kết chúng?
  2. Tiếng “theo chúng tôi” (2 lần) nơi c.38 có gì lạ?
  3. Câu 41 nói lên mấy khía cạnh của thiên chức Kitô hữu?
  4. “Kẻ nhỏ đã tin” nơi c.42 phải chăng là tiếng chỉ các em bé?
  5. Phải chăng nơi cc.43-48, Chúa Giêsu muốn bảo rằng việc cắt bỏ tứ chi là cách thức hay nhất để vĩnh viễn loại trừ các dịp tội?
  6. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU NÓI VÀ SỰ DUY NHẤT CỦA BẢN VĂN

Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Mc 9,38-38 bàn đến nhiều vấn đề có vẻ rất khác biệt. Câu Gioan hỏi và lời Chúa Giêsu đáp về kẻ trừ quỷ xa lạ với nhóm Mười hai làm nên một khối duy nhất (cc. 38-40. Nhưng với câu nói về ly nước cho môn đồ (c.41), chúng ta thay đổi đề tài cách đột ngột mặc dầu có chữ gar Hy lạp nối câu nói này với câu nói trước). Và đoạn văn nơi c.42 về gương xấu “cho một trong các kẻ nhỏ đang tin này” (các kẻ nhỏ nào?) cũng thấy sao sao. Bắt đầu từ c.43, vẫn còn vấn đề gương xấu hay dịp tội, nhưng trong một viễn ảnh luân lý cá nhân hoàn toàn.

Cảm tưởng lộn xộn này càng tăng thêm nếu ta đặt lại cc 38-48 vào trong văn mạch của chúng. Chúng là thành phần của cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu với nhóm Mười hai (Mc 9,33-50) mà mở đầu là một tranh luận về kẻ lớn nhất (cc. 33-35), rồi tiếp theo là lột giáo huấn về việc tiếp đón “một trong các trẻ nhỏ này” (cc. 36-37). Sự liên quan giữa hai chủ đề này không rõ gì lắm: câu 35 kết thúc cuộc tranh luận đang làm cho các môn đồ xôn xao, nhưng cách Chúa Giêsu nắm lấy một em nhỏ, đặt em vào giữa nhóm Mười hai và xiết chặt em trong cánh tay Người (c.36) làm nổi bật việc tiếp đón một trẻ nhỏ (c 36) thay vì củng cố bài học về sự khiêm nhường trong nghĩa của c.35 (x. Mt 18,3-4). Ta không thấy làm sao cảnh này lại có thể đưa đến việc Gioan khai báo (c.38) mà từ đó, các lời của Chúa Giêsu kế tiếp liên tục cho tới c.50. Bản văn phụng vụ bỏ qua đoạn kết của cuộc đàm thoại (cc.49-50); nơi đoạn kết này, sự duy nhất cũng càng khó thấy.

Một bản văn như thế làm cho ta vất vả vô cùng khi muốn tìm sự mạch lạc. Nhưng kết cấu và vị trí của nó trong Tin Mừng Mc bảo đảm cho nó một sự duy nhất nào đó.

  1. Kết cấu

Nhiều “tiếng móc” nối kết, một cách hoàn toàn trên ngôn từ, nhiều ý tưởng thoạt trông rất rời rạc. Rõ ràng hơn hết là trong cc.48-50: “lửa của chúng” của c.48 gọi “lửa” của c.49; “ướp muối” của c.49 gọi “muối” của c.50. Nhưng trước đó động từ “nên cớ vấp phạm” đã bảo đảm cho sự mạch lạc của cc 42-48. Và thành ngữ “nhân danh” làm công việc liên kết cc 37 (“nhân danh Ta”), 38-39 (“nhân danh Thầy”, “nhân danh Ta”) và c.41 (“vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô” theo tiếng Hy lạp là ononomati hoti, “nhân danh sự kiện” công thức che đậy một đặc ngữ sêmita). Ta còn có thể nêu lên sự tương ứng giữa “một trong các trẻ nhỏ này” của c.37 và “một trong các kẻ nhỏ đã tin này” của c.42, dầu cho những chữ : dịch ra là “trẻ nhỏ” và “kẻ nhỏ” có khác nhau và chỉ các nhân vật khác nhau đi nữa.

Cách thức kết cấu này cấm ta đi tìm trong bản văn sự mạch lạc của một diễn từ hay của một khai triển có luận lý, và càng không được coi nó như bản trần thuật của một cuộc đàm thoại đã diễn tiến như đang được ghi lại dưới mắt ta. Ở đây, người ta đã quy tụ, theo một phương pháp ký ức, nhiều lời Chúa Giêsu đã thốt lên trong nhiều trướng hợp khác nhau, được truyền thông lưu truyền và được nối kết với nhau tàng tạm, để đáp ứng những nhu cầu giáo lý trong Giáo Hội sơ khai. Dù việc tập hợp này là công trình của Mc hay của Mt nguồn có trước đi nữa, thì điều đó vẫn không thay đổi gì vấn đề  ý nghĩa của nó. Ý nghĩa này phải được minh giải từ mỗi một yếu tố sau khi lưu ý đến cách dùng mà vì đó truyền thống đã giữ chúng lại. Qua chính sự hiện hữu của nó, một bản văn được cấu tạo như thế chứng tỏ rằng các Kitô hữu đã cảm thấy có liên hệ với những giòng tâm sự của Chúa Giêsu cùng các môn đồ và với hoàn cảnh của những kẻ đã theo Người trong thời gian Người còn tại thế.

  1. Văn mạch

Trong sách Mc, toàn bộ này có dáng như là một đơn vị văn chương mà vị trí đã chẳng được chọn một cách may rủi. Đây là một cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với nhóm Mười hai; Chúa Giêsu ngồi xuống (cử chỉ của vị thầy đang dạy dỗ, x c 35; 4,1 ; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3 …) và gọi họ lại Người sẽ chỉ đứng dậy khi kết thúc (10,1 anastas). Cuộc đàm thoại xảy ra “tại nhà” (c.33), căn nhà mà chẳng ai biết vị trí và sớ hữu chỉ. Ở đây căn nhà được định vị tại Capharnaum, nhưng người ta cũng có thể tìm thấy nó nơi khác, mỗi khi Mc cần đến nó để gợi lên sự thân mật của những giáo huấn chỉ dành riêng cho các môn đồ, xa hẳn đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Với cách “xếp đặt vị trí” này, Mc cho các tín hữu của Giáo Hội sơ khai thấy tầm quan trọng mà ông gán cho các lời Chúa Giêsu nói.

Đàng khác, cuộc đàm thoại bắt đầu và kết thúc với một kiểu cách phản ảnh một bận tâm lớn lao. Câu 50: “Các ngươi hãy sống hòa thuận với nhau” trở lại cuộc tranh luận giữa các môn đồ (cc. 33-34) mà câu 35 đã chấm dứt. Kết luận này cho thấy đặc tính của cách Mc giải thích lời nói về muối (x. Mt 5, 13 ; Lc l4,34-35). Cho dù Mc có sử dụng một nguồn liệu thì người ta cũng nhận ra ngòi bút của ông trong nhiều chi tiết của cc. 33-34 (x. S. Legasse, Jésus ét l’enfant, Paris, 1970, tr.23-25. Đặc biệt nên lưu ý sự khó khăn trong việc hòa hợp 35a với 33-34). Rõ ràng Mc muốn nhấn mạnh đến mối nguy mà cộng đoàn có thể gặp phải do vấn đề chọn lựa ngôi thứ giữa các môn đồ. Dĩ nhiên đó không phải là chủ đề duy nhất của cuộc đàm thoại, nhưng vị trí của nó ảnh hưởng đến việc hiểu rõ toàn thể bản văn.

Sau hết, Mc 9,33-50 nằm sau lời tiên báo thứ hai về cuộc Khổ nạn. Người ta biết rằng ba lời tiên báo về cuộc Khổ nạn tạo nên nhịp điệu cho cả một tiết của Tin Mừng thứ hai (8,31-10,45); mỗi một lời tiên báo đó, kèm theo nhiều giai thoại minh họa sự ngu độn của các môn đồ, gây nên một giáo huấn của Chúa Giêsu về sự hiệp thông số phận mà Người muốn thiết lập giữa họ và Người. Trong lần tiên báo thứ nhất, Phêrô phản đối, nhưng ông đã bị coi như là Satan (8,32-33), và các môn đồ với đám đông đã được cảnh giác rằng người ta không thể theo Chúa Giêsu nếu không bỏ mình và vác thập giá (8,34tt). Lời tiên báo thứ hai cho thấy các môn đồ không hiểu chi cả (9,32) và mối lo âu về địa vị chứng tỏ họ chẳng có khả năng đi vào trong nhãn giới của Thiên Chúa, đồng thời, theo Mc, nó gây nên cuộc đàm thoại mà chúng ta đang nghiên cứu đây (cc 33-34). Xa hơn, sau lời tiên báo thứ ba về cuộc Khổ nạn, nỗi sợ hãi của các môn đồ đang theo Chúa Giêsu xa xa trên đường tới Giêrusalem (10,32) và lời thỉnh cầu đầy tham vọng của hai con Giêbêđê (10,35tt) cho thấy họ cũng chẳng có khả năng hiểu đường lối của Chúa Giêsu, con đường mà dù vậy họ phải theo đuổi. Do đó, phải đọc 9,38-48 dưới ánh sáng mà Mc đã chiếu trên bản văn này.

  1. KẺ TRỪ QUỶ XA LẠ VỚI NHÓM MUỜI HAI (cc. 38-40)

Người ta có thể hiểu giai thoại này trong bối cảnh cuộc sống Chúa Giêsu cũng như trong bối cảnh cuộc sống Giáo Hội sơ khai. Chúa Giêsu và các môn đồ Người trừ quỷ, như bao người Do thái khác (Mt 12,27; Lc 11,19). Quyền năng trừ quỷ của Chúa Giêsu là lý do khiến nhiều người Do thái đã cậy nhờ danh Người để xua đuổi quỷ. Thành thử lời khai báo của Gioan (c.38) phản ảnh một vấn đề có thể đã đặt ra vào thời Chúa Giêsu. Vả lại, sự kiện lời khai báo được gán cho Gioan cho thấy đây là một dữ kiện xưa của truyền thống; người ta không thể cắt nghĩa cách nào khác hơn việc đề cập đến tên của môn đồ này trong trình thuật.

Nhưng cách khai báo của Gioan có dẫu thuộc về truyền thống của Giáo Hội sơ thủy: nó giả thiết rằng nhóm m