Lời Chúa: Gr. 23, 1-6; Ep. 2, 13-18; Mc. 6, 30-34
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Sau một cuộc hành trình truyền giáo, các tông đồ phấn khởi trình bày cho Đức Giêsu những gì mình đã làm và đã dạy.
Đức Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài biết các tông đồ giờ đây cần gì. Họ cần một chút nghỉ ngơi cho thân xác. Họ cần một chút riêng tư, trầm lắng cho tâm hồn, để nhìn lại phía sau, để nhìn về phía trước, để tách mình ra khỏi công việc bề bộn nơi đám đông, để sống tình thầy trò ấm áp.
“Hãy đi riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút.” Chỉ cần một chút thôi, năm phút, mười phút…
Ai trong chúng ta cũng cần một chút lặng lẽ mỗi ngày, để trở lại chỗ sâu nhất của lòng mình, để nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Cần tìm một chỗ lặng lẽ trong nhà, để tôi có thể ngồi với tôi, trước nhan Chúa.
Cuộc sống hôm nay không để cho ta một chút nghỉ ngơi.
Các tông đồ cũng bị cuốn vào cơn lốc của công việc.
Cần phải phấn đấu để có được một chút mỗi ngày.
Một chút lắng sâu đủ nuôi cả ngày. Một chút êm ả khi ta đã làm mình rỗng không khỏi bao điều đã nghe và thấy, đã nói và ước mơ.
Phải xuống thuyền để đi đến nơi nghỉ ngơi. Phải ra khỏi chỗ mình đang sống.
Thầy trò đã lên thuyền, nhưng kế hoạch bất thành. Có lẽ vì ngược gió nên thuyền đi chậm. Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào. Đức Giêsu sững sờ khi thấy đám đông. Những bước chân nôn nao, hối hả của họ đã khiến Ngài rung động tận cõi lòng. Ngài biết họ cần Ngài và Ngài thương họ.
Cái cần của tập thể thật cấp bách đến nỗi nhu cầu chính đáng của cá nhân phải hy sinh.
Đức Giêsu mang trái tim của người mục tử nhân hậu, nhói đau trước sự bơ vơ của đoàn chiên.
Bơ vơ là tâm trạng của con người mọi thời, nhất là của người trẻ hôm nay. Bơ vơ khi bị ném vào cuộc đời lọc lừa, xảo trá. Bơ vơ khi bị nghiền nát bởi những thủ đoạn gian manh. Bơ vơ khi bị sa sảy, không sao đứng lên được. Bơ vơ khi những thần tượng lần lượt tan vỡ.
Bi bơ vơ dẫn đến chán chường và buông trôi, mặc cho mình bị kéo vào những cái bẫy nghiệt ngã.
Làm thế nào để người bạn trẻ gặp được Giêsu, để lấy lại niềm tin, để tìm được hướng sống, để vững vàng bình an giữa sóng gió cuộc đời.
Tôi phải giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, nhưng tôi cũng phải trở thành một Giêsu gần gũi để đến với những ai bơ vơ quanh tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mỗi ngày kéo dài 288 lần 5 phút. Bạn có dám dành 1/288 của ngày để sống cho mình, sống rất riêng với Chúa không? Nếu bạn thường xuyên lặng lẽ như vậy, bạn có thấy được nâng đỡ không?
Bạn đã có lần rơi vào khủng hoảng, bơ vơ. Bạn làm gì hay nhờ ai mà ra khỏi tâm trạng bơ vơ đó?
Cầu Nguyện
Giữa những ồn ào của đám đông, giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại, xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng, giữa những khát khao thèm muốn và những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước, giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
2. Vị Mục tử chạnh lòng thương
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng cho cuộc đời mình. Hãy chọn lựa và đi theo Chúa vì Ngài là Mục tử của đời ta. Hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thêm an tâm tin tưởng và phó thác nơi Ngài, vì Ngài là Cha nhân hậu và là Đấng giàu lòng xót thương.
Cuộc sống xung quanh ta đầy rẫy những bon chen tính toán. Những quay cuồng vật lộn, những lo toan cơm áo gạo tiền dễ làm ta lạc đường mất hướng. Có những lúc giật mình nhìn lại, ngỡ ngàng không biết mình sống cho ai, để làm gì và sẽ đi về đâu. Giữa mớ hỗn độn của cuộc sống đời thường, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: hãy tìm định hướng cho cuộc đời mình. Hãy chọn lựa và đi theo Chúa vì Ngài là Mục tử của đời ta. Hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, thêm an tâm tin tưởng và phó thác nơi Ngài, vì Ngài là Cha nhân hậu và là Đấng giàu lòng xót thương.
Người mục tử là một hình ảnh rất thân thương và gần gũi đối với dân tộc Do Thái, là dân chuyên sống bằng nghề du mục. Ảnh hưởng của người mục tử rất quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của đàn chiên. Qua lời ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa khẳng định, chính Ngài là mục tử của vương quốc Israen, cũng là Vua lãnh đạo dân tộc này. Ngài chăm sóc, hướng dẫn và chúc lành cho dân. Lịch sử nhân loại cũng là lịch sử cứu độ. Từng trang sử đều in đậm dấu ấn do quyền năng và tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với dân riêng Ngài đã chọn, tức là dân Do Thái. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn hứa ban cho dân Israen một vị vua trong tương lai. Vị vua này sẽ dẫn dắt dân trong sự công chính. Người sẽ là vị Vua Hòa Bình. Nhờ Người, Thiên Chúa và con người sẽ giao hòa, muôn nước sẽ sống trong bình an. Người ta không còn dùng gươm giáo để tiêu diệt nhau nữa, nhưng cùng nắm tay nhau xây dựng một thế giới nhân ái yêu thương.
Vị vua tương lai mà ngôn sứ Giêrêmia loan báo là chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và Đấng Cứu độ trần gian. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói về quyền năng của Người. “Ta là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”, Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Người là Mục tử tốt và cũng là Mục tử đích thực. Hai đặc tính này đi đôi với nhau và diễn tả sứ mạng Thiên sai của Người. Trong lịch sử cũng như ngày hôm nay, đã và đang có những mục tử giả hiệu, những mục tử không tốt. Những mục tử này, thay vì phục vụ đàn chiên, lại hành hạ và giết chết đàn chiên. Chúa Giêsu là Mục tử tốt và thật. Vị Mục tử Giêsu vừa quan tâm đến những người cộng tác là các môn đệ, vừa lo lắng cho đám đông dân chúng. Khi thấy các môn đệ mệt mỏi, Người đã bảo họ đi nghỉ ngơi cầu nguyện tĩnh dưỡng. Khi thấy dân chúng đông đảo đi theo Người, Người chạnh lòng thương trước nỗi khốn cùng về thể xác cũng như tinh thần của họ. Không chỉ những người đi theo Chúa vào tận nơi hẻo lánh, mà còn cả nhân loại đang đói khát tình thương, cũng đang rất cần sự nâng đỡ của Chúa, vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng thâm sâu của con người.
Trước nỗi khốn cùng của cuộc sống, nhiều người đã chọn những giải pháp trần gian mà họ quên chạy đến với Chúa để xin Ngài hướng dẫn, chỉ lối đưa đường. Cũng có những người mù quáng đi theo những mục tử giả, tức là những cá nhân hoặc những trào lưu buông thả, vô thần, chủ trương lối sống duy vật chất và phủ nhận những giá trị thiêng liêng. “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi”, đó vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là tâm tình phó thác của chúng ta, với tư cách là Kitô hữu. Trải qua hai mươi thế kỷ, biết bao sói dữ đã trở thành chiên lành, nhờ chuyên tâm đi theo vị Mục tử nhân lành dẫn dắt. Biết bao con chiên lạc đã trở về chính lộ nhờ thiện chí đón nhận lời giáo huấn của Người. Ý thức mình là con chiên trong đàn chiên đông đảo của Chúa, chúng ta hãy chân thành lắng nghe lời Người dạy và thực hiện lời Người nhủ khuyên. “Đường đi có Chúa chông gai con có sợ chi”, tin vào sự dẫn dắt của Chúa giúp chúng ta vượt thắng mọi gian khó trên đường đời.
Hình ảnh vị Mục tử nhân lành cũng nhắc nhở những ai được Chúa trao nhiệm vụ lãnh đạo các cộng đoàn tín hữu, tức là Giám mục, linh mục, phải noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống vì tha nhân. Bất kể thời nào và ở đâu, Giáo hội luôn cần những mục tử tài đức, khiêm tốn và sẵn sàng phục vụ đàn chiên Chúa đã trao phó. Những vị lãnh đạo này rất cần đến sự nâng đỡ, cộng tác và cầu nguyện của các tín hữu.
Ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo một vị Vua công chính đến để kiến tạo hòa bình, đó là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tiếp tục quảng diễn sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu, tức là giao hòa thế gian với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái với các dân, tiêu diệt mối thù nghịch, liên kết mọi người và làm thành gia đình của Thiên Chúa (Bài đọc II). Gia đình này là đàn chiên đông đảo, không còn phân biệt nguồn gốc, ngôn ngữ hay mọi dị biệt. Mỗi cộng đoàn đều là hình ảnh của gia đình ấy. Sự hiệp thông gắn bó, tình đoàn kết yêu thương giữa mọi cá nhân trong một cộng đoàn, chính là lời chứng hùng hồn cho sự dẫn dắt yêu thương của vị Mục tử nhân lành, luôn chạnh lòng thương và chúc lành cho những ai tin tưởng phó thác nơi Người.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
NHỊP SỐNG KITÔ HỮU
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?
4. Bản tường trình của giám mục
(Suy niệm của ĐGM. Arthur Tone)
Một linh mục du lịch bằng xe lửa qua Ái Nhĩ Lan đang hút một điếu xì gà. Tại một trạm xe, vị Giám mục nổi tiếng ở Dwyer của địa phận Limerick đang đứng trên bực thềm đợi một chuyến xe khác. Ngài thấy vị linh mục hút thuốc, liền phê bình: “Cha thân mến, cha hút thuốc trước công chúng làm gương xấu cho người Ái Nhĩ Lan”. Vị linh mục đáp lại “Tôi không thấy gì là gương xấu khi hút một điếu xì gà”. Và vị linh mục hỏi tiếp” “Xin được phép hỏi: Ngài là ai?”. Câu trả lời: “Tôi là Giám mục O. Dwyer địa phận Limerick. Hơi bối rối, vị linh mục kính cẩn nhìn vị Giám mục một lát rồi khi xe từ từ rời bến. Ngài lẩm bẩm: “Đức Cha có chức vụ cao, Đức Cha cố gắng chu toàn”.
Vâng, Đức Giám mục của chúng ta “có chức vụ cao”. Ngài là Đấng kế vị các Tông đồ. Công việc của ngài thánh thiện và khó khăn. Một bổn phận của ngài là báo cáo đều đặn trực tiếp cho Đức Thánh Cha. Tin Mừng hôm nay kể rằng: Các Tông đồ trở về với Chúa Giêsu và kể lại cho Người tất cả những gì các ông đã làm và đã giảng dạy. Một cách tương tự, Đức Giám mục năm năm một lần báo cáo đầy đủ và chi tiết về tình trạng địa phận của ngài và sự liên đới với chính quyền dân sự. Cứ 10 năm Đức Giám mục đích thân đem báo cáo về Roma. Bản báo cáo này gồm: tình hình tôn giáo của địa phận. Số họ đạo, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân, giáo lý viên, học sinh Công giáo trong trường Công giáo, học sinh Công giáo trong trường công lập, số nhà thương, viện dưỡng lão, số hôn phối, tân tòng, số người rửa tội, số người chết, mọi vấn đề liên quan đến đời sống thiêng liêng. Bản báo cáo cũng bao gồm lời xác nhận chính thức về sự điều hành địa phận: giới trẻ Công giáo, báo chí địa phận, hoạt động từ thiện, đời sống gia đình, việc truyền bá đức tin và những nhân viên cùng ủy ban giúp sức Giám mục.
Ngài cùng báo cáo về tình hình tài chính nữa. Các bạn biết rằng, mỗi năm cha sở phải báo cho Đức Giám mục tình hình tài chính và thiêng liêng của họ đạo. Tới luợt Đức Giám mục báo cáo đầy đủ cho Đức Thánh Cha.
Bởi vì, những bản báo cáo này từ khắp thế giới, nên Đức Giáo Hoàng – Đầu hữu hình của Giáo Hội, am tường tình hình diễn biến trên thế giới. Bạn và tôi có phần sống động trong bản báo cáo đó. Đức Thánh Cha quan tâm đến mọi phần tử trong gia đình nhân loại khắp mặt đất. Vì thế mà Franklin Roosevelt nài nỉ được đích thân làm quan sát viên cạnh Vatican.
Đức Giêsu sai phái các Tông đồ, và các Ngài báo cáo lại cho Chúa. Đức Giáo Hoàng sai phái các Giám mục, các ngài báo cáo lại cho Đức Giáo Hoàng. Đó thực là trở về sinh hoạt của các Kitô hữu lúc đầu.
Bản tường trình chính thức này cho những lời trong kinh nguyện Thánh Thể II ý nghĩa đặc biệt: “Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu. Để kiện toàn Hội Thánh trong đức mến, cùng với Gioan Phaolô II, Đức Giám mục… giáo phận chúng con và toàn thể hàng giáo sĩ. Bạn hãy cầu nguyện lời kinh này với ý nghĩa đó.
Xin Chúa chúc lành bạn.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Các môn đệ Chúa Giêsu, sau chuyến đi rao giảng, trở về trong hân hoan, báo cáo lại cho Ngài những công việc đã làm, và những kết quả thu được.
Chúng ta có thể tưởng tượng quang cảnh câu chuyện hàn huyên giữa các môn đệ với Chúa Giêsu. Các ông vui mừng vì những kết quả thu được, những người quỷ ám được khỏi, những người bệnh được chữa lành…
Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy những dấu hiệu mệt mỏi hằn lên những khuôn mặt hao gầy của các môn đệ. Ngài bảo họ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”.
Ngài cho họ cảm nghiệm nỗi nhọc nhằn của công việc rao giảng suốt bao nhiêu ngày. Ngài biết rõ nhu cầu của họ là phải được nghỉ ngơi, và thánh Máccô ghi nhận: dân chúng vây quanh các Ngài đến nỗi không có giờ dùng bữa. Chúa Giêsu mãi là miếng mồi ngon cho dân chúng. Ngài hoàn toàn thuộc về họ và sẵn sàng lo cho họ, kể cả vấn đề vật chất. Ngài là một vị lãnh đạo hoàn hảo và sau này, chính Ngài tuyên bố: “Ta là Mục Tử nhân lành…” Ngài tỏ lộ cho chúng ta tình yêu của Cha trên trời như tiên tri Hôsê đã viết: “Hỡi Ep-ra-im, Ta trao nộp ngươi sao đành!… trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi…”
“Ta đã tập đi cho Ep-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…
Ta xử với nó như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má,
Ta cúi xuống gần nó, đút cho nó ăn”…
Tình thương ngọt ngào đó, chúng ta thấy thể hiện nơi con người Chúa Giêsu.
Thiên Chúa, qua lời tiên tri Giêrêmia mà chúng ta vừa nghe, đã lên án gắt gao những mục tử của dân Chúa, vì họ đã làm tản mát đoàn chiên của Ngài và chính Ngài sẽ đến quy tụ đàn chiên và đưa chúng đến đồng cỏ của chúng.
Chúa Giêsu vừa đến nơi thanh vắng Ngài muốn tới, thì đám đông dân chúng đã đến đó trước. Họ phải đi bộ một khoảng rất xa. Chúa Giêsu nhìn thấy đoàn dân tìm kiếm Ngài, thánh Maccô nói: “Ngài chạnh lòng thương vì họ như một bầy chiên không có chủ chăn, bơ vơ vất vưởng…” Ngài không còn nghĩ đến việc nghỉ ngơi gì nữa và Ngài lại “giảng dạy họ nhiều điều…”
Đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với bất cứ ai mong mỏi tìm Ngài. Ngài không từ chối một ai. Thái độ khao khát của dân chúng làm cho Ngài cảm động, và Ngài tiếp tục giảng dạy họ.
Chúng ta có khao khát Ngài như đám dân xưa kia không? Chúng ta có say mê lời Ngài như họ không? Hình như Lời Chúa không còn sức hấp dẫn như xưa kia. Chúng ta đã quá nhàm chán những lời ban sự sống đời đời, như dân Do Thái xưa trong sa mạc đã nhàm chán manna, là thức ăn mà Chúa ban cho họ hằng ngày, họ thèm thịt, củ hành củ tỏi Ai Cập hơn. Chúng ta cũng thế, chúng ta chỉ thích những trận bóng đá hay những tuồng cải lương hơn những lời Kinh Thánh. Điều đó không có gì lạ. Con người tự nhiên của chúng ta chỉ thích những gì hợp với sở thích tự nhiên của chúng ta hơn. Điều đáng chú ý là chúng ta không chỉ cần bao nhiêu đó. Con người chúng ta không chỉ bằng lòng với những gì có thể thỏa mãn xác thịt chúng ta mà thôi. Con người cần một cái gì cao quý hơn. Nhưng cái gì cao quý hơn? Phải chăng là Lời Chúa?
Hãy cầu xin cho chúng ta ham mê Lời Chúa, yêu thích thánh ý Chúa hơn tất cả những gì vật chất, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất thanh trong của Tình Yêu Chúa. Nói như thế, chúng ta có thể cho là quá “siêu”, nhưng kỳ thực, chính Lời Chúa mới là sự sống thật và là niềm hạnh phúc tuyệt diệu mà chúng ta khao khát.
Chúng ta mãi mãi là những con người nghèo khó. Dù chúng ta có dư thừa tiền bạc, của cải, chúng ta vẫn mang trong tâm hồn ước mong được hạnh phúc mà chúng ta vẫn không tìm thấy nơi nào khác ngoài Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói rất chính xác: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”.
Hãy cầu xin cho chúng ta mang trong tâm hồn niềm khao khát khôn nguôi là tìm được Chúa, như dân làng miền Tibêria, để Chúa thương đoái đến chúng ta và “giảng dạy chúng ta nhiều điều”. “Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Phúc cho chúng ta khi chúng ta không thể bằng lòng với những gì trần gian mang lại cho chúng ta! “Lạy Cha, Con xin tạ ơn Cha vì Cha đã không ban cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn…”
Hãy trở thành những con người bé mọn để được yêu thương hơn, để được biết những mầu nhiệm Nước Trời, là kho tàng không mối mọt đục khoét. Trần gian, với tất cả những công trình đồ sộ của nó chỉ là bọt bèo. Thời gian sẽ bôi xóa những gì con người tạo nên như sóng biển bôi xóa những lâu đài xây trên cát. Con người chúng ta mong manh một cách đáng sợ. Chúng ta cậy nhờ vào cái gì để tồn tại? Chỉ có Chúa thôi. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì đã cho chúng ta biết và tin Chúa: “Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống”. Những lời hứa đó vững chắc hơn bất cứ những gì trên trần gian này.
Chúng ta có một vị lãnh đạo toàn năng chứ không như những người trần gian, có đó rồi biến tan, nằm xuống xuôi tay, đầu hàng thời gian. Thiên Chúa của chúng ta là Chủ Tể thời gian, là Vị Mục Tử nhân lành, dám hiến mạng sống vì đàn chiên. Ngài chăn nuôi chúng ta, dẫn chúng ta vào đồng cỏ xanh tươi… “Ngài là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ngài sẽ không chết…”
“Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời”. Ngài thực hiện lời hứa đó nơi bàn thánh này, nơi Ngài dám cho chúng ta tất cả bản thân Ngài, cho chúng ta tất cả kho tàng sự sống của Ngài. Hãy để cho Ngài thấm vào da thịt chúng ta để chúng ta được đổi mới trong Ngài.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đoạn Tin Mừng hôm nay vẽ cho chúng ta thấy một nét đặc biệt của Chúa Giêsu đó là lòng thương xót.
Sau khi đi rao giảng về, các tông đồ vây quanh Thầy mình, tường trình cho Ngài biết kết quả, những gì các ông đã làm được. Thánh Maccô không nói rõ thời gian đi rao giảng là bao lâu: một hay hai tuần. Hình như Chúa thấy các ông tỏ dấu mệt mỏi, dù họ rất vui vì những kết quả thâu được. Ngài bảo các ông hãy vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi đôi chút. Đám đông dân chúng vẫn vây quanh các ngài đến nỗi các ngài không có giờ dùng bữa.
Thầy trò xuống thuyền ra đi. Nhưng khi ghé vào bờ bên kia, vẫn thấy đám đông đã đi bộ đến trước các ngài.
Nhìn đám đông dân chúng khao khát được nghe giảng. Thánh Maccô ghi nhận: Chúa nhìn thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương vì họ như đàn chiên bơ vơ vất vưởng không có người chăn dắt và lại tiếp tục giảng cho họ.
Chúa thương các môn đệ đang mệt mỏi, Chúa cũng thương đám dân lành nô nức theo Ngài để nghe giảng Tin Mừng. Chúa đến để cứu vớt. Ngài đến vì mọi người. Ngài là Tình Yêu. Ngài không nở lòng bỏ đàn chiên bơ vơ như thế.
Đây là nét đặc trưng của Chúa Giêsu. Ngài chính là người mục tử nhân lành, luôn nghĩ đến đàn chiên, luôn tìm mọi cách cứu vớt đàn chiên và liều mạng sống cho đàn chiên.
Đoàn dân khao khát nghe giảng Tin Mừng vì chưa từng thấy ai có thể mang lại cho họ của ăn tinh thần họ đang cần: “Con người không chỉ cần cơm bánh…”
Chúng ta có khao khát nghe lời Chúa như đoàn dân đó không? Chúng ta có thực tình yêu mến Lời Chúa không? Chúng ta nghe đủ thứ tin tức, đủ thứ chuyện ở đời, xem đủ thứ phim ảnh, nhưng Lời Chúa thì ngại nghe, không hấp dẫn. Có lẽ không mấy người có tài hùng biện hấp dẫn chúng ta, nhưng nếu có những người giảng Lời Chúa, chúng ta có sẵn sàng đón nhận với tất cả thiện chí không?
Người yêu mới thích nghe tiếng người yêu. Nếu chúng ta thực tình yêu Chúa, chắc hẳn chúng ta sẽ yêu thích nghe nói đến Chúa, nghe lời Chúa.
Tiên tri Giêrêmia nói: “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài”.
Chúng ta có yêu thích Lời Chúa như thế không? Đám dân lành khao khát nghe lời Chúa đến nỗi, biết Ngài sang bên kia bờ, đã đi bộ kéo nhau đi tìm Ngài. Xin cho chúng ta được niềm khao khát trong lành đó.
Chúng ta có rất nhiều phương tiện để nghe Lời Chúa. Lời Chúa trong quyển sách mà nhiều người đã có trong gia đình. Lời Chúa trên những phương tiện truyền thông, chỉ cần bật một cái nút, chúng ta có thể nghe Lời Chúa. Những người sử dụng internet, biết bao nhiêu trang Lời Chúa luôn có sẵn… nhưng chúng ta có muốn nghe không? Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Đúng thế. Làm sao biết Chúa nếu không tìm Chúa nơi Chúa tỏ ra? Lời Chúa mới giúp chúng ta tiếp cận với Chúa, hiểu biết Ngài và yêu mến Ngài.
Chúng ta phung phí thời giờ vào những việc phù phiếm, thức đêm thức hôm để theo dõi một trận bóng đá, còn Chúa thì lãng quên. Hình như nhiều người không cần đến Thiên Chúa. Hãy dành cho Chúa một khoảng không gian nào đó trong ngày sống của chúng ta. Thời giờ qua đi mà không trở lại. Hoang phí thời giờ vào những thú vui trần thế mà đánh mất niềm vui nơi Chúa, thì ích lợi gì cho chúng ta? Đánh mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Chúa không mỏi mệt rao giảng qua Giáo hội, nhưng chúng ta vẫn dửng dưng. Lời Chúa là ngọn đèn soi bước con đi, nhưng chúng ta không cần ánh sáng của Chúa. Làm sao chúng ta biết đâu là sự thật? Chúng ta sẽ lạc lối và rơi vào bóng tối tội lỗi. Thế giới hôm nay đang chìm trong bóng tối tội ác, chúng ta làm sao biết chọn con đường nào? Con người hôm nay muốn loại trừ Thiên Chúa, và hậu quả như thế nào? Người ta chỉ tin vào sự khôn ngoan của mình, tin vào khoa học, vì thế con người đang rơi vào cơn ác mộng tận diệt. Chân trời hôm nay của con người đen nghịch những đe dọa. Người ta tưởng rằng chế tạo vũ khí là khôn ngoan, là bảo đảm sự tồn vong của mình, nhưng thế giới sẽ ra sao với những kho vũ khí khổng lồ và vô cùng hữu hiệu? Người ta tưởng chấp nhận hôn nhân đồng tính là tiến bộ, hay là dấu hiệu của một sự suy đồi đáng sợ? Chỉ có Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Không bám vào Chúa, con người sẽ hủy diệt lẫn nhau thôi.
Giáo hội luôn sống theo Lời Chúa, dù mọi người chối từ. Giáo hội vẫn yêu mến Lời Chúa như yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Tình yêu Chúa vẫn thôi thúc chúng ta, nhưng chúng ta hình như vẫn cứng lòng như dân Do Thái xưa.
Hôm nay, khi nhìn đến chúng ta, có lẽ Chúa cũng chạnh lòng thương chúng ta hơn đám dân lành khi xưa, vì chúng ta không phải là đàn chiên không có chủ chăn mà bi đát hơn, chúng ta là đàn chiên đang bị hi sinh cho quyền lợi của một nhóm nhỏ, những tay đầu xỏ thế giới, những người thờ tiền. Nhưng ở đời không có gì tồn tại. Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Ta sẽ không qua đi, dù một chấm một phảy cũng không qua đi. Lời Chúa là chân lý, nhưng chúng ta không thích nghe, chúng ta chỉ muốn nghe những lời lếu láo của người đời hơn. Lời Chúa là sự sống, nhưng chúng ta không muốn nghe để được sống, chúng ta chỉ muốn gặt hái hư vô. Chúng ta nói như các môn đệ xưa: “Lời Chúa sao khó nghe quá”! Hãy như Phêrô: “Bỏ Thầy con biết theo ai, chỉ có Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời”.
Hãy trở về với Chủ chăn nhân lành của chúng ta, lắng nghe lời Ngài, yêu mến Ngài, chúng ta mới đạt tới niềm vui sung mãn mà Ngài mang lại cho chúng ta, khi ban mạng sống Ngài cứu vớt chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ rơi đàn chiên mà Ngài đã chuộc lại bằng giá máu của Ngài. Tình yêu của Ngài bền vững muôn năm.
Ngài vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta, không những bằng lời Ngài mà bằng cả thịt máu Ngài. Ngài trở thành của ăn cho đàn chiên của Ngài. Còn gì mà Ngài không làm cho chúng ta? Chúng ta tìm đâu được một ai đó dám sống chết cho chúng ta, yêu thương đến nỗi không tiếc gì với chúng ta? Hãy ăn lấy Ngài vì Ngài là của ăn, là Bánh Hằng Sống sẽ ban cho chúng ta nguồn sống của Ngài, vì chỉ có Ngài mới là niềm vui bất tận cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Truyện cổ tích Việt Nam có câu chuyện “Hồn Trương Ba da hàng thịt” kể rằng: Anh Trương Ba là 1 người đánh cờ tướng rất giỏi nổi tiếng, lao động cần cù, có vợ không có con nhưng vẫn hạnh phúc. Còn gia đình anh Hàng thịt thì giàu có, có con nhưng không hạnh phúc vì mãi lo làm ăn, tranh dành hơn thua với người đời và thậm chí thường xuyên đánh vợ con. Có người tên là Như Kỵ ở bên nước Tàu nghe tiếng Trương Ba đánh cờ xuất chúng, bèn sang nước Nam, đến nhà Trương Ba tranh kỳ hùng địch thủ. Trương Ba dồn Như Kỵ vào thế bí, Như kỵ vò đầu bức tóc suy nghĩ. Trong lúc đó Anh Trương Ba nói: “Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không gỡ nổi (Đế thích là thần cờ trên thiên đình). Đế Thích nghe thấy liền giáng trần để chơi cùng với Trương Ba và tặng 1 nén nhang để khi nào muốn chơi cờ với ông thì cứ đốt nhang thì ông xuống. Thình lình, Trương Ba chết thì vợ của Trương Ba rất buồn và thắp nhang cho ông. Đế Thích giáng trần thì thấy Trương Ba đã chết 1 tháng. Vì thương bạn mình mất sớm nên ông hứa với vợ Trương Ba sẽ làm cho ông sống lại. Hôm đó có ông Hàng Thịt chết. Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào xác ông Hàng Thịt sống lại. Khổ thay, khi sống lại thì vợ Trương Ba cho là chồng bà, và Vợ ông Hàng thịt cũng cho đó là chồng bà. Hai bên cải vả nhau đánh đập um củ tỏi, rồi kiện ra Quan. Quan hỏi cách làm heo bán thịt thế nào? Anh ta nói không biết, hỏi đến cách đánh cờ tướng, anh ta trả lời rất thạo. Quan cho anh về ở với vợ mình là Trương Ba. Còn người vợ anh bán thịt đành phải chịu mất chồng cả hồn lẫn xác.
Hồn luôn đi với xác, hồn nào xác nấy, ai ai cũng muốn hồn an xác mạnh. Cho nên, nhịp sống của con người là nhịp động và tĩnh. Động là lao động, hoạt động, tĩnh là nghỉ ngơi, cầu nguyện. Hai nhịp này chi phối đời sống vật chất cũng những tinh thần của người Kitô hữu chúng ta. Bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, ta thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để xác mạnh hồn an nhàn và lắng động nhờ nghỉ ngơi với Chúa, bên Chúa và trong Chúa. Vì vậy, Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa ca lên rằng: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4).
Con người gồm có hai phần: phần hồn và phần xác. Đã là người đòi hỏi chúng ta phải thăng tiến thân xác này, gia đình và xã hội, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả, phải tìm kiếm miếng cơm manh áo, đó là nhiệm vụ bắt buộc vì “lao động là vinh quang lang thang là chết đói”. Tuy nhiên, sẽ là thất bại lớn nếu con người chỉ dừng lại đời sống thể xác mà quên phần hồn, tức tâm linh. Rõ ràng, Anh Hàng thịt kia chỉ biết tối ngày lao động, kiếm tiền giàu có thật nhưng bất hạnh phúc, mất cái tâm: đánh vợ đánh con, mất tha nhân, cuối cùng mất hồn mất xác. Cuộc sống hưởng thụ hôm nay đang lôi cuốn con người lao vào việc làm giàu đến nỗi quên ngày, quên đêm, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm; làm ngày thường chưa đủ làm luôn ngày nghỉ (Chúa nhật); làm luôn giờ đọc kinh, thậm chí cắt bớt giờ lễ, thậm chí bỏ luôn. Thử hỏi lao động như thế được gì, mất gì? Chắc chắn được tiền nhưng mất Chúa, mất bà con, bạn bè, và tha nhân. Cụ thể, chúng ta thấy ngày xưa tổ chức họp hội hay đám cưới, đám giỗ, chạp mả trúng ngày nào làm ngày đó lúc nào cũng đông đủ. Bây giờ phải chọn ngày Chúa nhật nếu làm ngày thường không ai đi dù biết làm như vậy thì mất lòng mất tình nghĩa, nhưng cũng coi như pha.
Thân xác cần có lương thực để sống, thì tâm hồn cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ bởi Thánh Thể và Lời Chúa nhờ nghỉ ngơi trong Chúa bằng thăm viếng tha nhân hay tham dự kinh nguyện thánh lễ. Vì vậy, thấy các tông đồ đã làm việc vất vả, Chúa Giêsu bảo các ông hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút. Nghỉ ngơi vừa lấy lại sức lực vừa làm cho tâm hồn an bình sống tình thầy trò, tình bạn hữu nhờ Chúa và Lời Ngài là nguồn an ủi, sức mạnh và bình an cho chúng ta. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. chính Người là bình an của chúng ta”.
Chúng ta hôm nay dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cơm áo gạo tiền, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi, để hồi tâm và cầu nguyện với Chúa. Vì có nghỉ ngơi có lấy lại sức, có hồi tâm và cầu nguyện thì mới ơn Chúa, có sức mạnh của Lời Chúa soi sáng tâm hồn đồng thời Ngài tiếp tục giúp ta thi thố tài sức cho chính mình và cho tha nhân đặc biệt, Chúa sẽ giúp ta nên thánh thiện hơn.
Ước gì Lời Chúa hôm nay, xin Chúa dạy chúng ta biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống: lao động và cầu nguyện. Lao động khỏe và có kết quả tốt và chân thiện là nhờ những giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nhờ có những giờ nghỉ ngơi bên Chúa qua kinh cầu nguyện hay Thánh lễ ngõ hầu Chúa giúp sức, soi sáng và dẫn chúng ta sống quân bình và phát triển con người ta toàn diện: HỒN AN XÁC MẠNH. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tin Mừng Chúa nhật thứ XVI thường B tuần này mời gọi chúng ta khám phá tầm quan trọng của sự nghỉ ngơi trong Chúa. Các Tông Đồ trở về từ sứ mệnh Chúa Giêsu đã giao. Họ đã trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau bệnh tật và rao giảng Tin Mừng. Họ mệt mỏi và Chúa Giêsu bảo họ rằng: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).
Các Tông Đồ Chúa, sau chặng đường dài thi hành sứ vụ Thầy trao không tiền, không bao bị, không bánh, chỉ một tấm áo mong manh với cây gậy và con tim đầy ắp niềm vui của hành trình loan báo Tin Mừng, các ông đã trở về với Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nhưng Chúa Giêsu khám phá ra sự mệt mỏi, rã rời ẩn bên dưới lớp hào quang của thành công. Vì thế, một đàng đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các Tông đồ, đàng khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Với tình thầy trò Người bảo các môn sinh: “Các con hãy hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút”, Người nhẹ nhàng kéo các ông ra khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”. Sở dĩ như thế là vì Chúa sợ các môn đệ của mình nhiễm cái thói hám danh, thích khoe khoang, phô trương, quyền lực, vì theo Chúa thành công ấy là khởi điểm tốt đẹp cho chặng đường tiếp theo, chứ không làm các ông tự mãn rồi rơi vào ảo tưởng, ngủ quên trong những thành công đầu đời. Đường trước mắt mà thầy trò phải bước không phải là con đường bằng phẳng, mà đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách, sức lại có giới hạn. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, nghỉ ngơi là cần thiết, nghỉ ngơi sẽ giúp các Tông đồ tỉnh táo hồi tâm suy nghĩ và nhấtlà để Chúa bổ sức cho. Thế nên, điều Chúa nói với các Tông đồ ngày xưa, cũng là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Một trong những cám dỗ mà bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể rơi vào là muốn làm nhiều điều, và khi thành công với muôn lời chúc tụng ta dễ bỏ bê tương quan với Chúa thậm trí quên Chúa luôn. Sự bận rộn và thành tích là những căn bệnh hiện đại khiến nhiều người trong chúng ta đau khổ. Nghỉ ngơi, trái ngược với sự bận rộn là một trong những điều mà Chúa muốn nơi chúng ta. Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta rằng trong giờ cầu nguyện, một trong những nguy hiểm nhất là nghĩ rằng có những điều khác cấp bách hơn phải làm, thế là chúng ta chấm dứt giờ kinh nguyện và bỏ qua mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa mà chúng ta đang có. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với các môn đệ của mình, những người đã làm việc chăm chỉ, những người đang mệt mỏi và những người hạnh phúc vui cười bởi vì mọi thứ diễn ra tốt đẹp của mình rằng chúng ta phải nghỉ ngơi. Tin Mừng nói với chúng ta: “các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh” (Mc 6,33).
Để thực hành một giờ nguyện tốt cần phải có ít nhất tối thiểu hai điều: thứ nhất là ở với Chúa Giêsu, bởi vì ở với Chúa chúng ta mới nói chuyện được với Chúa. Ở bên Chúa là gặp gỡ Người, nhờ đó ta thấy cuộc sống của Chúa không phải là quyền lực, là thành công rực rỡ, nhưng là khiêm nhường, nghèo khó, từ bỏ mình, hy sinh vì yêu thương. Chúng ta phải tin chắc Chúa hiện diện trước mắt chúng ta. Bắt đầu giờ cầu nguyện dù ở bất cứ nơi đâu việc ý thức về sự hiện diện của Chúa là điều cần thiết trước tiên và thường là khó khăn nhất. Có thế, chúng ta mới cảm nghiệm được mình ở với Chúa. Điều thứ hai là sự thinh lặng cần thiết. Nếu chúng ta muốn nói chuyện với ai đó, buổi trò chuyện có thân mật và sâu sắc hay không còn tùy thuộc vào sự lắng nghe. Có thinh lặng chúng ta mới nghe được Chúa nói với chúng ta.
Sức mạnh của chúng ta là nghỉ ngơi trong Chúa. Trong sự thinh lặng và cậy trông! Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng trong việc dành thời gian thinh lặng trong đời sống của Chúa Giêsu. Người thức dậy rất sớm và đi vào nơi thanh vắng một mình cầu nguyện (x. Mc 1,35). Người cần thời gian tĩnh nguyện với Thiên Chúa Cha. Đương nhiên, chúng ta cần thời gian đó! Chúng ta không cần phải lấp đầy thời gian biểu của mình với hàng trăm hoạt động làm cho chúng ta bận rộn. Chỉ trong thinh lặng và ở với Chúa chúng ta mới tìm được sức mạnh trong các hoạt động của mình.
Thánh Phêrô Eymard được đề nghị nghỉ ngơi trong Chúa sau khi hiệp lễ. Và ngài cảnh báo chúng ta về nguy cơ khi kết thúc Thánh lễ với những lời mà chúng ta biết bằng trái tim. Ngài nói rằng, sau khi rước Mình và Máu Chúa Kitô, tốt nhất là thinh lặng trong chốc lát để lấy thêm sức mạnh và nhất là để cho Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sự im lặng của tâm hồn chúng ta. Đôi khi, thay vì nói với Chúa về các kế hoạch của chúng ta, tốt hơn là để Chúa dạy chúng ta và ban cho chúng ta lòng can đảm.
Trong việc tông đồ chúng ta cũng cần phải có những thời gian nghỉ ngơi, hãy tạm quên đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, để chuyện vãn với Chúa nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả! Với công việc tông đồ chồng chất nhiều khi chúng ta quên mất việc nghỉ ngơi lấy sức. Cần thinh lặng để thẩm định lại những biến cố và rà soát lại những công việc đã làm cùng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Nên nhớ rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về trời, con đường vừa hẹp vừa dốc nếu không nghỉ ngơi lấy sức thì không thể đến đích.
Đời sống con người luôn có hai nhịp: lao động và nghỉ ngơi. Lao động chính là phúc lành cho chúng ta, giữa bộn bề cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải làm việc, chăm sóc gia đình… Nhưng đôi khi chúng ta quá mải mê lao động mà quên đi phần tâm hồn thiêng liêng mà Chúa trao tặng cho mỗi người, rồi dần dần chúng ta sẽ rời xa Chúa, hình ảnh của Chúa trong tâm hôn chúng ta sẽ phai nhạt dần đi. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Như khí trời cần cho con người, người Kitô hữu cũng cần phải cầu nguyện.
Vì vậy, chúng ta phải lao động và nghỉ ngơi bên Chúa. Nghỉ ngơi bên Chúa để Ngài bồi dưỡng, tăng cường sức lực tinh thần, cũng như để cảm nếm sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, và nhờ vậy, việc lao động của chúng ta được đổi mới và tràn đầy sáng tạo.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, tin tưởng phó thác vào Chúa. Amen.
9. Tình mục tử ấp ủ đoàn chiên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tự ví mình là “mục tử, người chăn chiên” và dân Israel được Chúa chọn là đoàn chiên của Chúa: “Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta …Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ…” (Gr 23, 3). Đến lượt Chúa Giêsu, khi thấy dân chúng bơ vơ tất tưởi, Người động lòng trắc ẩn ví họ như: “Đàn chiên không người chăn dắt” (Mc 6, 34). Người cũng tự nhận mình là “Người chăn chiên”.
Hình ảnh người mục tử với đoàn chiên thật tuyệt đẹp, dễ thương và đầy cảm động, diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Ngài như “Mục tử” với “đoàn chiên”.
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với hình ảnh người chăn chiên dịu dàng và trìu mến, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đoàn của chúng để chia sẻ cùng một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân: “Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số” (Gr 23, 3). Vì muốn trao ban nên một khi đã trao ban thì Chúa bảo vệ giữ gìn. Các mục tử được Chúa trao cho chăn dắt đàn chiên Chúa không cẩn thận, Chúa nổi giận đòi lại chiên: “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé chiên Ta… Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta…Ta sẽ xét xử những hành động gian ác của các ngươi. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng” (Gr 23, 1-4). Chúa chăm sóc chiên của Chúa như thế nào? Những cảm nghiệm của con chiên dẫn chứng sự chăm sóc của chủ chiên: “Trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng” (Tv 22, 1-3). Ðiều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn chúng ta không những sống mà còn sống dồi dào, Ngài muốn hướng dẫn chúng ta tới các đồng cỏ tốt tươi, nơi chúng ta có thể được nghỉ ngơi bồi dưỡng, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất hay bị diệt vọng, nhưng muốn con người đạt tới cùng đích là sống viên mãn tràn đầy. Ðó là điều mà bất cứ người mục tử nào cũng mong muốn cho đoàn chiên.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như Mục Tử của đoàn chiên lạc nhà Israel. Cái nhìn của Chúa trên đám đông dân chúng là cái nhìn “mục tử” đầy tình thương. Thánh Marcô viết: “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,34). Chúa Giêsu nhập thể dưới hình hài Thiên Chúa Mục Tử với kiểu giảng dậy của Người và các việc Người làm, bằng cách chữa lành các người đau yếu và tội lỗi, săn sóc những người ốm đau tật bệnh, để dẫn đưa họ đến bến bình an trong tình xót thương vô bờ của Thiên Chúa là Cha.
Vì kẻ dữ luôn tìm cách phá hỏng công trình của Thiên Chúa, bằng cách gieo vãi chia rẽ trong trái tim con người, giữa thân xác với linh hồn, giữa con người với Thiên Chúa, trong các tương quan liên bản vị, xã hội, quốc tế và cả giữa con người và thụ tạo. Kẻ dữ gieo rắc chiến tranh; Thiên chúa tạo dựng hòa bình. Hơn thế nữa, như thánh Phaolô khẳng định: “Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người” (Ep 2,14). Ðể chu toàn công trình hòa giải triệt để ấy, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, đã phải trở thành Chiên Con, “Chiên Con Thiên Chúa… gánh tội trần gian” (Ga 1,29). Chỉ như thế Người đã có thể thực hiện lời hứa tuyệt diệu của Thánh Vịnh: “Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài” (Tv 23, 6).
Người mục tử dẫn dắt đoàn chiên không đành lòng đuổi chiên nhưng đưa chiên tới đồng cỏ xanh tươi, tới suối nước trong lành. Tập hợp chiên lại xung quanh mình: “Mục tử tốt lành thí mạng vì đoàn chiên” (Ga 10, 11). Người vừa là Mục tử và vừa là Cửa chuồng chiên (Ga 10, 7) “Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí” (Eph 2 18). Nhờ Người mà chúng ta đi vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu thí mạng vì người mình yêu”. “Thiên Chúa là tình yêu” Ngài đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (x. Ga 3, 16), không ngần ngại trao ban sự sống mình (x. Eph 2, 14)
Những lời trên thật cảm động và đầy an ủi biết bao cho nhân loại hôm nay, vì nó đáp ứng khát vọng sâu thẳm của con người: đó là sống, sống viên mãn, sống vui và sống đời đời! Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô, Nữ Vương Bình An, Đấng luôn sống trong đồng cỏ Trời Cao, nơi Chiên Con Mục Tử hằng chăn dắt, cầu cho chúng con! Amen.
Bấy giờ các môn đệ đi rao giảng trở về. Các ông có nhiều chuyện để kể lại cho Chúa Giêsu nghe, nhưng các ông không làm được, bởi vì đám đông dân chúng cứ đòi Ngài phải nói với họ hay thực hiện một việc làm kỳ diệu nào đó, cho họ được thoả lòng. Chúa Giêsu muốn các ông rút vào một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng dân chúng vẫn đi theo, đến độ các ông không có giờ để mà ăn và rồi giờ thì đã muộn, quanh cảnh lại hoang vắng, nên bắt buộc các ông phải nghĩ đến chuyện họ đói phải cho ăn. Chính trong bối cảnh ấy đã diễn ra phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Điểm nổi bật trong thái độ của Chúa Giêsu đó là lòng ân cần. Chúa Giêsu xuất hiện như một người đang chăm lo cho những kẻ chung quanh. Chúng ta đã quá quen với những điều mà thiên hạ vốn thường lặp đi lặp lại rằng: Người Kitô hữu phải lắng nghe người khác, phải lưu tâm tới các tiếng gọi. Thế nhưng thiết tưởng, chúng ta nên làm trẻ lại cách nhìn của chúng ta và hãy xem cách Chúa Giêsu đón tiếp các môn đệ khi các ông trở về. Cũng như hãy xem Chúa Giêsu đối diện với đám đông đang háo hức tìm gặp Ngài và Ngài đã động lòng thương xót họ vì họ bơ vơ lạc lõng như đàn chiên không người chăn. Và đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý: Đoàn chiên thiếu người chăn. Một đám đông, đang đói lời giảng dạy, đang khát sự hấp dẫn.
Thực vậy trải dài suốt hai mươi thế kỷ, lời cảnh giác của Chúa vẫn còn là một sự khẩn cấp: lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ sai thợ đến gặt lúa của mình. Biết bao nhiêu người trên thế giới, khát khao tìm gặp Chúa, nhưng lại không có ai hướng dẫn cho họ. Biết bao nhiêu người còn ngồi trong bóng tối, nhưng lại không có ai soi chiếu cho họ. Biết bao nhiêu đàn chiên không có người chăn, nên phải bơ vơ lạc lõng.
Thế nhưng trước một hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì? Đó mới là điều quan trọng. Bởi vì như danh ngôn Tây phương cũng đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta có thể trở thành một tay thợ trên cánh đồng của Chúa, một ngọn đèn le lói trong đêm tối, một kẻ tiếp giúp cho việc hướng dẫn đoàn chiên.
Thiên Chúa đã dùng tiên tri Giêrêmia để quở trách và kết án những người lãnh đạo dân Chúa. Họ chẳng lo lắng đến dân chúng lại còn làm cho dân chúng phải điêu đứng và phân tán. Tuy nhiên Thiên Chúa đã mở ra cho thấy một viễn tượng tươi sáng. Mầm công chính xuất phát từ dòng Đavít, sẽ làm vua thống trị, sẽ thực thi hoà bình và công lý. Đó chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành mà tiên tri Giêrêmia đã diễn tả. Ngài thương dân vì họ bơ vơ không có chủ chăn và ngài băt đầu dạy họ nhiều điều. Ngài như đồng cỏ non và như dòng suối mát để xoa dịu cơn đói khát của con người. Thế giới ngày nay tràn ngập ngôn từ, đầy dẫy những lời lẽ tuyên truyền và quảng cáo, thì liệu còn chỗ nào dành cho lời Chúa hay không. Nếu con người nghe theo tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài thì ngày kia, chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Chúa Giêsu không phải là kẻ chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc. Trái lại Ngài chăm sóc cho từng con chiên một, băng bó những con bị thương, và vác lên vai con bị đau yếu. Ngài dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, và tới dòng suối mát. Ngài dám thí mạng sống để bảo vệ đoàn chiên, và cuối cùng, Ngài đã trở nên của ăn nuôi sống cho đoàn chiên.
Tiếp đến Chúa Giêsu còn là vị mục tử hoà giải. Tội lỗi đem lại sự phân cách với Thiên Chúa, sự bất hoà với nhau và sự hỗn loạn trong xã hội. Như lời sách Sáng Thế Ký đã nói: Vì ngươi bất tuân nên đất đai sẽ nguyền rủa ngươi. Người mục tử đích thực của đoàn chiên sẽ tiêu diệt tội lỗi, xoá bỏ đi sự ngăn cách giữa trời và đất, sự thù hận giữa người với người. Bằng thập giá, Ngài đã thực hiện được mục đích đó, đồng thời tụ họp chúng ta lại với nhau. Đôi tay Ngài dang rộng như muốn ôm trọn cả nhân loại như lời thánh Phaolô: Chúng ta trở nên gần gũi nhau nhờ máu Đức Kitô. Cây thập giá gồm hai nét. Nét dọc nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Còn nét ngang nối kết chúng ta lại với nhau.
Sau cùng Chúa Giêsu là mục tử an bình. Ngài đã thực hiện lời tiên tri Giêrêmia, tách biệt khỏi những kẻ chăn thuê vì lợi lộc để chứng thực mình là mục tử nhân lành. Ngài xua đuổi chó sói, và những kẻ cướp bóc. Ngài dạy dỗ và cứu vớt những con chiên lạc, dẫn đưa đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi. Đi bên Ngài chúng ta không còn sợ hãi chi, và không lo thiếu thốn thứ gì cả. Ngài chính là sự sáng. Đi theo Ngài chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Hai sự kiện lịch sử lớn nhất thế kỷ hai mươi là:
Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức tường ô nhục Berlin trước lễ Giáng Sinh năm 1989, đã chấm dứt 28 năm chia đôi nước Đức và chiến tranh lạnh thế giới giữa hai phe hận thù tư bản và cộng sản, mở ra một kỷ nguyên mới hòa bình và tin tưởng lẫn nhau. Thế giới hy vọng có những chủ chiên nhân lành, thương dân, xây dựng một thế giới đoàn kết, phát triển.
Việc thứ hai là dân tộc Israel và Palestin đã hạ súng xuống, sau hơn 30 năm chém giết nhau. Giữa tháng 7 năm 1994, ông Arafát chủ tịch Palestin đã về nước và tuyên bố: “Palestin và Israel cùng một tổ tiên”. Họ không còn những chủ chiên giả dẫn dắt vào con đường lầm lạc, hận thù, cuồng tín, tan nát. Họ đã được giải thoát khỏi những kẻ mù dắt mù xuống hố.
Người ta đã kể đến những vĩ nhân có công trực tiếp chấm dứt thời kỳ làm tán loạn thế giới là: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, ông Walesa: chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Balan, ông Gorbachov: tổng bí thư Liên bang Xô viết và ông Reagan: tổng thống Mỹ. Thực ra, họ chỉ là những sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô mới là người phá bức tường chia rẽ hận thù giữa loài người với Thiên Chúa, giữa dân tộc với dân tộc, giữa cá nhân với cá nhân.
Thánh Phaolô đã nói rõ vai trò đó của Đức Giêsu Kitô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: “Trước kia anh em là những kẻ ở xa đối với Thiên Chúa, thì nay trong Đức Kitô, anh em đã trở nên những người ở gần … Chính Người đã liên kết dân Do thái và dân ngoại thành một. Người đã hiến thân để phá đổ bức tường ngăn cách là hận thù. Như vậy, nơi bản thân, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới và thiết lập hòa bình. Nhờ thập giá, Người đã quy tụ đôi bên trong một thân thể duy nhất, và cho họ được giao hòa với Thiên Chúa”. Tin mừng hôm nay cho thấy tấm lòng của Chúa Giêsu thương mến đám đông dân chúng biết bao: “Đến nỗi dầu mỏi mệt, đói khát đến đâu Người vẫn sẵn sàng tiếp đón họ, dạy dỗ và cứu chữa họ, không để họ bơ vơ thất vọng”. Thiếu vắng Người, họ như đàn chiên không người chăn dắt. Dân Do thái và dân ngoại thời đó, giống như bầy chiên bơ vơ, lạc lõng. Đất nước bị quân La mã đô hộ. Vua quan như Hêrôđê chỉ là tay sai đế quốc bóc lột dã man. Hêrôđê có nhiều con, nhưng chính tay ông đã giết hết, chỉ còn bốn hoàng tử. Dân chúng hơi bị nghi ngờ là bắt giết. Một hôm vua giả dạng thường dân đến làng quê, gặp ông già, vua hỏi: “Ông nghĩ về vua thế nào?”. Ông đáp: “Chim trời cũng là tình báo cho vua, còn ai dám nói điều gì” (Lm. Bửu Dưỡng, Ngôn hành dưới đất, 1965. tr. 37).
Đời đã bị xiết chặt, đạo cũng bị phân tán trăm bè bảy mối: phái Sađốc lo ăn chơi bám gót đế quốc; phái tư tế lo giữ địa vị, sợ đế quốc cách chức, dẹp bỏ; phái Pharisiêu bày đặt ra những luật tỉ mỉ, kiêng cữ bên ngoài để gò ép dân chúng sống khắt khe. Mỗi bè phái lôi kéo dân chúng theo mình. Dân chúng không còn biết chủ chăn nào chân chính, chủ chăn nào của Thiên Chúa. Đúng như lời Chúa phán trong bài đọc một: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”.
Giờ đây, Đức Giêsu đến để cho họ nhận ra Người là chủ chăn của Thiên Chúa. Người nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống mình cho chiên … cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi … Tôi là cửa cho chiên ra vào, ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu”.
Đức Giêsu còn dạy cho dân chúng biết kẻ chăn giả, không qua cửa mà vào, chúng chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy … chúng không thiết gì đến chiên. Khi sói đến, chúng bỏ chiên mà chạy, để mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn (Ga. 10, 1-14).
Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu đang thực thi sứ vụ mục tử nhân lành, luôn luôn chỉ dẫn cho nhân dân thế giới biết những kẻ chăn chiên giả. Họ là trộm cướp, tham nhũng, bóc lột, đàn áp chiên để chiếm tài sản, danh vọng, chức quyền. Họ sống giàu sang phú quý, xa hoa như những ông hoàng bà chúa thời phong kiến độc tài. Dân chúng sống nghèo khổ, lại phải đóng góp thuế má mọi mặt, phải hạn chế sinh sản, lại tự do sống đồi trụy và phá thai. Dân chúng không còn chủ chăn chân chính mà chỉ có trộm cướp.
Trung tuần tháng 8 năm 1997, một mục tử nhân lành, dầu đã 77 tuổi, sức yếu, chân chồn, vẫn đến Paris, thủ đô nước Pháp, gặp gỡ, yêu mến, săn sóc và khuyến khích hàng triệu con chiên giới trẻ bơ vơ, biết mạnh mẽ sống yêu thương, đoàn kết, tin tưởng gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô, Chúa chiên nhân lành, trẻ trung, đã hy sinh cho họ được sống và sống dồi dào. Ngày nay, còn được bao nhiêu mục tử nhân lành như vậy? Còn được bao nhiêu linh mục, thày dạy, cha mẹ biết thấy con chiên đông đảo bơ vơ thì chạnh lòng thương để hy sinh phục vụ con chiên như Chúa chiên lành Giêsu xưa?
Lạy Chúa Giêsu, Người đã lăn xả xuống trần gian, đi tìm đàn chiên tản lạc và soi sáng dạy dỗ họ bằng lời hằng sống, cứu chữa hồn xác họ được lành mạnh, tin tưởng. Họ được no thỏa nằm nghỉ ngơi trong đồng cỏ tình yêu xanh tươi êm ái của Người. Còn bao nhiêu tâm hồn bơ vơ thất bại trên thế giới hoang dã này, xin Chúa cho họ được thấy đường Người đi mà chạy đến gặp gỡ Người để được sống và sống dồi dào.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Tôi đã từng đọc Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ. Đó là cuốn sách nhỏ, ghi lại 50 lời cầu nguyện của nhiều người. Mỗi lời nguyện đều chất chứa nỗi lòng, tình yêu, sự tha thiết của những con người thích chìm trong cầu nguyện.
Chẳng hạn, lời cầu nguyện số 4 gây trong tôi nhiều cảm động và ấn tượng. Đó là lời cầu nguyện bộc lộ lòng yêu mến Chúa lớn lao, lòng yêu mến chất chứa đầy nghị lực. Tác giả của lời cầu nguyện ấy là bà Vérônique, một phụ nữ Pháp sống ở Cameroun. Tính đến năm 1979, bà đã 58 tuổi, nhưng phải sống và làm bạn với căn bệnh cùi đến 55 năm, và 20 năm đui mù. Lời cầu nguyện của bà như sau:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con. Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay. Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con, thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa, chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa. Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn… Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa, cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh cùi tâm hồn…”
Và còn nữa…, còn nữa những lời tâm sự với Thiên Chúa của một con người bị coi là bất hạnh tột cùng, bị coi là tàn tạ không còn gì để đáng sống. Ấy vậy mà từ trong nội tâm của bà Vérônique, lại tỏ lộ một sức mạnh lớn lao của sự sống, một tình yêu và lòng tín thác dũng mãnh, mà không phải bất cứ một người bình thường nào cũng có thể có được, đừng nói chi đến một người tàn tật như bà. Bà Vérônique đã cầu nguyện, một lời cầu nguyện cho thấy một lòng mến Chúa mạnh đến nỗi không một bất hạnh nào có thể làm lung lay.
Hôm nay, đọc lại đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 thường niên này, tôi cảm thấy cần phả tự nhủ với chính mình rằng: Hãy tin Chúa giống như bà Vérônique, và cũng hãy yêu Chúa như bà.
Bài Tin Mừng này tiếp nối bài Tin Mừng tuần trước. Tuần trước, thánh Marcô cho biết Chúa sai các tông đồ ra đi giảng đạo cho dân chúng. Tuần này, thánh Marcô cho biết các tông đồ trở về phúc trình lại những gì mình đã làm. Thánh Marcô viết: “Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy”. Nếu các tông đồ tụ về bên Chúa báo cáo lại cả một cuộc hành trình truyền giáo mà các ngài đã thực hiện, thì chúng ta cũng thế. Tất cả mọi người không trừ ai, không chỉ là hành trình truyền giáo của từng người mà thôi, tất cả đều có lúc phải ra trước tòa Chúa để báo cáo về chính cuộc đời của mình.
Nếu trong hành trình truyền giáo của mình, các tông đồ đã làm được nhiều việc, đã giảng dạy nhiều điều, cuộc đời của mỗi người cũng là một hành trình dài. Không biết khi đến tòa phán xét, chúng ta sẽ mang gì để phúc trình? Có phải đã làm được nhiều điều như các tông đồ hay không? Điều ta phúc trình có phải là lòng yêu mến Chúa, hay lúc đó phơi bày cả một lối sống trong đời toàn là nhữ bê tha, vô trách nhiệm? Không! Bạn và tôi đừng như thế. Ta là người Công giáo, đời sống của ta phải là một cuộc đời được ấp ủ trong tình yêu và trao ban tình yêu.
Bà Vérônique suốt đời không làm được chuyện gì hết, làm sao bà làm được cái gì khi mà những ngón tay co quắp như que củi, đôi chân cũng không còn, đôi mắt cũng chẳng nhìn thấy, cái đầu cũng nhẵn nhụi, không có lấy một sợi tóc. Đúng, bà không làm được cái gì hết, trừ một điều rất quý giá, không có bất cứ cái gì đánh đổi được: đó chính là TÌNH YÊU! Chính vì trao hết tình cho Chúa, yêu hết mình với Chúa, bà đã có thật nhiều điều để kể cho Chúa nghe. Chính vì yêu mến Chúa, bà lấy làm hạnh phúc khi chấp nhận tất cả nỗi bất hạnh lớn lao trên thân xác mình.
Cũng thế, bạn và tôi hãy yêu mến Chúa để cảm nhận hạnh phúc trong cuộc đời. Có yêu, ta mới đủ can đảm, đủ nghị lực chấp nhận mọi nghịch cảnh. Mỗi một ngày sống, nhờ lòng yêu mến Chúa, ta sẽ nhận ra đó chính là một chuỗi ơn lành Thiên Chúa tặng ban. Chính vì tình yêu, ta sẽ dâng lên Chúa nỗi lo âu, vất vả, mồ hôi và nước mắt. Tình yêu mến Chúa sẽ dạy ta biết phó thác khi thương đau và biết cảm tạ khi hạnh phúc. Chỉ có tình yêu, ta mới thấy Chúa thuộc về ta và ta thuộc về Chúa. Chỉ có tình yêu mời giúp ta có thật nhiều cái hay, cái tốt để phúc trình cho Chúa nghe.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Hôm nay, Chúa nhật XVI thường niên, bài Tìn Mừng (Mc 6, 30-34) có nội dung liên tục với bài Tin Mừng tuần trước (Mc 6, 7-13). Tuần trước, Chúa sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thực thi mệnh lệnh của Chúa, “các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
Tuần này, sau thời gian thi hành sứ mạng trở về, các tông đồ rất phấn khởi vì đạt nhiều thành công rực rỡ. Những thành công ấy cũng rất lạ thường, nó vượt xa khả năng tự nhiên của các tông đồ: có thể trừ quỷ và chữa lành nhiều bệnh. Các tông đồ vui mừng tụ họp bên Chúa, kể cho Chúa nghe “mọi việc các ông đã làm, mọi điều các ông đã dạy”.
Một mặt đón nhận thành quả đầy an ủi đối với các tông đồ, nhưng mặt khác Chúa Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Người nhẹ nhàng kéo các tông đồ rời khỏi “cơn say” bởi “men chiến thắng”: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Bởi Người biết, con đường trước mắt mà thầy trò phải dấn bước không phải là con đường bằng phẳng, sẽ không ít gập ghềnh. Đó là một con đường dài, đầy gian nan, thử thách. Sứ mạng hôm nay dù thành công, nhưng chưa kết thúc, đúng hơn, chỉ mới mở ra. Đường còn dài đã vậy, sức lại chỉ có giới hạn. Vì thế, chưa cho phép mọi người có quyền ngủ vùi trong những thành công đầu đời tông đồ này. Thành công đầu đời chưa phải là tất cả của sự thành công.
Ngoài việc kéo các tông đồ ra khỏi cơn “say men chiến thắng”, lời động viên của Chúa: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”, còn cho thấy sự quan sát rất thực tế của Chúa Giêsu. Chính lúc này đây, các học trò của Chúa cần phải được nghỉ ngơi dưỡng sức. Bởi họ đã lăn xả nhiều cho công việc. Sức lực thể lý của họ đã bị hao mòn vì đám đông, vì cảnh ồn ào, huyên náo. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, lúc này phải là một bầu không gian cô tịch, mới có thể giúp các tông đồ tỉnh táo kiểm chứng nội tâm của mình và bồi bổ dưỡng sức.
Thánh Kinh nhiều lần nhắc đến sự liên hệ cần thiết giữa nơi hoang vu, vắng vẻ liên quan tới ơn gọi, sứ mạng và đời sống của nhiều người. Chẳng hạn, Dân của Chúa sau khi được giải thoát khỏi cảnh nô lệ Aicập đã vào hoang địa để được thanh luyện lòng trung thành của mình suốt bốn mươi năm. Ông Môisen và ông Êlia đi vào nơi hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 3, 1; 1V 17,3). Thánh Gioan Baotixita vào hoang địa để nhận lãnh ơn Chúa và thanh tẩy tâm hồn mình hoàn toàn hướng về Chúa trước khi rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối (Mt 3, 1tt). Chính Chúa Giêsu, khi bắt đầu sứ vụ công khai, khi tuyển chọn các tông đồ, khi bước vào cuộc tử nạn, và rất nhiều lần trong những năm công khai rao giảng Tin Mừng, đã vào nơi thanh vắng cầu nguyện…
Cũng vậy, sự thanh vắng rất cần cho cuộc đời của mỗi người chúng ta. Thế giới ta đang sống cùng, đang đồng hành với nó, cũng đồng nghĩa với việc ta đang ngụp lặn trong đại dương vô bờ của tiếng ồn. Bởi thế giới đang diễn ra không biết bao nhiêu tiếng ồn.
Ồn từ trong cuộc sống tinh thần đến ồn trong cuộc sống vật chất. Ồn từ nội tâm con người đến ồn trong mọi cách mà con người thể hiện. Ồn từ chợ búa đến ồn tận miền quê. Ồn từ trong những thinh lặng đến ồn trong từng tiếng nói, tiếng cười. Ồn trong những nếp nghĩ của người giàu có đến ồn trong sự chạy đôn, chạy đáo của người thiếu thốn. Ồn từ nét hồn nhiên, tinh nghịch của đám trẻ thơ đến ồn trong vô vàn những tất bậc của thế giới người lớn. Ồn trong niềm mừng vui của người hạnh phúc đến ồn trong đau khổ của người bất hạnh. Ồn trong tình yêu đến ồn trong sự thù hằn, ganh ghét nhau. Ồn trong những vỡ kịch công phu trên sân khấu đến ồn trong những màn kịch, dù chỉ là kịch câm, nhưng được dàn dựng hoàn hảo, đủ sức “đâm” lén đối thủ. Ồn trong cả cái mà người ta gọi là văn minh, văn hóa hay kém văn minh, văn hóa. Ồn trong mọi ngóc ngách, mọi khía cạnh, mọi giao tế, mọi nhịp sống…
Giữa một cánh rừng rậm của tiếng ồn như thế, những khoảng lặn trong cuộc đời của mỗi một người là điều hết sức quan trọng. Những khoảng lặng ấy rất cần để ta tự đối thoại với mình, tự nhận diện, khám phá chính mình trong từng hoàn cảnh, từng hướng đi của đời mình. Nếu ta sống mà lại thiếu những phút giây suy tư và lặng ngắm chính nội tâm, nhằm phản tĩnh, và kiểm tra chính mình, ta sẽ dễ đánh mất mình, dễ bị lôi cuốn vào những trào lưu, những nhộn nhịp, những thu hút giả tạo bên ngoài… cách thiếu suy nghĩ nền tảng, thiếu hẳng bóng dáng cá nhân mình…
Đành rằng cần phải loại trừ chủ nghĩa cá nhân theo kiểu áp đặt, thiên kiến, lèo lái tha nhân, lèo lái hoàn cảnh theo ý riêng mình. Nhưng bóng dáng cá nhân, bao gồm tình yêu, sức sáng tạo, nét riêng làm nên sự phong phú… là điều không thể thiếu. Vì thế, nếu tự để mình vong thân, ta trở thành tội phạm, kẻ đã ăn cắp chính cuộc đời mình làm cho mình không còn là mình nữa. Biết sống thinh lặng và quay về với cõi lòng để tự nhận ra nơi mình cái gì đã tốt mà phát huy hơn, cái gì còn khuyết mà chỉnh đốn. Thinh lặng như thế, chính là sức mạnh đáng quý của một tinh thần cá nhân, để từ đó, sẽ ra đi và sống như mình là mình giữa một thế giới quá nghèo nàn về sự thinh lặng.
Nếu những khoảng thời gian thanh vắng hoàn toàn là điều kiện cần cho đời sống con người, thì sự thanh vắng càng cần thiết hơn, càng quan trọng hơn cho đời người Kitô hữu.
Trong nghĩa vụ sống đức tin, nghĩa vụ thờ phượng Chúa, người Kitô hữu cần phải in vào tâm khảm mình lời của Chúa Giêsu: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” để luôn luôn tự nhắc nhở mình về những khoảng thinh lặng cần thiết. Những khoảng thinh lặng cần thiết đó, có thể là một chút thôi, có thể là năm phút, mưới phút, hay nhiều hơn tuỳ sự luyện tập dài lâu của bản thân.
Dù dài hay ngắn, chỉ một chút lặng lẽ, người tín hữu đã có thể lắng chìm trong Chúa, đã có thể đặt mình vào vòng tay của Chúa, đã có thể nhờ ánh sáng tình yêu của Chúa soi rọi mọi ngóc ngách của linh hồn, để nghe tiếng Chúa nói, để tự kiểm điểm mình, để bổ sung năng lực của lòng đạo đức có thể đã hao mòn vì những bon chen đời thường, nhờ đó người tín hữu tự thánh hóa mình và dễ dàng đón nhận ơn thánh hóa của Chúa.
Chúng ta hãy nhớ rằng, chỉ có sự thanh vắng thật sự mới có thể tạo được sự nhịp nhàng giữa nghĩa vụ tôn thờ Chúa, nghĩa vụ sống đức tin và những vất vả lao nhọc của đời thường nơi sự sống một người Kitô hữu. Bởi sự sống của người Kitô hữu là một hành trình liên tục đi từ sự hiện diện của con người vào sự hiện diện của Thiên Chúa, rồi lại bước ra, đi từ sự hiện diện của Thiên Chúa vào sự hiện diện của con người. Có thể ví hai sự hiện diện này như sự nhịp nhàng của giấc ngủ và làm việc. Ta không thể làm việc được, trừ khi ta đã có thời gian nghỉ ngơi. Giấc ngủ sẽ hoàn trả lại cho ta một con người tỉnh táo, khỏe mạnh nhờ đó ta tiếp tục làm việc. Cũng vậy, không ai có thể sống đời Kitô hữu hoàn hảo, trừ khi người đó đã dành thời gian cầu nguyện và sống kết hợp với Chúa.
Bởi vậy, chúng ta hãy đi tìm Chúa như đám đông ngày xưa đã đi tìm Chúa. Mặc dù Chúa bảo các tông đồ “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Rồi tất cả cùng xuống thuyền vào nơi thanh vắng. Nhưng đám đông đã không để Chúa yên. Họ tìm đến Chúa. Chúa đáp lại lòng mong mỏi của họ. “Chúa chạnh lòng thương” họ, vì cảm nhận bằng một cái nhìn hết sức yêu thương, trìu mến: Họ bơ vơ “như bầy chiên không người chăn dắt”.
Ngày hôm nay, bắt chước đám đông đi tìm Chúa, ta bước vào cõi thinh lặng của lòng mình để gặp gỡ Chúa, để được Chúa yêu thương trìu mến. Ta phải gặp gỡ Người, vì chỉ có ở trong Người, ta mới có thể hiểu một cách thấu đáo ý nghĩa cuộc sống và tìm ra nơi cuộc sống ấy lẽ sống cho đời ta. Bởi đời người đâu chỉ có làm lụng, đâu chỉ có vui buồn, đâu chỉ có cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí…
Điều đáng buồn nhất, đau đớn nhất là những cái chết của những kẻ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Họ không hiểu được tại sao tôi phải sống? Sống để làm gì? tại sao phải đau khổ? Tại sao sống để rồi đi qua không biết bao nhiêu cái nhiêu khê của cuộc đời đến đích cuối cùng là sự chết phủ phàn đang chờ đợi?
Nói cách khác, sự nghèo đói, sự đau khổ chưa phải là động lực cuối cùng giục người ta liều mạng, tìm về cái chết cho bằng người ta chỉ sống trong cô quạnh vì dốt nát trước giá trị của sự sống. Họ chỉ thấy cuộc đời là phi lý, vô nghĩa, không đáng sống…
Chúa Kitô chính là Nguồn Sống duy nhất của đời người. Trong sự thanh vắng hoàn toàn của tâm hồn, tìm về bên Chúa, ta không chỉ nhận ra ý nghĩa của sự sống đời mình, mà còn múc lấy sức mạnh của sự sống đích thực từ Nguồn Sống quý giá này.
Nơi Nguồn Sống Kitô, ta biết rõ đích điểm của đời mình là chính Người. Người sẽ chỉ cho ta đường đi đến đích. Con đường đó là chính những hy sinh, chấp nhận của cõi đời này. Nơi Chúa Kitô, chính mẫu gương sống và Lời của Người sẽ soi rọi lên sự sống và lên cuộc đời ta. Bởi vậy, hãy để cho Chúa có cơ hội đi vào lòng ta bằng đời sống thanh vắng và cầu nguyện. Để như đám đông ngày xưa đi theo Chúa, một khi để Chúa ở lại nơi lòng mình, ta cũng sẽ được Chúa chỉ bảo cho ta như đã từng “giảng dạy họ nhiều điều”.
Lạy Chúa, đời nội tâm là chìa khóa của hạnh phúc, vì đời nội tâm mở cửa cho con được đi vào và đắm chìm trong hạnh phúc là chính Chúa. Xin cho con biết tìm những khoảng thời gian thanh vắng để được gặp Chúa, từ đó con sẽ gặp chính con người thật của con. Nhờ gặp Chúa và nhận diện chính mình, thì khi phải đối mặt cùng tiếng ồn của cuộc đời, cùng những sôi nổi của thành công, hoặc những ê chề của thất bại, con sẽ không đánh mất chính mình trong thế giới của tiếng ồn, nhưng có khả năng thánh hóa bản thân và thánh hóa chúng. Amen.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
“Nghỉ ngơi một chút”
Sau khi được sai đi, và ra đi, các tông đồ trở về thuật lại cho Chúa nghe về những thành quả và niềm vui đạt được. Các ông tưởng là Chúa Giêsu sẽ một câu khích lệ cho khoái chí, thì Ngài lại bảo: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”.
“Nghỉ ngơi một chút”. Thiết tưởng đây là cách khích lệ đầy ưu ái của Chúa Giêsu dành cho các tông đồ. Ngài mời gọi các tông đồ hãy tìm một trạng thái “tĩnh” sau một thời gian “động”. Tình trạng “tĩnh” ấy là
– Thoát ra khỏi cái ồn ào của thành công
– Không bị cuốn vào sức hút của thành công
– Không nối dài kế hoạch nào nữa, mà là buông bỏ tất cả để nghỉ ngơi
Trạng thái tĩnh này có thể gọi được là một sự nghỉ ngơi an bình trong Chúa, nơi ấy, không còn chút bận tâm, ưu phiền và không còn cả niềm hãnh diện thường tình của những người thành đạt. Đôi khi chúng ta lầm tưởng rằng nỗi buồn của thất bại làm chúng ta mất bình an và niềm vui của sự thành công mang lại cho chúng ta hạnh phúc. Nhưng thật ra, cả hai, niềm vui và nỗi buồn theo tính loài người ấy đều phản ảnh một trạng thái tự ti hay tự mãn do cái tôi của lòng kiêu ngạo.
Việc cần làm ngay
Tôi không dám nghĩ là may mắn nhưng “tạ ơn Chúa cho còn sống” sau lần nhồi máu cơ tim tháng 9 năm 2010. Những ngày nằm ở bệnh viện, có một bác sĩ khuyên tôi: “Có một việc cần làm ngay là không làm gì cả”. Tôi mới hiểu ra: “không làm gì cả” cũng là một việc cần thiết và cấp bách trong đời hiểu theo nghĩa: “nghỉ ngơi một chút”
Nếu về mặt thể lý, trạng thái tĩnh giúp phục hồi sức khỏe, thì về mặt thiêng liêng, việc nghỉ ngơi một chút, để lòng không xao động bởi buồn hay vui, thất bại hay thành công, vừa nói lên niềm tín thác cậy trông, vừa là niềm bình an trong Chúa và đem lại cho chúng ta nguồn sinh lực dồi dào hơn.
Quả vậy, là người yêu mến Chúa và thi hành việc của Chúa, cần có những phút tĩnh hay “phút lắng cách tự nguyện trong cuộc đời, dẫu đau thương đã đầy hay niềm vui bỗng vơi. Vẫn cứ lắng vì rất rất cần phải lắng. Lắng chỉ để nghe mà không nói một lời.
Cần có những phút vắng tự nguyện trong cuộc đời, dẫu niềm thương nỗi nhớ cứ khôn nguôi. Vẫn cứ vắng vì rất cần phải vắng. Vắng để ngộ ra bên ta có một người.
Cũng cần có những phút trắng tự nguyện trong cuộc đời, dẫu vạn sắc màu vàng xanh đỏ tím đương lên ngôi. Vẫn cứ trắng vì rất cần phải trắng. Trắng để thương thân một kiếp đời.
Hẳn là trong cuộc đời, sẽ có hồi không tự nguyện lắng cũng phải lắng, không tự nguyện trống vắng cũng phải đành rất vắng, không tự nguyện trắng tay cũng đành còn tay trắng. Vậy nếu ngay hôm nay, tôi không tự nguyện tập trầm mình tĩnh tại trầm lắng trong khiêm hạ, không tự nguyện cô đơn một mình đối diện với Chúa trong phút tương giao huyền nhiệm, không buông bỏ tất cả trong thoáng tan biến cả ý thức lẫn tấm thân mình thì sẽ khó lòng mà chấp nhận chuyện gì sẽ xảy đến trong đời.
Một linh mục về hưu, một bà phước xế bóng, một giáo dân liệt lào hẳn đã cảm nghiệm được phút lắng, vắng, trắng không ước ao vẫn xảy đến. Nhưng nếu đã được chuẩn bị bằng cách “nghỉ ngơi một chút” trong Chúa từng ngày, từng phút trong đời, thì phút về hưu hay xế bóng, phút bệnh hoạn hay lâm chung vẫn là phút tuyệt vời trong cuộc tình huyền nhiệm giữa Thiên Chúa và con người. Gần nhất, cuộc sống của những người bị giam cầm, cụ thể Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn văn Thuận, cho thấy việc nghỉ ngơi một chút bằng cách tự nguyện lắng, vắng, trắng trong Chúa hằng ngày là cần thiết đến mức nào để chấp nhận được Chúa huấn luyện khi Chúa muốn.
“Nghỉ ngơi một chút” hẳn đã là kim chỉ nam cho nhiều vị thánh sống kết hiệp với Chúa, múc lấy nguồn sinh lực của Chúa, mặc lấy ý thức và ước muốn của Chúa, và thực hiện cuộc sống của mình theo thánh ý Chúa.
“Nghỉ ngơi một chút” là cần thiết, nhưng một chút là bao nhiêu thời gian? Bởi trong chúng ta cũng không thiếu cảnh một chút nghỉ ngơi mà kéo dài năm này qua năm kia.
Tin mừng cho thấy một chút nghỉ ngơi của các tông đồ được tính bằng thời gian quá ngắn trên thuyền với Chúa Giêsu thôi.
“Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều”.
Công việc của Chúa Giêsu cũng liên tục, nhưng Ngài vẫn dành những phút lắng để kết hiệp với Chúa Cha, để lắng nghe Cha, và múc lấy nguồn sinh lực nơi Cha. Nguồn sinh lực mới nơi Chúa Cha giúp Chúa Giêsu thấy “việc cần làm ngay” sau phút nghỉ ngơi ngắn ngủi: “thương đoàn chiên không người chăn” và Chúa đã bắt tay vào việc cần làm ngay mới là “dạy dỗ họ nhiều điều”.
Nguyện xin ban cho chúng con những mục tử yêu mến Chúa, sống bằng sinh lực của Chúa Giêsu và sẵn sàng thí mạng mình vì đoàn chiên Ngài.
Xin cho các tín hữu Chúa biết nghỉ ngơi một chút trong Chúa hằng ngày để được mặc lấy ý muốn, tấm lòng của Chúa mà tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”. Sự lạnh lùng con tim khiến cho tình người giá rét đến nỗi không thể thổi hơi ấm tình người cho nhau. Trái tim lạnh lùng đã khiến họ co ro trong vỏ ốc ích kỷ cá nhân mà không thể vươn ra với đồng loại. Sống giữa xã hội lạnh băng tình người, ta sẽ cảm thấy cái lạnh xuyên thấu tâm can, nó dẫn ta đến nỗi đau tột cùng của sự cô đơn.
Cái lạnh tình người ấy dường như đang bao phủ trong xã hội việt Nam hôm nay. Theo kết quả mới công bố của hãng khảo sát quốc tế Gallup, Việt Nam xếp thứ 13 trong những quốc gia vô cảm nhất thế giới. Thực hư của khảo sát không biết đúng hay sai? Nhưng càng ngày, chúng ta càng phải chứng kiến những câu chuyện đau lòng, những vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Chuyện nữ sinh đánh nhau được các bạn cổ vũ nhiệt tình; chuyện bác sĩ thờ ơ, tắc trách làm chết bệnh nhân; chuyện bảo mẫu, cha mẹ bạo hành con trẻ đến chết; chuyện những vụ án giết người man rợ… khiến người ta không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức mà biểu hiện rõ nhất là sự vô cảm của con người. Người ta lo ngại “bệnh vô cảm” đang có sức lây lan rất lớn, len lỏi khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội.
Sự vô cảm của con người dâng cao đến độ vô tâm làm hại nhau bằng đầu độc thuốc độc hại trong thực phẩm, trong trái cây. . . Dường như trong tất cả các trái cây hay rau xanh bán ở thị trường Việt Nam hôm nay đều được xịt thuốc trước hoặc sau. Đó là hành động giết người, là tội ác, là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thế nhưng, những sát thủ này vì lợi nhuận vẫn thản nhiên bơm thuốc vào thực phẩm để bán. Sư vô tâm còn man rợ đến nỗi gây nguy hiểm cho tha nhân khi chạy xe ẩu, lạng lách, đánh võng và thiếu nhường nhịn nhau trong giao thông đã gây nên hàng vạn cái chết thương tâm.
Trước một xã hội lạnh giá như vậy thì cần lắm một ngọn lửa tình người được thắp lên. Cần lắm những con người vượt lên trên lợi nhuận để sống có lương tâm, có đạo đức, có tình người. Đừng vì lợi nhuận mà đầu độc thuốc vào thực phẩm. Đừng vì vô tâm mà thấy nguy hiểm với tha nhân mà vẫn thản nhiên.
Giữa một xã hội lạnh lùng tình người thì cần lắm một đời sống chứng nhân của người ky-tô hữu. Người ky-tô hữu phải sống cho Tin mừng. Một Tin Mừng của yêu thương không tham lam của người và biết chia sẻ cơm bánh cho người nghèo khó. Một Tin mừng của tình người luôn biết chạnh lòng thương xót những khổ đau của tha nhân, và sẵn lòng cúi xuống phục vụ mà không mong đền đáp. Một Tin Mừng của công lý và hòa bình để người người biết tôn trọng nhau, tôn trọng luật pháp hầu xây dựng một thế giới hòa bình yêu thương.
Chúa Giêsu đã sống yêu thương. Tình yêu của Ngài trải rộng cho mọi người. Trái tim Ngài luôn chạnh lòng xót thương những mảnh đời khổ đau. Ngài luôn dấn thân xây dựng một thế giới công bằng bác ái. Ngài luôn đặt lợi ích tha nhân lên trên quyền lợi bản thân. Phúc âm ghi rằng Ngài và các môn đệ toan tính rời xa đám đông để nghỉ ngơi. Thế mà, đám đông vẫn theo Ngài. Ngài chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục thi ân cho họ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết trở nên giống như Chúa luôn sống bác ái yêu thương với mọi người. Xin đừng vì ích kỷ mà đóng cửa lòng với những nhu cầu khổ đau của tha nhân. Xin đừng vì tham lam mà sống thiếu công lý và tình thương làm hại người, hại đời. Amen.
17. Hãy dành thời gian cho nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có lời hát viết rằng:
“Hãy cho nhau thời gian nhé
Hãy cho nhau bình yên nhé
Để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu
Hãy vững tin người ơi đường dài còn mãi những nỗi đau
Thì vẫn tin, tương lai mình sẽ có nhau….. “
Người ta nói khi còn yêu nhau thì thời gian luôn là của nhau. Đôi trẻ yêu nhau thì họ dành toàn bộ thời gian bên nhau, nếu vì công việc thì họ vẫn luôn nghĩ tới nhau rồi tranh thủ điện thoại, nhắn tin cho nhau. Cặp vợ chồng yêu nhau thì luôn quan tâm tới công việc của nhau và sẵn lòng dành thời gian để chia sẻ giúp đỡ nhau. Con cái yêu cha mẹ thì dù ở phương xa vẫn tranh thủ về thăm khi có dịp hay ít ra cũng thăm hỏi thường xuyên qua điện thoại, email.
Đúng như lời bài hát khẳng định: “Hãy cho nhau thời gian nhé, để biết ta còn gần nhau dẫu mai về đâu”. Và cho dù đường dài có những nỗi đau thì người yêu nhau vẫn có nhau để chia sẻ ngọt bùi, nhục vinh.
Trong “Ngày hội gia đình và tuổi thơ” tại Sài gòn ban tổ chức đã hỏi các gia đình: “Theo anh (chị), vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến hạnh phúc của mỗi gia đình hiện nay là gì?”. Kết quả, có đến 50 % cho rằng các thành viên quá ít thời gian dành cho nhau, và 50 % còn lại là vấn đề kinh tế, giáo dục con cái hoặc người thứ 3 xen vào.
Có một chị là giáo viên kể rằng: Khi mới lấy nhau, chị dành rất nhiều thời gian để đi chợ, nấu nướng, háo hức chờ chồng về ăn cùng. Nhưng ngày nào cũng thế, chồng chị đi đến nửa đêm mới về, mặc cho vợ dùng hết “vũ khí” từ khóc lóc đến bỏ nhà đi và đòi ly dị nhưng anh chồng vẫn không thay đổi. Đến khi chị có thai, rồi sinh con, chị đàm phán: “Giờ có con rồi, anh phải ở nhà nhiều hơn để lỡ có chuyện gì xảy ra còn kịp xử lý”.
Nhưng chỉ được vài bữa anh lại “ngựa quen đường cũ”, tiếp tục những ngày vắng nhà triền miên với đủ lý do. Chị vừa buồn vừa tiếc công sức mình bỏ ra. Chị nghĩ: “Thời gian đó để làm việc khác chắc sẽ có ý nghĩa hơn”. Rồi từ đó, khi chị sinh con, chị liền gửi con ở nhà ngoại. Còn chị, hết giờ dạy ở trường, chị tìm chỗ dạy thêm. Khi không còn việc gì để làm, chị chạy về nhà mẹ ruột ăn vội chén cơm rồi đón con về nhà. Chồng chị một vài tiếng sau mới về, họ cũng chẳng có thời gian, tâm trí để hỏi han hay tâm sự…
Điều đáng báo động là nhiều gia đình trẻ hôm nay khi cưới nhau về là bỏ rơi nhau. Họ dành thời gian cho công việc sinh sống và quảng đại dành thời gian với bạn bè mà rất ít khi dành thời gian cho nhau. Họ đâu hiểu được rằng trong đời sống vợ chồng việc không có thời giờ cho nhau chính là nguyên nhân đưa đến những hiểu lầm, xích mích, tranh cãi, lạnh nhạt, và nếu không được giải quyết kịp thời nó có thể đưa đến đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng.
Nói về thời gian có lẽ không ai là hoàn toàn rảnh rỗi, nhưng nếu còn yêu thì luôn dành thời gian cho người mình yêu. Khi không có yêu thương thì người ta sẽ dành thời gian cho nghỉ ngơi, cho hạnh phúc riêng mình.
Bài phúc âm hôm nay kể rằng sau một ngày vất vả cứu chữa những mảnh đời khổ đau, Chúa Giê-su cũng muốn cùng các môn đệ nghỉ ngơi đôi chút. Các ngài lên thuyền lánh riêng ra nơi khác. Nhưng khi vừa lên tới bờ, các Ngài đã thấy một đoàn người đang khao khát để được Ngài thi ân, giúp đỡ. Ngài chạnh lòng thương và tiếp tục dành thời gian dấn thân phục vụ cho họ.
Là người ky-tô hữu chúng ta hãy biết chạnh lòng thương anh em mình. Chạnh lòng thương là biết dành thời gian cho nhau. Khi ai đó đang cần chúng ta quan tâm hãy dành thời gian cho họ. Khi ai đó đang yếu đau hãy dành thời gian viếng thăm họ. Khi ai đó đang cô đơn hãy an ủi họ. Đặc biệt trong đời sống gia đình đừng bao giờ bỏ rơi người thân khi chúng ta vô tâm đi qua cuộc đời họ mà thiếu chăm sóc, hỏi han đến nhau. Đừng nại vào công việc để rồi quên đi mái gia đình là nơi có những con người đang chờ đón sự ân cần chăm sóc của chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Biết hy sinh cho anh em. Biết sống quảng đại vì anh em. Biết dành thời gian cho con người hơn là công việc hay tiền tài. Xin cho đời sống chúng ta luôn là một lời chứng hùng hồn về tình yêu và lòng quảng đại luôn yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Theo báo cáo của Tổ chức Cứu Trẻ Em Hoa Kỳ (Organization Of American Aid For Children) tại hội thảo “Hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn cho thanh thiếu niên đường phố”, được tổ chức ngày 25/11/2011 tại Sài Gòn, ước tính tại VN hiện có hơn 16,000 trẻ em đang sinh sống và làm việc trên đường phố ở các đô thị trong cả nước, trong đó có hơn 11,000 em tập trung tại khu vực Sài Gòn.
Đa số trẻ em đường phố nằm trong khoảng từ 5 đến 16 tuổi. Khác những em thuộc về các gia đình dân lao động hay dân nhập cư quá nghèo khó, sống chui rúc ở những xóm ổ chuột hay gầm cầu, công viên, nhà bỏ hoang ở các khu giải tỏa…, loại trẻ em thật sự bụi đời, lang thang thì lựa chọn cuộc sống thường xuyên trên đường phố, tự bươn chải kiếm sống và hoàn toàn không có sự chăm sóc và bảo vệ dù ít ỏi của gia đình.
Thực trạng xã hội Việt Nam có rất nhiều hoàn cảnh đáng thương. Bởi đa số là dân nghèo. Con số người nghèo lên tới hơn 20 triệu người. Người nghèo thuộc mọi thành phần. Người nghèo có mặt ở khắp nơi. Đáng thương nhất là người già và trẻ em. Ngày nay người ta nói: không chỉ trẻ em đi bụi mà người già cũng đi bụi. Họ là những người bơ vơ đang lạc lõng giữa dòng chảy cuộc đời. Họ chơi vơi trên dòng đời mà không tìm được một nơi để bám víu. Họ bị bỏi rơi không chỉ trong xã hội mà ngay trong gia đình của mình. Không ai chạnh lòng thương họ. Không ai nâng đỡ, chia sẻ với những đói nghèo, bất hạnh của họ.
Là người ky-tô hữu có bao giờ chúng ta đã chạnh lòng thương những mảnh đời bơ vơ đang ở chung quanh chúng ta? Có bao giờ chúng ta đã sẵn lòng đưa tay để cứu vớt anh em hay chúng ta vẫn ngoảnh mặt làm ngơ? Hàng năm xã hội báo cáo bỏ hàng ngàn tỉ đồng để giúp người nghèo. Hàng năm, Giáo hội vẫn tổng kết hàng tỉ đồng cho người nghèo? Còn chúng ta? Chúng ta tổng kết được bao nhiêu nghĩa cử cho người nghèo, cho người cùng khốn quanh ta? Có bao giờ chúng ta đã thi ân cho những kẻ cùng khốn ngay trước mắt chúng ta hay chưa? Chúng ta đã làm gì để xoa dịu nỗi đau cho những mảnh đời bất hạnh đang đứng bên cạnh cuộc đời chúng ta?
Chúa Giê-su khi nhìn thấy đoàn người thiếu thốn, Ngài đã chạnh lòng thương. Ngài mời gọi họ hãy đến để Ngài làm vơi đi những ưu sầu. “Hãy đến cùng Ta, hỡi những ai mang gánh nặng nề”. Ngài đã mời gọi các môn sinh hãy cùng với Ngài làm vơi đi nỗi thống khổ của anh em qua việc thu gom từng cái bánh, từng con cá để Ngài làm phép lạ hoá bánh dư tràn cho hàng ngàn người đang đói khổ lầm than. Dù rằng các tông đang hăng say kể về những thành công của mình, về những bài giảng hiển hách, những công việc lớn lao đã làm cho muôn dân. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan yếu là có nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh đang hiện diện trước mặt để có thể chạnh lòng thương xót họ hay không? Chúa cũng muốn nghĩ ngơi. Chúa cũng muốn dành ít phút cho bản thân mình. Nhưng Ngài đã không đành lòng khi nhìn thấy đoàn dân đang lầm than. Ngài đã tiếp tục dấn thân phục vụ cho họ.
Ở bên cuôc đời chúng ta vẫn có những người đang thiếu một nụ cười của chúng ta dành cho họ. Họ đang cần một bàn tay nhân ái, một cái nhìn cảm thông của chúng ta. Họ đang cần một lời thân ái, một lời yêu thương để xoa dịu nỗi đau trong họ. Đáng tiếc, nhiều lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ!
Ước gì đời ky-tô chúng ta biết hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Biết hy sinh cho anh em. Biết sống quảng đại vì anh em. Xin cho đời sống chúng ta luôn là một lời chứng hùng hồn về tình yêu và lòng quảng đại luôn yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
19. Thời giờ cho Chúa và cho nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thế giới mỗi ngày một văn minh. Khoa học luôn tiến triển không ngừng. Văn minh hiện đại đã đáp ứng rất nhiều nhu cầu sinh hoạt cho con người. Thế nhưng, cơn lốc của văn minh đã cuốn hút con người chạy theo những đam mê hưởng thụ. Con người dường như đang trở thành một cái máy không hồn. Ăn và làm đó là mục đích chính yếu của con người văn minh hôm nay. Họ không còn giờ để bàn về việc có Thiên Chúa hay không. Họ không còn giờ để nhận ra niềm vui, nỗi buồn của tha nhân. Họ không còn thời giờ dành cho Chúa và cho nhau.
Mỗi lần có dịp trao đổi với các bạn trẻ, tôi thường nghe họ nói: “Con rất ít cầu nguyện”. Nguyên do đơn giản là quá bận rộn với công việc. Ngoài thời giờ học hành, làm việc, mệt mỏi và lăn ra ngủ thế là hết ngày, hết tháng, có khi hết cả năm vẫn không một lần đọc kinh cầu nguyện. Thế giới văn minh đã đẩy con người vào cơn lốc của tiền bạc, danh vọng và lạc thú. Dưới góc cạnh của luân lý, đây là hiểm hoạ đang đe doạ con người. Văn minh là điều tốt. Giải thoát con người khỏi lầm than, lạc hậu. Nhưng nếu văn minh khoa học chỉ nhắm phát triển thể xác mà không hướng con người đến sự sống siêu nhiên, sẽ giới hạn con người thuần túy là loài vật, sẽ dấn đến huỷ diệt con người thay cho phát triển và hoàn thiện. Con người có hồn – có xác. Con người có tương quan với Đấng tạo hoá và với tha nhân. Nếu quá chú trọng đến nhu cầu thể xác mà quên đi đời sống tâm linh, con ngươi đã tự vong thân. Chỉ là những thây ma không hồn, gieo tai hoạ và khổ đau cho nhau. Con người sẽ đối xử tàn bạo với nhau nếu con người chỉ coi mình thuần túy là loài vật mà chối bỏ niềm tin vào Trời, vào Thiên Chúa, vào Đấng tạo thành. Không còn cảm nhận sự nhỏ bé trước Đấng Tạo Thành, con người sẽ mất đi sự khiêm tốn để sống gần gũi và hòa hợp với mọi người.
Cha ông ta vẫn nói: Có tài mà không có đức chỉ là tai hoạ cho gia đình và xã hội. Cái đức có là do tin vào có đời sau. Tin vào sự thưởng phạt của Đấng Tạo hóa. Người ta sống có đức vì trời có mắt. Người ta ăn ở ngay lành vì để đời sau được bình an hạnh phúc. Thế nên, là người thì tài đức cần phát triển song hành và hỗ trợ với nhau. Thế giới đã qúa đau khổ bởi những người có tài mà phi nhân bất nghĩa như: Hitler, Ponpót… Họ tìm vinh quang cho bản thân của mình đến nỗi sẵn sàng huỷ diệt cả hàng triệu sinh linh. Thế giới đã quá sợ hãi bởi những cuộc chạy đua kinh tế, khai thác dầu mỏ và vàng bạc đá qúy chỉ dẫn đến chiến tranh, bạo động và cướp phá lẫn nhau.
Chúa Giêsu đã rất khôn ngoan và tỉnh táo. Ngài không để các môn đệ quá say sưa trong công việc, và ngủ say trong chiến thắng. Sau một thời gian hoạt động tông đồ miệt mài và đạt nhiều thành quả tốt đẹp. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ trở về với chính mình. Nhận biết mình thật nhỏ bé. Chỉ là dụng cụ được Thiên Chúa sử dụng vào công việc của Ngài. Cần phải hướng lòng lên Chúa để tạ ơn về thành quả đạt được và cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa. Chính Chúa Giêsu vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện riêng với Chúa Cha. Chính Ngài đã nhiều lần tạ ơn Chúa Cha vì những gì đang diễn ra trong cuộc đời của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã từng một lòng cương quyết vâng theo thánh ý Chúa Cha, quyết một lòng đi theo con đường Chúa Cha đã định. Chúa Giêsu đã sống phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Sứ mệnh của Ngài là giới thiệu về Thiên Chúa cho con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa. Như vậy, việc tôn vinh Chúa Cha cũng gắn liền với việc phục vụ tha nhân. Nếu chỉ chú trọng việc phục vụ tha nhân mà xa rời Thiên Chúa con người sẽ đánh mất căn tính của mình. Nếu chỉ quy hướng cuộc đời mình về Thiên Chúa mà dửng dưng hay làm ngơ trước sự khốn cùng của đồng loại, cuộc sống trần gian sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì lẽ đó, dù rằng sau những giờ làm việc mệt mỏi, Chúa Giêsu cùng các môn đệ muốn tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện, nhưng đoàn dân lại khao khát tìm đến Chúa để được no thỏa vật chất và tinh thần, Chúa Giêsu đã động lòng trắc ẩn. Ngài không lỡ từ chối hay chạy trốn đám đông. Ngài tiếp tục giang rộng đôi tay để thi ân và đón nhận tha nhân.
Ngày nay vẫn còn đó biết bao cảnh đời tha phương cầu thực đang cần một chút tình thương của chúng ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sẵn lòng mở rộng đôi tay để trao ban và đón nhận hay chúng ta lại ngoảnh mặt làm ngơ, và tìm cách thoái thác để tiếp tục với công việc của mình mà quên đi đồng loại? Phải chăng chúng ta đang mải dệt đời mình trong danh lợi thú mà quên đi bổn phận với Đấng Tối Cao?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại mục đích đời người là gì? Người ta sống ở đời này để làm gì? Nếu không xác định được hướng đi của đời người thì cuộc sống của chúng ta chỉ tựa như con thiêu thân đang hủy hoại đời mình trong ánh hào quang của danh vọng trần gian.
Ước gì mỗi người chúng ta đang khi vất vả lo lắng cho những nhu cầu đời sống hằng ngày, cũng biết tìm vinh danh Chúa trong cuộc sống phục vụ tha nhân. Ước gì mỗi ngừơi chúng ta cũng tìm được lẽ sống của đời mình, để có thể dâng lên Chúa lời cầu nguyện như thánh Phanxicô thành Assisi: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… Vì chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
20. Tìm kiếm lương thực nuôi hồn
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.
Ông Delia kể tiếp: “Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn: Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan… nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính tình và cách sống của em lại thuộc loài chó.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu. (Mt 4,4)
Khao khát lương thực tinh thần
Tin Mừng hôm nay cho thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giêsu, không phải để tìm lương thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.
Vì thấy các môn đệ mệt nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giêsu sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi cho lại sức.
Các môn đệ vừa xuống thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giêsu và các môn đệ.
Khi Chúa Giêsu lên bờ thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ.
Thiên Chúa ban cho con người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.
Chúng ta vô cùng diễm phúc khi được sống bên Chúa Giêsu là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, nếu không biết khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp. Tổ tiên họ sở hữu một kho tàng vô cùng phong phú nằm ngay dưới chân mình. Đó là một kho dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng trắng” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có bậc nhất.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giêsu, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con luôn nhớ rằng thân xác của chúng con mai đây sẽ hư nát và chỉ còn là tro bụi, nên chỉ cần chăm sóc vừa phải, còn linh hồn chúng con sẽ tồn tại vĩnh viễn nên đáng được nuôi dưỡng chu đáo hơn. Amen.
Như chúng ta đã biết dân Do Thái, một phần sống bằng nghề chăn nuôi, nên hình ảnh mục tử, người chăn dắt đoàn chiên, là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi. Đavít ngày xưa, khi còn là một em bé chăn chiên, đã được Samuel xức dầu đặt làm vua. Sau này, trên ngai vàng, Đavít đã hướng dẫn dân Chúa tới một thời đại hoàng kim. Các ngôn sứ đã dùng hình ảnh mục tử, không phải để chỉ các vua mà còn ám chỉ chính Thiên Chúa, Ngài sẽ đích thân chăn dắt dân Ngài.
Lời tiên báo của các tiên tri đã được Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Ngài, bởi vì Ngài chính là vị mục tử nhân lành. Thái độ nhân lành ấy đã được biểu lộ qua việc ân cần chăm sóc mà đoạn Tin Mừng ngắn ngủi sáng nay đã ghi lại.
Trước hết là đối với các môn đệ đang mệt mỏi vì những cuộc hành trình truyền bá Phúc Âm, Ngài đã khuyên các ông hãy tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút. Tiếp đến là đối với đám đông đang đói lời giảng dạy cũng như đang khát sự dẫn dắt, Phúc Âm đã ghi lại: Nhìn thấy họ, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã làm phép lạ để họ được ăn no giữa chốn hoang vắng. Không một trang Phuc Âm nào, mà chúng ta không thấy được những hành động bác ái yêu thương Chúa Giêsu đã thực hiện, nào là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết được sống lại, tất cả những hành động này chỉ nhằm một mục đích duy nhất là xoa dịu mọi nỗi đớn đau của con người. Hơn thế nữa, Ngài còn dành một tình cảm đặc biệt cho những kẻ tội lỗi. Ngài đối xứ với họ như mục tử đối xử với những con chiên lạc. Ngài đã lên đường tìm kiếm họ, và nhất là Ngài đã tha thứ cho họ. Cái ước vọng duy nhất của Ngài, đó là cuối cùng chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Cũng trong ước vọng duy nhất này mà Ngài đã chấp nhận chịu chết để đoàn chiên, là tất cả chúng ta được sống.
Từ hình ảnh người mục tử chúng ta phải làm gì? Dĩ nhiên chúng ta chưa phải là những mục tử của Chúa, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể tham dự chúc vụ mục tử này nhờ bí tích Rửa Tội, hay nói một cách khác, cái tinh thần mục tử chính là cái tinh thần mà mỗi người chúng ta phải sống, phải thực hiện trong cuộc đời của mình. Vậy tinh thần mục tử là gì?
Xin thưa đó là tinh thần phục vụ. Đúng thế, người làm vua hay người làm mục tử theo tinh thần của Chúa, không phải là để cai trị dân hay đánh đập những con chiên của mình, nhưng là để an ủi khích lệ, giúp đỡ và phục vụ họ như lời Ngài đã phán: Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ phục vụ cho mọi người. Chính Ngài cũng đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho mọi người.
Từ đó chúng ta đi đến một kết luận đó là: Sống tinh thần mục tử đó là sống tinh thần phục vụ, dấn thân để giúp đỡ anh em theo mẫu gương của Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1)… “Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”(c.3). Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Giavê qua miệng tiên tri Giêrêmia. Đó là những mục tử làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải. Và chuyện gì sẽ đến, rồi sẽ đến, đó là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác của những người mang danh mục tử. Các hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên nên Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4).
Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Có thể nói rằng một người duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11) đó là Chúa Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự khẳng định không phải liều lĩnh hay khoa trương, nhưng rất có căn cứ. Chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận cho ta căn cứ này. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đấy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên, là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa Nhật XVI TN B, Mẹ Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về vị mục tử ấy, đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng.
Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm xuông, nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc coi thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng.
Hơn bao giờ hết, ngày nay, chúng ta không chỉ mong mà còn khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên Chúa muốn thánh ý của Người được thể hiện qua những con người, qua chúng ta. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, cho dù là chính đáng, lên trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên.
Nghe hai từ loại bỏ thì có vẻ nhẫn tâm và bất hiếu hay vô đạo. Cách riêng với tâm lý Á đông thì thường không nỡ “cạn tào ráo máng”. Hơn nữa, tín hữu chúng ta vốn sợ mang tai mang tiếng khi có chuyện đụng chạm đến các đấng bậc bề trên. Hình như bà con người dân Vinh, người dân xứ Nghệ rất sợ mang tiếng chống cha, chống cụ, và lại còn sợ Chúa phạt, khiến cả gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Dĩ nhiên, nếu chúng ta loại bỏ các mục tử gian ác bằng các phương thế tiêu cực thì quả là đáng trách và không phải phép. Không ai là không thể đổi thay. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy tìm cách xây dựng các chủ chăn vô tình, tắc trách, thành những mục tử nhân hậu, tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta. Các phương thế xây dựng thì đủ kiểu, nhiều cách, miễn sao chúng được thực thi trong đức ái.
Năm linh mục đã mở ra. Không riêng gì các linh mục phải nỗ lực thánh hóa bản thân mà cả cộng đoàn dân Chúa phải tích cực dệt xây cho chiên trong đàn lẫn ngoài đàn có thêm nhiều mục tử tốt lành, chính danh, chính hiệu.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Tông đồ Gioan đã cho ta một định nghĩa rất tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4:7-11). Đức Giêsu cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3:16-18). Các lời giải thích trên thật siêu việt và đầy tính thuyết phục ngay cả đối với một bậc ráp-bi trong dân, tuy nhiên tình yêu không phải là điều gì thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực cảm nghiệm và biểu lộ nhiều hơn. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa chính là cái chết thập giá của Đức Giêsu, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt trên Thập Giá, vẫn còn có thể biểu lộ bằng nhiều cách khác, bình dị hơn nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua đoạn văn Tin Mừng ngắn gọn và giản dị hôm nay, muốn chúng ta chạm được tới thứ tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.
Các tông đồ mệt nhọc sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như thế nào khi nghe Thầy Giêsu ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với những lời giảng dạy cao siêu đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’ (Mc 1:22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế?
Cựu Ước đã nhiều lần cho thấy Đức Chúa Gia-vê chăm sóc dân riêng tới từng chi tiết cuộc sống; trong thời xuất hành, Ngài hàng ngày chu cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước uống trong mát (Xh 16:17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (Xh 13:21). Tuy nhiên đó vẫn là một Đức Chúa quyền uy cao vời, và dân Híp-ri phải luôn kính phục. Thế cho nên cái cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống giữa loài người đầy ắp yêu thương thì chưa ai từng đã có bao giờ. Là các thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, chắc chắn các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này: và mọi phần tử của Hội Thánh qua các thời đại cũng cần phải có nữa. Riêng các Ki-tô hữu, không trừ một ai, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế trong cuộc sống hàng ngày của mình, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên giống con người mọi đàng, và cư ngụ giữa chúng ta (xem Pl 2:6-8). Lúc đó, phải, chỉ lúc đó, thực tế này không còn chỉ là một suy tư thần học, một mầu nhiệm cao vời, mà phải trở thành một kinh nghiệm sống ngọt ngào thường ngày.
‘Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt’.
Cựu Ước hầu như muốn dành sự chăm sóc của Đức Chúa Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Ngài mà thôi. Các tiên tri sau này chỉ dám ám chỉ xa xa rằng Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân tộc khác và muốn qui tụ họ (xem Is 2:2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái của Thầy Giêsu mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng. Chuyến đi truyền giáo cho các ông cái kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm thấy được Thầy Giêsu ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ nhân của Người mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là cho các kẻ tội lỗi lầm lạc. Sau này rất nhiều lần khác nữa, Người không ngừng khảng định điều này…, và đây mới chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của đoàn dân mới là Hội Thánh (xem Mc 9:38-40; Lc 9:49-55). Như Phao-lô đã từng khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận thức điều này: phe phái, biệt loại dưới bất kì hình thức nào, đều đi ngược lại với cõi lòng từ nhân của Đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn cách (xem Gl 3:27-28).
Tôi có thể đi tới kết luận cho chính bản thân mình rằng: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (như khi nhận được ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ SDB, linh mục…hay gặt hái được thành công…, vượt qua được thử thách…), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức phân rẽ: lương – giáo; triều – dòng; tu – đời, đạo đức – khô khan; tốt – xấu.., để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm trên tất cả trong tôi. Nếu cõi lòng tôi chưa được như thế, thì có nghĩa là cảm nghiệm về lòng thương xót Chúa nơi tôi chưa thật sự chân thành và sâu sắc.
Lạy Thầy Giêsu từ bi và nhân hậu, xin đừng để con run sợ trước các cảm nghiệm về sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, hay sự cao siêu bóng bảy trong các học thuyết Người loan truyền. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm nồng ấm vì thấy mình được chăm sóc mến thương, nhất là được xót thương tha thứ. Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật trong tâm tình và cảm nghiệm: mình được Chúa yêu thương chăm sóc. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương vì họ như chiên không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước, nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt dân Ngài.
Tiên tri Giêrêmia sống vào thời trước và trong khi dân Do Thái bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết, gồm những người có quyền đại diện Thiên Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng: vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng chán nản không còn có thể tin vào những người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc lối và tán loạn.
Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Giêrêmia: “khốn cho các mục tử đã để đàn chiên của Ta bị tan hoang và phân tán…; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ những nước Ta đã phân tán chúng; Ta sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ”. Vì những lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày; nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem con người trở về với Thiên Chúa cho dù con người hiện tại có bị lạc xa đường lối của Thiên Chúa.
“Ta sẽ làm chỗi dậy một nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt dân như một vị minh vương”. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi dậy những con người như lòng Ngài mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như hiện tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh thần, trung gian hữu hình để ở với và nói với con người của mọi thời đại.
Sau hơn ba mươi năm tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng. Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng, và các ông đã trở về với bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến cùng các ngài, đến độ các ngài không còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe cần thiết.
Đức Giêsu khuyên các tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở đây một lần nữa người ta thấy Đức Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người: làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối với những công việc quan trọng như việc tông đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn phận của mình, nhưng cũng cần phải có thời gian để yên lặng, để sống với Thiên Chúa cho chính mình, để thân xác hồi lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người, cũng là tôn trọng Thiên Chúa.
“Khi Đức Giêsu ra khỏi thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng đông đảo nên động lòng thương vì họ như chiên không người chăn, và Ngài giảng dạy họ nhiều điều”. Đức Giêsu vẫn để các tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu, hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết điều gì là thực sự cần thiết cho con người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian.
III. Con người hôm nay như dấu chỉ thời đại
Khi những người lãnh đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ, dân chúng bị phân tán vì họ không tìm thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy vọng. Con người luôn cần những người lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng phân tán như một sự kiện, thì những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại xem họ có đáp ứng nhu cầu thực sự của con người thời đại không.
Ngày nay, ở châu âu và ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ; những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở châu âu trở thành “bảo tàng viện”, nơi các du khách tìm đến để xem những kiến trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung giảng dạy thì không được chú ý; cả một số nơi người ta cố gắng đổi hình thức nhưng lại không cố gắng để có nội dung sâu xa, và như vậy không cuốn hút được người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ thâm sâu mong ước.
Những mục tử chân chính phải xét lại cách rao giảng của mình, xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay, đặc biệt là các người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói: con người ngày nay không muốn đến nhà thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ, con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng đang được Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay phải làm sao để giúp con người hiện tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện những mục tử tương lai, sao cho những người này có thể nghe được và nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa qua con người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của họ. Làm sao phụng vụ, những bài giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người ngày nay. Nếu những người trẻ ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều người trẻ hôm nay mong ước mà Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: “các tông đồ tụ họp xung quanh Đức Yêsu, và kể cho Người biết mọi việc các ông đã làm cũng như mọi điều các ông đã dạy” (c.30). Các tông đồ đã làm điều ngày nay chúng ta gọi là chia sẻ: nói cho nhau nghe những gì mình đã nói đã làm, kể cho nhau nghe những vui buồn sướng khổ, để được chia sẻ khi thành công, để được trân trọng và nâng đỡ khi thất bại, để Thiên Chúa được tôn vinh và chính mình cũng được triển nở hơn.
Các tông đồ không chỉ kể những điều các ngài đã làm, nhưng cả những điều các ngài đã dạy, để nếu cần sẽ được Thầy chỉ bảo. Nhiều khi chúng ta không dám chia sẻ, vì sợ người ta thấy những sai lầm của mình, sợ người ta đánh giá mình. Trong cuộc sống, dù ai dở như thế nào chăng nữa, họ cũng có những điều hay hơn chúng ta, và trong lãnh vực đó họ có thể làm thầy chúng ta; thế nên chúng ta không được mặc cảm khi thấy mình thường dở hơn người khác. Trong cuộc sống, thành công hay thất bại là những chuyện thường. Điều quan trọng không phải là “thành công”, nhưng là “thành nhân”. Một danh nhân Việt Nam đã nói: “Không thành công cũng thành nhân”. Như vậy, nếu chúng ta sống đúng, thế nào chúng ta cũng “được” trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Kể cho nhau nghe những gì xảy ra, đó là tin tưởng, là chia sẻ. Các tông đồ cũng cần chia sẻ, và Đức Yêsu đã lắng nghe. Chia sẻ là mặc khải, là cởi mở tấm lòng, để người khác hiểu biết mình hơn, để họ cũng như chính mình được hạnh phúc hơn.
Anh em hãy lánh ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút (c. 31). Đức Yêsu quan tâm đến các tông đồ như thế nào. Sau một thời gian làm việc, tông đồ cần được nghỉ ngơi về thể xác cũng như về tinh thần. Về tinh thần, các tông đồ đã được nghỉ ngơi khi tụ họp lại với nhau bên Đức Yêsu; nhưng Đức Yêsu vẫn thấy việc nghỉ ngơi thể xác là cần thiết, nên Ngài đã nói: “anh em hãy lánh vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Con người là tinh thần và thân xác; tinh thần ảnh hưởng trên thân xác, và thể xác cũng ảnh hưởng đến tinh thần. Không nên coi thường thân xác, nhưng cũng không nên qúa lo cho thân xác.
III. Đức Yêsu thương và giảng dạy họ nhiều điều
Dân chúng thông minh hơn thầy trò tưởng, họ đã tới nơi Đức Yêsu và các tông đồ định tới. Dân chúng muốn gì, đi tìm điều gì? Họ không phải là những người chỉ lo tìm của ăn hay tiền bạc, nhưng họ còn mong ước điều gì khác mà họ tưởng rằng Đức Yêsu có thể mang đến cho họ, chính vì thế họ không quản ngại đường xa mỏi mệt, cũng không qúa để ý đến cái đói. Họ đã đến đón Đức Yêsu và các tông đồ ở nơi các Ngài muốn đến, và chính điều này đánh động Đức Yêsu. “Ngài chạnh lòng thương, và bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” (c.34).
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, Ngài thương cảm con người đau khổ, và Ngài sẵn sàng tiếp cứu con người. Thương cảm con người thời đó, Đức Yêsu đã làm gì? Trong Tin Mừng Đức Yêsu đã hai lần hóa bánh ra nhiều, nhưng những lần khác và đặc biệt trong lần này Đức Yêsu đã làm gì? Ngài giảng dạy họ nhiều điều! Tiền bạc là cần thiết, của ăn là quan trọng, nhưng không phải là tất cả đối với con người. Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bởi Lời Thiên Chúa nữa (Mt.4, 4). Lời dạy của Đức Yêsu, trở thành kim chỉ nam, là những điều cần thiết giúp con người sống hạnh phúc. Nếu không có Lời Thiên Chúa hướng dẫn, con người vẫn không thể sống hạnh phúc, ngay cả khi con người đầy đủ về vật chất tiền bạc, kiến thức và địa vị nữa. Kiến thức người ta có thể tích lũy bằng học hỏi, nhưng tất cả những điều đó chưa phải là điều kiện đủ để giúp người ta sống hạnh phúc. Ngay cả khi ít kiến thức, một người vẫn có thể là người khôn ngoan và có sự hiểu biết “thật” mà một người nhiều kiến thức và bằng cấp không thể có được. “Lời Chúa là đường dọi bước chân con, là ánh sáng chỉ đường con đi”.
Xin cho chúng ta được luôn luôn lắng nghe Lời Chúa, để chúng ta được Lời Chúa dạy dỗ và được bình an hạnh phúc từng ngày.
HÃY LUI VÀO NƠI VẮNG VẺ MÀ NGHỈ NGƠI ĐÔI CHÚT
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 6: 30-34: Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm…
Chúa Giêsu đã kêu mời các môn đệ đến với Chúa và các môn đệ đã ở lại với Chúa và Chúa đã ân cần dạy dỗ các môn đệ và sai các ông đi truyền giáo.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cho thấy, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc này các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và nghỉ ngơi một chút.
Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông. Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc. Chúa muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền như Ernest Hello quả quyết: “tâm hồn càng nhận được nhiều trong thinh lặng thì càng ban phát nhiều trong hoạt động.” Vì có hồi tâm, có thinh lặng chúng ta mới đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, sự thinh lặng như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chính P. Doncoeur đã quả quyết: “không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong thinh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”.
Lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay vẫn còn được những bậc tu hành, các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, các ngài cầu nguyện, kiểm điểm đời sống và định hướng hoạt động cho những ngày sắp tới.
Còn đối với giáo dân, cuộc sống với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống. Cuộc sống càng ồn ào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy, cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn.
Và sau đây là một số những mẫu gương cụ thể trong cuộc sống đời thường:
– Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
– Trong tờ báo New York Times gần đây đã viết về những thương gia trong thành phố New York như sau: “Các doanh nhân đã xoay sang việc cầu nguyện bởi vì họ mong muốn xây dựng một tình bằng hữu với những người đồng nghiệp và qua đó, họ có thể chia sẻ những khó khăn với nhau trong công việc hằng ngày.”
– Cũng trong một ý hướng như bài báo trên, một nhân viên ban chấp hành đã nói lên trong một cuộc họp hằng tuần tại Chase Manhattan Plaza: “Đây là chỗ để tôi đến và lấy lại nguồn sống. Nếu tôi không thể đến đây được thì tôi không biết tôi sẽ có thể làm được gì không.”
– Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, tiếp nối những dòng tư tưởng trên, có câu chuyện kể rằng: “Một nhà thám hiểm nọ đi lạc trong sa mạc, chuyển từ nơi này đến nơi kia, nhìn hết hướng nay đến hướng khác, ở đâu ông cũng chỉ thấy toàn cát với cát. Ông lê gót trong tình trạng tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô. Ông không còn đủ sức đứng lên, ông không còn đủ sức chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng sống sót nào. Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được về sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên. Trong thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận ra được đó là tiếng chảy róc rách của một con suối từ xa vọng ại. Như sống lại từ cõi chết, ông xác định nơi xuất phát của tiếng suối, ông dùng hết nguồn năng lực còn lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi gặp được dòng suối.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Cuộc sống chúng ta thật quả bận rộn và ồn ào, khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa. Có thinh lặng trong cõi lòng, chúng ta mới nghe được tiếng thì thầm mời gọi của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Chính sự thinh lặng giúp chúng ta nhận ra được tiếng của Thiên Chúa như “dòng suối róc rách” trong cảnh ồn ào của cuộc sống hôm nay”. Đó chính là điều Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ và cũng nhắc nhở chính chúng ta, những người đang hiện diện trong thánh đường này: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.” Amen.
(Suy niệm của Lm. GB Văn Hào)
Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình. Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?”. Cụ già chất phác và chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện. Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.
Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa. Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người. Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ. Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình. Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.
Bác học Ampère đã nói: “ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai. Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói “ Không có thầy, anh em không làm được gì.”
Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng. Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế. Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.
Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.
Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.
Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Sống trong một xã hội đa dạng, người ta có nhiều thái độ, quan niệm cái nhìn khác nhau về vấn đề làm việc.
Một cha xứ mới được chuyển đến thay thế cha xứ cũ đã trông coi một giáo xứ trong nhiều năm. Trong phiên họp, cha xứ mới ngỏ ý với Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Tài Chánh của giáo xứ là nên thuê một người lo cắt cỏ chăm sóc vườn tược chung quanh nhà thờ. Một vị trong Hội đồng tỏ vẻ khó chịu nói: “Xin cha nhớ cho rằng, cha xứ cũ chính ngài đã tự tay cắt cỏ chăm sóc vườn tược, không thuê ai cả.” Cha xứ mới mỉm cười trả lời: “Tôi biết điều đó, và tôi đã hỏi cha xứ cũ rồi, nhưng ngài trả lời là bây giờ ngài không còn muốn cắt cỏ chăm sóc vườn tược nữa.”
Chuyện khác kể rằng một công ty nọ chẳng may thuê phải một người thư ký lười biếng, suốt ngày chỉ lang bang cho hết giờ. Ông chủ tức giận khó chịu bảo: “Trong một tháng trời mà anh làm việc không tới được một giờ đồng hồ. Anh thử nghĩ xem công ty có lợi được một cái gì khi thuê mướn anh làm việc không?” Anh thư ký trả lời: “Dạ thưa ông chủ có chứ. Vì khi tôi đi nghỉ hè, thì không một ai trong công ty phải làm thêm gánh đỡ công việc của tôi.”
Chúng ta không rõ thái độ và quan niệm của các tông đồ ra sao đối với vấn đề hoạt động làm việc, nhưng qua bài tin mừng hôm nay Chúa nhắc nhở các ngài: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”, đã bảo cho hay rằng, giữa những công việc vất vả bận rộn của cuộc sống, các tông đồ cũng như chúng ta có bổn phận và trách nhiệm dành thời giờ nghỉ ngơi. Có lẽ điều này nghe hơi lạ nhưng là một sự thật. Sự thật này đã được ghi lại trong chương đầu của sách Sáng thế ký, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh: Thiên Chúa làm việc trong 6 ngày và ngày thứ 7 ngài nghỉ ngơi.
Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta như là những con ong luôn bận rộn suốt thời gian. Xe chạy thỉnh thoảng cần dừng lại để đổ xăng và nghỉ cho máy mát. Chiếc cung giương mãi cũng sẽ có ngày đứt dây. Thân xác con người cần nghỉ, cần ngủ, ai thử thức một hai đêm sẽ biết kết quả liền.
Hơn nữa, chúng ta cần dành thời giờ nghỉ ngơi là vì sống ở đất nước này, càng ngày càng thấy các công ty vì phải cạnh tranh và muốn kiếm lời nên đòi gia tăng mức sản xuất trong khi đó lại cắt giảm số nhân viên, nên các người làm việc đã bị áp lực bị stress, bị pressure do công việc đòi hỏi rất nhiều.
Ngoài thời giờ dành ra nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè, dành cho Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi dành thời giờ để suy nghĩ về giá trị đích thực của cuộc sống? Phải chăng giá trị con người hệ tại sự có: Càng có nhiều của cải tiền bạc vật chất, con người càng có giá trị nhiều, hay ở tại sự thanh thản bình an của tâm hồn?
Theo tài liệu nghiên cứu, trung bình một người Mỹ hàng ngày đối diện với 560 quảng cáo, và hầu hết các quảng cáo này đều muốn gây ảnh hưởng làm cho con người không thỏa mãn với những gì mình đã đang có và mời gọi con người ham muốn những cái mới hơn, lớn hơn, tốt hơn, tiện lợi hơn. Chúng ta đang sống trong xã hội đó, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng, muốn có nhà to hơn, lớn hơn, đẹp hơn, một nhà một Tivi chưa đủ, bây giờ mỗi phòng cần một cái, rồi nào là iPhone, iPad, iPod… Muốn có nhiều sự phải có nhiều tiền để mà iPaid…, và muốn có nhiều tiền phải đi làm nhiều. Đơn giản là như thế. Tuy nhiên, câu hỏi mỗi người chúng ta cần đặt ra cho mình là bao giờ thì mới đủ, mới làm chúng ta hài lòng thỏa mãn, bao giờ chúng ta mới có một cuộc sống đơn giản, mới được sống thanh thản an bình hạnh phúc?
Cha ông đã bảo: “Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” Có nghĩa là: Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ. Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn?
Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác bên cạnh thuyền của ông. Ông hỏi: “Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh cá?” Ngư phủ đáp: “Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?” Thương gia hỏi: “Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?” Ngư phủ hỏi lại: “Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?”
Vị thương gia trả lời: “Anh có thể kiếm thêm tiền và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều cá hơn và kiếm thêm tiền. Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có như tôi.” Ngư phủ hỏi: “Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?”
Vị thương gia nói: “Lúc đó anh có thể ngồi xuống vui hưởng cuộc đời.”
Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển cả: “Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?”
Khi tạo dựng nên con người và cho vào đời, Thiên Chúa trao cho mỗi người một sứ mệnh. Không ai có sứ mạng quan trọng như của Chúa Giêsu, nhưng Ngài biết những điều quan trọng không thể thành đạt được nếu không có tâm hồn an bình trong thinh lặng yên tĩnh nghỉ ngơi cầu nguyện: “Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.” Mỗi người chúng ta có trách nhiệm và bổn phận dành thời giờ nghỉ ngơi suy nghĩ tìm ra sứ mệnh của mình và điều cần để ý đó là đời sống này quá ngắn ngủi, hãy sống cuộc sống này đầy ý nghĩa.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Mỗi lần soi gương có hai hình ảnh trong gương. Hình ảnh thứ nhất rõ ràng là hình ảnh của chính ta; hình ảnh khác không rõ là hình ảnh thần tượng ta ái mộ, mến tài trí của họ. Hình ảnh thần tượng thể hiện qua cùng kiểu tóc hay cách trang điểm hoặc y phục. Có người ái mộ thần tượng đến độ bắt chước ngay cả cách đi đứng, ăn nói của thần tượng thành của riêng mình. Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Đức Kitô nói dân chúng thời đại Ngài bị mất thần tượng khi Ngài dùng hình ảnh chủ chăn và đàn chiên. Ngài thương họ bởi họ là đàn chiên không có chủ. Điều Đức Kitô nói không phải là đám đông không có người lãnh đạo mà chính là người lãnh đạo không làm công việc lãnh đạo. Lãnh đạo theo đường hướng của Đức Kitô là phục vụ. Có lần Ngài nói rõ:
‘Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.’ Mc 10,45.
Như thế nhiệm vụ chính của người lãnh đạo là phục vụ. Khi yếu tố phục vụ biến thể; việc lãnh đạo cũng biến thể. Khi nhóm lãnh đạo coi đám đông là kẻ hầu, biến họ thành kẻ phục vụ. Thay vì nâng đỡ hỗ trợ đám đông người lãnh đạo đòi nhiều đặc quyền, đòi được chăm sóc, đòi được coi trọng, đòi được quyền sai bảo kẻ khác. Lúc đó phẩm chất lãnh đạo biến chất. Bởi biến chất nên người lãnh đạo là lãnh đạo giả hình. Nói là lãnh đạo nhưng không làm đúng điều mình nói, tự lừa dối mình và lừa dối công chúng. Đức Kitô dùng hình ảnh chủ chiên và đàn chiên để nói lên điều trên. Chủ chiên chân chính ảnh hưởng rất nhiều đến đàn chiên, ảnh hưởng đến cuộc sống và đời sống đạo đức của đàn chiên. Đàn chiên được chăm sóc, nuôi nấng, đau bệnh được thăm hỏi, chữa lành, đói khát được cho ăn uống, cô đơn được vỗ về, bị áp bức được nâng đỡ. Đó mới là phục vụ, là người lãnh đạo chân chính. Thời Đức Kitô đám đông có người lãnh đạo là các bậc trưởng thượng trong dân, có Biệt Phái và Tư Tế. Đám đông từng nghe theo lời họ hướng dẫn, chỉ bảo nhưng đến thời Đức Kitô thì họ không nghe theo nữa bởi nhóm lãnh đạo không những đã làm mất tư cách lãnh đạo mà còn đòi nhiều đặc quyền, đặc lợi nên dân chúng chán ghét họ, không quan tâm đến nhu cầu của dân chúng là thiếu tư cách lãnh đạo. Điều này không phải xảy ra một sớm một chiều mà trải qua nhiều năm tháng, nhiều lần thất hứa, làm sai đổ thừa, không dám chấp nhận điều sai trái dẫn đến tình trạng mất niềm tin nơi dân chúng. Thay vì quy tụ đàn chiên, chăm sóc, bảo vệ chiên, họ để cho đàn chiên tan nát, để chiên chạy tán loạn. May mắn thay đàn chiên gặp Đức Kitô và các tông đồ. Đức Kitô đến với đàn chiên, chăm sóc chúng, vỗ về con đau yếu, chữa lành con thương tật, đói cho ăn, mệt cho nghỉ nơi suối mát và ở giữa đàn chiên chăm sóc chúng vì thế đàn chiên theo Ngài. Theo giáo huấn của Đức Kitô lãnh đạo là phục vụ. Chính Đức Kitô thi hành điều đó khi Ngài nói Mc 10,45. Ngoài việc phục vụ Đức Kitô còn chỉ đường dẫn lối cho đàn chiên đến vùng đất sống, vùng đất an toàn vùng đất dồi dào tình yêu, dẫn đàn chiên đến với Chúa Cha.
‘Thầy là đường là sự thật và là sự sống’ Gn 14,6
Đức Kitô đứng với chiên con, yêu mến chúng, vỗ về chúng, nghe tiếng chúng và chúng nghe tiếng Ngài.
Ngày nay Giáo Hội có cùng kinh nghiệm như đám đông thời Đức Kitô họ cũng đang mất niềm tin nơi người lãnh đạo. Họ không còn âm thầm nhưng mạnh miệng lên tiếng tố cáo người lãnh đạo làm điều sai trái, chủ chiên biến thành sói đội lốt chiên tiêu diệt đàn chiên. Người ta tìm đủ cách để biện minh hoặc giải thích hỗ trợ cho việc chủ chiên làm. Điều không thể chối cãi là đàn chiên đang tản mát khắp nơi đi tìm sức sống nội tâm mới. Điều này cho biết con người luôn cần sức mạnh nội tâm họ không tìm được sức mạnh đó nơi niềm tin họ đang theo nên bỏ đi theo niềm tin khác. Chủ chiên thời Cựu Ước có nhiều tiên tri và họ có thể dựa vào đó để đưa ra những giải thích khác nhau. Hiện nay chủ chiên chỉ có Đức Kitô Đấng đến trần gian loan báo Tin Mừng cứu độ và chết trên thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài là đầu của Hội Thánh và tất cả chúng ta là chi thể trong cùng một thân xác Đức Kitô. Giáo lí của Ngài tóm gọn trong câu ‘mến Chúa, yêu tha nhân như chính mình’. Giáo lí này không còn chỗ cho hiểu lầm. Giải thích lệch lạc là cố tình đi ngược tình yêu Chúa. Không phục vụ tha nhân là đi trái đường lối Chúa. Không tha thứ là cố tình chia rẽ thân xác Đức Kitô. Chủ chiên cần suy gẫm xem việc coi sóc đàn chiên được bao nhiêu phần trăm như điều Đức Kitô giáo huấn.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Khi chế tạo sản phẩm mới người ta quảng cáo đủ mọi điều tốt đẹp về sản phẩm. Nào là nó tiện lợi, đẹp, rẻ và tiện nghi cho đời sống mới. Một thời gian sau sản phẩm khác ra đời thay thế sản phẩm cũ, thế là có mới nới cũ. Cũ chìm vào quá khứ biến mất khỏi thị trường. Như thế người tiêu dùng bị hấp lực bởi quảng cáo, không phải hấp lực của sản phẩm. Đồng ý là khoa học kỹ thuật mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho con người nhưng không phải mọi sáng chế đều thuận lợi cả đâu. Nhiều người trở thành nạn nhân của những sáng chế mới. Điều mà không ai tránh khỏi đó là vấn đề chạy đua với thời gian. Từ già trẻ, lớn bé, mọi người đều cảm thấy ngày ngắn, đêm đoản, ngủ chưa no giấc ngày đã đến, còn đang lai rai đêm đã tàn. Máy móc làm việc nhanh gấp ngàn lần chân tay đáng ra con người phải có nhiều giờ rảnh mới đúng nhưng dường như ai cũng bận rộn, không đủ giờ để nghỉ, thiếu giờ liên lạc, đàm thoại với nhau. Vì sao? Vì phải chạy đua với máy móc. Sức người có hạn, máy móc lại dai dẳng, không mệt nên người mệt mỏi trước máy. Tai hại thứ hai của sản phẩm khoa học kĩ thuật là vấn đề gian lận. Trẻ gian lận giờ học, giờ chơi, giờ ngủ để có giờ cho máy móc. Cảnh sát vất vả vì kẻ lạm dụng kiến thức khoa học đánh cắp đủ thứ. Hầu như ai cũng được khuyên cần mã số cho máy, mã số cho sổ ngân hàng, mã số cho mọi thứ liên quan đến cá nhân vì lúc nào cũng có kẻ rình mò tìm cách lợi dụng. Phương diện quốc gia cũng không hơn gì, ngày đêm có kẻ rình rập ăn cắp dữ kiện, phá nhau để họ khỏi hơn mình. Chiến tranh trên mạng chỉ mới bắt đầu và sẽ trở thành đại nạn trong những năm sắp tới.
Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho tha nhân, các ông cũng cảm thấy bận rộn đến độ các ông không có giờ ăn trưa. Đức Kitô nói với các ông: anh em hãy đi tìm nơi thánh vắng nghỉ lấy sức c.13
Lời khuyên vừa khôn ngoan vừa thiết thực, nên nghỉ ngơi sau ngày làm việc vất vả đến từ Đức Kitô. Nơi thanh vắng không mang nghĩa là nơi cô đơn, một mình, không có ai hoặc là không làm gì hết nhưng là nghỉ trong Chúa. Nơi thanh vắng cho ta thời giờ rảnh rang để nhìn lại, kiểm điểm công việc đã qua. Trường hợp các tông đồ các ông đi chung với nhau, với những người chung niềm tin, tôn thờ cùng Thiên Chúa và làm cùng công việc rao giảng về nước trời.Nơi thanh vắng là nơi thể xác được nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, tinh thần được bồi bổ và tâm linh được tăng sức mạnh. Nơi thanh vắng là nơi cuộc sống không bị dày vò, công việc không thúc bách và không phải chạy đua với thời gian. Nơi thanh vắng chúng ta tìm được bình an trong tâm hồn, yên tĩnh của cuộc sống và những điều này đánh tan nỗi lo nhọc của cuộc sống. Nơi thanh vắng là nơi chúng ta cởi mở tâm hồn tâm sự cùng Chúa. Nếu là những niềm vui chúng ta chia sẻ Thiên Chúa sẽ làm cho nguồn vui tăng gấp bội. Nếu là nhưng lo âu, sầu khổ, mệt mỏi chúng ta san sẻ nỗi âu lo đó cho Chúa và Chúa sẽ ban sức mạnh, chữa lành.
Tình yêu Chúa bất biến với thời gian. Tình yêu Chúa không bao giờ thay đổi nhưng cách làm chứng nhân cho Thiên Chúa cần đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh. Thay đổi thế nào thì tuỳ vào sự khôn ngoan của mỗi cá nhân lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Chúa trong lúc nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Nghỉ ngơi, bồi bổ, dưỡng sức là nhu cầu bắt buộc phải có trong cuộc sống. Thiếu nghỉ ngơi, bồi bổ và dưỡng sức sự sống bị hao mòn trước khi tắt ngủm.
Hay nóng giận, nổi quạo một cách vô cớ, phê bình, chỉ trích không lý do, là dấu hiệu báo động cho biết người đó đang bị căng thẳng. Căng thẳng gây nên bởi hai lý do chính. Một đến từ trong con người. Hai đến từ bên ngoài. Dù đến từ trong hay ngoài đều nguy hiểm cho cuộc sống. Căng thẳng xảy ra vì thiếu niềm tin vào Chúa.
Lý do trong ta
Tiền tài, tham vọng, tài sức riêng, và tính kiêu ngạo là lý do nội tại tạo nên mối căng thẳng cho mình và cho người khác.
Lý do ngoài ta
Xã hội sa đoạ, luân lí suy đồi vì gạt Chúa ra ngoài. Gia đình sào sáo, tranh quyền. Chúa đóng vai phụ trong cuộc sống. Môi trường thích hợp cho căng thẳng phát triển. Bao lâu người ta còn chối tình yêu Chúa, bấy lâu thân xác họ còn là những hầm mỏ chứa căng thẳng, tị hiềm, ghen ghét. Thể xác phải gánh chịu những đớn đau, dằn vặt đó.
Để tiêu diệt thù trong, giặc ngoài, nghi kị, hằn thù. Để tâm hồn tìm lại bình an, thể xác thảnh thơi, thoải mái, tình người đề cao, nhân phẩm coi trọng.
Sống tình Chúa yêu ta là điều không thể thiếu.
Thiếu yêu thương
Căng thẳng phát sinh không phải do công việc nặng nhọc. Nó bộc phát bởi điều kiện bên ngoài tác hại con người bên trong. Điều kiện bên ngoài do con người tác tạo. Xã hội có người gây căng thẳng; lại có người chữa trị căng thẳng. Có người chữa vì lòng yêu mến. Cũng có người lợi dụng làm giầu trên lo lắng, đau khổ của kẻ khác. Kết quả kẻ là nạn nhân; kẻ là tác giả gây căng thẳng. Cũng có trường hợp tác giả cũng chính là nạn nhân, thật đúng câu: gậy ông đập lưng ông. Sở dĩ có tình trạng tréo cẳng ngỗng như thế vì người ta từ chối, không đón nhận tôn thờ một Thiên Chúa yêu thương. Chối bỏ tình yêu Chúa con người không biết cách diễn tả tình yêu chân chính. Tưởng hành xử như thế là yêu nhưng thực ra phản lại tình yêu. Chúa là Đấng duy nhất dậy ta biết cách diễn tả tình yêu trọn hảo nhất. Ngoài cách Chúa dậy, mọi cách khác đều không trọn hảo.
Các ý kiến mâu thuẫn trong việc giải thích tình yêu. Ý nào cũng tự hào là đúng nhất. Điều gì bảo đảm cách này đúng hơn cách kia? Thưa, sức mạnh đồng tiền và vũ khí. Giầu, mạnh hơn đúng nhiều; nghèo, yếu hơn đúng ít. Tiền và vũ khí gieo oán hận, tang thương. Nơi đâu có ân oán, tang thương; nơi đó vắng bóng tình yêu chân chính. Khi có nhiều ý kiến nghịch nhau giải nghĩa chữ yêu thì cần phải chọn lựa.
Chúa là Đấng duy nhất đủ thẩm quyền dậy về tình yêu. Chính Con một Chúa làm gương tình yêu cho nhân loại soi. Mọi kêu gọi hy sinh trái với giới luật yêu thương của Chúa đều là gương giả hiệu. Từ chối lời Ngài là chọn sống trong tình trạng không biết Chúa. Không biết Chúa thì không biết yêu như Chúa yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Chúa chết để cứu chuộc ta nên tình yêu Ngài ban tặng là tình yêu chân thật.
Ân tình Chúa
Đức Kitô đưa ra lời khuyên cụ thể, xác thực. Lời khuyên đơn giản, cần thiết cho cuộc sống. Ngài biểu lộ tình yêu bằng cách lo lắng cho hạnh phúc của con người.
Tình yêu Chúa biểu lộ qua Tin Mừng.
Người rao giảng Tin Mừng, khuyên các ông nghỉ cho lại sức c.32
Đại chúng khi Ngài thấy họ bơ vơ nên chạnh lòng thương c.34
Nơi thanh vắng
Nơi thanh vắng là nơi không có người. Dù vắng người nhưng người tới đó không cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Nơi thanh vắng là nơi Đức Kitô gặp Chúa Cha. Nơi thanh vắng Kitô hữu gặp
– Lại mình
– Tha nhân
– Gặp Chúa.
Đến nơi thanh vắng để tâm hồn được thanh thản, thân xác bình an. Cách chữa bệnh bằng phương pháp tự nhiên này rất công hiệu cho mọi người. Không cần phải thầy thuốc. Chỉ cần nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Nơi thanh vắng không cần phải xa xôi, hẻo lánh. Nơi gần, tốt, an toàn và thanh vắng nhất chính là con tim mình. Nơi con tim cảm thấy yên tâm, thoải mái. Không còn bồn chồn, giao động, toan tính mà là yên tâm, bình an. Chính lúc thư giãn, yên tâm là lúc tâm hồn gặp được Chúa. Tâm hồn được bồi dưỡng bằng sức mạnh thần thiêng. Sức mạnh thần thiêng có khả năng tăng sức cho thân xác. Nơi thanh vắng là nơi cầu nguyện tốt.
Tâm hồn xao động không có bình an. Bất an không thể phục vụ. Có yêu Chúa chỉ là yêu bằng môi mép. Chúa không muốn điều đó.
Quân này yêu Ta bằng môi, miệng còn lòng chúng thì xa Ta’. Mt 15, 8
Nơi thanh vắng giúp ta nhìn lại bước đường đã qua. Kiểm lại bước chân lung lạc trên đường về quê trời. Nơi thanh vắng giúp ta nhìn vào chính mình, học hỏi, xem lại cách sống, cách đối xử với tha nhân và với Đức Kitô.
Xin giúp con xác tín ngoài Chúa ra không có tình yêu chân chính.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
– Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
– Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
– Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
– Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
– Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
***
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc.6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
****
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã “lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen.
(Suy niệm của Lm Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Trong số những hình ảnh Kitô giáo thời sơ khai vẽ trên những bức tường hang toại đạo ở Roma, người ta thấy hình vẽ Đức Kitô dưới hình ảnh một người chăn chiên trẻ trung không để râu, vai vác một con chiên. Chủ đề rất cổ xưa này trong nghệ thuật Kitô giáo thời sơ khai được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta chứng kiến Đức Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông quần chúng như là những con chiên không có người chăn.
Bối cảnh hôm ấy là khi các tông đồ trở về từ chuyến đi truyền giáo đầu tiên. Các ông mệt mỏi và cần nghỉ ngơi. Đức Chúa Giêsu biết thế, nên Người đưa các ông đến một nơi yên tĩnh để các ông có thể nghĩ ngơi và cầu nguyện đôi chút. Nhưng mọi chuyện đã không xẩy ra như ý. Đám đông đã xác định được nơi Thầy trò sẽ đến, nên họ đã kéo nhau đến đó trước. Ắt hẳn một số môn đệ của Đức Chúa Giêsu nghĩ rằng Thầy mình nên bảo họ trở về nhà, vì ngày hôm đó Người cũng đã làm việc nhiều rồi, nhưng Đức Giêsu đã không quay lưng lại với hoàn cảnh. Tình cảnh dân chúng thật đáng thương và Người đã ý thức đến nhu cầu của họ.
Chúng ta có thể rút ra một bài học từ thái độ quảng đại của Đức Chúa Giêsu khi Người đặt nhu cầu của tha nhân lên trên nhu cầu của chính mình. Nếu Đức Chúa Giêsu không giữ lại cho chính mình, thì những người đi theo Chúa cũng thế thôi. Qua ơn gọi thanh tẩy, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm Kitô Hữu, đều có phần nào đó trong việc chăn dắt những người Chúa trao cho chúng ta. Nhiều khi hình như chẳng ai để ý gì đặc biệt trong đời sống gia đình. Nếu con cái đang tuổi lớn không được chăm lo cẩn trọng và chỉ dẩn đúng hướng, chúng sẽ có nguy cơ lạc lối và lang thang vô vọng suốt đời vì không có mục đích nào cả. Trở nên người chăn chiên lành như ý Đức Kitô mong muốn thật là cả một chuỗi công việc vất vả khó khăn. Con đường Người muốn chúng ta đi theo là một con đường thẳng và hẹp của Thập Giới. Nếu như chúng ta không liên tục kết hợp với Đức Kitô trong lời cầu nguyện, chúng ta có nguy cơ loanh quanh luẩn quẩn rồi lại tìm những con đường khác hấp dẫn hơn.
Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tầm quan trọng của việc tìm một nơi yên tĩnh trong cuộc sống nơi mà chúng ta có thể một mình cầu nguyện với Đức Kitô. Giống như Đức Kitô, nhiều khi chúng ta phải tìm cách thoát khỏi những tiếng gọi liên tục, khỏi những áp lực luôn đè nặng, ngõ hầu chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa dịu êm chữa lành và bồi dưỡng chúng ta về mặt thiêng liêng. Người ta có thể nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa rõ nhất trong những giây phút lặng lẽ. Khi và chỉ khi nào Đức Kitô có chỗ cư ngụ trong trái tim chúng ta, chúng ta mới được khai mở đón nhận sức mạnh Thiên Chúa đến hỗ trợ đỡ nâng cuộc sống chúng ta.
Cầu nguyện một mình trong thinh lặng với Thiên Chúa là một trong những nhu cầu quan trọng nhất của chúng ta. Một mình đối diện với Ngài, chúng ta nên tự vấn mình sẽ đi đến đâu, sẽ cố gắng làm gì để đạt tới chỗ đó. Nếu chúng ta không tạo ra những khoảng trống dành cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ lãng phí thời gian và không thấy gì ngoài những sinh hoạt hiện tại của mình thôi. Tất cả cuộc sống của chúng ta đã được thánh hiến, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được điều này nếu như chúng ta không trở nên môi miệng của Chúa; qua những nơi những người chúng ta thăm viếng, chúng ta trở nên đôi chân của Chúa.
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Đời sống cần có Chúa: “Họ như bầy chiên không có kẻ chăn”
Sau Tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay đến Tiên tri Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.
Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai thì họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Người. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên lên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây Thập giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôn chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” (9,2), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê (5,1), bờ biển Phênicia, (7, 24-31) hay gần nguồn sông Giodan dưới chân núi Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm tông đồ của mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” (1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống tông đồ là một đờ sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.
Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, Ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day…Trước khi khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,
Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
Người Việt nam chúng ta không làm nghề chăn chiên, nên ít có ấn tượng về hình ảnh sống động và mối liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Ở nước Do thái thời Chúa Giêsu thì khác, hình ảnh đàn chiên và chủ chăn rất quen thuộc. Môsê và các tiên tri đã dùng hình ảnh này để tiên báo về lời hứa cứu độ, về những mục tử tốt lành Chúa sẽ ban cho dân Chúa.
Từ sau thời Vua Salomon trở đi, không được mấy ông vua vừa lòng dân, nhiều vị vua sống ích kỷ, không màng chăm lo cho đất nước và dân tộc, làm cho dân chúng thất vọng về chế độ Quân Chủ. Trong thời gian đất nước chia đôi, và nhất là thời kỳ lưu đày, bị đô hộ, dân Israel càng mong mỏi có được vị vua công minh, vị mục tử nhân lành như lời Chúa đã hứa qua Môsê và các tiên tri: Chúa sẽ cho xuất hiện một Vị Tiên Tri lớn như Môsê, một Vị Cứu Tinh đem lại hoà bình cho trăm họ. Chính Tiên tri Giêrêmia cũng nhắc lại lời hứa của Chúa cho dân nghe: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền, Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Này, sẽ tới những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta.”
Lời Chúa hứa qua miệng tiên tri Giêrêmia đã được thực hiện. Đó là chính Đức Giêsu, thuộc dòng dõi vua Đavid. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, không phải bằng bạo lực, quyền hành kiểu thế gian nhưng bằng tình thương, lòng nhân hậu, bằng hy sinh, phục vụ hết mình vì hạnh phúc và hoà bình của nhân loại. Ngài là vị vua, là mục tử tốt lành. Ngài đến không phải để tìm lợi lộc cho chính mình nhưng tìm lợi ích cho tha nhân, cho mọi người chúng ta. Ngài là mục tử tốt lành, biết xót thương, biết sống vì người khác. Chẳng hạn, như trong bài Phúc âm hôm nay: dù Chúa Giêsu và các tông đồ đang có nhu cầu nghỉ ngơi, nhưng thấy đoàn lũ dân chúng kéo đến thì không kể mệt mỏi, cực nhọc đã tiếp tục giảng dạy, ban bố ơn lành cho họ.
Đức Giêsu vì chúng ta mà chết trên thánh giá để giải gỡ chúng ta khỏi xích xiềng tội lỗi và sát nhập chúng ta vào đoàn chiên của Ngài. Vậy, để đáp lại sự lo lắng và công ơn cứu chuộc đó, chúng ta phải làm gì cho đẹp lòng Ngài được vui. Tôi nghĩ, điều đẹp ý Ngài là:
1) Mọi người biết tuân giữ lời Chúa đã dạy. Đó là những điều rất ích lợi cho phần hồn và cả phần xác chúng ta nữa. Mọi người hãy luôn tỏ lòng yêu mến Chúa qua việc đi lễ đọc kinh mỗi ngày, ít là lo giữ ngày Chúa nhựt, thương mến và sống hoà thuận với mọi người chung quanh chúng ta vì mọi người là con cùng một Cha trên trời.
2) Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu vô biên, chúng ta cũng hãy yêu Chúa hết mình mới tương ứng phần nào với tình yêu Chúa. Đó là lẽ phải mà mọi người cần thực hiện ngay trên trần gian này. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy sẵn sàng đón tiếp mọi người, nhất là những sứ giả của Chúa: như quý linh mục, tu sĩ. Và vì lòng mến Chúa, chúng ta cũng giúp đỡ những người nghèo khổ vốn không có khả năng trả ơn chúng ta để chính Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta sau này.
Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành, xin cho chúng con nhận ra tình yêu Chúa đối với chúng con và biết đáp trả cho cân xứng phần nào với tình yêu đó.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô M. Hải Dương CRM)
Tin Mừng Chúa Nhật 16 hôm nay, Chúa Kitô nói tới nhu cầu nghỉ ngơi. Lời Chúa Kitô: “Các con hãy lui ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Điều khuyên rất thích hợp với thời điểm mùa hè này. Nhiều nơi thời tiết nóng bức lên tới cả trăm độ F thì việc nghỉ ngơi, ra biển, hay tới những chỗ mát mẻ là điều cần thiết.
Theo các nghiên cứu y học thì nhịp sống nghỉ ngơi rất cần thiết cho công việc làm hằng ngày. Sau khi nghỉ ngơi chúng ta có thể tiếp tục làm việc lại một cách đều đặn, vì trong lúc nghỉ ngơi thân xác chúng ta có thời gian thư dãn, phục hồi lại những năng lượng đã mất. Số năng lượng tái tạo mới này sẽ bổ sung cho nhịp độ làm việc kế tiếp. Nếu không có sự nghỉ ngơi, con người sẽ không thể nào tiếp tục làm việc một cách tích cực và hiệu quả được. Hy vọng sau những ngày nghỉ ngơi dài, ngắn, chúng ta vui tươi trở lại làm việc với tinh thần mới.
Đức Thánh Cha Bênêđict XVI vào những ngày hè này cũng rời Vatican để bắt đầu kỳ nghỉ hè kéo dài 2 tuần tại những vùng Bắc Ý, nơi cao, khí hậu mát mẻ. Chân Phước Giáo Hoàng John Paul II cũng rất hay lui tới vùng Bắc Ý qua các kỳ nghỉ hè trước đây. Và vì khí hậu Roma vào tháng 7 và tháng 8 rất nóng, nên tiếp theo sau thời gian nghỉ hè này các Đức Giáo Hoàng thường sẽ trở về cung điện mùa hè Castel Gandolfoi, cách Rome 18,5 dặm về phía Nam, để ở đó cho đến cuối tháng 09.
Nghỉ ngơi là điều được nhắc đến nhiều trong Thánh Kinh, như trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Ngôn sứ Giêrêmia nói: “Ta sẽ qui tụ phần còn lại của chiên Ta… và Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên, và tăng thêm” (Giêr. 23). Và trong bài Đáp Ca, Ngài sẽ: “dẫn tới dòng nước, chốn nghỉ ngơi, Người dẫn tôi đi, để làm sống lại tinh thần bải hoải.” (T V. 22).
Những lời này qui chiếu về Chúa Kitô, Ngài cẩn thận chú ý đến từng thành phần trong nhân loại. Trong bài Tin Mừng, Chúa Kitô lo lắng cho các môn đệ, vì họ mệt nhọc sau sứ mệnh tông đồ, rong ruổi từ những làng mạc tới những thành lân cận. Ngài nói: “Các con hãy đến chỗ thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút.” Vì nhiều khi các tông đồ bận rộn, không có thời giờ để ăn uống nữa.
Cuộc đời chúng ta cũng giống như cuộc đời các tông đồ là phụng sự Chúa Kitô, phục vụ gia đình và xã hội. Trong khi phục vụ, nhiều khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi và rất cần tới sự nghỉ ngơi. Kinh nghiệm bản thân, khi cuộc sống bận rộn, mệt nhọc, chúng ta ít kiên nhẫn, hay sinh ra bẳn gắt, nóng nảy, ảnh hưởng không tốt đến những phẩm chất những việc tốt lành và có khi ngay cả công việc tông đồ. Rồi từ đó biết đâu chúng ta lại có những phản ứng tiêu cực xẩy đến cho vợ chồng, con cái, đến những người thân, và cả những bạn bè.
Trong những bận bịu của cuộc sống, con người cần sự nghỉ ngơi, vì theo lời Thánh Grêgoriô Naziana: “Sợi dây không thể căng mãi và người bắn cung cần phải nới lỏng hai đầu cung, nếu muốn sau này lại giương lên bắn nữa”. Thánh Augustinô thì cho rằng Thiên Chúa muốn chúng ta càng làm việc thì càng phải ở trong tình trạng thể lý tốt, vì Chúa chờ đợi nhiều ở nơi chúng ta. Ngài nói: “Hỡi anh em, hãy coi Thiên Chúa yêu chúng ta dường nào, vì khi ta nghỉ ngơi, thật là Thiên Chúa nghỉ ngơi”.
Mong ước rằng tuy sự nghỉ ngơi là một nhu cầu cần thiết, chúng ta cũng hãy biết thánh hoá những sự nghỉ ngơi và giải trí này.
Trong sự thanh vắng, nghỉ ngơi của tâm hồn và thân xác, mỗi người cũng hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria để Mẹ dạy chúng ta yêu thích sự yên lặng và cầu nguyện.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Một hình ảnh được Thánh Kinh miêu tả lột được hết ý nghĩa nhân từ và thương yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, đó là hình ảnh của người chăn chiên nhân lành. Tìm đọc những trang Cựu Ước thân thương đó, Chúa Giêsu cũng lại ví mình như những mục tử nhân lành săn sóc đoàn chiên. Điểm nổi bật về tấm lòng mục tử của Chúa Giêsu là sự quan tâm, chăm sóc đến bày chiêm, từ việc dẫn chiên ra đồng, đến việc tìm đồng cỏ xanh tốt cho chiên ăn, từ việc chăm nom từng con chiên yếu đau bệnh tật, đến việc liều chết canh giữ bày sói rừng hung dữ…… Tất nói lên cái trách nhiệm lớn lao của một mục tử nhân lành.
Trách nhiệm của một Tổng thống cai trị một nước. Trách nhiệm của một Cha Xứ săn sóc một xứ đạo. Trách nhiệm của những người làm cha mẹ hướng dẫn và giáo dục một bày con trong gia đình…… thật lớn lao, thật quan trọng. Nhiều khi chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Cũng có lúc chúng ta cảm thấy một gánh nặng đè trên vai. Dân chúng làm reo, bổn đạo không phục quyền, con cái cãi lại cha mẹ. Đứng trước những khó khăn như thế trong đời, chúng ta phải làm gì? Chúng ta nên làm điều mà Chúa Giêsu đã làm là ” Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà cầu nguyện” (Mc.6:31). Khi cầu nguyện chúng ta sẽ cảm nhận được sự ủi an, sự khích lệ và nâng đỡ của Chúa để chúng ta đương đầu với mọi khó khăn. Cũng như xưa, khi Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây dầu, thì “Một Thiên Sứ từ trời hiện xuống an ủi và nâng đỡ Người” (Lc.22:43).
Khi ban hành một tài liệu mới, không những Đức Thánh Cha Gioan thứ 23, mà cả các Đức Thánh Cha khác nữa, các ngài đã để giờ đọc đi đọc lại tài liệu đó đó nhiều lần và để giờ cầu nguyện xin ơn soi sáng và khích lệ trước khi ban hành.
Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận, kể lại: “Trong thời kỳ triệt thoái của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, khi tôi còn là Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, quân đội Mỹ vây quanh tòa Giám Mục với xe tăng thiết giáp, tối đến không ai dám đi lại, đèn đóm trong tòa Giám Mục cũng thắp có giới hạn. Tình hình khẩn cấp lâm nguy đến nơi. Đêm ấy, tôi vào bàn giấy đọc kinh cầu nguyện và phó thác mạng sống trong tay Chúa Mẹ, Cầu nguyện xong, tôi vừa bước ra khỏi bàn giấy mươi phút thì súng nổ nã vào bàn giấy tôi ngồi và phòng tôi ngủ. Điện đóm nỗ tung, khói mù mịt, màn chiếu rách toang. Nghe tiếng nổ, tôi nép vào bức tường trách né. Đạn xuyên thủng tường ngay trên đầu tôi. Sau hồi súng nổ, cha Quản Lý từ nhà dưới chạy lên xem sét sự tình. Tạ ơn Chúa Mẹ, tôi vẫn còn sống. Số mệnh của tôi còn vững trong tay Chúa. Sáng hôm sau tôi ra hỏi toán lính Mỹ, họ cho hay đêm qua có Bộ Đội lẩn vào Tòa Giám Mục, nên chúng tôi được lệnh giữ an ninh cho ngài.
Số mạng tôi ở trong tay Chúa, Chúa gìn giữ tôi qua mọi nẻo đường. Dù bước đi trong đen tối chông gai, suốt 13 năm tù với bao nhiêu lần tôi tưởng chết, nhưng Chúa chưa cho thí mạng cùi. Ngài vẫn là Hy Vọng của đời tôi, Ngài luôn ở cùng tôi. Lời cầu nguyện và tín thác vẫn là con thoi sinh mệnh của tôi”. (Tâm sự riêng khi Ngài ghé thăm Đức Hồng Y Benadô Law tại Boston).
Tổng Thống Bush nhận thấy trách nhiệm nặng nề trên vai trước khi hạ lệnh đánh Iraq để tiêu diệt quân khủng bố, ông đã để nhiều thời giờ thăm dò dư luận của giới lãnh đạo thế giới và đắn đo suy nghĩ về kế hoạch mình sẽ thực hiện, cũng như ông đã dùng nhiều giờ cầu nguyện để được lòng can đảm và sức mạnh tiếp tục thi hành một bổn phận nặng nề và nguy hiểm trước thế giới. Cầu nguyện đã trở nên một sứ điệp thực tiễn và cần thiết để được Chúa ban ơn và nâng đỡ.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời Thánh Vịnh 22, 1-3: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm 627-587 trước Công Nguyên. Quan niệm thần học chính của Giêrêmia cũng như các tiên tri khác là mời gọi dân chúng cải tà qui chánh. Vì tội lỗi của dân Judah, Yahweh Thiên Chúa đã phá huỷ thành quách do bởi Vua Babylon là Nebuchadrezzar. Tiên tri Giêrêmia là một trong các tiên tri có thế giá nhất. Sứ mệnh của tiên tri trong thời gian bất thường, kéo dài suốt 40 năm tao loạn của cộng đồng ở Giêrusalem. Ngài cùng thông phần chia sẻ những khốn khó và khổ đau với dân chúng. Tiên tri dẫn dắt mọi người đặt niềm tin tưởng và hy vọng vào sự giải cứu trong tương lai. Giêrêmia đã không ngại nói thẳng và nói thật khi phải đụng chạm với các chủ chăn. Ngài cảnh cáo: Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đoàn chiên Ta” (Gr 23,1).
Lời Tiên tri Giêrêmia giúp chúng ta suy tư một chút về vấn đề mục vụ và phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Nếu không được sai đi, không ai tự mình lãnh nhận trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Thời Cựu Ước, Môisen đã dành ra một chi tộc Lêvi để phục vụ trong việc cầu nguyện, dâng hương, giảng dạy lề luật, hiến thánh và chúc lành (x. Ds 1,47-50). Tiếp theo là các vị tư tế được chọn lựa trong dân để phục vụ. Sứ mệnh phục vụ dân Chúa là việc tốt lành thánh thiện cần được huấn luyện trau dồi và được sai đi. Thời xưa, các vua chúa nắm quyền hành và hướng dẫn dân chúng cả việc đạo lẫn việc đời. Các vua Chúa như vua Saulê, Đavid, Solômon và những vua kế vị như vua Josiah, Jehoiakim và Zedekiah có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tình thần của đoàn dân. Hầu hết các vua Chúa đã bị lung lạc, sống buông thả và đưa dân chúng vào ngõ cụt thờ bụt thần của ngoại bang.
Tuần qua, chúng ta nói về Bài Sai gởi các nhân chứng ra đi vào cánh đồng truyền giáo. Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều về sự huấn luyện các nhân chứng tin mừng cả về trí, đức và dục. Mỗi một tu sĩ nam nữ hay tân linh mục đã được thừa hưởng gia sản giáo dục rất phong phú. Để trở thành một linh mục, ít nhất các ứng viên cũng phải trải qua nhiều năm tháng tu luyện và học hỏi ở trường lớp. Về mặt tri thức, qua chương trình trung học phổ thông, các ứng sinh phải có bằng cử nhân Triết học, hoặc nếu có cử nhân về các môn học khác, thì cần các tín chỉ 2 năm về Triết học. Phải trải qua 4 năm thần học với bằng cử nhân Thần học và Cao học (MDiv. hoặc MA) cộng với các kinh nghiệm từng trải trong thời gian giúp xứ và mục vụ thử luyện tại các giáo xứ, trường học hay bệnh viện… Các linh mục dòng còn cần thời gian dài hơn trong sự huấn luyện cả về tu đức lẫn học hỏi chuyên môn. Điều quan trọng hơn hết là các ứng sinh linh mục cần có thời gian sống và kết hợp tương quan mật thiết với Chúa Giêsu linh mục. Tất cả các việc mục vụ và phục vụ của các linh mục và tu sĩ đều quy về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi linh mục nhận Bài Sai về các cộng đoàn, giáo xứ hoặc sinh hoạt trong các ban ngành chuyên môn, họ khả dĩ có đủ khả năng để phục vụ. Nói chung, linh mục nào cũng có sự hiểu biết căn bản về Giáo Hội và các môn thần học, nhưng mỗi vị có những cá tính khác nhau. Căn cốt của sự hiểu biết như nhau, nhưng mỗi người có những khả năng chuyên môn và cách hành xử khác nhau. Mỗi linh mục phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa và bề trên về công việc mục vụ và phục vụ của mình. Mỗi linh mục và tu sĩ đều có địa chỉ được sai đến, có cộng đoàn để phục vụ và trách nhiệm phải chu toàn.
Lý tưởng thì rất cao trọng và ý hướng phục vụ rất tốt lành. Trong thực tế cuộc sống, các mục tử không tránh khỏi những sự yếu đuối, sai lầm và trì trệ. Là con người, đôi khi cũng bị rơi vào những tham, sân, si hoặc lười biếng trễ nải. Các linh mục cũng có khi sa vào những cạm bẫy nghiện ngập như bài bạc, rượu chè, truỵ lạc và tham lam của cải thế gian. Rồi nữa, mục tử cũng không tránh khỏi những đua đòi, gây ảnh hưởng, tìm chỗ đứng và bon chen chợ đời làm suy yếu đời sống đạo. Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng có nhiều linh mục sống đức độ, thánh thiện và phục vụ quên mình cho đoàn chiên. Có những linh mục cũng vì nhiệt tâm cho nhà Chúa, nhưng không đáp ứng thoả mãn những đòi hỏi của giáo dân nên gây ra nhiều hệ luỵ. Có khi vì linh mục muốn chu toàn lẽ đạo theo lề luật của Giáo Hội mà bị coi là khó khăn, cố chấp và độc tài. Có khi vì đi theo chính dòng truyền thống của Giáo Hội, cũng có thể bị giáo dân chê bai là lỗi thời và chậm tiêu. Bởi thế, trong lòng Giáo Hội, nơi các cộng đoàn và giáo xứ luôn xảy ra những lủng củng, chia rẽ và bất cập. Trong mọi trường hợp, chúng ta đừng vội xét đoán và kết án, kẻo bé cái lầm.
Thường thì mục tử nào cũng có ý ngay lành muốn đàn chiên của mình được đoàn kết, yêu thương và gắn bó nhưng thực tế cuộc sống có nhiều phức tạp khó lường. Những thị phi và hoạ phước của con người có thể gây những phiền hà trong đời sống cộng đoàn. Chúng ta biết rằng nếp sống chung luôn là một sự thách đố. Người ta thường nói “trăm người trăm ý”. Ý kiến của ai cũng hay và cũng có lý, nhưng có thể không luôn thích hợp. Chính những sự khác biệt và mâu thuẫn này đã tạo nên những hố sâu ngăn cách và tị hiềm lẫn nhau. Các mục tử cần có sự khôn ngoan với lòng bao dung và biết lắng nghe để giúp khai thông những bế tắc. Các mục tử cần sự thinh lặng cầu nguyện và tìm sự hướng dẫn qua lời chỉ dạy của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta hãy học theo gương của Thánh Phaolô Tông đồ sống khiêm hạ và phó thác. Thánh Phaolô đã tự khoe mình: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9). Linh mục như những bình sành dễ bể, chúng ta phải cậy dựa vào tình thương và ân sủng của Chúa để thắng vượt các cơn cám dỗ.
Điều quan trọng hơn hết là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lui về nghỉ ngơi một chút. Chúa Giêsu bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Mỗi mục tử hãy dùng thời gian để kiểm điểm và suy xét lại đời sống dâng hiến của chính mình. Ý thức trong mọi suy tư, lời nói, hành động, trách nhiệm và bổn phận của mình. Biết rằng Chúa không đòi chúng ta phải nên giống người này hay người nọ, nhưng hãy chu toàn sứ mệnh được trao ban. Đây là một thách đố trường kỳ đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn và khiêm hạ. Thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức để phục hồi năng lực rất quan trọng. Nghỉ ngơi để xả bớt những gánh nặng lo âu và căng thẳng. Chúng ta thường tò mò tìm hiểu những thế giới bên ngoài, sao không dùng đôi phút để tìm hiểu con người bên trong của mình. Tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi sẽ làm tâm hồn chúng ta được thư giãn để kết hợp với Chúa trong nguyện cầu.
Linh mục dù phải chạy đua với công việc thường ngày nhưng luôn nhớ gắn kết với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện. Chúng ta không thể đáp ứng thoả mãn các nhu cầu cuộc sống trong mọi trường hợp. Chúng ta phải biết tự giới hạn và chọn lựa thích đáng. Đôi khi phải biết nói ‘không’ khi những đòi hỏi không cần thiết. Người ta thường nói cả nể cho nên sự dở dang là thế. Người mục tử của ngày hôm nay đòi hỏi phải hy sinh phó thác và từ bỏ nhiều hơn. Linh mục luôn học sự cảm thông và nhẹ nhàng chia sẻ. Thông thoáng mà không quá dễ dãi. Nguyên tắc mà không khắc nghiệt.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm. Chúa là chủ chiên tốt lành đã dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, xin cho chúng con trở nên những mục tử biết hy sinh cuộc sống riêng để phục vụ tha nhân trong Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu trong thân phận con người, vẫn là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của con người. Ngài là vị Mục tử nhân lành hằng săn sóc đến mọi con chiên. Bài Tin mừng hôm nay minh họa cho chúng ta thấy lòng nhân ái của vị mục tử này.
Ngài quan tâm đến hết mọi người: các Tông đồ cũng như dân chúng. Ngài hằng quan tâm đến những nhu cầu của con người, dù chỉ là những người vô danh tiểu tốt hay nhỏ bé tầm thường nhất. Ngài đã không nỡ làm ngơ hay dửng dưng trước những nỗi khổ của con người, cho dầu họ là ai. Ta có thể tóm gọn đường hướng mục vụ của Vị Mục tử này là “Tất cả vì con người”. Vì thế, Ngài không sợ bị họ quấy rầy, sẵn sàng đón tiếp và thỏa mãn những nhu cầu của họ.
Ngoài ra, Đức Giêsu cũng khích lệ các Tông đồ hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau cuộc truyền giáo đầy vất vả khó nhọc. Nhưng nghỉ ngơi tĩnh dưỡng không có nghĩa là không làm gì mà nghỉ ngơi là xem lại công việc mình đã làm để điều chỉnh cho đúng hướng; đồng thời cũng là để lấy sức cho những công việc tiếp theo. Như vậy, theo ý Đức Giêsu, thinh lặng nghỉ ngơi rất cần thiết cho đời sống tu trì, cho việc truyền giáo cũng như cho mọi hoạt động khác.
+ Bài đọc 1: Gr 23,1-6.
Chúng ta có thể chia trích đoạn này thành hai phần:
+ Bài đọc 2: Ep 2,13-18.
Theo trích đoạn thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Êphêsô, chúng ta có thể tìm ra được hai ý chính:
+ Bài Tin mừng: Mc 6,30-34.
Bài Tin mừng hôm nay cũng có thể chia thành hai phần:
Đức Giêsu động lòng thương.
Đây là lần đầu tiên và duy nhất, Marcô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (apostoloi), có nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Như vậy chắc hẳn Marcô muốn đánh dấu một quan hệ mới của họ với Đức Giêsu. Chúa nhật vừa qua, ta đã nghe Ngài dặn dò các Tông đồ khi sai các ông đi rao giảng Tin mừng. Hôm nay các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông kể lại cho Chúa những việc đã làm, giảng dạy và làm phép lạ, thành công và thất bại, kể cả những sự chống đối, khước từ và lãnh đạm…
Marcô tóm lược tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện “làm” và “nói”. Đó cũng là hoạt động của Đức Giêsu: những hành vi thương xót, giảng dạy. Ngài và các Tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc. Đức Giêsu lắng nghe các ông với sự chú ý đầy tình âu yếm và khích lệ họ. Ngài chia sẻ niềm vui với các ông , nhưng nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt sau một cuộc truyền giáo, nên Ngài bảo:”Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Chúng ta phải công nhận Đức Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể làm việc được. Đức Giêsu đề nghị với các ông đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là “Stress” có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác của con người.
Điều này nhấn mạnh rằng Đức Giêsu muốn bảo các Tông đồ sống riêng với Ngài, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn đối với Ngài và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Đức Giêsu chọn các Tông đồ “Để ở với Ngài” trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14) và ngay sau khi đi truyền giáo về, Ngài cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Ngài.
Ngoài ra, ở đây ta cũng thấy Đức Giêsu không đề cập tới công việc của các ông, nhưng Ngài lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông:”Các con hãy nghỉ ngơi một chút” chứng tỏ rằng Ngài săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.
Đức Giêsu muốn cùng các Tông đồ xa rời đám đông sang bên kia Biển hồ để Thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau. Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng đoán trước được thuyền của các Ngài định đi đến đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng 10 cây số, dân chúng không quản ngại cuốc bộ, nên họ đến trước Đức Giêsu.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy dân chúng đã đợi sẵn ở đó thật đông, Ngài chạnh lòng thương họ, quên cả ý muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho mình và cho các Tông đồ. Ngài chạnh lòng thương vì đám dân này sống bơ vơ như đàn chiên không có người chăn. Sở dĩ Đức Giêsu coi họ như đàn chiên không có người chăn vì trong Cựu ước, những người có bổn phận phải dạy dỗ dân chúng là những vị thuộc hàng tư tế, những vị tiến sĩ luật, song các ông đã biếng nhác sao lãng bổn phận, vì phần đông chỉ lo tìm tư lợi.
Thánh Marcô, giống như nhà quay phim tài ba, đã thu cảnh đượm khuôn mặt Đức Giêsu lúc Ngài rời khỏi thuyền bước lên bờ, một khuôn mặt dịu hiền khôn tả, khuôn mặt của người cha nhân hậu, khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, khuôn mặt của một vì Thiên Chúa không ngăn nổi nhịp đập thổn thức của con tim giầu lòng thương xót và hay trắc ẩn. Để thay vì Thầy trò quay lưng lại tìm đường khác trốn chạy thì Ngài và các Tông đồ lại bước lên bờ tiếp xúc với họ và Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Ở đây Marcô chỉ nói trống “Ngài dạy họ nhiều điều” mà không xác định Ngài đã dạy gì. Nhưng Luca có ghi rõ (Lc 9,10-11): Ngài đón tiếp họ, nói cho họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy” nhiều điều này”đã chứng thực lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa mang “Trái tim đa cảm” trước đau khổ của con người. Chưa bao giờ Ngài nặng lời với hạng người mang tiếng là “tội lỗi” hoặc khước từ thi ân giáng phúc cho những người bé mọn. Ngài là một bậc thầy nhân ái biết lắng nghe các môn đệ phúc trình công việc, nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi. Ngài cũng tỏ lòng nhân ái khi thấy đám dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn và dạy dỗ họ nhiều điều. Để tỏ lòng biết thương người, chúng ta hãy làm một số việc sau đây:
Bài Tin mừng diễn tả: chung quanh Đức Giêsu lúc nào cũng có đám đông muốn nghe lời Chúa và muốn được Ngài thi ân. Ngài làm việc không biết mỏi mệt. Thậm chí các Tông đồ vừa đi truyền giáo về mệt nhoài, cần sự tĩnh dưỡng nghỉ ngơi bên Chúa, nhưng cũng không được. Chương trình nghỉ ngơi đã bị phá vỡ vì dân chúng lại đến quấy rầy, họ muốn nghe lời Chúa, họ muốn được chữa bệnh, việc đó làm cho Ngài và các Tông đồ bận rộn đến nỗi không có thời giờ ăn uống.. Nhưng trước hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu đã phản ứng ra sao? Không bực dọc, Ngài tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Ngài. Ngài xúc đdộng vì thương yêu họ. Những bậc thầy chính thức không có thời giờ dành cho dân thường, nhưng Đức Giêsu dành thời giờ cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Ngài.
Truyện: Sẵn sàng bị quấy rầy.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư:
– Bạn xoay sở thế nào để làm việc được với quá nhiều lần gián đoạn như thế?
Ông giáo sư trả lời:
– Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi.
Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường (Flor McCarthy).
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta.
Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói:
“Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và – Nào ai biết được? – Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.
Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn độ, đã viết trong tập tự thuật của ông:”Từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người. Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình”. Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay những người khách đó, họ không bao giờ trở lại nữa.
Truyện: Không chịu tiếp khách.
Ông Premanand tiếp tục kể lại một câu chuyện mà đáng lẽ ra có thể đã làm thay đổi toàn thể chiều hướng truyền đạo tại Bangal: Người ta ghi lại rằng Giám mục đầu tiên của thủ đô Ấn độ đã không chịu gặp Pandit Vidyasagar của Bangal cách chính thức. Ông Pandit được phái đi làm người phát ngôn cho cộng đồng Ấn độ giáo ở Calcutta để thiết lập quan hệ thân hữu với vị giám mục và với Giáo Hội Kitô.
Ông là người sáng lập trường cao đẳng Ấn độ giáo ở Calcutta, là nhà cải cách xã hội, một tác giả, và nhà giáo dục có tiếng, đã trở về bất mãn vì không gặp được vị giám mục. Ông thành lập một đảng mạnh gồm toàn những người giầu có và trí thức ở Calcutta để chống đối giám mục và Giáo hội, ngăn chặn sự bành trướng của Kitô giáo…
Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức lễ nghi, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến cuộc sống riêng tư của mình mà đã làm mất cơ hội cho Chúa. Đức Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ ; họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được.
Đức Giêsu luôn quan tâm săn sóc mọi người khi họ cần đến Ngài. Ngài sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường Giairô cứu con gái ông sắp chết (Mc 5,21-24. 35-43). Ngài sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của một viên sĩ quan đại đội trưởng đến chữa bệnh cho đứa đầy tớ của ông. Ngài đã dành biết bao thời giờ cho việc rao giảng Tin mừng và chữa bệnh. Ngài không mệt mỏi phải thi ân. Ngài luôn quan tâm săn sóc mọi người.
Quan tâm săn sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Một số người muốn săn sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã chỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ.
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu săn sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Khi chúng ta dành thời giờ để chăm sóc người khác, là chúng ta đang sống Tin mừng.
Truyện: Cần được viếng thăm.
Chân phước Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi Mẹ rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế? Chị điều dưỡng đáp:”Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến”! Câu nói này ám ảnh Mẹ Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất (Flor McCarthy).
Tôi đã có dịp đọc cuốn “No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đọa đầy, bỏ rơi, một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.
Đọc trong Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn thông cảm với những đau khổ của con người, ví dụ Ngài khóc thương thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19,44), khóc thương người con trai của bà góa phụ thành Naim khi người ta đem chàng đi chôn (Lc 7,11-17) và khóc thương bên mồ Lazarô đã chết bốn ngày (Ga 11,1-14). Đó là ba trường hợp Đức Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta. Đức Maria cũng tỏ ra lo lắng khi chủ nhà giữa tiệc hết rượu tại Cana, Ngài đã xin Đức Giêsu can thiệp và phép lạ nước thành rượu đã được thực hiện (x. Ga 2,1-11).
Thánh Phaolô tông đồ đã đưa ra một học thuyết mới về thân thể Đức Kitô: Giáo hội là một thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, thánh Tông đồ dân ngoại đã khuyên chúng ta phải biết thông cảm với nhau:”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,14).
Người đời cũng nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người có nhu cầu vật chất cần trao đổi, có những tình cảm cần phải được chia sẻ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, đời sống con người mới được quân bình. Quan niệm này được diễn tả ra qua những câu ca dao tục ngữ:
– Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ.
– Chị ngã em nâng.
– Lá lành đùm lá rách.
– Máu chảy ruột mềm.
– Không ai khen đám cưới, ai nỡ cười đám ma.
Tuy nhiên, trong việc thông cảm với nhau phải biết lựa lời nói cho thích hợp với hoàn cảnh kẻo làm phật lòng người ta. Nói đúng ra, đấy là một lối thông cảm trái mùa.
Truyện: Thông cảm trái mùa.
Hai người đàn bà đi trong xe hỏa nói chuyện với nhau. Bà mặc áo đen kể lể với người bạn về những sự khổ cực trong gia đình mình: nào là làm ăn thua thiệt, con cái bướng bỉnh… nhất là mình mới mất người chồng thân yêu, làm cho đời trở nên buồn tẻ, cô đơn.
Bà mặc áo vàng ngồi bên tỏ vẻ thông cảm với người đàn bà đau khổ kia đã nói: Tôi cũng rất buồn vì tôi mới mất một con chó Vện, con chó này khôn lắm, nó biết canh nhà cẩn thận, tôi đi đâu nó cũng tìm đến được, thật là con chó đánh hơi rất tài tình. Nay nó chết, tôi buồn quá… Như vậy hai chị em mình cùng chia sẻ nỗi buồn với nhau !!!
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các Tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Ngài lại quan tâm đến con người hơn là công việc, nên Ngài khuyên các ông:”Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).
Đức Giêsu khích lệ các ông đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh, chắc chắn vượt xa hơn cảnh huống cụ thể của đời thường. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ cuộc sống đứng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến giai đoạn suy tư “bên trong”.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời:”Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi”.
Ernest Hello cũng quả quyết:”Tâm hồn càng nhận được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động”.
Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của ông:”Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của mình cho ngay thẳng”.
Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”. Đức Giêsu làm gương yêu thích sự thinh lặng và dạy môn đệ theo con đường đó. Và nó rất cần thiết cho đời sống tu trì cũng như đời sống hoạt động, đặc biệt cho các nhà truyền giáo.
Đức Giêsu không nghĩ đến mình, Ngài chỉ quan tâm đến người khác. Ngài rất nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Ngài đáp ứng những nhu cầu của họ nhằm đưa họ đến hạnh phúc. Hạnh phúc của người khác là đối trọng tình thương của Ngài. Mỗi người chúng ta có đời sống riêng tư, được sắp xếp theo ngăn nắp, hợp lý, chúng ta có quyền bảo vệ sự quân bình ấy, nhưng nếu có đôi lúc phải hy sinh cái lợi ích riêng tư ấy vì hạnh phúc của người khác, chúng ta hãy coi đó là một nhiệm vụ.
Xin cho con một quả tim như Chúa,
Biết cảm rung trước những nỗi đớn hèn,
Những bất toàn, những bất hạnh của anh em.
Để con không nỡ quay lưng tìm đường trốn chạy.
Xin cho con một trái tim nhân ái,
Biết chạnh lòng thương cảm trước tha nhân.
Dầu khi con muốn tìm chút an nhàn,
Muốn được hưởng chút niềm vui chính đáng.
Xin cho con đừng bao giờ than vãn,
Khi bị quấy rầy, đeo đuổi với nỉ non.
Bởi bao lâu mà đau khổ vẫn còn,
Thì tình Chúa vẫn dạt dào trong Chúa,
Cùng rung lên nhịp điệu của Thánh Linh.
Cho con dám dấn thân vì Chúa quên mình,
Bởi Chúa đã vì yêu mà trao ban tất cả.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn con người nhiều, nhưng chúng ta cao quý hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc? Tại sao chúng ta quý trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?
Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi chiếm hết không? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ ngày ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng mệt nhọc ấy…Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế có người nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị huyết áp cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa…
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm mà nghỉ là người lười.
Vì vậy, “Hãy nghỉ ngơi đôi chút” như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giản, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu Ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đa-vít để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông, nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mu-ke-di, một hôm hỏi thầy giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bê-na-rét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?”. Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi khoản một nguồn sống không?”. Mu-ke-di thưa: “Thưa thầy, con không tin như vậy”. Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất bại là ở đó”.
Ông Uyn-li-am Phin-lơ, môt doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hằng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe ra-đi-ô hay ca nhạc, không xem ti-vi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, ra-đi-ô, ti-vi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy?”. Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu-tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim. Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì? sẽ đi về đâu? vì sống là gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Ki-tô cho nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.
Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích, nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống còn của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”, đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
43. Thiên Chúa chăm sóc đoàn chiên Ngài
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Người ta thường gọi các kitô hữu là những “con chiên” của Chúa. Nói như thế nghĩa là gì? Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết được làm con chiên của Chúa thì sẽ hạnh phúc như thế nào. Xin Chúa cho chúng ta hiểu được hạnh phúc của chúng ta và luôn vui sống dưới sự chăm sóc của Chúa là mục tử chúng ta.
Chúng ta ít nghĩ đến tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Chúng ta chưa gắn bó với các tín hữu khác là những người sống trong cùng một đoàn chiên Chúa với chúng ta.
Chúng ta không vâng nghe các mục tử mà Chúa đã đặt lên để hướng dẫn chúng ta.
III. Lời Chúa
Trích đoạn này gồm 2 phần:
Trong phần đầu, Thiên Chúa trách “các mục tử Israel”. Đó là các vua và các tư tế. Lẽ ra họ phải chăm sóc chu đáo cho đoàn chiên của Ngài là dân Do thái. Nhưng trái lại họ phân tán và xua đuổi chúng.
Trong phần sau, Thiên Chúa nói Ngài sẽ lấy đoàn chiên ấy lại và đích thân chăm sóc: quy tụ những con chiên tản lạc, dẫn chiên đến đồng cỏ, che chở chúng khỏi mọi nguy hiểm. Thiên Chúa còn hứa sẽ cho từ nhà Đavít nổi lên một mục tử đích thực. Đây là lời hứa ban Đấng Messia.
Tv này rất quen thuộc với chúng ta. Đây là bài ca tụng Thiên Chúa như một mục tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát. Lại che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Tv bày tỏ niềm tin tuyệt đối rằng được sống dưới sự chăn dắt của Thiên Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì nữa.
Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng Tin Mừng. Trong bài này, các ông trở về hân hoan báo cáo những thành công của mình.
Đức Giêsu rất nhân bản, Ngài bảo các ông tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Thầy trò xuống thuyền chèo đến một nơi yên tĩnh.
Nhưng vừa ra khỏi thuyền, Đức Giêsu lại thấy dân chúng kéo đến đông đảo. Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ như một đoàn chiên bơ vơ không người chăn. Thế là Ngài bỏ nghỉ ngơi, tiếp tục dạy dỗ họ.
Thánh Phaolô trình bày cho những tân tòng ở Êphêxô hiểu về hai ơn trọng mà Chúa đã ban cho họ: ơn hòa giải và ơn quy tụ.
Ơn hòa giải: trước đây có một bức tường ngăn cách người Do Thái với người ngoại. Nhưng Đức Kitô đã phá đổ bức tường ấy để tử nay Do Thái và dân ngoại hòa giải với nhau.
Quy tụ: trước đây dân ngoại như những con chiên tản mác khắp nơi. Nhưng Đức Giêsu Kitô đã quy tụ họ lại trong cùng một đoàn chiên với dân do thái. Từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài.
* 1. Con tim mục tử
Hình ảnh Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này thật dịu dàng và rất đáng kính mến, vì Ngài có một trái tim rất nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác:
– Các môn đệ trở về sau chuyến đi thực tập truyền giáo. Các ông vui mừng vì những thành công, hăng hái kể chuyện cho Ngài nghe, quên hết những mệt nhọc. Nhưng con tim mục tử của Đức Giêsu biết họ cần được nghỉ ngơi. Ngài dịu dàng bảo họ “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút”.
– Khi đã đến chỗ có thể nghỉ ngơi, Đức Giêsu thấy dân chúng kéo đến với mình. Con tim mục tử lại xúc động, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài liền hy sinh sự nghỉ ngơi để tiếp tục giảng dạy họ.
Từ đoạn Tin Mừng này, chúng ta rút ra được hai điều:
– Thứ nhất: chúng ta hãy vui sướng vì được làm một con chiên đang sống dưới sự chăm sóc của một Vị mục Tử giàu tình thương như thế. Ngài biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cảm thấy điều cần đó, và Ngài lo liệu đầy đủ cho chúng ta.
– Thứ hai: chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng tại sao có một con tim giống như Ngài, một con tim biết xúc động và biết mở rộng trước nhu cầu của người khác, vì quả thực rất nhiều khi con tim của chúng ta đã chai lì, băng giá và khép kín.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v. Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồ ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào cẳng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tỉnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh… Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê miền biển, miền núi… Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó… Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tỉnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các Giám mục, linh mục, Tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rãnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
– Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
– Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
– Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào… Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ… Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: “Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong giá, và để xem trời giải nghĩa yêu…” Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tỉnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa”. Câu nói ấy của Thánh Phaolô trong thư Ngài gửi cho giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của Thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin mừng hôm nay là Lời Chúa khuyên: “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…” Để thực hiện Lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ – nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước: người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy? do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède: ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên “Eureka” (nghĩa là: “Tôi đã khám phá ra rồi”) và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh: “Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thầy dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v… tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép.”
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tan hoang, sinh mạng con người bị đe doạ từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, Bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào, gọi là phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn: “Chúng ta hãy sống Tin mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin mừng, từng câu, từng chữ”.
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như Thánh Phanxicô Thành Assisiô, câu “Phúc cho những người nghèo” đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một Dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét…
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quý chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn dấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quý ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa: không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các Bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có linh mục không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới v.v. Nếu chúng ta chỉ biết có các Bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay; thánh Marcô ghi nhận rằng: Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
Một người kia đến thăm người bạn của mình làm giáo sư tại một trường đại học lớn. Trong lúc hai người đang trò chuyện với nhau trong văn phòng của vị giáo sư thì những sinh viên thường tới gõ cửa để xin ý kiến về vấn đề này vấn đề nọ. Mỗi lần như thế thì câu chuyện bị gián đoạn vì vị giáo sư phải rời chỗ ngồi đi ra trả lời cho sinh viên. Cuối cùng người bạn hỏi: “Làm sao anh có thể làm việc được nếu công việc cứ bị gián đoạn mãi như thế?” Vị giáo sư đáp: “Ban đầu tôi cũng rất bực bội. Nhưng về sau, tôi chợt ý thức rằng công việc chính của tôi chính là những lúc bị gián đoạn như thế”.
Vị giáo sư có thể đóng cửa, không tiếp ai hết, để miệt mài với công việc. Làm thế thì ông có thể được yên tĩnh. Nhưng vì là một con người quảng đại hay giúp đỡ, ông không thể làm thế. Thay vào đó ông coi việc tiếp xúc và giúp đỡ sinh viên là việc chính của mình. Bởi đó, không lạ gì ông được sinh viên quý mến, và ông là người hạnh phúc nhất và hoàn thành trách nhiệm giáo sư tốt nhất trong trường Đại học.
Vị tha vừa dễ mà cũng vừa khó. Dễ là khi việc phục vụ người khác là do ta tự ý chọn, nhờ đó ta chẳng những không cảm thấy bực bội mà còn thoải mái. Còn khó là khi ta phục vụ mà miễn cưỡng, thành ra bực bội và khó chịu.
Một hành vi được xét là tốt không do tầm quan trọng của nó, mà do tấm lòng của người làm hành vi đó: sẵn sàng chấp nhận nếp sống bị xáo trộn để giúp đỡ người khác, sẵn sàng tạm gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác.
Như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu rất bận rộn với biết bao công việc, đến nỗi không có giờ để ăn uống. Ngài vừa định cùng các môn đệ đi tới một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi thì dân chúng lại kéo đến. Thấy vậy, “Ngài chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Mặc dù biết phục vụ người khác là tốt, nhưng nhiều người chỉ muốn phục vụ một chút thôi, miễn là việc phục vụ đó đừng quá quấy rầy, đừng xáo trộn nếp sống quen thuộc của họ. Nhưng như thế không phải là phục vụ. Đức Giêsu đã phục vụ khi sẵn sàng cho người khác quấy rầy, làm xáo trộn chương trình của Ngài. Cha mẹ chúng ta cũng thế: biết bao lần các ngài đang ngủ giữa đêm phải thức dậy để chăm sóc con cái?
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
– Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
– Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
– Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
– Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
– Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
****
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc. 6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
P.Doncocur đã quả quyết: “Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”. Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.
****
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã “lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu muốn có những giây phút nghỉ ngơi với các tông đồ, nhưng thấy dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Người lo chăn dắt họ, Người thật là mục tử nhân hậu điển hình. Chúng ta hãy cầu nguyện:
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu là vị chủ chăn điển hình, xin sai đến với chúng con những vị chủ chăn xứng đáng với Chúa, và xin cho chúng con trở thành đoàn chiên ngoan ngoãn của Chúa, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha: Trong tinh thần hiệp nhất của đoàn chiên quanh chủ chiên nhân lành là Đức Giêsu, chúng ta hãy sốt sắng cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh chính Đức Giêsu đã dạy.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng … Xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời”.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Anh chị em hãy ra về và sống an bình, đừng lo lắng gì cả, vì có Chúa là mục tử luôn chăm sóc mỗi người chúng ta. Chúc anh chị em được bình an.
Hẳn chúng ta đã biết một người nổi tiếng trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vào khoảng thập niên 50, đó là mục sư Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo hàng đầu được cả triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ coi ông như một vị anh hùng. Mà quả thật, nếu không có ông, thì họ sẽ bơ vơ như đàn chiên không ai chăn dắt.
Một đêm nọ vào lúc một giờ sáng, ông bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Khi ông cầm máy lắng nghe, thì một giọng nói giận dữ vang lên: Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh. Anh đừng bén mảng đến phần đất của chúng tôi nữa. Nghe giọng nói đầy đe dọa này, ông đã thực sự hoảng sợ, và với chút can đảm còn sót lại, ông đã gục đầu kêu xin Chúa: Lạy Chúa, con đang đảm nhận một sứ vụ rất chính đáng, thế nhưng giờ đây, con vô cùng sợ hãi. Con không biết phải làm thế nào nữa. Một mình con không thể đương đầu nổi với trách nhiệm nặng nề này.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm đã lãnh nhận. Chúng ta dường như không thể vác nổi gánh nặng đè xuống trên chúng ta. Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Cây dầu: Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén đắng này xa con. Noi gương Chúa Giêsu cũng như noi gương mục sư Martin Luther King, trong những lúc gặp khó khăn, trong những khi thất vọng nản chí, chúng ta hãy chạy đến với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Phúc âm kể lại, sau khi Đức Kitô cầu nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây dầu, thì một thiên thần từ trời hiện đến an ủi và nâng đỡ Ngài. Còn mục sư Luther King cũng vậy, sau khi cầu khẩn cùng Chúa trong cái đêm đáng ghi nhớ ấy, ông đã ghi nhận được sự nâng đỡ của Chúa mà trước đó, ông chưa hề thấy.
Tóm lại, mỗi khi chúng ta cảm thấy gánh nặng của bổn phận, của trách nhiệm đè xuống trên mình, chúng ta hãy biết cầu nguyện, hãy biết tìm về với Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta nguồn sức mạnh, nâng đỡ chúng ta trên vạn nẻo đường đời, như lời Thánh vịnh đã viết: Chúa là mục tử, tôi chẳng còn thiếu thốn chi, Ngài dẫn tôi qua đường ngay nẻo chính. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn vàn gánh nặng, tôi cũng không nao núng.
Hay như lời Chúa đã kêu gọi: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Bởi vì, có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Danh từ Mục Tử và Đoàn Chiên là những danh từ rất thông dụng trong Thánh Kinh, Chúa thường dùng để chỉ các vị lãnh đạo trong Dân Riêng của Chúa. Chính Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, đến sống trên trần gian, rao giảng Tin Mừng, thực thi sứ mạng cứu thế, Chúa cũng tự ví mình như một Mục Tử nhân lành: “Ta là Mục Tử nhân lành, Ta đến để chiên Ta được sống và được sống sung túc. Mục Tử nhân lành hy hiến mạng sống mình vì Đoàn Chiên”.
Bài sách tiên tri Isaia hôm nay nói lên sự cần thiết phải có các vị lãnh đạo để quản trị và hướng dẫn Dân Chúa, như những vị Mục Tử để dẫn dắt Đoàn Chiên của Thiên Chúa theo đúng như thánh ý Ngài.
Như Chúa đã phán: “Khốn cho các Mục Tử làm tản mát và xâu xé Đoàn Chiên Ta”. Chúa than phiền và chúc đữ cho những Mục Tử không tận tâm chăm nom, săn sóc và hướng dẫn Đoàn Chiên Chúa, Chúa sẽ xét xử những hành động gian ác của họ, vì họ đã không chu toàn nhiệm vụ được Chúa trao phó; trái lại, còn tác hại và làm chia rẽ Đoàn Chiên.
Vì thế, Chúa đã hứa: “Ta sẽ cho chúng những vị Chủ Chăn khác để chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, chúng sẽ không phải thiếu thốn”. Hơn nữa, Chúa còn quả quyết: “Này đây, đã tới ngày Ta cho Đavít một mầm mống công chính, Ngài sẽ làm Vua thống trị, là Đấng Khôn Ngoan thực hiện công lý và đức công bình trên đất nước”…”Người sẽ được gọi là Chúa Công Chính của chúng ta” (xem Jer 23:1-6).
Bài Tin Mừng thuật lại, sau khi nghe các Tông Đồ thuật lại việc thi hành sứ vụ Tông Đồ của các ngài, Chúa đã truyền cho các ông rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi lấy lại sức một chút; rồi sau đó, đoàn lũ đông đảo dân chúng lại tuốn đến nghe Lời Chúa, Thánh Marcô viết: “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ phải bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt, và Người dạy dỗ họ nhiều điều” (xem Mc 6:30-34).
Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc chúng ta và Người đã tự đặt mình như mẫu gương cho các nhà lãnh đạo, các vị Chủ Chăn noi theo bắt chước. Chính Người đã phán: “Ta là Mục Tử Nhân Lành; Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta. Cũng như Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha. Ta lại hiến mạng sống Ta vì Đoàn Chiên Ta” (Jn 10:11-15).
Chúa còn phán: “Kẻ chăn chiên hiền lành hiến mạng sống mình vì con chiên; trái lại, kẻ chăn thuê, khi thấy muông sói đến, bỏ đoàn chiên mà trốn chạy, muông sói bắt chiên và đoàn chiên phải tán loạn” (xem Jn 10:11-12).
Chúa còn căn dặn: “Như các con thấy: Thủ Lãnh trần gian lấy quyền thế cai trị dân; phần các con thì đừng làm như vậy, ai trong các con làm thủ lãnh thì hãy trở nên tôi tớ mọi người, cũng như chính Thầy, không đến để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10:42-45).
III. NHIỆM VỤ CỦA CHÚNG TA
Như chúng ta đã thấy, ngày nay nhiều nơi trong Giáo Hội thiếu Chủ Chăn, Đoàn Chiên Chúa thiếu người lãnh đạo. Ngay nước Việt Nam chúng ta hiện nay, tại Bắc Việt rất thiếu Linh Mục, có những Giáo Phận chỉ có một Đức Giám Mục và một Cha Xứ… tại các Giáo Phận Miền Nam cũng rất thiếu, công việc mục vụ của các Đức Giám Mục và Linh Mục rất vất vả, một Linh Mục coi 2, 3 xứ … Có nhiều Linh Mục, nhưng vì là cựu tuyên úy quân đội, sau khi được ra khỏi tù lại không được thi hành chức vụ.
Thế rồi, đau khổ cho Giáo Hội hơn nữa, nhiều nơi trên thế giới rất thiếu ơn gọi, thiếu người tình nguyện hiến thân làm vườn nho Chúa; lại còn cái nạn tệ hơn nữa có những vị Chủ Chăn lại phá hoại Đoàn Chiên, bằng những lời giáo huấn sai lạc cấp tiến, làm gương xấu cho Đoàn Chiên bằng một cuộc sống không mấy tốt đẹp.
Chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi, và gây thêm mầm mống ơn gọi nơi con cái trong gia đình chúng ta, để Giáo Hội có nhiều người hiến thân cho Chúa làm việc tông đồ, trong ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ để xây dựng Giáo Hội Chúa.
Chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho các vị Chủ Chăn biết khôn ngoan hướng dẫn Đoàn Chiên theo thánh ý Chúa, nhất là xin cho các ngài được sống đời thánh thiện, biết hy sinh cho Đoàn Chiên, theo gương mẫu đời sống thánh thiện của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành đã hy hiến mạng sống vì Đoàn Chiên.
Chúng ta cũng hãy nghĩ đến bổn phận của chúng ta là những bậc phụ huynh, là những vị Chủ Chăn trong đoàn chiên nhỏ là gia đình chúng ta, chúng ta hãy cố trở nên gương mẫu cho con cái chúng ta noi theo bắt chước. Đó là việc tông đồ, là lời cầu nguyện, là việc xây dựng, là việc cổ động, là việc củng cố và làm phát triển ơn gọi tông đồ tốt đẹp nhất.
Truyện Thánh Gioan Maria Vianney, một tấm gương phản chiếu trung thực mẫu gương Chúa Kitô, vị Chủ Chăn nhân lành. Khi còn theo học trong chủng viện với 200 Chủng Sinh, Gioan Vianney tuy lớn, nhưng điểm bao giờ cũng rốt bét. Nhiều lần anh em bạn Chủng Sinh khuyên Gioan nên rút lui khỏi chủng viện, vì không hy vọng theo kịp các lớp học để tiến tới chức Linh Mục được… Sau khi được “vớt” để lãnh chức Linh Mục, Bề Trên cử ngài đi coi một Giáo Xứ hẻo lánh là Xứ Ars. Một Linh Mục quen thân khuyên Ngài: “Cha ạ, tôi tưởng một người ít hiểu giáo lý như Cha, không nên ngồi tòa giải tội”… Thế mà rồi Giáo Xứ Ars đã được biến đổi, trở nên một Giáo Xứ đạo đức. Danh tiếng Cha Gioan Vianney đã lan rộng, ngài đã phải ngồi tòa 16 đến 18 giờ mỗi ngày. Dân chúng khắp nước Pháp và nhiều nơi trên thế giới tuốn đến nghe các giờ giáo lý ngài dạy, bàn hỏi việc tâm hồn và xưng tội với Ngài. Các công ty hỏa xa đã phải mở nhiều trục giao thông cho khách hành hương. Nhiều khách sạn được thiết lập để cung ứng cho mọi người. Sự kiện này đã khiến nhiều Linh Mục trong các Giáo Xứ lân cận không mấy bằng lòng, nên đã đồng lòng đệ đơn kiện lên Đức Giám Mục, xin ngài cứu xét việc này, vịn lý do một Linh Mục học thức kém cỏi như Cha Gioan Vianney, mà sao dám lôi kéo người ta đến xưng tội với mình như vậy.
Sau khi Đức Giám Mục đọc đơn kiện của các Cha, ngài quá bỡ ngỡ vì thấy sau chữ ký của các Cha lại có cả chữ ký của Cha Vianney nữa với dòng chữ: “Việc anh em nói trên đây rất đúng với sự thật. Con cũng xin ký tên vào đơn đồng tình cùng anh em”. Linh Mục được ủy thác trách nhiệm đem thơ trình bày lên Đức Giám Mục, lại là bạn thân của Cha Gioan Vianney, nên khi đi ngang qua Xứ Ars đã ghé vào thăm và cho Cha Vianney hay sự việc, ngài xin được đọc và chính tay ngài đã ký tên rồi viết thêm dòng chữ này. Đức Giám Mục với lòng thán phục và tự hỏi: Có khi nào lại có người cùng ký vào bản đơn kiện mình như thế được. Thế rồi, Đức Giám Mục đã nói: “Các Cha xem, Cha Vianney phản ứng cách rất khiêm tốn. Có ai lại đồng ý tự kiện mình bao giờ? Ngài thực là một Linh Mục thánh thiện. Thôi chúng ta cứ để xem. Nếu là việc Chúa thì sẽ vững bền, ngược lại, nếu là việc của ý riêng ngài thì thế nào cũng sụp đổ”.
Kết luận
Trước giáo huấn đầy khôn ngoan Chúa dạy và mẫu gương khiêm nhu Chúa đã để lại, Thánh Gioan Vianney, vị Chủ Chăn của Đoàn Chiên Chúa đã cố gắng họa lại cách trung thực trong đời sống của ngài, nên ngài đã đáng trở nên dụng cụ Chúa dùng, để Chúa được vinh danh và các linh hồn được cứu độ.
Vậy, là con cái Chúa, chúng ta cũng hãy cố gắng mô phỏng chân dung đích thực của Chúa Kitô nơi bản thân và đời sống chúng ta, để một phần nào chúng ta có thể hoàn thành được nhiệm vụ Chúa đã ủy thác cho mỗi người chúng ta, nhất là trong sứ mạng làm cha mẹ trong các gia đình con cái Chúa.
“Lao động là vinh quang, lang thang là chết đói” hay “Nhàn cư vi bất thiện”. Đây là hai câu nói lên giá trị sự siêng năng làm việc. Sống là phải làm việc, làm việc không ngừng. Dầu vậy không ai trong chúng ta có thể làm việc suốt ngày suốt đêm mà không cần nghỉ ngơi. Mục đích của nghỉ ngơi là để bồi dưỡng lấy lại sức khỏe thể xác cũng như tâm hồn. Nhờ đó mà những công việc tiếp theo có thể đem lại hiệu quả cao hơn.
Sau một thời gian ra đi truyền giáo theo lệnh của Thầy Giêsu, các Tông đồ trở về vui mừng hớn hở kể lại cho Thầy nghe những gì mình đã làm và đã giảng dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6, 31). Chúa Giêsu muốn các ông nghỉ ngơi sau thời gian mệt mỏi ra đi truyền giáo. Có thể nói được là các ông được nghỉ trong Chúa.
Nghỉ ngơi trong Chúa, ta sẽ được bồi dưỡng đầy đủ chất bổ dưỡng. Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân hiền nuôi dưỡng các con chiên của mình trong đồng cỏ xanh tươi và suối mát trong lành. Người đã có lần kêu mời: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28)
Quả vậy, Người biết rõ chúng ta cần gì ngay cả trước khi chúng ta cầu xin. Điều răn thứ ba trong Mười điều răn Đức Chúa Trời dạy chúng ta giữ ngày Chúa nhật. Đồng thời, mỗi ngày chúng ta được Giáo hội dạy tuân giữ các giờ Kinh tối sáng. Cũng vậy, các Linh mục và tu sĩ hằng năm đều có thời gian tĩnh tâm mà chúng ta quen gọi là cấm phòng. Đây là những khoảng thời gian thật cần thiết và quý báu cho đời sống đức tin. Nếu biết rõ được ý nghĩa và giá trị của những khoảng thời gian này chắc hẳn chúng ta sẽ không cho đó là gánh nặng phải tuân giữ. Ngược lại chúng ta sẽ rất trân trọng.
Cuộc sống càng tiến bộ bao nhiêu thì dường như nhu cầu cần sự nghỉ ngơi của con người càng nhiều bấy nhiêu. Đáng tiếc thay có nhiều người lại lấy thời gian nghỉ ngơi này để làm hại chính mình và nhiều khi ảnh hưởng đến người khác. Những sòng bài, những nhóm ăn nhậu hay những nhóm trẻ ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Đây là những lúc họ tự hủy hoại chính bản thân mình và gây thiệt hại đến người khác. Nhất là đây là một trong những lý do khiến cho nhiều gia đình phải tan vỡ.
Là người có đức tin chúng ta hãy biết quý trọng những thời gian nghỉ ngơi trong Chúa. Cũng như chúng ta nhắc nhở nhau tìm những trò giải trí lành mạnh hầu đem lại lợi ích cho mình và tránh gây thiệt hại cho người khác.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Sau hơn 150 năm, di tích nhà xứ Cha thánh Gioan Maria Vianney vẫn nguyên vẹn, từ khi ngài qua đời. Căn phòng ngủ vẫn còn bày biện những đồ đạc cá nhân bình dị, thô kệch. Tuy căn nhà bếp nghèo nàn, chén bát, nồi niêu soong chảo xoàng xĩnh, lại đặc biệt sắp đặt một tòa cáo giải trong góc bếp. Dù ngài đã giải tội 17 giờ mỗi ngày, mà vẫn chưa đủ nhu cầu, người ta vẫn kéo đến xưng tội, cả khi ngài đang dùng cơm.
Thánh nhân noi gương Chúa Giêsu tận tâm tận tụy, khi thấy con chiên tìm đến hòa giải với Thiên Chúa, ngài không từ nan vào bất kỳ giờ giấc nào, kể cả lúc nghỉ ngơi.
Chăm sóc môn đệ
Khi các Tông đồ trở về với Chúa Giêsu, báo cáo thành quả đạt được, từ lời nói đến việc làm, cùng cả những khó khăn trở ngại, Người vui mừng, khuyên nhủ các đấng vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Mục Tử nhân lành luôn biết chăm sóc cộng sự viên. “Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6, 31) Cũng như hằng ngày, mỗi chiều tối, sau khi bận rộn, mệt mỏi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng luôn tìm nơi hoang vắng để nghỉ ngơi, tâm tình, cầu nguyện với Đức Chúa Cha.Do vậy “thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.”(Mc 6, 32) Những buổi kinh nguyện, lễ chầu, tĩnh tâm, của các cộng đoàn, con chiên ngày nay cũng mang ý nghĩa nghỉ ngơi như vậy.
Chăm sóc đoàn chiên
Tuy nhiên, không phải chỉ lo cho môn đệ, Chúa Giêsu vẫn luôn luôn sẵn sàng phục vụ dân chúng, những người chạy đến Người dạy bảo, chữa lành thể xác và tâm hồn, bất cứ lúc nào, nơi nào, chẳng kể giờ giấc, như chương trình ấn định. “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” (Mc 6, 34). Lời Chúa chính là Bánh Hằng Sống dành cho những người muốn được vui sống đời đời.
Chăm sóc toàn diện
Không chỉ lo giảng dạy, cứu giúp kẻ khó, Chúa Giêsu còn siêng năng cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Đức Chúa Cha. Người cũng dạy bảo các Tông Đồ noi theo, từ hoạt động rao giảng đến cầu nguyện. Hai việc luôn kết hợp chặt chẽ, bổ sung hỗ tương cho nhau, mới mong đạt hiệu quả cao nhất. Mặt khác, Người đôi khi còn phải lo cho dân chúng ăn uống, hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người no nê.”Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi”(Mc 6, 37). Như thế không chỉ nuôi dưỡng tinh thần mà Người còn ân cần chăm lo cả thể xác, dấu chỉ cho bữa tiệc Lời Chúa và bữa tiêc Thánh Thể phong phú sau này.
Hơn nữa, Người còn dạy các Tông Đồ Lòng Thương Xót vô biên của Người. Biết nhạy cảm, sẵn sàng phục vụ trước những nhu cầu thiết yếu của con chiên, để tận tụy chia sẻ, an ủi và giúp đỡ. Bởi vì “Ai tiếp nhận anh em là tiếp nhận Thầy, và ai tiếp nhận Thầy là tiếp nhận Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40). Ngày nay, Người cũng chẳng nỡ ngoảnh mặt làm ngơ, giả đui, giả câm, giả điếc, khi con chiên bị bách hại trắng trợn, giữa thanh thiên bạch nhật!
“Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai cũng quý yêu thèm muốn.”(ĐHV, số 768)
Lạy Chúa Giêsu vô cùng nhân lành, xin nhắc nhở con luôn biết nghỉ ngơi, luôn dành thì giờ giữa cuộc sống bề bộn, để chuyên tâm cầu nguyện, tâm sự với Chúa luôn, hầu nhận lãnh những hồng ân, dưỡng nuôi linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin luôn dẫn con đến suối nguồn Hồng Ân, để con múc lấy dồi dào Tình Yêu Chúa Giêsu, để có thễ chia sẻ lại mọi người. Amen.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Một Giám mục gần Sao Paulo (Thủ đô Brasil) đã biết rõ tinh thần của phong trào Focolare (Bác ái Hiệp nhất). Ngài muốn tinh thần tốt đẹp ấy cũng được thâm nhập vào giáo phận của ngài. Ngài mời một nhóm linh mục của nhóm Focolare đến giảng tĩnh tâm. Họ đã đến, nhưng ngay những ngày đầu tiên họ gặp phải một sự chống đối rất nặng nề và cảm thấy trở ngại rất nhiều trong việc giảng huấn. Sau đó, vào giờ nói chuyện với các linh mục, họ nhận ra rằng giữa các linh mục và Giám mục có một sự căng thẳng rất trầm trọng. Họ trình bày với Đức Giám mục về chuyện đó, ngài hứa sẽ sẵn sàng xin lỗi các linh mục trong Thánh lễ ngày mai về những khuyết điểm sai lầm và bất công trong suốt thời gian qua. Ngài muốn sống đúng theo câu khuyên của Chúa: “Khi con dâng lễ, nếu chợt nhớ ra có ai bất bình với con, hãy để lễ vật đó trước bàn thờ rồi đi làm hoà với anh em con trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật.” (Mt 5,23-24).
Trong Thánh lễ, Đức Giám mục đã khiêm tốn xin lỗi cộng đoàn linh mục, nhưng điều đó vẫn không mang lại một kết quả nào. Ngài hiểu rằng cần phải tiến thêm một bước nữa. Ngài tìm đến từng phòng để nói chuyện riêng với mỗi linh mục. Cử chỉ này đã làm cho các linh mục rất đỗi xúc động. Các ngài bắt đầu cởi mở, trình với Đức Giám mục hết mọi khó khăn, mọi vấn đề của các ngài. Các ngài bộc lộ hết tâm hồn mình cho Giám mục và chấp nhận Giám mục như là người anh, như chính Chúa Giêsu, và tạo nên một sự cảm thông sâu xa giữa hai bên. Trong tuần phòng đó, tất cả đã trở nên một đại gia đình, và cuối tuần phòng, Đức Cha đã có một quyết định quan trọng: Ngài thay đổi cách thăm viếng. Từ nay, ngài sẽ ở lại chung sống hai ba ngày với từng linh mục trong mỗi giáo xứ, để tạo một bầu khí huynh đệ giữa linh mục và Giám mục. Và từ đây các linh mục cũng rất ước mong đến ngày Đức Giám mục đến thăm xứ mình. (ĐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh sử Maccô thuật lại chuyến trở về của các Tông Đồ được sai đi, tụ tập quanh Đức Giêsu, kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!” Nghỉ ngơi là tĩnh tâm dưỡng sức, tìm về cội nguồn, sau thời gian hăng hái dấn thân phục vụ, mệt mỏi thân xác, lao xao con tim, cạn kiệt tinh thần và đuối sức tâm linh. Cuộc tĩnh tâm của các Linh mục và Đức Giám Mục ở gần Sao Paulo phản ảnh phần nào trích đoạn trên.
Về nguồn
Sau mỗi ngày cật lực giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu luôn lui vào nơi vắng vẻ nghỉ ngơi dưỡng sức. (Lc 5, 16 & 9, 10) Chẳng phải thảnh thơi nhàn hạ vui hưởng gió mát trăng thanh, mà để hội ngộ với Thiên Chúa Cha, tâm sự, giãi bày mọi chuyện, dâng lên cả thành công lẫn thất bại trong ngày. Khấn xin thêm sức mạnh, can đảm tiếp tục dấn thân cho sứ vụ cứu chuộc nhân loại.
Đức Giêsu đã nêu gương cầu nguyện hàng ngày, đồng thời luôn tha thiết mời gọi tất cả mọi người đến cùng Người: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30)
Mỗi dịp tĩnh tâm, mỗi Thánh Lễ, mỗi giờ chầu, mỗi lời kinh, mỗi buổi suy gẫm, mỗi dấu Thánh Giá, đều là những giây phút cầu nguyện, giây phút trở về Thiên Chúa, cội nguồn sự sống. Cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng ân được sống, được nhận biết Chúa, được làm con Chúa, được bình an.
Vào nơi cô tịch, vắng vẻ tâm sự với Chúa. Không quên dâng lên Người những việc lành phúc đức, hy sinh, cùng thân thưa hối cải những lỗi lầm, vấp phạm đến anh em và tha nhân. Người sẽ luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn yêu thương an ủi, chỉ dạy, chăm sóc, hướng dẫn, băng bó những thương tích, xoa dịu nỗi khổ đau thất bại, chia sẻ nỗi oan ức, cũng như khích lệ những thành công. Người soi sáng, thức tỉnh cho biết đâu là Thánh Ý mầu nhiệm. Người thử thách, trui luyện, trắc nghiệm xem người Kitô hữu chọn Chúa hay chọn công việc, chức tước, quyền lực? Có nhận vơ thành công làm thành tích cá nhân mình hay không? Có chán nản, buông trôi khi thất bại, vì kiêu căng bất khả chiến bại chăng?
“Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. “ (Đường hy Vọng, số 118)
Tận hiến
Mặc dù cùng các Tông Đồ xuống thuyền đi lánh riêng một nơi hoang vắng, để tĩnh dưỡng, nhưng ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đẩu dạy dỗ họ nhiều điều. Thởi khóa biểu bị đảo lộn, chương trình, kế hoạch thay đổi bất ngờ, chỉ vì quá thương yêu mà dấn thân tận tụy phục vụ nhu cầu rất chính đáng. Tình yêu xả kỷ vị tha, toàn tâm toàn lực hoàn toàn dâng hiến cho tha nhân. Sẵn sàng từ bỏ ý riêng để thực hành Thánh Ý Chúa. “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39) Hy sinh tất cả phúc lợi cá nhân để phục vụ tha nhân đang mất phương hướng, thiếu người. Người chính là Thiên Chúa Tình Yêu.
“Tại sao tận hiến cho Chúa, mà con so sánh mình với người đời, phàn nàn vì thua sút điều này, điều nọ. Con tiếc vì làm tôi Chúa thiệt thòi sao?” (Đường Hy Vọng, số 116)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con noi gương Chúa, luôn dành thì giờ siêng năng cầu nguyện khi sáng thức dậy, ban tối trước khi ngủ, cũng như trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc trong ngày, luôn nhớ Chúa hiện diện, chúc lành và thánh hóa cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dẫn dắt chúng con vào nơi hoang vắng mà nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, an ủi, cứu giúp chúng con thoát khỏi đám đông hỗn tạp, xô bồ, ô nhiễm, ồn ào, sặc mùi kim tiền, của cải, vật chất, lợi danh phù phiếm, hưởng lạc, sa đọa. Nhờ Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu chúng con được hồi tâm phục sức sau bao gian lao, thử thách, ban cho chúng con luôn tràn đầy Tin Cậy Mến, lòng nhiệt thành, can đảm theo Chúa đến cùng. Amen.
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)
Những năm gần đây cứ vào mỗi dịp hè, sinh viên các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh được mời tham gia vào chiến dịch “Mùa hè xanh”. Các bạn được đến các vùng sâu vùng xa để sống với bà con nông dân nghèo khổ. Các bạn dạy chữ cho các trẻ em và người lớn mù chữ, giúp sửa sang nhà cửa, lợp mái, đào mương làm cống, làm đường trong những khu xóm nông thôn. Qua một tháng trời sống với người dân nghèo, các bạn học được một bài học quý giá về tinh thần sống vì người khác.. Năm nay chúng ta thấy khẩu hiệu của các bạn sinh viên tình nguyện tham gia chiến dịch mùa hè xanh là: “Ở dân thương, làm dân tin, đi dân nhớ.” Sau một chuyến đi chắc chắn các bạn sẽ có những kỉ niệm khó quên thấm đượm tình người
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ tinh thần sống cho người khác. Sống vì người khác là một đòi hỏi Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ phải thực hiện trong suốt đường đời sứ vụ tông đồ. Bởi vì đã là người thì ai cũng có mối liên hệ nào đó với người khác. Không ai có thể sống một mình, và chỉ lo cho cuộc sống mình được dư dật. Người ta thường nói: ” không ai là một hòn đảo giữa đại dương mênh mông” cho nên con người chỉ sống có ý nghĩa thật sự khi biết sống cho người khác. Mộ người có thể sống vì mọi người. Vì qua hành động sống cho người khác chúng ta tìm được niềm vui. Vì hạnh phúc của tha nhân cũng là hạnh phúc của chính mình. Ngày nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi mỗi người Kitô hữu sống liên đới và hiệp nhất với tất cả mọi người. Hình ảnh người mục tử mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa ra chính là hình ảnh của một con người sống vì người khác và vì mục đích của cộng đồng. Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về đời sống phục vụ tha nhân. Ngài lại không ngừng đi đây đi đó rao giảng Tin Mừng, chữa lành các bệnh tật, thăm viếng gặp gỡ dân chúng. Những việc làm của Ngài tựu chung chỉ muốn giúp cho đời sống họ được thăng tiến về mọi mặt, nhất là đời sống thiêng liêng. Chúa và các môn đệ bận rộn với dân chúng đến nỗi không có cả thời gian nghỉ nghơi. Ngài động lòng trắc ẩn khi thấy dân chúng đi theo mình. Thay vì để cho các ông nghỉ ngơi như dự định, Đức Giêsu lại tiếp tục làm việc, tiếp tục giảng dạy cho dân chúng.
Hơn ai hết Chúa Giêsu thấy được lòng mong mỏi lắng nghe Tin Mừng của dân chúng. Quả thật Ngài là vị mục tử tốt luôn thao thức những nhu cầu cấp bách của con người. Do đó Ngài mong muốn đem đến cho người ta những điều chân thật..Lời giảng của có giá trị Cứu độ con người. Ai tin và sống theo lời Ngài dạy sẽ trở thành con của Cha trên trời. Tinh thần chung của những lời dạy của Chúa là tinh yêu thưong và phục vụ
Thật vậy, Đức Giêsu không ngừng làm việc là chứng tỏ tấm lòng mục tử của Ngài đối với dân chúng. Mục tử tốt chính là người sống vỉ đàn chiên, sống cho đàn chiên và dẫn đưa đàn chiên tới thượng nguồn của sự sống và niềm hạnh phúc đích thực. Chỉ qua Chúa Giêsu con người mới được cứu độ. Một cách nào đó, mỗi người Kitô hữu cũng là mục tử của nhau qua việc sống biết chăm lo cho người khác. Chúa Giêsu đòi hỏi họ sống cho và vì người khác thay vì luôn sống ích kỷ, vụ lợi, tranh giành quyền lợi và nghĩa vụ với người khác.
Ngày nay trong một xã hội con người đang chạy theo biết bao nhiêu hình thức sống theo cá nhân chủ nghĩa,người môn đệ của Chúa Giêsu phải dám “lội ngược dòng đời” để sống theo lời Chúa dạy. Trong cuộc sống của người môn đệ phải dành chỗ cho tha nhân bằng với một tấm lòng yêu thương chân thật. Đi đến đâu người Kitô hữu phải làm sáng tỏ ra dấu hiệu của mình khi biết quên mình vì lợi ích của tập thể, của mỗi cá nhân. Người Kitô hữu trở thành mục tử khi có hành động tương trợ giúp đỡ và trao ban cho người khác những gì mình có. Danh hiệu Kitô hữu không phải là một đặc quyền đặc lợi để chúng ta đóng kín tấm lòng mình trước tha nhân. Niềm hạnh phúc của chúng ta là biết trao ban cả những gì có thể mình quý trọng nhất cho tha nhân. Có trao ban tất cả chúng ta mới có tất cả và có cả điều quý giá nhất là Nước Trời. Khi nghĩ đến việc sống cho người khác chúng ta tưởng chừng như rất khó thực hiện. Nhưng điều đó nằm trong tầm tay của mỗi người. Với ơn Chúa, với sự vươn lên và luôn hạnh động cho người khác cùa mỗi người chúng ta, chắc chắn nhiều người sẽ bớt đau khổ hay túng thiếu Sự bận rộn của Chúa Giêsu và các môn đệ xưa kia ngày nay người Kitô hữu cũng phải bận rộn như vậy. Điều mà chúng ta có thể rao giảng chính là cuộc sống vì tha nhân của chúng ta. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng hãy nghĩ đến tha nhân trước khi hành động một việc gì đó Có như thế người ta mới tin và theo Chúa Giêsu nhiều hơn. Mỗi người tùy theo khả năng có thể làm điều gì đó tốt cho tha nhân. Khi thấy người ta đang cần mình giúp đỡ viêc gì chúng ta cầm mau mắn” ra tay” Cộng đồng xã hội sẽ tốt đẹp hơn khi có những con người biết sống cho người khác.
Lạy Chúa cả cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng Chúa lúc nào cũng bận rộn vì dân chúng. Chúa cũng chết vì tội lỗi loài người chúng con. Xin cho mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn giáo xứ biết thực hiện những chương trình bác ái từ thiện giúp đỡ người nghèo có nhà ở, có cơm ăn áo mặc, và trẻ em được học hành tới nơi tới chốn. Vì nhờ đó chúng con làm sáng danh Chúa giữa cuộc đời này. Amen.
50. Chúng ta hoạt động đến đâu?
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu cầu thực sự của họ. Tin Mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản, và ngăn chận sự quảng đại của họ.
“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”.
Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả, những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính chính yếu của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên, nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biến mất.
Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa dạng vào những năm gần đây để minh họa điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.
Đi bộ từ khắp các thành phố.
Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ đa nghi, những kẻ lợi dụng, cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu, trước hết, Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó: đó là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, Ngài đã chẳng nói trong hội đường Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?
Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.
Kết luận.
Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.
51. Chúng ta cần một sự quân bình
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Hầu hết mọi người đều nhận thấy rằng có một sự quân bình trong đời sống là cần thiết. Một người hướng ngoại yêu thích xuất hiện nơi công chúng cũng cần có thời gian sống cô độc và thinh lặng. Một người hướng nội biết giá trị của những khoảnh khắc cô độc, thỉnh thoảng cũng nên được phấn khích bởi một đám đông tưng bừng vui vẻ.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta một mẫu gương về sự quân bình cần thiết cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúa Giêsu có thói quen đi tới hội đường vào những ngày Sabát, Người đã tham dự phụng vụ nơi Đền Thờ Giêrusalem trong những thời gian được chỉ định. Ngài cũng sẵn sàng ra đi và trải qua suốt đêm trong cầu nguyện với Cha Ngài trên trời.
Phúc Âm ngày hôm nay hé mở cho chúng ta thấy những tông đồ trở lại với Chúa Giêsu sau hành trình truyền giáo mà Ngài đã gởi họ từng hai người một. Đó là thời gian giúp cho họ rao giảng cho mọi người và cầu nguyện với mọi người. Chúa Giêsu nói với họ: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Họ đã ra đi với Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền và vào nơi hoang địa. Chúa Giêsu hiểu sự cần thiết của việc quân bình trong đời sống cho các môn đồ của Ngài.
Chúa Giêsu cũng muốn cả chúng ta nữa duy trì sự quân bình. Ngày xưa trong đời sống thiêng liêng của chúng ta là cùng nhau cử hành phụng vụ. Tham dự cách năng nổ và ý thức trong phụng vụ thánh, đặc biệt là trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật là nguồn mạch không gì có thể thay thế được, để chúng ta có thể đạt được một tinh thần Kitô giáo thật sự. Cả chúng ta nữa, cũng phải có thời gian để đến một nơi thanh vắng mà cầu nguyện một mình với Chúa Giêsu trong thinh lặng và hồi tâm. Chúng ta cần có những cơ hội để cầu nguyện theo cách của mình và cho những chủ ý của chính chúng ta. Cả hai, cầu nguyện chung và riêng là một phần đời sống của người Công giáo chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ chểnh mảng việc phụng vụ hoặc những hình thức cầu nguyện riêng tư. Như thế, chúng ta sẽ không bao giờ chểnh mảng việc cầu nguyện tư trong đời sống riêng của mình.
Đôi khi một số người đã kinh nghiệm với hình thức phụng vụ, phàn nàn rằng họ không thể cầu nguyện trong Thánh Lễ được nhiều hơn. Những gì mà họ muốn nói là hình thức trong suốt Thánh Lễ, điều đó đã được diễn ra trong tiếng Latinh và họ hầu như hoàn toàn im lặng, họ có thể cầu nguyện theo cách của họ và cho những nhu cầu của họ. Bây giờ họ được kêu gọi trở lại như một gia đình, một cộng đoàn. Họ và tất cả chúng ta phải biết rằng thi hành bổn phận Kitô giáo có liên quan ít nhiều đến việc thờ phượng ngày Chúa Nhật, ngay cả trong những lãnh vực cầu nguyện. Bên ngoài những nghi thức phụng vụ, chúng ta cũng cần có thời gian để cầu nguyện theo cách riêng của mình, để làm viên mãn nhu cầu tôn giáo cá nhân của chúng ta, chúng ta có thể đến với phụng vụ một cách sẵn sàng và nồng nhiệt, kết hợp với anh chị em thiêng liêng trong gia đình thờ phượng Thiên Chúa Cha của chúng ta.
Những người nhiệt tâm với việc canh tân phụng vụ, họ đã tìm thấy trong việc thờ phượng công một kinh nghiệm hướng thuợng và thoả mãn, phải nhận biết rằng họ cần có thời gian cho việc sùng kính cá nhân và riêng tư nữa. Phải giữ sự quân bình đó là điều quan trọng, sùng kính riêng tư sẽ không bình thường, nếu coi thường đặc tính thờ phượng công xuyên qua việc đọc lớn tiếng hoặc là cầu nguyện chung. Nhu cầu thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm, đó cũng là ý nghĩa của đời sống và nơi chốn chúng ta phải có trong đời sống của chúng ta. Một sự chiêm niệm về giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu, diễn tả mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không muốn Thánh Lễ phải trở nên im lặng, là một sự sùng kính cá nhân, hoặc chúng ta cũng không xoay trở những diễn tả tôn giáo riêng tư trở thành những mẫu cầu nguyện chung của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta sự quan trọng của việc quân bình trong cầu nguyện, Ngài đã cho chúng ta một gương mẫu. Nỗ lực và thời gian chúng ta đặt vào cả hai, chúng ta cần có nỗ lực và thời gian để chú trọng đến cả hai phụng vụ chung và cầu nguyện riêng theo cách của chúng ta đáp trả lại gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
LÀM SAO ĐỂ ĐÁP ỨNG CÁC NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI?
Thánh Marcô kể lại việc Đức Giêsu tiếp đón các Tông đồ lúc họ đi rao giảng về. Thánh Marcô không nói Đức Giêsu đã làm gì lúc họ đi vắng. Tuy nhiên có một chữ có thể soi sáng chúng ta: cả các con nữa, hãy đến mà nghỉ ngơi một chút. Chữ ‘cả các con nữa’ hình như ám chỉ rằng Đức Giêsu đã để ra một khoảng thời gian nghỉ ngơi, tĩnh tâm. Ngài muốn đến lượt các Tông đồ cũng được hưởng ân huệ đó. Nhưng lời van xin của đám đông đã cản trở ý định này. Đức Giêsu chiều theo lời van xin này, vì Ngài có trước mắt Ngài một đám đông bơ vơ, lạc lõng và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Giai thoại này gợi ra cho ta hai điều: con người có một nhu cầu học hỏi và họ cần một thứ giáo huấn thấm nhuần chiêm niệm.
1) Ngài động lòng thương đám đông, vì họ như đàn chiên không người chăn và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Đám đông không thiếu người hướng dẫn, nhưng đặc điểm của các người hướng dẫn là sớm muộn gì cũng đưa đám đông đến nỗi thất vọng.
Đám đông tuôn đến cùng Đức Giêsu, cũng đã bị thất vọng trước rồi. Họ cảm thấy nơi Ngài một Đấng đem lại 1 sứ điệp mới, có một sức mạnh và một mệnh lệnh vượt lên trên những gì họ đã nghe cho đến bây giờ. Con người, khi không được dạy bảo cho đứng đắn, giống như đàn vật, sẽ xảy ra những chuyển động khi thì theo hướng này khi thì theo hướng khác. Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo hội đã thấy rằng, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường. Cho nên Giáo hội đã bắt đầu rao giảng nhiều điều qua công đồng Vaticanô II.
Nhưng các mục tử không giấy ủy nhiệm, thiếu khả năng và ít lo lắng khơi dậy nơi đám đông việc lắng nghe lời Đức Kitô, đã cố tâm làm dậy lên, thường là trong chiều hướng các định kiến mới, những lực lượng phi lý đang hoạt động trong các nhóm nhân loại. Họ lèo lái dư luận và đôi khi lại là chính dư luận bên trong Giáo hội. Những Kitô hữu ưu tú chỉ muốn được Đức Kitô dạy bảo, đã chứng tỏ một lương tri sáng suốt khi nghe theo tiếng nói thuộc quyền Giáo hội và bỏ rơi một số những tiếng nói khác ít nhiều ăn bám hoặc dị đồng.
2) ‘Cả các con nữa, hãy lui vào nơi vắng vẻ’.
Đức Giêsu mời các môn đệ hãy lui vào một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là để lấy lại sức. Sự nghỉ ngơi của vị Tông đồ cũng là để lấy lại nghị lực về mọi phương diện: thể lý, tinh thần, thiêng liêng. Trong giai thoại vừa kể; Đức Kitô và các Tông đồ đã chìu theo lời van xin của đám đông. Điều này cho thấy có những trường hợp mà tình bác ái, tình thương, sự tận tụy đòi hỏi phải hành động mặc dầu đang mệt nhọc. Những dự định của Chúa là lôi kéo các Tông đồ vào nghỉ ngơi vẫn còn. Cái nhịp thông thường của đời sống Tông đồ, chiến sĩ bao gồm cả những thời gian tĩnh tâm, lấy sức, chiêm niệm, ‘hâm nóng lại’. Gương của Đức Kitô và của các Tông đồ minh chứng cho thấy hoạt động chiến sĩ không thể tự mình mang lại lương thực đầy đủ.
Những người hoạt động hữu hiệu trên bình diện thuần túy nhân loại, cũng biết để ra những thời giờ dài ngắn trong yên tĩnh và suy gẫm. Huống hồ là Tông đồ của Đức Kitô, họ phải dành ra những giây phút dài lâu để lấy lại sức mạnh thiêng liêng, nhờ việc sống thân mật với Ngài, riêng biệt trong một nơi vắng vẻ, như Phúc âm nói. Người tông đồ hữu hiệu truyền đạt cho kẻ khác điều mình đã lâu giờ học hỏi nơi Đức Kitô. Và chính là điều này mà con người đòi hỏi.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động; năm 1942, đưa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992,tức là 50 năm. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: “một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: ‘Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi’. Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa trẻ và nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều có thể cho được’. Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô ta các phép lạ”.
Anh chị em thân mến,
Những dòng nhật ký trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Đám đông dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu. Họ đến do nhiều động lực khác nhau thúc đẩy: vì tò mò, hiếu kỳ, vì mốn được xem phép lạ, hoặc để được phép lạ, nếu là những bệnh nhân. Nhưng chắc chắn không ít người đến với Chúa Giêsu vì muốn nghe Ngài giảng dạy, vì đói khát chân lý Tin Mừng. Và Chúa Giêsu muốn đáp ứng trước tiên nhu cầu này của họ, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Nhiều lần trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một chương trình, bỏ một dự tính, để dừng lại bên một đám tang, bên một bệnh nhân, bên một bờ giếng… Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thời giờ thích thú nghe các Tông Đồ báo cáo kết quả chuyến đi truyền giáo. Ngài có thể dẫn các Tông Đồ đi đến một nơi riêng không bị ai quấy rầy, để nghỉ ngơi. Nhưng Ngài đã huỷ bỏ cuộc nghỉ để trước hết đáp ứng cơn đói khát của dân chúng. “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”.
Thật vậy, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều. Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thuỷ múa máy cây đũa thần của mình. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loé mắt thiên hạ. Phép lạ dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ nhập thể làm người và sống thân phận con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Đây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa cũng biết thế nào là đau khổ, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chuá như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Cộng Đồng Vatican II trong Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng” đã nói: “Chỉ trong ánh sáng của màu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ”. Con người bởi đâu mà đến? Sẽ đi về đâu? Chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn biết phải sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống của con người. Con người sống không chỉ loanh quanh lẩn quẩn trong những cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí mà thôi. Trên thế giới có lẽ ít người tự tử vì nghèo đói hơn là vì không tìm ra ý nghĩa cuộc đời: Tại sao mình phải sống? Chết rồi sẽ ra sao?… Nói cách khác, cái túng thiếu, quẫn bách, nghèo đói, chưa phải là động lực cuối cùng xô đẩy người ta liều mạng sống cho bằng vì người ta cảm thấy không tìm ra giá trị nào cho cuộc đời của mình: cuộc đời phi lý, vô nghĩa, không đáng sống! Chúa Kitô giảng dạy cho chúng ta biết rõ đích điểm của cuộc đời mình và biết đường đi đến đích. Con người không được Lời Chúa hưỡng dẫn sẽ giống như đàn vật bơ vơ lạc lõng, không biết đời mình sẽ đi về đâu? Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo Hội đã nhận thấy điều đó, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường, mất hướng. Giáo Hội phải rao giảng Lời Chúa, đem chân lý đến cho loài người, như Chúa Giêsu giảng dạy cho đám đông dân chúng đi theo Ngài: “Ngài đã giảng dạy cho họ nhiều điều”.
Thưa anh chị em, ngày nay, đứng trước hàng tỷ, hàng triệu con người sống nhung nhúc ở những lục địa Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu hoặc trước hoàn cảnh của các Kitô hữu không có chủ chăn, lời Chúa đã thốt ra cách đây gần 2000 năm vẫn là vấn đề thời sự: “Ta chạnh lòng xót thương đám đông dân chúng, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”. Vì thế, Giáo Hội hôm nay nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng, đều có sứ mạng đem Lời Chúa và giúp người khác thực thi Lời Chúa, đó là cách Giáo Hội đóng góp cho con người, cho công cuộc xây dựng thế giới loài người. Lời Chúa không thể nào dung tha những gian dối, bất công, hận thù, chia rẽ, ích kỷ. Lời Chúa đòi người ta phải sống cho sự thật, phải tranh đấu cho công bình, phải mở rộng vòng tay đón nhân anh em, làm cho mọi người được sống hạnh phúc.
Là Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu hôm nay vẫn luôn chăm sóc chúng ta. Ngài tập họp chúng ta xung quanh Ngài để nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và bằng Bánh ban sự sống. Hãy tìm đến với Ngài để lãnh nhận nguồn sinh lực mới. Tìm đến với Ngài, chúng ta sẽ tìm gặp anh em cùng với Ngài: không thể tránh né anh em để chỉ tìm một mình Ngài. Tập họp chung quanh Ngài, chúng ta cùng cộng tác với Ngài để chiến đấu với tội ác, ích kỷ, bất công, hận thù, để cho Tin Mừng cứu độ giải thoát loài người.
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập lễ kính Lòng Thương xót Chúa vào năm 2000, rồi Đức giáo hoàng Fanxicô đã chọn năm 2015 làm năm thánh ngoại thường về Lòng Thương xót, Ngài nói: “Lòng Thương xót Chúa là Sứ điệp cần loan báo hằng ngày”. Chúng ta không cần tìm ở đâu xa mà có thể thấy ngay trong Tin Mừng hôm nay: khi Chúa tỏ Lòng Thương xót đối với các tông đồ và Lòng Thương Xót cho cả dân chúng nữa.
– Các tông đồ: sau chuyến đi truyền giáo đầu tiên, các ông vui mừng tụ lại bên Chúa để tường trình lên Chúa kết quả rất đáng khích lệ, Chúa lắng nghe các ông rồi Chúa nói: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Qua lời này, chúng ta thấy Chúa Giêsu quan tâm tới sức khỏe của các tông đồ. Các ông cần được tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. Làm việc và nghỉ ngơi là hai nhịp của đời sống con người chúng ta. Nghỉ ngơi cho thân xác và cũng là dịp để bồi dưỡng tâm hồn khi các ông được ở bên Chúa. Vì thế Chúa và các môn đệ xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ để thực hiện dự định này.
– Dân chúng: thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới trước các ngài. Tin Mừng kể tiếp: Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều. Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ được nghỉ ngơi và chính Chúa cũng cần nghỉ ngơi nữa, nhưng khi thấy dân chúng thật đông: họ đã vất vả đi đường xa tìm tới Chúa nên Chúa Giêsu không có la rầy dân vì làm hỏng chương trình nghỉ ngơi của Chúa và các tông đồ, mà Chúa động lòng thương họ rồi Chúa sẵn sàng bỏ chương trình nghỉ ngơi để giảng dạy cho họ nhiều điều, và như thánh Luca cho biết là Chúa tiếp đón dân, rao giảng Nước Thiên Chúa cho dân và còn chữa lành bệnh tật cho họ nữa (Lc 9, 11). Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu biểu lộ trước hết qua ánh mắt, qua cái nhìn của Chúa: Chúa nhìn thấy họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Khi đó dân Do thái có vua quan, có đền thờ, có hàng tư tế, có các kinh sư, luật sĩ nhưng dân vẫn cảm thấy bơ vơ vì những giới chức này không quan tâm tới họ mà chỉ lợi dụng họ. Chúa Giêsu hơn giới lãnh đạo Do thái là Chúa có tấm lòng, có tình thương và sự quan tâm tới đời sống tinh thần và vật chất của dân hay nói tóm lại là Chúa có Lòng thương xót. Lòng Thương xót là động lực thúc đẩy Chúa Giêsu hi sinh cho dân, như người mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga 10,11) và như vậy các tông đồ cũng học được gương sáng đó ở nơi Chúa nên họ cũng vui lòng bỏ qua chuyện nghỉ ngơi để cùng với Chúa đón tiếp dân.
Trịnh công Sơn trong bài ca “Để gió cuốn đi”có viết: “Sống trong đời sống cần một tấm lòng”. Căn bệnh của xã hội ngày nay là sự vô cảm, là thiếu lòng thương xót nhiều khi gặp thấy người bị nạn như trường hợp người Samari nhân hậu gặp thấy thì đã cứu giúp còn tư tế và Lê vi cứ vô tâm bỏ đi.
Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam trong thư gởi cho cộng đồng dân Chúa với đề tài: “Thương lắm Sàigòn ơi!’ đã kêu gọi lòng thương của mọi người đối với dân Saigon đang phải đối phó với dịch bệnh ngày một gia tăng. Chúng ta hãy hưởng ứng bằng lời cầu nguyện và lòng quảng đại giúp đỡ vật chất nữa. Tuy nhiên hiện tại chúng ta thấy nhiều người có lòng giúp đỡ các gia đình bị đói khổ trong thời gian dịch bệnh bằng những sáng kiến rất đáng trân trọng như làm những cây ATM gạo, như đoàn xe honda tình nguyện đem các bữa ăn tới những địa điểm cần sự giúp đỡ hoặc có những bàn để các gói thực phẩm ghi hàng chữ: ai cần thì lấy ai dư thì cho…
Câu chuyện minh họa: Một nhà dưỡng lão ở Thụy điển được tổ chức khá tốt, có nhà cửa tiện nghi, phong cảnh đẹp, thức ăn ngon và sự chăm sóc chu đáo của các nhân viên. Có thể nói đây là một nơi lí tưởng cho các người già về hưu. Một bữa kia Mẹ Têrêsa tới thăm, mẹ đi một vòng, thăm hết 40 người già hưu tại đó, Mẹ thấy không có ai mỉm cười và thấy họ cứ nhìn ra ngoài cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng, chị này trả lời: Họ nhìn ra ngoài cổng vì họ mong có người nhà đến thăm. Họ nghĩ có lẽ hôm nay con trai, hay con gái, hoặc một người thân nào đó sẽ tới thăm họ nhưng rồi không có ai đến và ngày nào họ cũng mong như vậy. Mẹ Têrêsa kết luận: “Cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất của họ”.
Chúng ta noi gương Chúa Giêsu, học nơi Chúa có một tấm lòng như lời Chúa dạy: “Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5, 7) để môi trường chúng ta đang sống dù trong thời gian dịch bệnh cũng có được niềm vui và trở nên đáng sống hơn. Amen.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
CÓ THỰC MỚI VỰC ĐƯỢC ĐẠO HAY CÓ ĐẠO THÌ MỚI CÓ GẠO
Chúa Nhật XV Thường Niên Năm B tuần trước, Thánh Ký Marcô trình thuật biến cố Chúa Giêsu sớm sai các tông đồ đi rao giảng từng cặp một. Bài Phúc Âm của thánh ký cho Chúa Nhật XVI Thường Niên Năm B tuần này tiếp tục thuật lại cho thấy “các tông đồ trở về với Chúa Giêsu và thuật lại cho Người nghe tất cả những gì mình đã làm và đã dạy dỗ”. Ở đây, Thánh Ký Marcô, cũng như Thánh Ký Luca cùng thuật lại biến cố này (9:1-6), không cho biết thái độ của các tông đồ ra sao và thành qủa của chuyến truyền giáo tiên khởi này thế nào, như trường hợp của 72 môn đệ được Người sai đi sau đó và đã trở về hân hoan khoe với Đấng đã sai các vị đi rằng: “Thưa Thày, vì danh Thày ngay cả ma quỉ cũng phải nghe lời chúng con truyền” (Lk 10:17). Tuy nhiên, chỉ có Thánh Ký Marcô cho biết là sau khi nghe các tông đồ tường thuật như thế về chuyến truyền giáo tiên khởi của các vị, Chúa Giêsu đã khuyên các vị rằng “Các con hãy đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”. Căn cứ vào lời này thì dường như các tông đồ cảm thấy mệt mã và chuyến truyền giáo tiên khởi của các vị không có gì là hào hứng mấy. Thế nhưng, nếu căn cứ vào câu cuối cùng của bài Phúc Âm tuần trước thì chuyến truyền giáo này của các vị tông đồ thành công, ở chỗ: “Các vị đã khu trừ nhiều ma quỉ, xức dầu bệnh nhân và chữa lành cho nhiều người”.
Ngoài ra, ngay sau câu Chúa Giêsu thúc giục các tông đồ như vậy thì Phúc Âm liền cho biết tiếp: “dân chúng kéo đến đông đảo làm cho các vị không còn thì giờ ăn uống. Bởi thế Chúa Giêsu và các tông đồ xuống thuyền đi đến một nơi thanh vắng. Dân chúng thấy các vị bỏ đi và nhiều người biết được việc này. Dân chúng từ tất cả các tỉnh vội vàng đi bộ đến nơi trước các vị. Xuống thuyền Chúa Giêsu thấy cả một đám đông dân chúng…”. Như thế, phải chăng hiện tượng dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu nói riêng và Thày trò của Người nói chung đã cho thấy thành quả rực rỡ của chuyến truyền giáo tiên khởi của các tông đồ? Bởi vì, trước đó, Phúc Âm chu kỳ Năm B không hề thuật lại một hiện tượng nào như vậy, trái lại, Thánh Ký Marcô còn cho thấy cảnh thảm hại khi Chúa Giêsu trở về Nazarét trong bài Phúc Âm mới cách đây 2 tuần, bài Phúc Âm ngay trước khi Người sai các tông đồ đi truyền giáo. Theo diễn tiến của ba bài Phúc Âm, bài Chúa Nhật XIV hai tuần trước, bài Chúa Nhật XV tuần vừa rồi và bài Chúa Nhật XVI tuần này, người ta có cảm giác là sau khi thất bại ở quê quán của mình, nhờ việc Chúa Giêsu chẳng những đích thân đi rao giảng ở các vùng lân cận mà còn sai cả các tông đồ đi rao giảng nữa, mà dân chúng đã bắt đầu biết đến Người nên thấy Người ở đâu là tuốn đến đó, đông đảo đến nỗi làm cho Chúa Giêsu cảm thấy động lòng, như Thánh Ký Marcô cho biết ở cuối bài Phúc Âm tuần này: “Người động lòng thương họ, vì họ như chiên không người chăn; nên Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Có hai vấn đề được đặt ra ở đây là, thứ nhất, tại sao Chúa Giêsu chỉ “động lòng thương họ” sau khi Người từ thuyền lên bờ, chứ không “động lòng thương họ” khi họ tuốn đến với Người lúc đầu, lúc họ làm cho Người cũng như làm cho các tông đồ mới đi rao giảng về không có giờ ăn uống nghỉ ngơi, trái lại, thấy vậy Người và các tông đồ còn xuống thuyền bỏ đi nữa? Và thứ hai, “Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” đây là những điều gì, và tại sao Người không cho họ ăn trước rồi mới nghe Người nói sau, vì (lúc ấy chính Người và các môn đệ cũng đã cảm thấy đói) mà Người lại có ý dạy họ nhiều điều dài dòng có thể làm cho họ nản chí bởi mệt mỏi, bởi đói khát, một tình trạng làm cho họ khó tiếp thu lời Người nói, đến nỗi có thể bỏ đi theo bản năng tự nhiên “có thực mới vực được đạo”?
Vấn đề tại sao Chúa Giêsu chỉ “động lòng thương họ” sau khi Người từ thuyền lên bờ, chứ không “động lòng thương họ” khi họ tuốn đến với Người lúc đầu, lúc họ làm cho Người cũng như làm cho các tông đồ mới đi rao giảng về không có giờ ăn uống nghỉ ngơi, trái lại, thấy vậy Người và các tông đồ còn xuống thuyền bỏ đi nữa, là vì Người trước hết lo cho thành phần môn đệ của mình và sau nữa Người muốn thử thách dân chúng. Thật vậy, Chúa Giêsu thấy dân chúng tuôn đến với mình thì xuống thuyền với các tông đồ đi chỗ khác, như không quan tâm gì đến lòng khao khát và ngưỡng mộ của dân chúng, những gì quan yếu để Người có thể tỏ mình ra, những gì hoàn toàn phản lại với thái độ ở quê quán của Người cách đó ít lâu, những gì Người muốn thấy nơi dân chúng. Lý do trước hết là vì Người lo cho các môn đệ của Người, muốn cho họ có giờ nghỉ ngơi để lấy lại sức sống về cả tinh thần lẫn thể xác. Có thể suy đoán là trên đoạn đường thuyền trôi, các môn đệ đã có giờ ăn uống và tâm sự chia sẻ với nhau về chuyến truyền giáo tiên khởi hết sức hào hứng ấy. Lý do thứ hai có thể luận đoán về việc Chúa Giêsu bỏ đi khi thấy dân chúng tuốn đến với Người ngay lúc đầu là vì Người muốn thử lòng của họ, xem họ có thực sự khao khát muốn nghe Người nói và muốn thấy việc Người làm hay chăng. Bởi thế, khi thấy đoàn lũ dân chúng tuốn đến với mình lúc đầu, Người đã động lòng thương họ rồi, nhưng sau khi thấy họ quả thực chẳng những khao khát mà còn nhất định tìm kiếm hết sức vất vả cho đến cùng những gì họ khao khát thì Người tỏ mình ra cho họ hơn nữa, hơn những lần họ thấy Người trước đó, bằng cách “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Về vấn đề nội dung của bài giảng dài dòng này, Thánh Ký Marcô không ghi rõ là gì và như thế nào. Tuy nhiên, theo thời điểm và địa điểm, cũng như căn cứ vào bộ Phúc Âm Nhất Lãm nói chung và Phúc Âm Thánh Mathêu nói riêng thì bài giảng lần này của Người không phải là Bài Giảng Phúc Đức Trên Núi như ở Phúc Âm Thánh Mathêu (đoạn 5-7), vì sau bài giảng này Chúa Giêsu mới gọi Thánh Mathêu (9:9-13), trong khi theo Thánh Ký Marcô, Chúa Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng từng cặp một rồi. Bài giảng lần này của Người cũng không phải là bài giảng về một loạt những dụ ngôn Nước Trời như trong Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (đoạn 13), vì sau đó Thánh Ký Mathêu cho biết sự kiện Chúa Giêsu trở về Nazarét (13:54-58), một sự kiện đã xẩy ra ở Phúc Âm Thánh Marcô trước khi Người sai 12 tông đồ đi rao giảng, và loạt bài dụ ngôn Nước Trời cũng đã được chính Thánh Ký Marcô thuật lại ở đoạn trước rồi (4:1-34). Bài giảng lần này của Người cũng không phải là bài giảng về Bánh Hằng Sống như được thuật lại trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 6, vì Người chỉ giảng về Bánh Hằng Sống sau khi đã cho dân chúng ăn no nê mà thôi. Đó là lý do, sau bài Phúc Âm theo Thánh Marcô tuần này về việc Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng và giảng dạy họ nhiều điều dài dòng, từ Chúa Nhật 17 tuần tới đến hết Chúa Nhật 21 Mùa Thường Niên Năm B, tức suốt trong 5 Chúa Nhật liền, chúng ta sẽ nghe Giáo Hội cho đọc các bài Phúc Âm về Bánh Hằng Sống theo Phúc Âm Thánh Ký Gioan.
Vậy thì Chúa Giêsu đã giảng dạy đám đông dân chúng hết sức khao khát tuốn đến nghe Người đây những gì? Phải chăng Người giảng dạy họ về vai trò của một vị mục tử, vì Thánh Ký Marcô cho biết lý do thực sự làm cho Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng là “vì họ giống như chiên không chủ chăn”? Tuy nhiên, bài giảng về vai trò chủ chiên nhân lành đã được Thánh Ký Gioan thuật lại ở đoạn 10, sau đoạn 6 về Bánh Hằng Sống, đoạn trực tiếp liên quan đến bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Căn cứ vào Phúc Âm Thánh Ký Luca, thì bài Phúc Âm của Thánh Marcô Chúa Nhật XVI Thường Niên tuần này xẩy ra trước biến cố Thánh Phêrô tuyên xưng Thày là Đức Kitô (9:18-29) và biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi cao (9:28-36), cũng như trước biến cố Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng cho đợt truyền giáo thứ hai (10:1-20), vì trước ba biến cố này, Thánh Ký Luca thuật lại biến cố bánh hóa ra nhiều lần thứ nhất, lần hóa bánh nuôi 5 ngàn người cũng được Thánh Ký Marcô thuật lại ngay sau bài Phúc Âm hôm nay. Thật ra, chúng ta không thể nào biết được đích xác những gì Chúa Giêsu nói dài dòng với dân chúng trước lần hóa bánh ra nhiều đầu tiên này. Tuy nhiên, tùy theo đối tượng thính giả và trường hợp, Chúa Giêsu cũng có thể lập lại một số điều Người đã nói ở các bài giảng trước đó, như bài về các mối phúc đức, hay sau đó, như bài về vai trò mục tử. Vấn đề ở đây, trong bài Phúc Âm tuần này, theo Thánh Ký Marcô, không phải là vấn đề Chúa Giêsu nói những gì, cho bằng vấn đề Người giảng dạy nuôi dân về phần hồn trước rồi mới nuôi dân về phần xác sau, một chi tiết không hề được nhắc đến ở Phúc Âm Thánh Mathêu và Luca ngay trước biến cố bánh hóa nhiều lần thứ nhất này.
Đúng thế, bài Phúc Âm Thánh Marcô tuần này cho thấy rằng Lời Chúa đã thu hút dân chúng và làm cho dân chúng say mê là chừng nào, nghe đến quên ăn, đến không biết đói là gì. Họ đâu ngờ rằng sau đó họ sẽ được Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi họ, thế mà họ vẫn cứ nghe. Giá biết trước sẽ xẩy ra phép lạ hóa bánh ra nhiều thì còn bảo là dân chúng nghe Lời Chúa vì chờ được ăn bánh no nê. Vả lại, không biết có ai trong họ đã đề phòng mang theo lương thực hay chăng, vì họ đã vội vàng đi chặn đầu Chúa Giêsu khi thấy Người xuống thuyến bỏ đi chỗ khác (x Mk 6:33)? Chắc hẳn là không, vì khi cần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều thì trong dân chúng chỉ vỏn vẹn có 5 chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé mà thôi (6:38). Bởi vậy sự kiện dân chúng nghe Lời Chúa mà không biết mệt, biết đói, hay dù mệt, dù đói, họ vẫn nghe được Lời Chúa, không bỏ về, không tìm ăn, đã thực sự làm sáng tỏ những gì Chúa Giêsu phán với tên cám dỗ Người trong hoang địa khi hắn xúi giục Người hãy biến đá thành bánh mà ăn cho đỡ đói sau 40 ngày chay tịnh: “Người ta không nguyên sống bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4; Deut 8:3). Kinh nghiệm sống đạo thực tế cũng cho thấy rõ chân lý này, ở chỗ, một khi ăn no nê về phần xác, con người khó có thể cầu nguyện mà không buồn ngủ. Bài Phúc Âm hôm nay còn cho thấy một chân lý nữa, một chân lý đã được Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Giảng Phúc Đức Trên Núi: “Các con trước hết hãy tìm nước Chúa và sự công chính của Người, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho các con sau” (Mt 6:33). Dân chúng quả thực đã khao khát tìm nghe Lời Chúa là những gì chính yếu trước, nên họ đã được Người sau đó ban cho họ những sự khác là của ăn phần xác vậy.
Nếu tiền bạc và kinh tế không thể nào giải phóng con người, như phong trào thần học giải phóng và chủ nghĩa cộng sản cũng như duy tư bản chủ trương, trái lại, càng dồi dào về vật chất, càng văn minh về khoa học và kỹ thuật, như hiện trạng thế giới ngày nay cho thấy, con người càng bị phá sản về văn hóa và khủng hoảng đức tin thế nào, tức một khi con người càng “có thực” chẳng những không “vực được đạo” mà còn càng bỏ đạo hơn nữa, thì quả thực con người cần phải có đạo thì mới có gạo. Bằng không, nếu không có “đạo”, tức chỉ biết sống theo quyền làm người, theo đuổi tiện nghi vật chất, đua đòi thời trang v.v. thì kho “gạo” văn minh vật chất tiện nghi đầy đủ ngày nay, một lúc nào đó, chắc chắn, như thực tế đang cho thấy, bị chính bàn tay con người bao đời gặt hái thu lượm tự hủy hoại vô cùng phũ phàng thảm thương. Các Nghị Phụ Công Hội Giám Mục Âu Châu đã nhận định rất đúng về tình trạng con người văn minh hiện đại đầy đủ vật chất mà vẫn bần cùng thiếu thốn về tinh thần, một nhận định đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ghi lại trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Âu Châu ở đoạn 8 và 9 như sau:
(Suy niệm của Noel Quesson)
HÃY LUI VÀO NƠI THANH VẮNG VÀ NGHỈ NGƠI.
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục tâm hồn người ta là do Chúa. Thánh Gioan Vianney không tài giỏi, nhưng ngài luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của Cha Vianney xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ hy sinh; tôn sùng Thánh Thể; phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi tòa giải tội.
Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các Tông đồ báo cáo về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, mặc dù đó là lúc người ta lui tới với các Tông đồ rất đông. Việc nghỉ ngơi nói đây không phải chỉ là việc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các Tông đồ hiểu: việc rao giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn. Nếu mình không học hỏi thêm, không suy nghĩ, không kiểm điểm về những điều mình biết và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho người khác nữa? Thời gian nghỉ ngơi là lúc các Tông đồ kiểm điểm đời sống để thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ cũng là nơi thuận tiện cho các Tông đồ cầu nguyện. Vì cầu nguyện cũng là trau dồi đời sống nội tâm. Cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.
Các Tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học hỏi, để suy tư, để cầu nguyện. Cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho người khác, các Tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu, hầu có thể tiếp tục lên đường phục vụ.
Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì chúng ta cũng được sai đi như các Tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần, chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn giáo, học hỏi lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.
Lạy Chúa, xin tạo điều kiện cho chúng con được trở về với Chúa mỗi ngày, mỗi tuần trong việc gặp gỡ Chúa qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Kinh và qua bí tích hòa giải; nhờ đó chúng con lãnh nhận được mọi ơn cần thiết cho cuộc sống phục vụ hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chúa Giê-su, Mục Tử tốt lành, đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Kính thưa quý anh chị em,
Đại dịch Covid-19 tấn công nước Ý, rất nhiều bệnh nhân nhờ máy trợ thở được cứu sống.
Báo Tuổi Trẻ đưa tin: cha Giuseppe Berardelli (72 tuổi) bị nhiễm bệnh, phải dùng đến máy trợ thở. Cạnh giường bệnh của cha, một thanh niên bị bệnh cũng đang trong tình trạng nguy kịch và rất cần máy trợ thở, nếu không có máy trợ thở, bệnh nhân sẽ chết vì phổi bị đông đặc.
Cha yêu cầu được nhường máy trợ thở cho thanh niên đó. Các bác sỹ không dám quyết định, nhưng vì sự cương quyết của cha, họ đã lấy máy cha đang thở đặt cho anh thanh niên và anh được cứu sống.
Phổi của cha bắt đầu bị đông đặc, sau 3 ngày, cha đã tắt thở trong bình an. Đám tang của cha không người đưa tiễn, vì phải cách ly tránh lây lan dịch bệnh. Tin này được loan đi, và mọi người cảm phục tinh thần hy sinh cao cả, cha đã vui lòng chịu chết để cứu sống người anh em. Cha đã áp dụng cho đời mình thân phận hạt lúa mì: thối rữa, mục nát, để hạt giống đâm chồi, nảy lộc, trổ sinh hoa trái cho đời.
Cha là mục tử tốt của đoàn chiên, khi dám hy sinh lợi ích cá nhân, cứu sống người anh em. Quyền lực của tình yêu thật là đặt thiện ích lên trên tư lợi bản thân. Quyền lực yêu thương đó nhất thiết phải phát xuất từ Thiên Chúa, cội nguồn tình yêu và sự sống. Trong quyền lực này, Thiên Chúa đã thực hiện những công trình kỳ diệu: cứu độ/ban sự sống thật cho nhân loại.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày chân dung vị mục tử nhân lành, Chúa Giê-su được sai đến, để chiên được sống và sống dồi dào.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, gióng lên hồi chuông cảnh báo các mục tử nhà Israel, đã không chăm lo đến lợi ích đàn chiên, lại làm tan tác, thất lạc, suy yếu, giết chết những con chiên trong đàn.
Nguyên nhân phá hoại phải kể là những gương xấu họ đã làm gây hậu quả tiêu cực trên đoàn chiên. Lối sống bất công, ganh tỵ, vô cảm, hiếu chiến, gây chia rẽ, kích động hận thù, trục lợi…, đã làm mù mắt kẻ dẫn đường. Hậu quả: “Mù dắt mù cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Mt 15, 14).
Tuy nhiên, bài sách thánh cũng mở ra một viễn tượng huy hoàng cho đoàn chiên Chúa chăn nuôi. Chúa sẽ đến, cứu thoát, chăn dắt đàn chiên qua tấm lòng của vị mục tử nhân lành. Vị mục tử được chờ đợi, xuất thân từ dòng dõi vua Đavid, sẽ đem lại cho Israel ơn cứu độ và bình an bền vững.
Chúa Giê-su hội đủ mọi phẩm tính của vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước, đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc mô tả Chúa Giê-su là nguyên lý của sự hiệp thông phổ quát. Người quy tụ, dạy dỗ, huấn luyện và sai các môn đệ cứ từng hai người đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với uy quyền của “Lời”.
Hôm nay tụ họp lại bên Chúa, các ông trình bày những việc đã làm, những điều đã giảng dạy, những phép lạ đã thực hiện, nhất là hân hoan vì thấy rằng ma quỷ cũng phải khiếp sợ, vâng phục.
Giê-su không muốn người tông đồ chỉ mãn nguyện với những thành công bề ngoài, những thứ có thể cướp mất lòng khiêm tốn, cậy trông, phó thác, vốn là những dụng cụ xấu phá hoại sự hiệp thông trong Hội Thánh.
Các Tông Đồ cần chăm chút đời nội tâm. Tìm kiếm sự thinh lặng, hồi tâm, gẫm suy Lời Chúa, nhằm làm mới lại mối tương quan với Chúa và tha nhân, mới hy vọng luôn ở lại trong Chúa. Giê-su hối thúc các môn đệ: “Hãy lánh vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).
Kinh nghiệm tu đức dạy bài học rất thiết thực: cần phải có sự quân bình giữa hoạt động và cầu nguyện, bất cập hoặc thái quá, đều vương hại đến sự trọn lành kitô hữu.
Sau khi Thầy trò xuống thuyền, rút lui vào nơi hoang vắng. Nơi đây là trường Giê-su, ngôi trường hiền lành và khiêm nhường, ngôi trường đào luyện theo phong cách Giê-su. Bởi có được tâm tư của Chúa, nên khi thấy đoàn lũ dân chúng như bầy chiên không người chăn dắt, họ cũng biết chạnh lòng thương xót và muốn loan báo “Lời” cho họ.
Thưa anh chị em,
Người môn đệ Giê-su phải luôn mặc lấy tâm tư của Chúa mới có cái nhìn tích cực và đầy hy vọng vào một tương lai nhân loại đang dần tốt đẹp hơn, mặc dầu hiện tại thế giới này đang đầy dẫy tiêu cực và bóng tối. Họ ngập tràn hy vọng khi chủ động thắp lên một ngọn nến giữa bóng đên dầy đặc, dẫu chỉ một đốm sáng cũng còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, bộc bạch một tâm hồn tông đồ chan chứa niềm hy vọng, nhìn sự vật và mọi người trong ân sủng của Đức Kitô phục sinh: tất cả hiệp nhất nên một trong máu cứu chuộc của Chúa. Không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều là thụ tạo mới trong Đức Kitô.
Vậy chúng ta phải làm gì để sống tình hiệp thông trong Chúa ?
* Một là: Môn đệ phải có tâm tư của Chúa, nên cần phải thường xuyên gặp gỡ Chúa: cầu nguyện liên lỉ, siêng năng đọc và gẫm suy Lời Chúa, nhất là sống và thực hành lời Chúa dạy. Đó là chất liệu để loan báo “Lời”, cũng là gia sản ơn thánh để sẻ chia cho người muốn nghe loan báo Tin Mừng.
* Hai là: Người môn đệ không được phép từ chối làm việc lành khi có thể. Không được sống vô cảm trước hoàn cảnh của người anh em, trái lại, nhiệt tâm làm việc thiện không nao núng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa khi thuận lợi cũng như trong nghịch cảnh, góp phần rất tích cực làm cho danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là vị Mục Tử của chúng ta.
Chúa Giêsu đã sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng. Họ ra đi để thực hiện những việc Chúa đang làm: “Rao giảng về Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ, xức dầu và chữa lành cho các bệnh nhân”. Khi trở về, họ hết sức phấn khởi về các việc họ đã làm. Nhưng Chúa Giêsu đã thấy họ cần phải cẩn trọng. Họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm của chủ nghĩa duy hoạt động, họ không còn thời giờ để ăn nữa. Vì vậy, Chúa bảo họ: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Vị mục tử hoạt động có hiệu quả không phải là người chỉ biết có làm việc mà thôi. Chúa Giêsu biết rõ sự làm việc quá độ sẽ dẫn đến kiệt sức. Vị mục tử nhân lành bảo các môn đệ hãy nghỉ ngơi đôi chút. Một sự nghỉ ngơi không chỉ để dưỡng sức phần xác mà còn để cho tâm hồn được bồi dưỡng nữa. Phải rời khỏi đám đông ồn ào, đến nơi thanh vắng để có thể chú tâm đến sự hướng dẫn của Thần Khí. Đây là mục đích của việc suy niệm hàng ngày, cầu nguyện trong thinh lặng trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Người môn đệ của Chúa Giêsu cần có một khoảng thời gian tách khỏi những công việc thường ngày và đi đến nơi thanh vắng để tĩnh tâm, để nhìn lại mục đích cuộc đời của mình. Chúa Giêsu từng đi lên núi một mình để hiệp thông với Chúa Cha trong thinh lặng của ban đêm. Mọi vị hướng dẫn các linh hồn đều cần hiệp thông với Thiên Chúa trong thinh lặng để được đón nhận sức sống từ Thiên Chúa.
Dân chúng cũng muốn được ở với Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ vội vã đến nơi trước Chúa. Họ đói khát lời của Thiên Chúa và Chúa Giêsu không thể từ chối họ. Chúa biết nhu cầu của họ và Người đã giảng dạy cho họ. Bởi vì Chúa Giêsu luôn ở với Chúa Cha, nên các lời giảng dạy của Người đã nuôi dưỡng dân chúng bằng những chân lý phát xuất từ Thiên Chúa, những lời làm cho dân chúng trưởng thành hơn và được tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử đích thật, là Đấng Mêsia.
Nhóm mười hai đang say men chiến thắng và đang nôn nóng hoạt động. Họ đang ngây ngất với những thành công và uy tín. Họ đang ở trong một mối nguy hiểm. Họ muốn ở lại giữa đám đông, vì họ đang lôi kéo được sự chú ý của dân chúng, họ không còn chú tâm đến Chúa Giêsu nữa. Chúa Giêsu là vị mục tử phải chăm sóc không chỉ cho dân chúng mà thôi, nhưng còn quan tâm đến các vị mục tử tương lai nữa. Các vị mục tử phải là “các tôi tớ phục vụ Lời”, nếu họ muốn trung thành với sứ vụ của họ. Vì thế, họ cần phải hiệp thông với Chúa Giêsu, Thầy của mình.
Lạy Chúa Giêsu, là vị Mục Tử tối cao, xin dạy con đường lối của Chúa.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đavid để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông. Nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, cần phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mukedi, một hôm hỏi thầy giáo cũ của mình, là một tu sĩ dòng Bênarét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?” Vị tu sĩ hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi khoản một nguồn sống không?” Mukedi thưa: “Thưa thầy con không tin như vậy”. Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất bại là ở đó”.
Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông. Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình, biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, rađiô, tivi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy?” Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phanxicô Xaviê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim. Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì? Sẽ đi về đâu? vì sống là gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Kitô cho nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.
Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích, nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.
Các con hãy vào nơi vắng vẻ.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi, nhưng đồng thời cũng để kiểm điểm lại, sau những cuộc hành trình truyền giáo đầy gian nan vất vả.
Với chúng ta cũng thế, giữa dòng đời huyên náo, bon chen và ồn ào với những âm thanh thừa thãi, chúng ta cũng hãy dành lấy những giây phút thinh lặng, để cầu nguyện và kiểm điểm về cuộc sống của mình, từ tư tưởng, lời nói cho đến việc làm, xem có điều chi sai quấy và đi trái với lệnh truyền của Chúa.
Sau đây, tôi xin gợi lên một vài điểm để chúng ta cùng nhau suy nghĩ và xét mình.
Thứ nhất là về đời sống cá nhân:
Người ta thường nói:
– Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt đựng những sai lỗi của người khác. Cái giỏ phía sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ và lên tiếng phê bình chỉ trích gắt gao những sai lỗi của người khác. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa.
Vì vậy, người ngoài thường nhìn thấy rõ những khuyết điểm của chúng ta, còn chính chúng ta lại không nhìn thấy.
Hai người chửi nhau, đánh nhau và có khi kiện nhau, thì mấy khi có người nhận mình đã sai lỗi. Có những người không ưa chúng ta, thì kêu ca và trách móc, bảo chúng ta là thế nọ thế kia, nhưng chính chúng ta lại không nhìn thấy và không nhận lỗi. Mẹ chồng nàng dâu ai cũng bảo mình là phải, vì thế mới có mâu thuẫn, xích mích va chạm và chiến tranh.
Crexley là một tên cướp nổi tiếng ở Nữu ước với biệt hiệu là hai súng vì trong mình hắn lúc nào cũng có hai khẩu súng. Một hôm bị cảnh sát bao vây trên một cao ốc. Một tay hắn bắn lại, còn một tay thì nguệch ngoạc viết một hàng chữ như sau:
– Dưới lớp áo này, trái tim tôi vẫn ngập tràn tình thương và không muốn hại ai.
Trong khi đó, tòa án kết tội hắn là một tên giết người không biết gớm tay.
Bởi đó, phải biết dừng lại để kiểm điểm xem mình là ai và như thế nào, đồng thời đánh giá đúng mức dư luận người khác nghĩ về mình. Bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
– Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thày ta.
Thứ hai là về đời sống gia đình.
Vợ chồng có hòa thuận đoàn kết và yêu thương, hay ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, để rồi luôn có sự xích mích đôi co.
Với con cái, có biết lưu tâm dạy dỗ và giáo dục, nhất là về phương diện đạo đức và luân lý, như dạy bảo kinh bổn, nhắc nhở làm những việc thiêng liêng hay là chúng ta lại làm ngơ và thả lỏng.
Có một câu danh ngôn đã khuyên những bậc làm cha làm mẹ như sau:
– Thà rằng, hiện giờ con cái phải khóc vì được cha mẹ dạy bảo, còn hơn là sau này chính cha mẹ phải khóc vì con cái mình ngang bướng ngổ nghịch.
Thứ ba là về đời sống xã hội:
Chúng ta có biết tránh đi những chuyện gây bất hòa cho bà con lối xóm, như thả gà vịt, trâu bò, phá phách hoa màu người khác? Có biết tránh đi thái độ bênh con cái, có bé xé ra to và thổi phồng những chuyện con nít hay không?
Khi hàng xóm có việc như ma chay cưới hỏi, chúng ta có biết chia vui sẻ buồn, giúp đỡ họ trong những hoàn cảnh như vậy hay không? Cùng sống trong một giáo xứ, chúng ta có biết góp phần xây dựng cho công ích, hay chỉ đứng ngoài làm giám độc, giám xúi chứ không dám làm. Tay chúng ta không làm, nhưng miệng chúng ta thì chỉ toàn phun ra những lời phê bình chỉ trích.
Chúng ta có biết yêu thương đùm bọc lấy nhau hay chia thành năm bè bảy mối, vu oan tố giác kẻ khác, cuối cùng cũng chỉ là làm cỗ cho thiên hạ xơi. Chúng ta có biết thông cảm, hòa giải và xích lại gần nhau, hay mượn cơ hội để trả thù và báo oán.
Sau cùng là về đời sống đạo đức.
Chúng ta có siêng năng đọc kinh tối sớm, xưng tội rước lễ, hay thảng hoặc mới tới nhà thờ. Chúng ta có thực sự là một tín hữu biết sống niềm tin của mình hay chúng ta chỉ là những kẻ mang danh hiệu Kitô hữu, có tên trong sổ Rửa tội mà không hề sống đạo.
Đó chỉ là mấy điều gợi ý để chúng ta kiểm thảo và nhìn rõ con người của mình, vì như người xưa vốn thường khuyên:
– Này bạn, bạn hãy biết mình bạn.
(Suy niệm của Lm. Mark Link, S.J.)
Người có tên tuổi lẫy lừng nhất trong việc đấu tranh cho dân quyền vào thập niên 50 và 60 là Martin Luther King. Ông là nhà lãnh đạo được hành triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ xem ông như vị anh hùng, người xướng ngôn đồng thời cũng là mục tử của họ. Nếu không có ông, vào những năm ấy đám dân da đen có lẽ chả khác gì đám dân bơ vơ lạc lõng được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Đám dân này được ví như bầy cừu không ai chăn dắt. Cũng giống như Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài thuở xưa, King và các đồng sự ông thường khó được yên thân đi tìm cho mình một chốn an bình vắng vẻ để nghỉ ngơi. Chẳng hạn, một đêm nọ, sau một ngày làm việc mệt nhoài trong vùng Montgomery thuộc bang Alabama, King leo lên giường ngủ bên cạnh bà Coretta vợ ông. Lúc này bà đã ngủ say. Nhưng ông vừa mới chợp mắt thiêm thiếp thì chuông điện thoại vang lên. Ông vội choàng dậy ngay để khỏi làm bà Coretta thức giấc. Lúc bấy giờ một giọng nói giận dữ bên đầu dây kia vọng ra: “Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh nữa, bắt đầu tuần tới xin ông vui lòng đừng bén mảng tới Montgomery nữa”… Nói thế rồi kẻ gọi điện cúp máy ngay. Bất thình lình bao nhiêu nỗi sợ hãi chụp xuống trên người Luther King như một toà nhà đang đổ xuống. Lòng can đảm của ông hầu như bị tiêu tan. Ông đứng dậy đi vào nhà bếp pha một ly cà phê uống cho ấm dạ, đoạn ngồi xuống lặng lẽ suy nghĩ phương cách thoát ra khỏi cảnh ngộ ở Montgomery mà không mang tiếng là một kẻ hèn nhát.
Lúc bấy giờ với chút ít can đảm còn sót lại, ông gục đầu khấn xin Chúa bằng những lời sau đây: “Lạy Chúa, con đang đảm nhận sứ vụ mà con nghĩ rằng chính đáng, nhưng giờ đây con vô cùng sợ hãi. Dân chúng đang mong chờ con lãnh đạo, và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì chính họ cũng sẽ trở nên yếu hèn nhát đảm. Nhưng con đang ở nẻo đường cùng và chẳng biết phải làm sao đây. Con không thể nào một mình đương đầu nổi trách nhiệm này nữa”.
Đoạn nổi bật nhất trong lời cầu nguyện của Tiến sĩ King là câu này: “Dân chúng đang trông chờ con lãnh đạo họ và nếu con tỏ ra khiếp nhược thì họ cũng sẽ trở nên nhát đảm”. Nếu cần mượn lại cách diễn đạt của bài Phúc Âm hôm nay, lời cầu ấy có thể diễn tả cách khác như sau: “Họ sẽ trở nên như bầy chiên không người chăn”.
Tất cả các cha sở cha phó, các giáo sư, các bậc cha mẹ đều có thể dùng những lời cầu nguyện trên của tiến sĩ King để áp dụng cho chính mình. Thực thế, có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy sợ hãi trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Có nhiều lúc trong đời, chúng ta cảm thấy không thể nào vác nổi gánh nặng đè trên chúng ta. Có nhiều lúc trong đời chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani: “Cha ơi, nếu có thể được xin cất chén đắng này xa con” (Mt 26: 39)
Trong những cơn khủng hoảng như thế này, chúng ta nên làm gì? Chúng ta nên làm điều Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta nên làm điều Martin Luther King đã làm. Chúng ta nên làm điều các Kitô hữu luôn luôn làm, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Ngay sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài trong vườn Giêtsêmani, thì theo lời kể của thánh Luca: “Một thiên sứ từ trời hiện đến an ủi đỡ nâng Người” (Lc 22: 43). Và ngay sau khi Tiến sĩ King cầu khấn cùng Chúa vào cái đêm đáng ghi nhớ ở Montgomery đó, ông nói rằng ông đã cảm nhận được “sự hiện diện nâng đỡ của Chúa mà trước đó ông chưa hề cảm thấy”.
Bài đọc này quả thực rõ ràng đối với chúng ta khi chúng ta cảm thấy bị đè bẹp dưới một gánh nặng nào đó, chúng ta nên bắt chước Chúa Giêsu và Martin Luther King dâng lời cầu nguyện lên cùng Chúa.
Một trong những vị chỉ huy quân đội Liên Bang trong cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ là tướng Sickles. Ông kể cho chúng ta biết ngay trước trận đánh ở Gettysburg, Tổng thống Lincoln cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên vai mình. Lập tức ông cầu nguyện với Chúa. Chính Lincoln đã nói về lần cầu nguyện ấy như sau: “Chưa bao giờ tôi cầu nguyện hăng say đến thế. Phải chi tôi có thể lập lại nguyên vẹn lời nguyện này. Tôi cảm thấy mình cần phải đặt tất cả niềm tín thác nơi Thiên Chúa tối cao. Chỉ một mình Ngài mới có thể cứu đất nước khỏi sự diệt vong sau khi quì gối đứng lên, tôi cảm thấy lời cầu xin đã được Chúa chấp thuận. Tôi chắc chắn rằng lời cầu nguyện đã có kết quả”. Cũng một cách thức tương tự nhưng hơi khôi hài hơn, Harry Truman đã kể cho các phóng viên sau ngày đầu tiên nhận chức Tổng thống của ông: “Các bạn thân mến, nếu các bạn đã từng cầu nguyện thì xin hãy cầu nguyện cho tôi lúc này đây. Tôi chẳng bíết quí bạn đã từng bị bó cỏ khô nào đè trên người chưa, chứ nếu các bạn hỏi tôi về những gì đã xẩy đến cho tôi ngày hôm qua, thì tôi xin thưa là tôi đã cảm thấy như mặt trăng, các vì sao và các tinh tú đổ sụp xuống trên tôi vậy”.
Khi cảm thấy trách nhiệm đè nặng trên mình, cả bốn vị lãnh đạo: Chúa Giêsu, Abraham Lincoln, Harry Truman, Martin Luther King đều đã làm cùng một hành vi, đó là cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Và cả bốn vị đều được Chúa ban lòng can đảm và sức mạnh để tiếp tục bổn phận hướng đạo dân chúng. Ịó là một sứ điệp thực tiễn đối với chúng ta. Có thể tóm tắt như sau: khi nào cảm thấy gánh nặng đè xuống trên mình, chúng ta cũng phải biết cầu nguyện cùng Chúa. Và Chúa sẽ ban sức mạnh cho chúng ta như Ngài đã từng nâng đỡ bốn vị mục tử nói trên.
Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại Thánh vịnh đáp ca ngày hôm nay:
Chúa là mục tử tôi, tôi nào thiếu thốn chi. Ngài hướng dẫn tôi qua đường chính nẻo ngay vì danh Ngài. Dù bước đi trong thung lũng tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn gánh nặng, tôi cũng không nao núng. Vì Chúa bước đi cạnh tôi. Ngài củng cố và tăng sức mạnh cho tôi. Khi đời tôi bước vào buổi xế chiều như mặt trời xế bóng, Ngài sẽ mang tôi vào nhà Ngài, để tôi được sống với Ngài muôn đời muôn kiếp.
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn chúng ta nhiều, nhưng chúng ta cao quí hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc? tại sao chúng ta quí trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?
Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi, chiếm hết không? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ sáng ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng nhọc mệt ấy… Có khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế, có người đã nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị áp huyết cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa…
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.
Vì vậy, “Hãy nghỉ ngơi đôi chút” như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giãn, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn của mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng yêu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư: “Bạn xoay xở thế nào để làm được việc với quá nhiều lần gián đoạn như thế?”
Ông giáo sư trả lời. “Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi”. Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời gian cho công việc riêng của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng vì là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường.
Lòng vị tha không bao giờ dễ dàng. Tuy nhiên, có lúc nó dễ dàng hơn những lúc khác. Nó dễ dàng hơn khi chúng ta có thể hoạch định công việc chúng ta thật tốt – Khi công việc do chính chúng ta chọn lựa hợp lý và ít gây ra khó chịu, giằng co. Trong những lúc khác, lòng vị tha đặc biệt khó khăn khi công việc do chính chúng ta chọn lựa, chúng ta không cảm thấy hợp lý và khi nó trào dâng lên trong chúng ta những rắc rối, khó xử. Trong trường hợp ấy, chúng ta phải quên chính mình và để sang một bên những cảm giác và dự định của chúng ta. Nó đòi hỏi một sự hy sinh thật sự.
Một hành vi nhân hậu được xét đoán không phải bởi sự quan trọng của nó nhưng bởi sự đột phá mà nó gây ra trong đời sống của người thực hiện hành vi ấy. Đó là một trắc nghiệm tấm lòng cao cả đối với người đang có nhiều dự tính, họ phải đặt qua một bên những dự định riêng của họ để giúp đỡ người khác.
Đối với chúng ta, biết được Đức Giêsu cũng phải đối phó với sự gián đoạn quả là một niềm an ủi. Người cũng gặp những lúc mà kế hoạch đã bị đảo lộn. Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Người nhận được nhiều lời cầu xin đến nỗi Người và các tông đồ không có thì giờ để ăn uống. Tuy nhiên đến một lúc nào đó, Người đã quyết định như thế là đủ và đưa các tông đồ đến chỗ thanh tĩnh để nghỉ ngơi. Người không dành thời gian này cho mình và cho các tông đồ. Họ vừa mới trở về từ sứ vụ mà Người đã sai họ. Người đã nhìn thấy họ cần được nghỉ ngơi. Vì thế Người quyết định đưa họ đến nơi yên tĩnh. Những người chăm sóc kẻ khác cũng cần được chăm sóc.
Tuy nhiên sự việc diễn tiến không như dự kiến. Dân chúng đã đi theo các ngài. Đức Giêsu phản ứng như thế nào? Không hề bực dọc, Người tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Người. Người xúc động vì thương xót họ. Người thấy họ như bầy chiên không người chăn dắt. Những bậc thầy chính thức không có thời gian dành cho dân thường. Nhưng Đức Giêsu dành thời gian cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Người. Quan tâm chăm sóc không bao giờ là việc dễ dàng. Một số người muốn chăm sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã trỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ?
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu chăm sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Có nhiều dân tộc trên thế giới giống như bầy chiên không người chăn dắt. (Bạn hãy cho vài ví dụ). Khi chúng ta chăm sóc người khác, chúng ta đang sống Tin Mừng.
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta. Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói: “Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và …Nào ai biết được?.. Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.
A-mốt là một người chăn dắt một bầy gia súc lớn. Hôm nay, đến lượt ông làm người canh gác. Đêm lạnh lẽo cắt da, một làn sương mỏng bắt đầu rơi, ông phải kéo chiếc áo ấm nặng sát vào người. Trong lúc đang đứng run rẩy thì tâm trí ông quay trở về thuở ấu thơ.
Ngay từ khi còn trẻ. Ông yêu chiên cừu và muốn cống hiến đời ông cho chúng. Nhưng trong những ngày xa xưa ấy, ông rất ngây thơ. Tâm hồn trẻ trung của ông đầy những ý tưởng lãng mạn. Đối với ông, một mục tử là một người yêu thương đàn chiên và tận tụy vì chúng. Còn gì đơn giản hơn? Nhưng giờ đây, mắt ông đã mở ra. Nhiệm vụ chăn dắt đã chuyển thành một việc phức tạp và nhiều yêu sách hơn ông nghĩ.
Chỉ một việc ấy đã bao hàm nhiều việc khác. Những lúc đó, ông thích làm một người thợ xây hơn là một người mục tử, đến nỗi ông bỏ nhiều thời gian để xây dựng những bức tượng và những hàng rào. Những lần khác, công việc đòi hỏi ông khả năng dự báo thời tiết. Những lần khác nữa sự chăn dắt đòi ông phải có chuyên môn về giải phẫu thú y và kỹ năng của một người săn thú dữ chuyên nghiệp. Và tối nay, ông là người canh gác, mất hút trong sự thinh lặng của đêm tối.
“Thực tại và mơ mộng khác nhau biết bao”, ông tự nhủ. Nhưng lúc ấy có một tiếng nói khác vang lên “Giờ đây, bạn phó mình cho may rủi để nghiêm chỉnh trở thành điều mà bạn đã ngây thơ mơ mộng lúc khởi đầu. Không có ai sinh đã là mục tử. Người ta trở thành một mục tử”.
Một mục tử được dùng trong Kinh Thánh như một hình ảnh chăm sóc con người. Vì thế Thiên Chúa được mô tả như vị Mục Tử của dân Người. Và Thiên Chúa đã chỉ định những thủ lãnh. Họ sẽ trở thành những người chăn dắt dân Thiên Chúa. Trong bài đọc 1 hôm nay, rõ ràng họ đã không làm tròn bổn phận của họ.
Thiên Chúa tố giác các thủ lãnh của Israel bởi vì họ đã thờ ơ đối với dân chúng. Sự thờ ơ là một điều xấu. Vì thế đó là tiếng kêu khóc mà ngày nay, mà người ta vẫn thường nghe thấy: “Các ông không chăm sóc, lo lắng cho tôi”. Hoặc người ta có thể nói về các nhà lãnh đạo của mình. “Họ chỉ lo cho họ”. Một đôi khi, điều đó hơi thái quá, nhưng khổ nỗi phần lớn lại xác đáng.
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ, mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy Điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Xem ra các cụ có đủ những thứ cần thiết. Tuy nhiên khi mẹ rảo quanh một vòng, mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế.
Chị điều dưỡng đáp: “Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. “Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ “Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến!” Câu nói này ám ảnh mẹ Têrêxa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất.
Đôi khi, một người không còn sự chọn lựa nào khác hơn là đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là với tinh thần như thế nào. Một người có thể đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão để rồi bỏ rơi họ, trong khi người khác đến thăm cha mẹ một cách đều đặn.
Một Kitô hữu không chăm sóc đến người khác giống như một ngọn đèn không cho ánh sáng. Nhưng chăm sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Dù vậy, tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Điều cần đó là một tâm hồn rộng mở. Khi chúng ta chăm sóc là lúc chúng ta sống Tin Mừng.
Các cố vấn xã hội và các bác sĩ trị liệu được dạy rằng khi đối xử với bệnh nhân, lúc nào họ cũng phải làm chủ cảm xúc của mình. Họ phải duy trì một khoảng cách nào đó. Lời khuyên này rất ý nghĩa. Mặt khác họ có thể không kiên định giữ một quan điểm cần thiết. Họ có thể bị bệnh nhân hoặc đối tượng lôi kéo và nguy cơ bị “đốt cháy”. Vì thế, lúc nào họ cũng phải giữ sự lãnh đạm nghề nghiệp.
Vì thế sự lãnh đạm và cách biệt ấy có thể được đẩy quá xa. Phẩm chất của mối quan hệ giữa bác sĩ trị liệu và bệnh nhân có thể còn quan trọng hơn các phương pháp và kỹ thuật. Thái độ lạnh lùng, cách biệt, không thiện cảm của người trị bệnh không có lợi cho việc chữa lành. Bệnh nhân phải cảm nghiệm sự ấm cúng, thiện cảm và sự chăm sóc mà khi đã lành bệnh, sẽ được thay thế bằng sự biến đổi và trưởng thành.
Những nhà tâm lý trị liệu thành công nhất là những người có khả năng bày tỏ sự ấm cúng và thấu cảm. Việc trị liệu tiến hành tốt nhất khi nhà trị liệu xúc động. Vì hoàn cảnh của bệnh nhân, và không ngần ngại cho bệnh nhân thấy điều đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng Carl Jung nói “Tôi biết rằng chỉ những bác sĩ cảm nhận sâu xa nỗi xúc động do bệnh nhân gây ra mới có thể chữa lành”. Và Scott Peck, tác giả cuốn The Road Less Travelled, còn đi xa hơn khi nói rằng điều chủ yếu đối với nhà trị liệu là yêu thương bệnh nhân để việc trị liệu thành công.
Nếu bạn là bệnh nhân, khi bạn gặp một người dường như hiểu rõ bạn mà không cần phân tích bạn hoặc phán đoán về bạn, bạn thấy mình dễ dàng cởi mở hơn. Khi bạn biết rằng người mà bạn tin cậy cảm nhận nỗi đau của bạn, điều ấy làm bạn muốn mình khỏe lại.
Vẫn còn những nhà chuyên môn luôn đi qua với thái độ lạnh lùng với những người rất dễ bị tổn thương. Nhiều người không có khả năng ứng xử với sự đau khổ. Hẳn bạn từng nghe có người nói “Tôi sẽ không bao giờ làm bác sĩ hay y tá – Thấy người ta đau đớn tôi không chịu được”. Nhưng bác sĩ và y tá tốt nhất rõ ràng là những người không thể cam lòng nhìn người khác đau khổ, vì thế mà họ cố hết sức làm vơi nhẹ nỗi đau. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có những giới hạn.
Trong khi các nhà chuyên môn cố giữ khoảng cách thì những người làm công việc chăm sóc nghiệp dư thường quan tâm đến bệnh nhân nhiều hơn. Nhà chuyên môn hay coi thường người làm nghiệp dư, tuy vậy người làm nghiệp dư đôi khi lại làm được việc nhiều hơn. Điều này không làm bạn ngạc nhiên nhận ra rằng trong từ “nghiệp dư” (amateur) có ngữ căn của tiếng Latinh amare, có nghĩa là “yêu thương”. Xét về lâu dài, tình yêu thương là vật chữa lành.
Đức Giêsu không cách biệt với người bệnh. Người bày tỏ sự chăm sóc và lòng thương xót đối với những người đau khổ. Và Người không ngần ngại cho người bệnh thấy Người chăm sóc lo lắng cho họ. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một tấm gương về điều đó. Khi ra khỏi thuyền lên bờ, Đức Giêsu đã nhìn thấy một đám người rất đông, nhưng như một tập hợp những cá nhân. Mỗi người có những vấn đề và những nỗi lo âu. Đức Giêsu thương xót họ, chỉ vì họ mang thương tích và cần đến Người.
Việc chăm sóc chủ yếu là vấn đề của trái tim. Ngày nay những sự quan tâm, tận tụy ít làm người ta kiệt sức hơn nỗ lực tạo ra những rào chắn bảo vệ mình, vì rằng người ta biết làm thế nào để làm đầy lại nguồn năng lực dự trữ. Những người ban tặng chính mình đồng thời cũng tích chứa lại cho mình một cách nào đó.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v… Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồn ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào căng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tĩnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh… Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê, miền biển, miền núi… Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó… Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tĩnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rảnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chừng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
. Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
. Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào…Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ… Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: “Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu…” Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tĩnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa”. Câu nói ấy của thánh Phaolô trong thư ngài gửi giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay là lời Chúa khuyên: “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…” Để thực hiện lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa: dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ – nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.
. Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi rao giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.
. Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.
. Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.
Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước: người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy? Do sức quyến rũ của Lời Chúa.
Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède: ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên “Eureka” (nghĩa là: “Tôi đã khám phá ra rồi”) và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh: “Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thày dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v… tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép”.
Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tang hoang, sinh mạng con người bị đe dọa từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá ra rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin Mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin Mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn: “Chúng ta hãy sống Tin Mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin Mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin Mừng, từng câu, từng chữ”.
Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin Mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như thánh Phanxicô thành Assisiô, câu “Phúc cho những người nghèo” đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét…
Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quí chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn giấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quí ấy.
Bởi vậy, bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa: không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.
Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có linh mục, không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới…Nếu chúng ta chỉ biết có các bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch Công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.
Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay; thánh Marcô ghi nhận rằng: Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
– Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày thứ năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
– Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
– Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
– Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
– Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”.
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Trong cuộc sống hiện tại trên trần gian này, thật là khó để giúp chúng ta biện phân và nhận ra đâu là thật, đâu là giả vì “Thật Thật, Giả Giả” đang đan xen lẫn lộn với nhau. Trong mấy ngày qua, trong cơn nguy khốn của dịch bệnh, thật là thương tâm, đau khổ cho tất cả đồng bào ruột thịt của chúng ta. Thế mà, lợi dụng hoàn cảnh đau thương này, một số người độc ác, vô tâm lại mạo danh là nhân viên y tế để đi lừa đảo chiếm đoạt tiền bạc của cải của anh chị em mình. Họ mang trên mình bộ trang phục của nhân viên y tế, rồi giả đi phun thuốc khử trùng bằng cách phun thuốc mê để cướp của, họ lợi dụng tâm lý sợ bệnh, họ đi rao bán vacin, nhưng lại là vacin giả…ACE rất thân mến, làm sao giúp chúng ta biện phân và nhận ra đâu là điều thật, đâu là điều giả đây? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, soi sáng và giúp cho chúng ta ý thức hơn về căn tính của sự thật. Cái gì, điều gì xuất phát từ Thiên Chúa, xuất phát từ tình yêu thương, lòng bao dung-quảng đại, tha thứ thì luôn là điều thật. Trái lại điều gì xuất phát từ lương tâm hẹp hòi ích kỷ, vụ lợi, mưu mô gian ác của con người thì luôn là điều giả, vì nó luôn chối bỏ điều thiện và khước từ Thiên Chúa.
Bài đọc một từ sách Tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã lên án, tố cáo các mục tử giả, vì họ đã không còn là người đại diện, thay mặt cho Chúa, để chăm sóc, nuôi dưỡng cho đoàn chiên. Thay vì đem lại sự ấm no, bình an và hiệp nhất cho dân, thì họ đã mâu tâm lợi dụng dân để trục lợi cho bản thân mình và kết cục đó là: sự hoảng loạn, ly tán và tản mát của đoàn chiên. “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta… Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta”. Chính vì lẽ đó, Chúa đã lên án, loại trừ các mục tử giả này, Chúa đã lấy tước đi quyền mục tử của họ, để từ đây, chính Thiên Chúa là Mục Tử đích thực của dân Ngài. Đồng thời, Ngài cũng sẽ thay thế bằng những mục tử tốt lành như lòng Chúa mong ước. “Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta… Ta sẽ lùa chúng về đồng cỏ, để chúng lớn lên và tăng số. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng và chúng không còn thiếu thốn gì nữa”. Thật vậy, Thiên Chúa trong những cách thế khác nhau, vẫn luôn tạo mọi cơ hội để yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng dân Ngài.
Tin mừng theo Thánh Marco hôm nay, dẫu ngắn gọn, nhưng đã diễn tả, minh chứng cho chúng ta thấy được lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào: “Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.” Chúa Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, chính nhờ qua Đức Giêsu mà ơn ban của Thiên Chúa được trao ban và lan tỏa đến cho nhân loại cách cụ thể. Thật vậy, từ đây, Chúa Giêsu sẽ là mục tử đích thực của chúng ta, những ai tin nhận Ngài là Chúa, là mục tử của mình, thì sẽ được chính Ngài yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng.
Thật đúng và ứng nghiệm như lời của Thánh Vịnh trong Đáp ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”. (Tv 22.1) Chúa không phải chỉ yêu thương chúng ta trong một khoảng thời gian hay trong một thời điểm nhất định nào đó, nhưng “Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống” miễn là chúng ta chấp nhận làm con chiên của Chúa, chấp nhận để ở trong nhà Ngài, dưới sự hướng dẫn-dạy dỗ, che chở và nuôi sống của Ngài. Bài đọc hai trong thư Thánh Phaolo gởi tín hữu Êphêsô cũng đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về sự quan phòng, yêu thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. “Nay trong Ðức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta”. Thật vậy, với sự dẫn dắt, nuôi dưỡng của Chúa Giêsu-Mục tử nhân lành, là đầu, là thủ lãnh, là nguồn mạch mọi ân sủng, chúng ta như được sự bảo đảm, chắc chắn và đây là sự thật mà hôm nay Lời Chúa soi sáng, mạc khải để an ủi, nâng đỡ chúng ta là đoàn chiên của Chúa, ngay cả trong cơn nguy khốn, thử thách và đau khổ này.
Một điều thú vị trong Tin mừng hôm nay đó là: qua Chúa Giêsu-Mục Tử Nhân Lành, Chúa vẫn đang gởi đến những mục tử như lòng Chúa mong muốn cho dân Ngài. Các tông đồ được Chúa tuyển chọn, sai đi, sau khi đã rao giảng và làm những việc Chúa truyền dạy, các ông trở về thuật lại cho Chúa tất cả mọi sự. Đây chính là căn tính đích thực của những “mục tử thật” của Chúa trong xã hội hôm nay. Hay nói khác hơn, dấu chỉ thật để nhận ra nơi đời sống của những người được sai đi là phải luôn có sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Một trong những cách thức gắn bó, liên kết đó chính là đời sống chiêm niệm, cầu nguyện. “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”. Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy nghỉ ngơi để lấy thêm sức mạnh cho cả về thể xác và nhất là cho có sức mạnh của tâm hồn. Chính trong mối tương quan từ đời sống cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, ơn thánh và sức mạnh từ Chúa được trao ban cho các môn đệ, nhờ đó, họ luôn tìm được sự bình an đích thực hầu có thể cộng tác với Chúa, có thể chu toàn thánh ý, sứ vụ Chúa trao, để ơn thánh Chúa được trao ban và lan tỏa đến cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, mục tử nhân lành, xin chạnh lòng thương nhìn đến những nỗi lầm than khốn khổ mà dân Chúa đang gánh chịu vì dịch bệnh. Vì dân Chúa, xin thương gởi đến cho chúng con những mục tử như lòng Chúa mong ước, xin Chúa cũng dùng chúng con và giúp chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu và lòng thương xót Chúa, để nhờ đó mà dân Chúa được chữa lành và được nuôi dưỡng. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Nữ Vương của những người đau khổ, xin ban ơn chữa lành, cứu sống và ban bình an cho tất cả chúng con. Amen.
70. Tìm về nội tâm của bản thân
Cách đây một vài năm, tờ báo Wall Street Journal có cho đăng tải trên trang đầu một bài viết với tựa đề “Ở một vài hãng sở, mỗi ngày đều có những dấu hiệu về việc đạo đức.” Ví dụ: hãng Reynolds Industries, một hãng tại Salem, SC luôn có một nhà nguyện và một vị linh mục tuyên úy được trả lương. Hay tại hãng Midwest Federal Savings and Loan tại Minneapolis, MN, ban chấp hành đã thiết lập một nhà nguyện thay vì một nhà nghỉ ngơi cho các nhân viên.
Một bài báo khác trong tờ báo New York Times gần đây đã viết về những thương gia trong thành phố New York: “Các thương gia đã xoay sang việc cầu nguyện bởi vì họ mong muốn xây dựng một tình bằng hữu với những người đồng nghiệp và qua đó, họ có thể thông cảm với nhau những khó khăn trong công việc hằng ngày.”
Cũng trong một ý hướng như bài báo trên, một nhân viên ban chấp hành đã nói lên trong một cuộc họp hằng tuần tại Chase Manhattan Plaza: “Đây là chỗ để tôi đến và lấy lại nguồn sống. Nếu tôi không thể đến đây được thì tôi không biết tôi sẽ có thể làm được gì không.”
Tất cả những điều nói trên của các nhà thương gia đều giống như điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài trong bài Phúc Âm: “Hãy đi… vào nơi hoang vắng và tìm chỗ nghỉ một chút.”
Thánh Marcô đã tiếp tục giải thích tại sao Chúa Giêsu đã nói điều này với các môn đệ Ngài. Đó là vì có quá nhiều người đang đòi hỏi các môn đệ nhiều điều đến nỗi họ không có cả giờ để ăn uống.
Chúa Giêsu hướng đến một điểm mà ai trong chúng ta cũng cần phải có. Điều đó là chúng ta phải tìm giờ để lấy lại sức lực và tinh thần.
Nói rõ ràng hơn, Chúa Giêsu có ý nói chúng ta cần phải biết rút lui vào nơi hoang vắng để nhìn vào trong cung lòng của chúng ta, đặc biệt là tìm đến Thiên Chúa đang hiện diện ở trong đó.
Chúng ta luôn biết trở về với lòng mình, đi vào nội cung tâm hồn của mình, và gặp gỡ Thiên Chúa, Người đang hiện diện ở đấy. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng tinh thần của mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa để chúng ta có thể mạnh mẽ mà sống trong một thế giới hỗn tạp này.
Việc quan trọng là chúng ta cần phải biết dành ra khoảng chừng năm mười phút mỗi ngày để gặp gỡ Thiên Chúa, Người hằng mong muốn để nói chuyện với chúng ta và làm mới lại tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy làm cho nhịp tim con trở nên nhẹ nhàng bằng cách làm cho tâm trí con được thinh lặng… Xin hãy bẻ gẫy những căng thẳng trong các mạch máu và bắp thịt của con. Xin hãy giúp con biết được phép mầu để con có thể hồi phục lại khả năng ngủ nghỉ của con.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
BỨC TRANH TOÀN CẢNH VỀ TIN MỪNG CỨU ĐỘ
Chỉ còn 5 ngày nữa, lễ Khai mạc Thế Vận hội 2012 (gọi tắt là Olympic London) sẽ chính thức diễn ra tại xứ sở sương mù thuộc vương quốc Anh. Toàn cảnh thủ đô London, nơi diễn ra các cuộc tranh tài đỉnh cao thế giới trong những ngày chuẩn bị thật gần cho Thế Vận hội lung linh sắc màu như mời gọi. Thế giới được chiêm ngưỡng các bức tranh tuyệt mỹ về những công trình kiến trúc và những khu thể thao liên hợp đã được xây dựng từ nhiều năm nay nhằm phục vụ cho Thế Vận hội này.
Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, hôm nay Thánh sử Marcô lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm một bức tranh khác, tuy không lộng lẫy và hoành tráng như những bức tranh Olympic London 2012, nhưng lại sống động và thiêng thánh hơn nhiều nhiều lần. Bức tranh ấy phác hoạ 3 hình ảnh tuyệt đẹp với 3 gam màu chủ đạo.
Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm quy chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạch nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “phúc trình thành quả”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã rao giảng. Dù thành công hay thất bại, các ông vẫn một lòng gắn bó với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với Ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?
Rõ ràng, họ đi theo Chúa một cách say mê. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp nữa, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin Mừng hôm nay.
Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu vời” rát cả cổ mà đàn chiên của các ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.
Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại, Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Tuyệt vời thay tấm lòng của một người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên-Chúa-làm-người!
Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người Mục Tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn thuê chăn mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một Vị Mục Tử có tấm lòng vàng. Bởi đó, dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, Ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6,34).
Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc mục vụ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương và nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Ở riêng một chỗ
Có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay theo hai đề tài: tách biệt và đám đông. Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đi riêng ra một nơi, còn đám đông lúc nào cũng có mặt. Theo thánh Mác-cô, hai đề tài này là những chiều kích của Nước Trời.
Tách biệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền sau bài Tin Mừng Chúa nhật trước. Các môn đệ đã được Đức Giêsu sai đi truyền giáo và bây giờ các ông trở về thuật lại những công việc đã làm. Các ông đã được mời gọi đến với Đức Giêsu, và lời mời gọi này chỉ có được ý nghĩa vì cuộc ra đi liền sau đó. Hôm nay, sau chuyến đi truyền giáo trở về, các ông được mời gặp gỡ với Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng.” Từ ngữ này vẫn thường được sử dụng trong những trình thuật kể lại chuyện Đức Giêsu tách riêng ra một nơi để cầu nguyện. Và theo Kinh Thánh, nơi thanh vắng hay sa mạc là nơi đặc biệt để nghe lời Thiên Chúa.
Sự tách biệt này là điều cần phải có sau thời gian hoạt động, là một nhịp thở thứ hai trước khi lại lên đường. Khoảng cách cần thiết này, thay vì là thời gian để phán xét các hoạt động, lại là lúc để các môn đệ tìm lại ý nghĩa xem ai đã cắt cử các ông đi, đồng thời có thể là lúc để tái khám phá về Chúa.
Quả vậy, sau một thời gian hoạt động, các môn đệ lại trở về sống thân mật với Thầy của mình. Ở bên Người, các ông mới hiểu được ý nghĩa cuộc sống, cũng như tìm được lý do làm cho lời giảng của mình có sức thuyết phục. Các ông trở về sống với Đức Giêsu, không phải để nhằm thoả mãn tình cảm của mình, nhưng là để cảm nghiệm sâu xa tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với dân Người, và cũng hiểu rằng sứ vụ truyền giáo vẫn chưa trọn vẹn. Thời gian này là thời gian để tái khám phá. Thánh Mác-cô nhấn mạnh sự khám phá này qua một câu có vẻ như trái ngược nhau: “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu các ngài.”
Đám đông
Thế nhưng đám đông dân chúng đã không để cho Đức Giêsu và các môn đệ tránh xa họ. Ngay từ những ngày đầu tiên Đức Giêsu mới rao giảng, họ đã có thiện cảm với Người. Dù Người có trốn vào nơi thanh vắng, họ cũng tuốn đến, có khi không để cho Đức Giêsu và các môn đệ dùng bữa (2,2.13; 3,7-9 …). Họ là những người chờ mong Đấng Mê-si-a, và khi gặp được Đức Giêsu, họ hy vọng Người sẽ đáp ứng điều họ trông mong. Vì thế, Đức Giêsu có mặt ở đâu, họ cũng có mặt ở đó, có khi còn đến nơi trước Đức Giêsu và các môn đệ. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô đã mô tả cách ngộ nghĩnh: đám đông đi bộ vòng quanh hồ đã đến nơi nhanh hơn Đức Giêsu và các môn đệ đi bằng thuyền. Họ là sự trông đợi có mặt trước khi người phải xuất hiện đến.
Do lòng trông đợi, đám đông này sẽ làm thành Vương quốc. Các con chiên đầy náo nức này sẽ trở thành một đoàn chiên khi nhận biết Vị Mục Tử. Đám đông này đã lên đường, đã ra khỏi nhà của mình, đã rời xa thành phố, nên họ có thể gặp được Thiên Chúa trong nơi thanh vắng.
Đối với họ, lúc này là thời gian yên tĩnh để lắng nghe Lời Chúa, lúc này là thời gian nghỉ ngơi, ở riêng một chỗ.
Người dạy dỗ họ nhiều điều
Sau bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Đấng Mê-si-a có thể dọn bàn ăn ngay tại nơi hoang vắng; Người cũng chẳng cần đợi đến mùa gặt: Đấng Mê-si-a chính là người gieo hạt, người trồng nho, người chăn chiên, nói chung là người làm vườn trong vườn Ê-đen mới. Như thế, có thể giải thích bài Tin Mừng hôm nay như một lời tiên báo long trọng về bí tích Thánh Thể, hay nói cách khác, về Bánh Hằng Sống.
Đám đông đi theo Đức Giêsu đang cần bánh, họ bị cơn đói hành hạ. Đám đông không có tư cách của một dân. Nó đồng nghĩa với đám người hỗn độn, không trật tự, một thực tại đầy xảo trá và nguy hiểm. Hôm nay đám đông ấy vây quanh Đức Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được nuôi dưỡng, nhưng đến chiều thứ Năm Tuần Thánh, cũng đám đông này khạc nhỗ vào Đức Giêsu và kêu la đòi đóng đinh Người vào thập giá!
Đức Giêsu thương đám đông ấy. Thánh Mác-cô cho thấy mối xúc động của Đức Giêsu có lý do rất sâu xa: đám đông chỉ là một tập hợp, không phải là một dân; đám đông đang lầm lạc vì không biết đường đi.
Đám đông ấy là những con chiên không có người chăn dắt; họ lang thang trong những cánh đồng đầy chết chóc. Họ thiếu thốn mọi sự. Thiếu của ăn, nhưng điều quan trọng hơn cả là thiếu một nguyên lý thống nhất làm cho họ có thể quy tụ và hiệp thông với nhau.
Đấng Mê-si-a là người đáp ứng những đòi hỏi này. Người sẽ cho họ của ăn, cho họ chỗ nghỉ “trên đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành”. Nhưng điều quan trọng và có ý nghĩa nhất là Người làm cho họ trở thành một dân tộc, và Người sẽ là Mục Tử săn sóc họ.
Thánh Mác-cô bỏ lửng câu chuyện sau khi thuật lại thái độ ân cần của Đức Giêsu với dân chúng: “Đức Giêsu chạnh lòng thương … và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” Đức Giêsu nói gì với dân chúng?
Theo bối cảnh của câu chuyện, có lẽ Đức Giêsu đã nói với họ về nỗi thống khỗ sâu xa của con người: họ chưa được quy tụ lại với nhau để sống với nhau như bạn hữu, để trở thành một dân trong đó mọi người coi nhau như anh em; nói chung lại, để thành một vương quốc theo nghĩa Kinh Thánh.
Có lẽ Đức Giêsu cũng gợi lên cho đám đông ấy biết là Người được sai đến, không phải chỉ để làm Mục Tử coi sóc nhà Ít-ra-en, nhưng còn coi sóc toàn thể nhân loại. Người được sai đến với nhiệm vụ thực hiện điều Thiên Chúa vẫn ước mong. Tất cả hãy nên một theo hình ảnh của Ta, hãy tiến sâu hơn vào trong mối tương giao chia sẻ và hiệp thông.
Đó cũng là ơn gọi của Hội Thánh, của mỗi người: làm cho thế giới đang bị chia rẽ trở thành một dân tộc anh em.
Lời giảng chính là sự sống
“Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”
“Đức Giêsu không ngừng dạy dỗ chúng ta. Khi người ta muốn tôn Người làm vua, đặt Người xa khỏi chúng ta, dành cho Người uy quyền và vinh quang như chúng ta quan niệm, Người đã từ chối … và muốn dạy bảo chúng ta.
“Người dạy bảo gì?
“Người không nói về kiến thức, về những điều phải tin, về những giáo lý trong sách vở. Nhưng Người dạy bảo chúng ta về sự sống, sự sống đích thực.
“Sự sống đích thực là gì?
“Không ai có thể trả lời đầy đủ câu hỏi này, dù người ấy có hiểu nhiều biết rộng. Sự sống, Đức Giêsu đã dạy chúng ta qua những rung động trong cuộc sống của Người, qua những lời luôn mới mẻ của Người, qua những lỗ hỗng Người không ngừng mở ra cho nhân loại.
“Đó là sự sống của Thiên Chúa, Đấng mà Đức Giêsu gọi là Cha với tất cả niềm thân ái. Đức Giêsu đã tự nhận Người ngang hàng với Chúa Cha. Nhiều người sống cùng thời với Đức Giêsu đã không thể chấp nhận những giáo huấn này của Đức Giêsu.” (theo G.Bessière)
Còn chúng ta, chúng ta có chấp nhận lời giảng của Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận sự sống mà Đức Giêsu muốn dạy bảo chúng ta? Chúng ta có đáp ứng thái độ ân cần của con người?
Vì Người yêu mến con người sống tự do,
nên người ta bảo rằng Người chẳng nói gì.
Vì Người mang khuôn mặt nhân loại,
nên người ta bảo rằng Người che giấu.
Vì Người quan tâm đến người nghèo,
nên người ta bảo rằng Người đã chết.
Vì Người là một Thiên Chúa đầy từ tâm,
nên người ta bảo rằng Người đang ngủ.
Vì Người không có mưu toan
nên người ta bảo rằng Người chẳng có ích gì.
(theo P. Fertin)
(Suy niệm của FX. Nguyễn Tất Đạt)
“Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không có người chăn dắt”.
Có một nữ tu đã kể lại một sự việc xảy ra trong cộng đoàn mình như sau:
Vào năm 1982, khi quân đội Israel xâm chiếm Liban đã dồn người Palestine phải tràn vào trường học của chúng tôi để xin tị nạn. Phản ứng tự nhiên của chúng tôi dĩ nhiên là dè dặt, thủ thế và nghi kỵ. Làm sao chúng tôi có thể niềm nở với hạng người không có văn hoá như thế được. Họ tháo gỡ Thánh Giá Chúa khỏi các lớp học và chà đạp dưới chân, họ cưa chân bàn để nấu cơm. Nét mặt của họ lúc nào cũng câm lặng khó thương. Thế nhưng, các nữ tu chúng tôi cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của họ và tiếp nhận họ mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Chúng tôi cố gắng hiểu rằng, họ bị người ta kìm kẹp trong sự dốt nát để dễ dàng sai khiến và lèo lái. Dần dần tâm hồn của chúng tôi hoán cải và chính những người Palestine này cũng biến đổi và mỗi khi chúng tôi xuống sân trường thì họ đều chào hỏi niềm nở với chúng tôi.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em
Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người khác chúng ta mới hiểu và thông cảm với họ. Đó là bài học mà chúng ta cần phải học hỏi và rút ra từ chính cuộc đời của Chúa Giêsu để có thể sống đúng luật bác ái của Ngài. Để cảm thông với nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã hoá thân làm người, và khi làm người, Ngài chọn kiếp sống nghèo hèn cũng như sống thân thiết với người nghèo. Thiên Chúa muốn nên một với con người, nhất là những người nghèo hèn cùng khổ, những người bị gạt bỏ ra ngoài lề của xã hội.
Bài Tin Mừng hôm nay đã ghi lại sự cảm thông ấy của Chúa Giêsu trước tiên là với các Tông Đồ. Ngài biết các ông đã rất mệt mỏi sau chuyến đi công tác về, và không đợi các ông ngỏ ý, Ngài đã khuyên các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Còn đối với đám đông, Thánh Mac cô đã tóm gọn: “Ngài động lòng thương”. Trái tim giàu lòng thương xót của Thiên Chúa như đang từng giây, từng phút bừng cháy một ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa cảm thông và trìu mến đối với tất cả mọi người chúng ta.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em, Chúa Giêsu xuống thế làm người là để sống và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho loài người. Có lẽ ai trong chúng ta ít nhất cũng đã hơn một lần được nghe các đoạn Tin Mừng nói về:
– Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của Lazarô và Ngài đã cho sống lại.
– Chúa Giêsu động lòng thương trước sự hối cải của tên trộm trên đồi Calvê và hứa ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.
– Chúa Giêsu động lòng thương trước cái chết của một thanh niên con bà goá ở thành Na-in và Ngài đã cho anh ấy sống lại.v.v.
Qua những việc làm cao cả đó, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy được tình yêu của Ngài, đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn tỏ bày cho chúng ta nhân tính đích thực của con người. Không thể làm người mà không biết xúc động, cảm thông trước những đau khổ của người chung quanh.
Tục ngữ ca dao dân gian Việt Nam có câu: “Con nhà tông không giống lông thì giống cánh”. Chúng ta là dân riêng của Chúa Giêsu, là học trò của Chúa Giêsu, và là con cái của Chúa Giêsu. Vậy, chúng ta đã học đựơc nơi Ngài điều gì để xứng đáng được gọi là học trò của Ngài? Chúng ta đã nên giống Ngài ở điểm nào để xứng đáng được gọi là con cái của Ngài?
Vậy qua bài Tin Mừng hôm nay, tất cả mỗi người chúng ta cần phải nhìn lại xem:
– Đã bao lần ta thực sự cảm thông trước lầm lỗi của người khác?
– Đã bao lần ta thực sự chia sẻ trước những đau khổ của người khác?
– Đã bao lần ta thực sự động lòng thương trước những người ngày ngày lê lết ngoài phố chợ kia chưa?…
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta phải không ngừng học hỏi Đức Giêsu là Thầy của chúng ta để sống cho ra người, sống cho xứng đáng với phẩm giá con người, chính mỗi người chúng ta phải biết rung động và cảm thông trước những đau khổ với người khác, biết chia sẽ nổi khổ của người khác, biết lấy nổi khổ đau của người khác làm của chính mình. Nếu chúng ta thể hiện được những việc như thế, chúng ta mới xứng đáng là những người trò, người con của Đức Kitô sống để làm chứng cho lòng thương xót, sự cảm thông và tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người, và có lẽ chúng ta cũng cần khẳng định rằng đó chính là sứ vụ, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu dưới lòng trần thế. Amen.
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Lộc Hòa)
Truyện kể rằng: Một hôm trên thành A-ten nhìn thấy nhà hiền triết Đi-ô-sen với chiến đèn lồng thắp sáng trên tay đi đi lại lại săm soi như tìm kiếm gì đó giữa phố xá đông vui. Lúc ấy lại vào ban ngày nắng chói chang có người không nén nổi tính tò mò lẫn kinh ngạc lên tiếng nói: “Thưa tiên sinh, ngài tìm chi giữa thanh thiên bạch nhật vậy”. Nhà hiền triết trả lời: “Ta tìm con người”. Câu trả lời ngắn ngủi như hàm chứa những chuỗi dài suy nghẫm cho nhiều thế hệ. Hóa ra ngay ở thời Đi-ô-sen tìm ra một con người cho đáng phẩm chất người quả là việc quá nhiêu khê như mò kim dưới đáy biển.
Bài Tin Mừng thánh Maccô cho thấy: Trái tim Chúa Giêsu lại cứ trào lên trong lòng người một nổi cảm thương vô hạn khi chứng kiến đám dân chúng bơ vơ ngơ ngác như chiên không người chăn dắt. Sao lại không có người chăn dắt? Họ là người Israel có vua quan, có chức quyền, có nhà nước cai trị mà. Phải mà không phải vậy. Bởi lẽ vua Hê-rốt và quần thần của ông ta thực chất chỉ là chính quyền bù nhìn phải dựa vào thế lực của đế quốc Rôma để sinh tồn. Điều suy nhất họ vẫn cần mẫn chu toàn là giáng xuống đồng bào khốn khổ của họ, siêu cao thuế nặng để có của cống nạp cho quan tề nước lớn. Đồng thời không từ một biện pháp chuyên chính đẩm máu nào để chèn ép mọi manh nha phản kháng nổi dậy của dân chúng.
Nhưng dù gì thì dù, người Israel vẫn cứ là dân riêng của Chúa. Họ có tôn giáo, có đền thờ, có các bậc lãnh đạo tinh thần, những vị này đâu hết rồi. Có chủ chăn song cũng như không. Một số các vị gồm tư tế và kinh sư chạy theo thời cuộc dấn sâu vào chính trị. Tôn giáo đối với họ chỉ là thứ để tạo thế lực đổi chac1t với nhà cầm quyền. Một số các vị khác đặc biệt như nhóm tư tế đền thờ đã tận dụng vai trò “thầy cúng” của họ để làm giàu, thậm chí biến nhà Chúa thành thị trường kinh doanh trục lợi. Cũng chính vì tham vọng tiền và quyền họ thi nhau xén lông vắt kiệt sữa chiên trong khi không hề bận tâm lo cho chiên nắm cỏ, ngụm nước. Bóc lột chiên chán chê họ quay ra ẩu đả cắn xé lẫn nhau. Đó là bức tranh thảm thương của dân chúng thời ngôn sứ Giê-ri-mi-a vừa được tái hiện hầu như nguyên vẹn trước mắt Đức Giêsu. Không đau lòng Đấng Cứu Thế sao được, không xót dạ vị Thiên Sai sao được, nổi đau vừa do số phận đáng thương của đàn chiên và vì tính cách bất xứng vô đạo của các chủ chăn chiên. Đây là thời điểm Thiên Chúa bị chủ chăn tối cao hành động. Ngài sẽ nghiêm khắc trừng trị đám chủ chăn gian ác bất xứng. Người đem đàn chiên của người khỏi tay chúng để trao cho vị mục tử nhân lành chăm sóc. Vị mục tử này giàu lòng cảm thương vừa lo cho chiên ăn mạnh trong đàn vừa lặn lội đi tìm chiên lạc.
Và như thánh Phaolô miêu tả vị mục tử chính nhân đó sẽ thí mạng đổ máu trên thập giá để hòa giải liên kết chiên thành một để biến đổi mọi kẻ xa lạ thành người nhà bà con ruột rà với nhau và với Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa đến với mỗi người, mỗi cộng đoàn Hội thánh cũng như với đất nước ta hôm nay làm sống lại niềm hy vọng gần như tàn lụi giữa bao khó khăn truyền miên trong lịch sử và trong hiện tại. Thiên Chúa vẫn luôn để mắt đến dân của ngài. Đức Giêsu Kitô vị mục tử nhân lành đầy lòng trấn ẩn luôn dẫn dắt bảo vệ và nuôi dưỡng đàn chiên của người.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
TÌM NƠI THANH VẮNG ĐỂ NGHỈ NGƠI
Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Đức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.
Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Đức Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày Sabát.
Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Đức Giêsu khuyên các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh – ngưng nói, ngưng làm – để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng (Gr 23:1-6)?
Khi còn tại thế, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay, tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Đức Mẹ hiện ra để củng cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Đức Giêsu đã làm phép lạ biến nước thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11). Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!
Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành 31-5-1998, Đức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’ trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Đức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Khi Đức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc 6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền giáo.
Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ
về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi
sau những ngày giờ làm việc vất vả.
Xin giúp thánh hoá công việc con làm
và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi
hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả
và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa
để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Khi còn tại thế, Chúa Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc làm, và dạy họ cầu xin Thiên Chúa thánh hoá công việc họ làm. Sách Sáng thế ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Chúa truyền cho họ phải làm việc đổ mồ hôi mới có mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã hội ta đang sống, ta cần làm việc để nuôi thân và hộ đỡ gia đình. Ta bị gò bó vào giờ làm việc trong sở làm. Tuy nhiên nếu lúc nào ta cũng làm việc, và coi việc làm như là cùng đích và cứu cánh là sa vào thuyết duy vật. Thuyết duy vật coi con người là dụng cụ sản xuất, và đánh giá con người theo năng lượng sản xuất.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy: Sau khi các tông đồ thuật lại mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy, Người bảo các ông hãy lui vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi một chút (Mc 6:31). Và rồi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống thuyền chèo vào nơi thanh vắng. Ap dụng lời Chúa dạy, ta cầm tìm thời giờ nghỉ ngơi để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống. Việc nghỉ ngơi không có nghiã là việc mất thời giờ. Việc nghỉ ngơi đã được Thiên Chúa chúc phúc trong Phúc âm hôm nay. Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là đạo Ki-tô giáo đã dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, để thờ phượng và cảm tạ Chúa thay vì ngày thứ bảy.
Có bao giờ bạn cảm thấy dù bận rộn việc làm, dù ở giữa gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu.. mà ta vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Chúa khuyên các tông đồ cần tìm sự yên tĩnh, tìm bàu khí thinh lặng để ở một mình với Chúa, và để có thể lắng nghe tiếng Chúa. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng người ta mới có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa. Tại xứ này nhiều người phải làm ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi. Trường hợp đó ta cần tìm nghỉ bù vào ngày khác để dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và cho chính mình.
Thống kê trong cuốn sách Future Shock của Alvin Tofler có nhận định trung bình một người Mỹ cuối thế kỷ 20 thâu nhận từ mười tới hai mươi ngàn tiếng nói mỗi ngày từ báo chí, truyền thanh, truyền hình. Ngoài ra mỗi ngày họ còn nghe truyền thanh chừng 70 phút, và coi truyền hình hàng giờ, và còn nhiều hơn nữa vào cuối tuần.
Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem mình đã dành cho Chúa được bao nhiêu thời giờ vào việc cầu nguyện và thờ phượng? Không những giáo sĩ mà cả giáo dân, mỗi người phải biết tìm những nơi thanh vắng, để tĩnh tâm, cầu nguyện, đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa. Hôm nay ta tụ họp trong nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về màu nhiệm nhập thể, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ ngày Chủ nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa, và để nâng đỡ đức tin của lẫn nhau. Cuối tuần khi ta kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và sức mạnh thiêng liêng.
78. Chúng ta hoạt động đến đâu
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các hoạt động sôi nổi không kiểm soát được của các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.
Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu cầu thực sự của họ. Tin mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản, không ngăn chặn sự quảng đại của họ.
“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”
Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả, những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên, nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biết mất.
Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa dạng vào những năm gần đây để minh hoạ điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.
Đi bộ từ khắp các thành phố.
Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ đa nghi, những kẻ lợi dụng. Cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu trước hết và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều; Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó: đó là rao giảng Tin mừng cho người nghèo. Ngài đã chẳng nói trong hội đường Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?
Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.
Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Chúa Nhật XVI Thường Niên năm B có thể được gọi là “Tấm Lòng của Vị Mục Tử đích thật”.
Gr 23: 1-6
Lên án các vị mục tử vô trách nhiệm khiến dân Ít-ra-en phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận mệnh dân Ngài và sẽ ban cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít, Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ep 2: 13-18
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho thấy Đức Ki-tô chính là Đấng quy tụ dân Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong bài trình thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử đích thật, vị mục tử Mê-si-a được loan báo trong Bài Đọc I. Thương đám đông dân chúng “bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”, Đức Giê-su quy tụ họ, trước tiên nuôi dưỡng họ bằng lời hằng sống của Ngài, và sau đó cho họ được no thỏa bằng bánh hóa nhiều, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Gr 23: 1-6)
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm ngôn của chương 23 nầy được định vị giữa hai cuộc tấn công của quân Ba-by-lon vào Giê-ru-sa-lem. Cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597, thành đô Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; cuộc tấn công thứ hai vào năm 587, thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu đày mới.
Trái với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở Giê-ru-sa-lem và cực lực tố cáo các vị lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về tai họa bi thảm này. Tuy nhiên, ngay ở giữa lòng thành đô tang thương nầy, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín, Người không bỏ rơi dân Người; đến thời đến buổi, Người sẽ sai phái một vị Mục Tử đích thật đến chăn dắt họ.
Đó là các vua vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử thường được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa). Ông trách cứ họ là đã không trung thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như những con người của Thiên Chúa”. Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Giê-rê-mi-a ngỏ lời với tầng lớp lãnh đạo cao nhất là các vua, những người mà nhiều lần vị ngôn sứ gọi họ là mục tử (2: 8; 10: 21; 25: 34). Như vị ngôn sứ đã nói trước đó, những vị lãnh đạo dân đã coi thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống hưởng thụ phù phiếm; họ đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân). Cuối cùng, họ đã đưa dân chúng lâm vào cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản mác khắp nơi: “Khốn thay những mục tử đã làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (23: 1). Không chỉ những người phải bị lưu đày ở đất khách quê người, nhưng cũng biết bao người đã phải rời Giê-ru-sa-lem tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên Ai-cập.
“Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi” (23: 2). Quả thật, án phạt đã không chậm trể. Vua Giơ-hô-gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Thành phần ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 trước Công Nguyên (2V 24: 10-16).
Sau bản cáo trạng nghiêm khắc nầy, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp: Người sẽ đích thân đảm nhận việc chăn dắt dân Người: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều” (23: 3). Trong lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò của vị mục tử nhân lành, Người sẽ tập hợp đoàn chiên của Người vào trong đồng cỏ của chúng.
Sấm ngôn loan báo viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về từ chốn lưu đày và từ những nơi dân phải lưu lạc tha hương. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Người niềm vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị. Chính Ngài sẽ ban cho dân những mục tử tốt lành hết lòng với dân: “Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (23: 4)
Sau cùng, sấm ngôn loan báo vị mục tử lý tưởng. Đây là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng; họ mong chờ Đấng Mê-si-a đến để thống nhất quốc gia. Việc phân tranh giữa các chi tộc miền Bắc và các chi tộc miền Nam, mặc dầu đã xa xưa, nhưng vẫn còn để lại vết thương trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc miền Bắc đã kéo theo một cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do phải trốn chạy hoặc do bị lưu đày ở Át-sua. Cuộc sụp đổ vương quốc miền Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
“Nầy, sẽ tới những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa –
Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực” (23: 5).
Biểu thức: “Nầy, sẽ tới những ngày” mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc được dùng để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông mượn biểu thức nầy từ ngôn sứ A-mốt (Am 4: 2; 8: 11; 9: 13). Tước hiệu “chồi non” đã trở thành tước hiệu của Đấng Mê-si-a. Tước hiệu nầy đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn tước hiệu nầy hai lần (một ở đây và một nơi khác: 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại tước hiệu nầy ở ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12).
Dưới triều đại vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít nầy:
“Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát,
Ít-ra-en sẽ được sống yên hàn” (23: 6).
Ở đây, Giu-đa và Ít-ra-en được nêu lên như hai miền của chỉ một vương quốc, như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa chỉ là một dân tộc duy nhất. Người ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a nầy là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”, vì “trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh”.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 13-18)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô. Trong đoạn trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả sự hòa giải mà Đức Ki-tô thực hiện: chết cho mọi người, cả dân Do thái lẫn lương dân. Như vậy, Đức Ki-tô muốn kiến tạo một nhân loại mới và quy tụ họ vào trong Giáo Hội của Ngài.
Trước tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ chiếm đa số trong các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thành ngữ “xa-gần” để chỉ người Ki-tô gốc lương dân (ở xa) và người Ki-tô hữu gốc Do thái (ở gần). Thành ngữ này đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần” (Is 57: 19). Thành ngữ nầy đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua thành ngữ “xa-gần” nầy, thánh nhân muốn nói rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân, trước kia là những người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ, nhờ máu của Đức Giê-su Ki-tô đổ ra, cũng được ban ơn tha thứ tội lỗi:
Vì thế, những người Ki-tô hữu, dù gốc lương dân hay gốc Do thái, đều có thể nói: Đức Ki-tô “là sự bình an của chúng ta”, vì “Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại thành một”. Chúng ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân và những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã đem lại tính cách mạng đến mức độ nào cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, ở đó vốn nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và lời qua tiếng lại ở giữa đôi bên.
Những Ki-tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng ra, dân cưu mang Mặc Khải. Họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo của họ, việc tuân giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh giao tiếp với những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên dân ngoại khỏi khuôn viên dân Ít-ra-en. Khi nói: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, thánh Phao-lô ám chỉ đến bức lan can phân cách nầy. Hẳn là thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động đồng bào Do thái bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh nầy! Nó còn đem cả mấy người Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh nầy ra ô uế”.
Ngược lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều thành phố chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời kỳ những người Do thái bị chính quyền quấy nhiễu. Thái độ bài Do thái nầy cũng gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức Ki-tô đã hủy bỏ bức tường ngăn cách nầy: “Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét”. Tinh thần duy luật khiến những kẻ thực hành tỉ mỉ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
Thánh Phao-lô thật táo bạo khi khẳng định rằng: “Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (2: 15). Người Ki-tô hữu, dù là gốc lương dân hay là gốc Do thái, đều được tái tạo để hình thành nên một người mới duy nhất nơi chính bản thân Đức Ki tô.
Ngoài ra, trong một thân thể duy nhất của Đức Ki-tô, người Ki-tô hữu gốc lương dân và người Ki-tô hữu gốc Do thái không chỉ được hòa giải với nhau, không còn coi nhau là thù địch nhưng là anh em, nhưng còn được hòa giải với chính Thiên Chúa: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá , Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (2: 16).
Thánh Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học nầy rồi trong các thư gởi tín hữu Cô-rin-tô và tín hữu Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô nầy, diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
Chính Đức Giê-su là Tin Mừng bình an cho cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân: “Bình an cho anh em là kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (2: 17). Cuối cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki-tô, con đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba Ngôi.
TIN MỪNG (Mc 6: 30-34)
Trong Chúa Nhật tuần trước, thánh Mác-cô đã tường thuật cho chúng ta sự kiện Đức Giê-su sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Giờ đây, thánh Mác-cô tường thuật những diễn biến khi họ trở về. Thánh Mác-cô cho chúng ta một bài trình thuật với nhiều tình tiết sống động. Vị thánh ký nầy luôn luôn cho chúng ta những đường nét nêu bật con người của Đức Giê-su.
“Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su”. Danh xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng của thánh Mác-cô. Chung chung, các tác giả Tin Mừng tránh dùng danh xưng “tông đồ” nầy cho nhóm Mười Hai, bởi vì danh xưng “tông đồ” theo nguyên ngữ Hy-lạp là “apostolos” có nghĩa là “người được sai đi”. Đối với các thánh ký, chỉ mình Đức Giê-su xứng với tước hiệu nầy: Đấng được Chúa Cha sai đi thi hành sứ vụ. Cách áp dụng danh xưng tông đồ cho nhóm Mười Hai ở đây được biện minh: họ đã “được Đức Giê-su sai đi”. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su Phục Sinh phân biệt nguồn gốc sai đi của Ngài là từ Chúa Cha và nguồn gốc sai đi của các môn đệ là từ Ngài khi nói với các ông: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20: 21).
Các ông “kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai khía cạnh của một sứ vụ đã được trao gởi cho các ông: lời giảng dạy phải đi đôi với việc làm, hay lời giảng dạy phải được minh chứng bằng việc làm. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài sẽ cho họ được ăn no nê khi hóa bánh ra nhiều, một trong những dấu chỉ quan trọng bậc nhất trong thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó có được thời gian nghỉ ngơi. Thánh Mác-cô không xác định khung cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết mà theo ông có ý nghĩa nhất: “nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy, các tông đồ mệt mõi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mõi của các ông, vì thế, nếu cứ ở lại đây, họ không tài nào thoát khỏi đám đông quấy nhiễu nầy: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thái độ của Đức Giê-su nói lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng thuận và xuống thuyền lánh xa một nơi hoang vắng.
Đây không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một mình với các môn đệ và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Ngài giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không phải luôn luôn là dễ dàng. Thánh Mác-cô cũng đã viết: “Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Ngài lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Ngài” (3: 7). Cũng xảy ra đúng y như vậy trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Việc dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện nầy tự nó nói lên sự thành công sứ vụ của Ngài.
Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết địa danh, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ của đám đông với Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ. Từ thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một quảng đường như vậy đến trước cả các ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi thân thiết giữa đám đông dân chúng với Đức Giê-su như theo cách nói của Tin Mừng Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
Lòng nhiệt thành nầy của đám đông dân chúng trái với ý muốn của Đức Giê-su và các môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức Giê-su “chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đoàn chiên thương mến của Đức Chúa. Người đã trao gởi đoàn chiên của mình cho các vị mục tử Ít-ra-en chăn dắt. Nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm nầy chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Người, khiến đàn chiên của Người phải bơ vơ lạc lõng. Đức Giê-su sẽ ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị Mục Tử Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho đám đông nầy trước hết là Lời Ngài. Chính cái đói nầy phải được đáp ứng trước tiên: “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại hóa bánh nhiều nối tiếp theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là Lời Chúa, tiếp đó là Thánh Thể.
Khi ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghỉ ngơi, Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng trọn vẹn bản thân của mình cho đoàn chiên”.
Bài trình thuật của Mác-cô chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mõi của Ngài sau khi họ hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi họ đi một quảng đường xa đến gặp Ngài. Đây là một trong số các bài tường thuật cho thấy ở nơi Đức Giê-su tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa có độ nhạy cảm sâu xa của con tim nhân loại vừa có tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nương tựa ở nơi Ngài. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới chiêu bài nầy hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khốn khổ đau của đoàn chiên, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11).
Sau cuộc đi thực tập truyền giáo trở về, các tông đồ đã sung sướng kể lại những thành quả tốt đẹp đã gặt hái. Nghe xong, Chúa Giêsu đã mời gọi các ông vào nơi thanh vắng, như Ngài vốn làm, để nghỉ ngơi, để cầu nguyện cũng như để kiểm điểm về những biến cố mà họ đã gặp và đã sống.
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi muốn chia sẻ về việc kiểm điểm đời sống để biết rõ chính bản thân của mình.
Con người ngày nay biết được nhiều sự, nhưng có một sự cần biết hơn cả thì họ lại mù tịt, đó là biết chính bản thân mình. Con người ngày nay khám phá ra nhiều thứ, từ những bí mật dưới lòng biển cả cho đến những tinh tú trên bầu trời cao, nhưng có cái cần khám phá hơn cả thì họ lại quên lãng, đó là khám phá chính tâm hồn của mình.
Từ xưa, người ta đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc biết mình.
Đông phương thì bảo:
– Tri bỉ tri kỷ, bách chiến báchthắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng.
Còn Tây phương thì khuyên:
– Connais-toi, toi-même. Hãy biết chính mình bạn.
Sở dĩ như vậy vì không biết mình thì khó mà khiêm nhường, không khiêm nhường thì khó mà nhân đức, không nhân đức thì khó mà được vào nước trời. Không biết những sai lỗi thì làm sao có thể uốn nắn mà trở nên hoàn thiện.
Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ, bởi vì như một thi sĩ đã bảo:
– Con người khó mà đo được tâm hồn của mình một cách chính xác, bởi vì cái thước họ dùng luôn sai lạc, hoặc ngắn quá hoặc dài quá.
Một người đã sạch thì chỉ một vết nhơ nhỏ mọn cũng đã đủ để cảm thấy bức rức khó chịu rồi tắm gội lại ngay. Trái lại, một người đã lem luốc bẩn thỉu, dính đầy dầu mỡ, thì dù bùn đất có dính vào thì cũng chẳng cảm thấy chi. Cái bi đát là ở chỗ người say thì chẳng bao giờ nhận mình là say. Còn kẻ tội lỗi thì chẳng nhận thấy mình có tội lỗi gì.
Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ đằng trước đựng những sai lỗi của kẻ khác còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Do kiêu ngạo, chúng ta thiếu nhận biết về bản thân cùng những sai lỗi của mình. Trái lại, những khuyết điểm của người khác thì chúng ta lại biết rất rõ và kết án một cách rất là nghiêm khắc.
Bởi đó chúng ta phải luôn luôn tự hỏi:
– Tôi là ai và tôi như thế nào? Đâu là những cám dỗ tôi thường gặp, đâu là những tật xấu tôi thường vấp mắc và đâu là những tội tôi thường phạm?
Tất cả những câu hỏi trên, chúng ta chỉ có thể tìm thấy được câu trả lời một cách xác thực nhất trong thinh lặng, cầu nguyện và kiểm điểm đời sống.
Bởi đó, giữa giòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, để tính sổ cuộc đời với Chúa, và nhìn lại những bước đường đã đi.
Qua những giây phút thinh lặng ấy, chúng ta sẽ trở về nguồn và từ đó xác định rõ hơn mình đang ở đâu và mình đã đi tới đâu rồi? Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng uốn nắn lại đường đi nước bước của mình.
Đồng thời, chúng ta sẽ lãnh nhận được một nguồn sinh lực và ơn sủng dồi dào nhờ việc kết hợp và gắn bó mật thiết với Chúa.
Chính vì thế, người ta đã đưa ra một kinh nghiệm sống như sau: Tâm hồn càng nhận được nhiều trong thinh lặng thì càng ban phát nhiều hơn trong hành động và trong cuộc sống.
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
NGƯỜI MỤC TỬ NÀO MÀ CHẲNG BIẾT KHÓC CƠ CHỨ?
Thế giới ngày nay dường như chai sạn, khô cứng tình người. Có lẽ đang co rúm vào bản thân, mà chẳng dám nhìn, vươn tới tha nhân! Dĩ nhiên, đâu đó vẫn còn lòng mến, đâu đó vẫn còn những cánh tay dám dang ra cứu lấy người khác, biết tương thân tương ái, hỗ trợ anh chị em đang gặp cảnh túng thiếu. Nhờ lòng trắc ẩn nơi họ, mà biết bao nhiêu nghĩa cử đầy sáng tạo không ngừng nghỉ, được thực hiện, nhằm giúp đỡ tha nhân, đặc biệt trong thời kỳ đại dịch, nhiễu nhương này.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Qua thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô, Thánh Phao-lô đã nêu lên thực trạng của mỗi người chúng ta: “trước kia, chúng ta là những kẻ xa lạ…” (Ep 2, 13). Xa lạ với Thiên Chúa, và xa cách anh chị em. Tuy nhiên, nhờ bửu thuyết của Đức Giê-su Ki-tô, mà Ngài chính là sự bình an, đã đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa, gần với nhau. Ngài gắn kết chúng ta lại với nhau, phá vỡ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù trong tâm tư, cõi lòng của mỗi chúng ta. Qua thập giá, Ngài hoà giải chúng ta với Thiên Chúa Cha, hoà giải chúng ta với nhau. Hơn nữa, Ngài còn sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng bình an, và ban ân sủng ngõ hầu tiến gần tới Chúa Cha trong cùng một Thần Trí (x. Ep 2, 13-18). Tất cả đều nhờ Chúa mà ra. Chính vì vậy, sứ vụ “mục tử” không gì khác hơn cũng là ơn cao quý thánh thiêng. Chẳng phải vậy mà người tín hữu không được thông phần tham dự vào! Nhớ lại, khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ-tư tế-vương đế của Đức Giê-su Ki-tô. Và sứ vụ “mục tử” này được biểu lộ rõ rệt qua việc chăm sóc đoàn chiên, cộng đoàn đối với thừa tác viên có chức Thánh, cũng như được diễn tả qua việc tham gia, đóng góp, cộng tác của thành phần giáo dân trong việc điều hành, trông nom đàn chiên. Đôi lúc, trong thực tế, chúng ta thường lãng quên, mà nghĩ rằng: ai có khả năng cộng tác, lo cho giáo xứ thì cứ làm, còn tôi thì chẳng lo được! Lắm lúc, chúng ta còn chỉ trích thái quá, cứ than phiền trách móc chủ chăn, và người khác, còn về phần mình thì chẳng muốn thực hiện sứ mệnh của bản thân!
Ngoài ra, với vai trò của người mục tử đầy lòng trắc ẩn, dĩ nhiên, chúng ta phải noi gương Đức Giê-su Ki-tô là vị Chủ chăn đích thật, là người Mục tử nhân lành. Cụ thể như lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I: quy tụ đoàn chiên đang bị phân tán, lùa chúng về đồng cỏ xanh tươi, nuôi dưỡng chúng, cho chúng lớn lên và tăng số, chăn dắt chúng, đừng để chúng sợ hãi, kinh hoàng, và không còn thiếu thốn gì nữa (x. Gr 23, 3-4). Ngược lại với những kẻ xưng danh là mục tử, nhưng chỉ là mục tử giả, thì chỉ biết lo cho tư lợi, thay vì chăm lo cho đàn chiên. Tệ hơn, họ khiến đoàn chiên tản mát, xâu xé chúng, xua đuổi và chẳng biết trông nom chúng (x. Gr 23, 1-2). Nhìn vào thực tế, chúng ta cũng phải đấm ngực mình vì biết bao lần chúng ta không làm tròn trách vụ của một người mục tử được Thiên Chúa mời gọi, tuyển chọn và sai đi. Nhiều phen, thay vì trở nên mục tử đầy lòng xót thương, chúng ta lại trở nên gương mù gương xấu cho sự chia rẽ, ganh đua, bè phái…trong cộng đoàn. Còn với vai trò người giáo dân, biết bao lần, chúng ta phớt lờ lời kêu mời cộng tác với chủ chăn, chưa nhiệt tâm trong việc hỗ trợ người mục tử.
Sau cùng, lòng trắc ẩn nơi người mục tử chính chuyên không dừng lại ở giới hạn: bồi bổ, tìm giờ giấc nghỉ ngơi cho bản thân, hoặc kiếm mọi cách để mình được thoải mái, tiện lợi, với lối sống tiện nghi! Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ: sau khi được Chúa sai đi từng hai người một để loan báo Tin Mừng, trở nên sứ giả bình an, các Tông đồ trở về, thuật lại mọi việc đã làm và đã giảng dạy (x. Mc 6, 30); thì Đức Giê-su hiểu rõ các Tông đồ, thấu tỏ người mục tử cần nghỉ ngơi, dưỡng sức, nên Ngài khuyến khích các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6, 31). Tuy nhiên, Ngài không cổ suý việc mưu cầu giải trí, nghỉ ngơi, hoặc tìm những tiện lợi cho bản thân, mà quên đi sứ mệnh “mục vụ” đoàn dân với cả tấm lòng của người mục tử, đầy lòng trắc ẩn xót thương, vì “họ như đàn chiên không người chăn” (x. Mc 6, 34). Người mục tử tốt lành, đích thật là vậy! Họ cũng cần nghỉ ngơi, lấy lại sức lực sau bao việc mệt nhọc, nhiều điều phải nghĩ suy, quyết định, v.v…, nhưng chẳng bao giờ quên nhu cầu, lợi ích của đoàn chiên, vốn được giao phó cho mình. Mẫu gương nơi Đức Giê-su khiến chúng ta cần suy gẫm, và nỗ lực bước theo: Có lẽ Ngài cũng muốn được nghỉ ngơi chút ít, nhưng khi thấy đám đông người người cứ lũ lượt bước theo, thì Ngài chạnh lòng thương, vì họ như thể đàn chiên không chủ chăn vậy. Người mục tử nào mà không biết khóc cơ chứ? Người mục tử nào mà chẳng biết cảm thương trước sự khốn cùng của đàn chiên của mình? Người mục tử nào mà chỉ biết khép kín, mặc kể cho đàn chiên bị xâu xé cơ chứ?
Với tâm tình phó dâng, chúng ta cùng chạy đến khẩn cầu cùng Vị Mục tử nhân lành Giê-su:
Lạy Đức Giê-su Ki-tô,
Là người Mục tử tỏ lộ xót thương.
Dẫn đoàn chiên đến náu nương
Nơi có suối nước, cỏ hương ngạt ngào
Nghỉ ngơi giữa chốn cần lao
Dưỡng nuôi hồn xác, thanh tao muôn phần.
Xin thương tuôn đổ hồng ân
Chăm lo, săn sóc ân cần đàn chiên.
Chẳng tìm nơi chốn bình yên
Lãng quên tình Chúa, đứng yên lặng nhìn
Nhìn ràn chiên phải hy sinh
Vô tâm chỉ biết thân mình chủ chăn
Giờ này sám hối ăn năn
Khoan nhân trắc ẩn, vạn lần bao dung. Amen!
(Suy niệm của Jaime L.Waiters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH, KHUÔN MẪU CỦA NHÀ LÃNH ĐẠO GIÀU LÒNG NHÂN ÁI
Trong các Chúa nhật trước, chúng ta đã được nghe kể về vai trò của việc giảng dạy, rao giảng và chữa lành trong sứ vụ của Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay tập trung vào việc đào tạo người lãnh đạo, vốn cũng là một yếu tố cần thiết của việc rao giảng Tin mừng.
Đoạn Tin mừng theo thánh Máccô hôm nay chính là phần dẫn nhập cho câu chuyện Đức Giêsu nuôi đám đông dân chúng mà chúng ta sẽ nghe vào Chúa nhật tới. Các tông đồ trở về gặp Đức Giêsu để thuật lại những gì họ đã rao giảng và đã thực hiện. Đáp lại những nỗ lực này, Đức Giêsu nhấn mạnh rằng các ông phải tách mình ra khỏi đám đông để nghỉ ngơi, giúp những người lãnh đạo “tương lai” có thời gian hồi tâm và hồi phục trong hành trình truyền giáo. Bài Tin mừng gắn thêm việc chăm sóc bản thân và tái tạo năng lượng như là điều cần thiết cho các nhà lãnh đạo tốt. Sau đó, cả nhóm chèo thuyền đến một nơi thanh vắng để ở đó một mình.
Bởi vì sứ vụ của Đức Giêsu đã được nhiều người biết đến nên dân chúng đã nhận ra thầy trò Đức Giêsu và vội vã đến gặp họ. Mặc dù cần có thời gian ở một mình, nhưng Đức Giêsu sẵn sàng thay đổi kế hoạch khi có người cần gặp, vì Ngài xót thương họ. Ngài “chạnh lòng thương” và nhận ra họ khao khát được ở với Ngài. Đức Giêsu còn đưa ra một mô hình lãnh đạo khác, đó là quan tâm và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ngài chọn việc giảng dạy đám đông vì thấy được nhu cầu cần có người lãnh đạo, bởi họ như “bầy chiên không có người chăn dắt.”
Lời này cũng vang vọng nơi bài đọc một trích sách ngôn sứ Giêrêmia. Trong bài giảng, vị ngôn sứ phê phán việc thiếu vắng người lãnh đạo trong cộng đoàn của ông, với những người cầm quyền (các mục tử) đã góp phần trong việc tàn phá và lưu đày dân Giuđa (đàn chiên). Ngôn sứ Giêrêmia đã lên án những mục tử xấu xa này nhưng đồng thời ông cũng hy vọng rằng sau cuộc lưu đày ở Babylon, số sót lại của đàn chiên sẽ hồi hương và xây dựng lại cộng đoàn. Ông loan báo về một nhà lãnh đạo tương lai từ dòng dõi vua Đavít sẽ cai trị cộng đoàn hồi hương này cách khôn ngoan, thực hiện “công lý và đức công bình trên đất nước.” Vị lãnh đạo tương lai này có thể được hình dung như là Zêđêkia hoặc Zêrubaben, vì văn bản tiếng Do Thái dùng lối chơi chữ ám chỉ đến một hay cả hai nhà lãnh đạo này. Sau đó nhiều thế kỷ, các tác giả Tin mừng đã liên kết vị lãnh đạo công chính từ dòng tộc Đavít này với Đức Giêsu.
Các bài đọc hôm nay hướng dẫn vài yếu tố quan trọng về lãnh đạo. Bài Tin mừng đưa việc nghỉ ngơi, tĩnh tâm và tái tạo năng lượng vào công việc truyền giáo. Hơn thế nữa, Lời Chúa cũng đòi việc lãnh đạo phải được thấm nhuần lòng thương xót. Đức Giêsu nhận ra việc thiếu vắng người lãnh đạo và nhu cầu của dân chúng nên Ngài bước lên để dẫn dắt họ. Về điểm này, Đức Giêsu là hiện thân cho niềm hy vọng của ngôn sứ Giêrêmia về những nhà lãnh đạo gương mẫu, những người sẽ là hiện thân cho công lý và công bình. Những mục tử tốt lành sẽ cai quản cách công minh và khôn ngoan vì lợi ích của toàn dân.
Chúa nhật tới, chúng ta sẽ nghe trình thuật của thánh Gioan về việc nuôi đám đông dân chúng, và bài Tin mừng hôm nay là phần dẫn nhập của thánh Máccô về câu chuyện phép lạ quan trọng này. Khi chạnh lòng thương, Đức Giêsu không chỉ dừng lại, kết nối với dân chúng và giảng dạy họ, nhưng còn cho họ ăn khi đói. Lãnh đạo là một cuộc gặp gỡ và cam kết thiết thực để có thể nuôi dưỡng mọi người về tinh thần lẫn thể chất.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/06/17/word-lectionary-scripture-prayer-240833
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu 6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu 31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34). Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44, chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt. Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm. Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18). Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33; x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước” diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33) chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30). Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai, Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34; 8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon), ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
84. Đức Giêsu, các Tông Đồ và dân chúng
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một (6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật việc các ông trở về báo cáo công việc đã làm với Thầy. Để chu toàn được sứ mạng Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa và đuổi được ma quỷ, các ông phải chấp nhận định mệnh của Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác giả đã tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào giữa đoạn văn về sai phái đi và trở về báo cáo kết quả; x. 6,17-29).
Trong đoạn văn này, chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc: Đức Giêsu là Thầy nhắc nhở các môn đệ (c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45), đám đông kéo tới, chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự kiện cả Nhóm không có giờ ăn uống đã được nói đến ở 3,20.
Nếu đặt bản văn này trong tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần mở cho biến cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi đám đông dân chúng (6,34-44).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu và các Tông Đồ (6,30-32);
2) Đức Giêsu và đám đông dân chúng (6,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
– Các Tông Đồ tụ họp quanh Đức Giêsu (30): Không phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng về, Nhóm Mười Hai được nhận danh hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ ở đây mà thôi). Danh hiệu này tăng cường thêm cho dây liên kết giữa đoạn văn này với đoạn văn kể lại việc Đức Giêsu sai phái các ông đi rao giảng. Chính là trong tư cách “tông đồ”, nghĩa là những người được Đức Giêsu giao phó sứ mạng tiếp nối công trình của Người, mà các ông tái xuất hiện.
– và kể lại … mọi điều các ông đã làm … đã dạy: Họ báo cáo đúng theo hai phương diện của hoạt động được giao (x. 6,12-13): rao giảng – trừ quỷ và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11; 3,14-15). Hai phương diện này đã được minh hoạ trong hoạt động của Đức Giêsu (1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ của Nhóm Mười Hai được đồng hoá với sứ vụ của Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của Người.
Đây là chỗ duy nhất mà tác giả xác định là Nhóm Mười Hai “đã giảng dạy” (edidaxan). Ngài thường dùng động từ “công bố” để nói về các ông này hơn (kêryssein: 3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một sắc thái phân biệt hai từ này: việc công bố đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14 và 21). Tuy nhiên, không nên đối lập hai từ này y như thể là hai sinh hoạt hoàn toàn tách biệt; khó mà làm việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc đến việc giảng dạy của Nhóm Mười Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác giả đang nêu bật hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói: hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu được nối tiếp nơi hoạt động giảng dạy của Nhóm Mười Hai.
– Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý giải thích việc ra đi đến nơi thanh vắng để rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ với năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho phép liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai và cuộc trở về của họ với cuộc gặp gỡ của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ. Tuy nhiên, câu này cũng có những chi tiết đáng quan tâm: một đàng, sự tha thiết được nêu bật bằng việc lặp lại: “lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng” (cc. 31-32). “Lánh riêng ra” (kat’idian) là một nét riêng của Mc (x. 7,33; 4,34; 9,2.28; 13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho Nhóm Mười Hai được “ở với Người” (3,14), xa đám đông, và để được sai đi.
Đàng khác, lời đề nghị của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông đồ có cùng một nhịp sinh hoạt (hoạt động nơi dân chúng – sống cô tịch) như Người. Các ông được mời bắt chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, mà cầu nguyện, sau khi đã hoạt động rao giảng. Phải chăng đây là điều tác giả muốn diễn tả qua dụ ngôn hạt giống tự mọc một mình (4,26-29)?
– chạnh lòng thương (34): Động từ splanchnizomai (x. 1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm đến lòng dạ (ta splanchna) và được biểu lộ ra bằng một hành vi đặc biệt chiếu cố đến một ai đó (x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).
– vì họ như bầy chiên không người chăn dắt: Câu này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa khi thiếu vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16), bị vua chúa coi thường và bỏ rơi (Ed 34,5), lang thang, lạc lõng, bơ vơ không người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed 34 hơn, vừa về giọng văn vừa về đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết, đã xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi trong hoang địa; thế mà bản văn Mc đây đang nhắc nhớ đến Môsê và các lương thực nhiệm mầu của Ít-ra-en trong hoang địa. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa sẽ săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được ăn trong đồng cỏ mầu mỡ (c. 14), cho chúng nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử dẫn dắt chúng (c. 23). Xem Tv 22/23.
Nhiều chi tiết trong bài tường thuật liên hệ đến những đoạn văn đó: sự ân cần của Đức Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ, đám đông qui tụ lại, bữa ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây là những gợi ý cho hiểu Đức Giêsu chính là vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng Đức Giêsu “chạnh lòng thương”, bản văn đã đề cao phẩm chất của vị Mục tử thiên sai.
– và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Điều đáng ngạc nhiên là Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ lòng thương xót! Các bản văn Mt và Lc dường như hợp lý hơn: Đức Giêsu chữa các bệnh nhân hoặc nếu có giảng dạy thì không phải vì thương xót. Vả lại công việc của người mục tử không phải là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng đoàn chiên.
Thật ra, ở đây cũng như tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2; 10,1), tuy không cảm thấy phải nói về nội dung của lời Đức Giêsu giảng dạy, Mc vẫn sử dụng danh từ “lời giảng dạy” và động từ “giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì điều ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là chính hoạt động giảng dạy, vì hoạt động này biểu lộ chân tính của Đức Giêsu. Bằng lời Đức Giêsu giảng dạy và đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành động để thiết lập Triều Đại của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi giảng dạy, Đức Giêsu chứng tỏ uy quyền. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ xa xưa, nay Đức Giêsu đến để dùng lời nói mà qui tụ, để làm no thoả đàn chiên bơ vơ.
Thật ra, có nhiều bản văn Kinh Thánh nối kết việc mạc khải Lời Chúa với ân ban các lương thực thiên quốc (x. trường hợp Môsê: Kn 16,28; Nkm 9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv 94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về việc hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ về Bánh ban sự sống (6,26-58).
Cũng có thể giải thích bản văn Mc dựa theo sinh hoạt Giáo Hội: hẳn là Mc đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, trong đó việc giảng dạy và bẻ bánh đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42; 20,7; Lc 24,25-32).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu và các tông đồ (30-32)
Cần phải hiểu cách thức Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan hệ với sự ân cần Người tỏ ra với các môn đệ.
Trong TM Mc, quan hệ của Đức Giêsu với đám đông dân chúng luôn luôn xảy ra có sự chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của một vài người của Nhóm. Song song với việc giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm Mười Hai một lối giảng dạy riêng (4,1-34; x. cc. 10-25.34).
Kể từ sau khi các môn đệ đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu đã làm một loạt những hành vi và ban những lời giảng dạy dành riêng cho họ. Nếu Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng đám đông, thì theo TM II, dấu lạ này lại được dành cho các môn đệ, chỉ có điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch của lương thực và về truyền thống với người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi sáng cho các môn đệ đang ở riêng một nơi (7,17-23). Vào cuối phần đoạn nói về các cuộc hoá bánh ra nhiều, những lời Người trách các môn đệ (8,14-21) chứng tỏ đấy là một mạc khải được dành riêng cho các ông. Câu truyện Đức Giêsu chữa một người mù (8,22-26) được đặt giữa những lời trách mắng này và lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, sẽ là một bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu biết Người chính xác hơn.
* Đức Giêsu và đám đông dân chúng (33-34)
Theo Mc, Đức Giêsu có sức thu hút phi thường đối với dân chúng ngay khi Người xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào nơi thanh vắng cũng không tránh khỏi dân chúng (1,45). Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô đẩy Người, khiến Người không còn thì giờ để ăn uống với môn đệ nữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21.24; 6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo quyển Tin Mừng, ta thấy dân chúng luôn luôn tỏ ra có thiện cảm với Người, cho đến khi họ bị các thượng tế lèo lái trong cuộc xử án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu xua đuổi họ, cho dù đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24.33; 9,30). Có khi Người còn gọi họ lại (7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng mặt của đám đông không phải là không có ý nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối xử với đám đông biểu lộ một phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng Người. Đó đặc biệt là trường hợp ở đây, khi mà đám đông kéo đến bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.
+ Kết luận
“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” là hoạt động Thiên Chúa đang được thể hiện giữa loài người hôm nay. Tin Mừng này nhắm đạt đến mọi người, nhờ sứ vụ các tông đồ. Xuyên qua sứ vụ này, chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức ái của Người, chiếu cố đến mọi người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở thời kỳ khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực tại sâu xa của Giáo Hội, trách nhiệm của Giáo Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng bằng sứ vụ loan báo Tin Mừng.
5.- Gợi ý suy niệm
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
CHÚA GIÊSU ĐỘNG LÒNG XÓT THƯƠNG
Chính vì muốn tường trình cho Thầy mình công việc rao giảng nên các môn đệ đã trở về gặp lại Chúa Giêsu (c.30). Đã đến giờ các thừa sai làm bảng tổng kết đầu tiên. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Maccô gán cho nhóm Mười Hai biệt danh “Tông đồ”, nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Chúa Giêsu moơì các bạn hữu Ngài tìm chỗ yên tĩnh xa lánh mọi người để nghĩ ngơi cho lại sức (c.31a). Đám cứ quấy nhiễu không cho họ có thời giờ phục hồi sinh lực (c.31b). Như thế chủ đề về thực phẩm mà Maccô dự tính trình bày đã được loan báo. Có sự tương phản sống động giữa một ý định chạy trốn đám đông (sang bên kia hồ) và một bên là làn sóng người tìm cách cuốc bộ tới địa điểm trước để đón các Ngài (2,32-33).
Vì thế, vừa đặt chân lên đất, Chúa Giêsu đã lại thấy một đám đông vô kể (c.34). Chúa Giêsu không thể và cũng không muốn trốn họ nữa. Ngược lại, Maccô nhấn mạnh đến sự lo lắng đặc biệt Chúa dành cho đám đông này. Trong tiếng Hy Lạp, thành ngữ “động lòng xót thương” có ý nghĩa rất mạnh. Bản văn nói lên rõ ràng: “Lòng dạ Ngài xúc động” giống như lòng dạ Thiên Chúa đối với dân Người (Hs 11,8).
Lòng xót thương của Chúa Giêsu có thể sánh ví với lòng xót thương của người mục tử đối với bầy chiên bơ vơ lạc lõng. Ở đây phảng phất chủ đề căn bản của Cựu Ước, Israel được trình bày như một đàn cứu được Thiên Chúa và các mục tử Ngài gửi đến dẫn dắt. Tuy nhiên không phải tất cả các mục tử này là những người gương mẫu giống như Môsê hoặc Đavit (x.Ed 34,1-31). Dân Chúa từng gặp phải và vẫn còn gặp phải những người lãnh đạo rất bất xứng với sứ mệnh của họ. Vì thế Thiên Chúa đã hứa sẽ ban cho Israel một vị mục tử nhân lành là chính Đấng Mêsia được toàn dân mong đợi. Trong chương này, Chúa Giêsu xuất hiện như vị Mục Tử thần linh cực kỳ lo lắng cho dân Ngài. Và Maccô nhấn mạnh việc Chúa bắt đầu bằng hành động “giáo hóa” dân chúng một cách kỹ lưỡng. Có tới hai lần, tác giả ghi nhận tầm quan trọng của lời Chúa Giêsu giảng dạy (1,22; 4,1-2) dù không hề xác định rõ nội dung của lời giảng dạy đó. Ở đây cũng thế. Tuy nhiên, sự kiện này vẫn mang đầy ý nghĩa. Trước khi cho dân chúng bánh ăn thì lời giảng của Chúa Giêsu đã làm cho họ “no thỏa”. Trình thuật hóa bánh sắp diễn ra không được phép tách lìa khỏi trình thuật giảng dạy trước đó. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã “dùng Lời” để cố quy tụ đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này. Trong nghi thức Thánh Thể, Giáo Hội luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc” với nhau: trước hết là bàn tiệc Lời Chúa, rồi sau đó là bàn tiệc Bánh Thánh.
CÁC TÔNG ĐỒ TỤ HỌP CHUNG QUANH ĐỨC GIÊSU.
Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Maccô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (“apostoloi”, có nghĩa là “những kẻ được sai đi”). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ, khi sai các ông lên đường. Các ông đã sống một ít ngày, không biết mấy ngày, từng hai người một nhưng không có Người. Các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông đã cảm nghiệm được sức mạnh của Tin Mừng, nhưng chắc hẳn các ông cũng đã có kinh nghiệm về sự chống đối, khước từ, lãnh đạm. Và đoạn Tin Mừng này cho thấy các ông rất mệt mỏi. Cần sự nghỉ ngơi. Vào thời đó, người ta chỉ đi bộ.
Và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Đó là giờ ‘báo cáo’. Hành động rồi xét lại hành động đó để hiểu nó hơn trong đức tin và để làm tốt hơn trong những lần sau. Ngày nay người ta thường tụ họp nhau lại. Người ta quen làm việc theo nhóm, trong sinh hoạt học đường, nghề nghiệp, nghiên cứu: Các Hiệp hội, nghiệp đoàn, ủy ban đủ loại, thường triệu tập thành viên của mình để góp chung ý kiến, dự thảo các dự án. Ngày nay, người ta nói nhiều về “thảo luận”, “đối thoại”. Đó là một phần thuộc bản chất con người. Một lần nữa chúng ta thấy Đức Giêsu đã hoàn toàn hòa nhập vào bản chất sâu xa của con người; sống trong tương quan và góp phần với người khác. Ngày nay nhiều Kitô hữu đã hiểu rằng, đức tin của họ sẽ mạnh hơn biết bao, nếu họ liên kết với những người anh em khác để giải thích và chia sẻ Tin Mừng. Đó là mục đích của việc họp mừng Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Sau một tuần thi hành sứ vụ, người Kitô hữu “trở về” với Đức Giêsu. Tôi có điều gì để nói với Chúa không? Tôi có cầu nguyện với Người về cuộc sống của tôi trong tuần qua không?
Mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Thánh Maccô tóm lại tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện “làm” và “nói”. Đó cũng là đặc điểm hoạt động của Đức Giêsu: Những hành vi xót thương, giảng dạy. Đức Giêsu và các tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc.
Người bảo các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.
Đức Giêsu cũng “nghỉ mát”. Đức Giêsu đề nghị với các bạn của Người, đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là ‘stress’ có hại cho công việc Tông đồ cũng như các công việc khác. Đức Giêsu muốn cho mọi người nam cũng như nữ được quân bình, thanh tĩnh, ổn định. Đó là nhu cầu thinh lặng, cô tịch, tránh xa đám đông. Đó là điều cần thiết cho con người mọi thời, đặc biệt cho con người thời nay, có thể dễ bị bệnh nhồi máu cơ tim do sự biến động trong các thành phố.
Trong một tuần lễ, một ngày sống, tôi có tự ý dành một khoảng thời gian để sống thinh lặng cô tịch không? Tôi phải qua những kỳ nghỉ nào?
Đây không phải là lần duy nhất Máccô cho chúng ta biết Đức Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Đức Giêsu còn biết chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2). Những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1) những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31) đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Héc-mon (Mc 8,27).
Đến nơi thanh vắng trong sự cô tịch, anh em hãy nghỉ ngơi.
Đức Giêsu khích lệ các Tông đồ đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ một cuộc sống đúng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến những giai đoạn suy tư “bên trong” – xem, xét, làm. Xem lại, xét lại, làm lại. Điều này lại càng đúng với đời sống Kitô hữu: Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: Sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”. Tôi có dành thời gian để suy niệm không? Thời gian tôi dành cho sự cầu nguyện trong khoảng 24 giờ là bao nhiêu? Tôi có sự thinh lặng, cô tịch không? Tôi có quen vặn rađiô hay tivi để lấp đầy khoảng trống thời gian của tôi không? Còn những Chúa nhật của tôi ra sao? Có phải là ngày sabat, ngày nghỉ ngơi không?
Thấy các ngài ra đi nhiều người hiểu ý các ngài, nên từ khắp thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài. Bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng.
Ở đây Đức G’iêsu và các môn đệ dường như đang chơi trò “ú tim” hay “cút bắt” với đám đông. Nhưng không có cách nào trốn được. Người ta muốn trốn đám đông Nhưng người ta cũng phải lo cho đám đông đó. Người ta muốn trốn để nghỉ ngơi, tránh sự quá tải đến nỗi không có thời giờ để ăn. Người ta sắp xếp để rút êm, nhưng đám đông đã ở đó trước. Phản ứng của Đức Giêsu trước sự bất ngờ trái ý, làm xáo trộn chương trình của Người thế nào?
Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương.
Lạy Chúa, người ta nhận biết rõ Chúa nhờ điểm đó. Trước tiên, con muốn dành thời giờ để tưởng tượng phản ứng của Chúa. Chúa bước lên bờ. Đám đông đang ở trên bãi biển -Đám đông chạy ùa đến với Chúa. Thay vì bực mình, lạy Chúa, Chúa đã tiếp đón họ. Sự cô tịch, nghỉ ngơi được dời lại vào một lần khác. Trước những trường hợp cấp bách, Chúa cũng phải thay đổi chướng trình của Người. Người đã đáp lại lời mời gọi của kẻ khác. Biết bao bà mẹ muốn nghỉ ngơi mà không được. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua kinh nghiệm này. Tình yêu là thế. Làm những gì mà người ta “có lẽ không muốn”, làm những gì “phải làm”, những việc “đang ở đó”, “Kẻ nào muốn làm môn đệ Tôi, hãy khước từ chính bản thân mình và hãy theo Tôi” (Mc 8,34), Kẻ nào liều mất mạng sống của mình, sẽ được sống” (Mc 8,35). Thua mất! Chúa đã thua mất. Người đòi hỏi chúng ta hãy làm như Người; Thua mất vì tình yêu.
Người chạnh lòng thương.
Cảm xúc này đã biểu lộ trên ương mặt, trong cử chỉ của đôi -tay, trên môi, trên mắt, trong giọng nói của Đức Giêsu thế nào?
Đức Giêsu nhìn đám đông cách trìu mến, đám đông đó là hình ảnh thế gian qua mọi thới đại. Vào lúc này đây, lạy Chúa, con tin rằng Chúa vẫn tiếp tục nhìn thế giới của chúng con hôm nay với cái nhìn “trắc ẩn” như thế? Còn tôi? Cái nhìn của tôi trên đám đông như thế nào?
Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Hình ảnh đẹp làm sao! Chiên không người chăn! Thật là hỗn độn? Phải làm gì bây giờ? Mối tương quan giữa Chúa và dân Người đã không ngớt được mô tả dưới biểu tượng này. Sự ra khỏi Ai Cập đã do Giavê dẫn dắt như một người chăn chiên dẫn đoàn chiên vào sa mạc (Xh 15,13). Môisen lúc chết đã lo lắng cho dân Israel “như chiên không có chủ chăn” (Ds 27,17). Trong bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này, Giêrêmia cho thấy dân chúng được giao cho những kẻ chăn chiên xấu, họ để chiên bị chết và tản mát trong đồng cỏ của Chúa (Gr 23,1-6). Chúa nhật này, chúng ta hát lên Thánh Vịnh 22; “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người cho tôi ngơi nghỉ”. Chính Đức Giêsu cũng đã dùng lại hình ảnh này: “Ta sẽ đánh người chăn chiên và các chiên sẽ bị tản mác” (Mc 14,27). Người xác quyết mình được sai đến với nhung con chiên lạc” (Lc 19,10; 15,4-7). Người là Mục tử nhân lành (Ga 10).
Ở đây Đức Giêsu xử sự như Đấng Mêsia đã được Thiên Chúa hứa. Và chúng ta có thể nói, Người thay cho Thiên Chúa: Đó là Thiên Chúa – Mục tử của dân Israel.
“Những con chiên không người chăn”. Đó là hình ảnh của thế giới qua mọi thời đại, đó cũng là hình ảnh của thời đại chúng ta. Như vậy phải chăng có ý nói rằng thế giới đang rơi vào hỗn loạn? Chúng ta biết rằng có những vị thủ lãnh, những người lãnh đạo dân chúng xuất hiện và tự cho mình là người hướng dẫn quần chúng. Người ta đang tìm Đấng “Chúa hứa ban”. Nhưng thường thì sau một thời gian hy vọng, lại thấy sự áp bức, thối nát tham nhũng tái diễn. Biết bao quốc gia trên hành tinh chúng ta hiện nay có thể chế dân chủ tự do, nhưng cũng biết bao nước khác đang phải chịu những chế độ độc tài, với kỷ luật khắt khe, chỉ nô lệ hóa lương tâm con người và bắt những đầu óc tự do phải câm lặng.
Chúa Giêsu đã đến trong một thế giới như thế. Quốc gia lúc bấy giờ là đế quốc La Mã. Quân đội chiếm đóng đã áp đặt trên dân chúng một chính sách nặng nề.
“Chiên không có chủ chăn”: Đó là một nhân loại mất phương hướng, không biết tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Ai sẽ cho chúng ta thưởng nếm hương vị của đồng cỏ xanh tươi?
Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Việc đầu tiên Đức Giêsu giúp cho những đám đông mất phương hướng đó, là “Phục vụ Lời Chúa”. Một lần nữa Máccô không nói cho chúng ta biết nội dung của giáo huấn trên. Ông chỉ muốn gợi ý cho chúng biết rằng: Nội dung đó chính là con người Đức Giêsu.
Lạy Chúa, con đang lắng nghe. Xin Chúa hãy nói nhiều hơn…
87. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ THIÊN SAI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Sự thể bắt đầu gần giống như một trò chơi ú tim. Khác một điều là ở đây người chơi không có cách để ẩn mình! Thầy trò Đức Giêsu muốn trốn khỏi đám đông, thì rốt cuộc lại phải chăm lo cho đám đông. Trình thuật nhìn bề ngoài có vẻ như một cảnh “chụp vội”, nhưng xét kỹ mới thấy là rất công phu. Trình thuật cốt ý làm một nhịp cầu nối hai sự kiện lại với nhau là công việc truyền giáo vừa hoàn thành của Nhóm Mười Hai và việc hóa bánh sắp diễn ra bằng cách đặt Đức Giêsu trước mặt đám đông mà Người không thể tránh khỏi được. Đúng là có một vài chi tiết không thích hợp, theo như nhận xét của M.E. Boismard: “Việc mô tả đám đông tụ tập lại thật là kỳ lạ, và người ta có cảm tưởng là Máccô phối hợp hai tư liệu khác nhau. Theo tư liệu thứ nhất, có một đám đông đã ở bên cạnh các ngài trước khi các ngài lên đường ra đi (c 31). Họ thấy thầy trò Đức Giêsu bỏ đi (c.33a) nên họ đi bộ (c 33c) đến nơi trước các ngài (c.33e). Còn theo tư liệu thứ hai, thì có nhiều người ở quanh vùng khi nghe tin Chúa đến (c.33b) họ liền từ khắp các thành thị chung quanh đó tuôn đến nơi các ngài đang có mặt (c.33d): (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 89).
Ở đây, Nhóm Mười Hai lần đầu tiên được gọi là “các Tông đồ” (nghĩa là “những người-được-sai-đi”) đã đi truyền giáo về. Đây là giờ các ông báo cáo về công việc truyền giáo ấy: “Các ông kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy”. Đầy vẻ ân cần chăm lo cho các cộng sự viên của mình, Đức Giêsu bảo các ông tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi và trốn khỏi những chuyện rầy rà vốn làm cho các ông ‘cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa’. Người bảo các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Nơi đây hoàn toàn hoang vắng! Vậy mà người ta ‘đã theo đường bộ chạy đến nơi’ trước cả các ngài ở phía bờ bên kia Biển Hồ. Khi các vị vừa ra khỏi thuyền thì đã thấy đám đông trước mặt mình.
Thánh sử ghi: “Ngài chạnh lòng thương họ”. Dịch là chạnh lòng thực ra không lột được hết ý nghĩa rất mạnh của kiểu nói trong Kinh Thánh: “ruột gan bồn chồn”. Giống như trường hợp Thiên Chúa tỏ ra với dân Người, trong sách ngôn sứ Ôxê (11,8); như ông chủ trong dụ ngôn tha món nợ khổng lồ cho người đầy tớ van xin ông (Mt 18,27); như người Cha thấy đứa con trai đã mất nay trở về (Lc 1 5,20); như người Samaria trước cảnh người đàn ông bị cướp đánh nhừ tử nằm lây lất bên đường (Lc 10,33); như Đức Giêsu trước cảnh hai người mù lòa van xin khi Người vừa ra khỏi Giêricô (Mt 20,34); hoặc như lần khác, trước những giọt nước mắt đầm đìa của bà quả phụ Naim trên đường đi chôn đứa con duy nhất của bà (Lc 7,13). Từng ấy nơi lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người được cử hành, được biểu lộ ra nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Như vậy là trong trích đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 này, qua thái độ Đức Giêsu “chạnh lòng” thương đám dân chúng. Đáp lại nỗi khốn khổ của họ, chính là lòng thương xót của Chúa được mặc khải, tình thương yêu của Người được biểu lộ ra; chính là lời Thiên Chúa hứa được thực hiện, như phần tiếp theo của trình thuật sẽ cho thấy.
“Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Biểu tượng của đoàn chiên và người Mục tử là những chủ đề quen thuộc trong Cựu ước. Cựu ước thường dùng những hình ảnh ấy để gợi nghĩ đến tình cảnh đáng thương của dân Chúa bị bỏ rơi, vất vưởng, không người chăn dắt như Êgiêkien 34 hoặc Giêrêmia được trích đọc trong bài đọc 1 hôm nay. Cựu ước cũng dùng biểu tượng ấy để tán tụng sáng kiến của Chúa và Người lãnh đạo đoàn chiên của Người, như còn thấy trong Giêrêmia 23, hoặc Thánh vịnh 22 được dùng làm đáp ca của Chúa nhật này và là Thánh vịnh tạo hậu cảnh cho trình thuật của Máccô. Những lời Tin Mừng hay dùng, đặc biệt gợi nhớ lại lời Môsê cầu nguyện cùng Chúa trước khi chết; ông xin Chúa ban cho dân Người một vị lãnh đạo “để cộng đoàn dân Chúa không rơi vào tình trạng bầy chiên không người chăn dắt” (Ds 27, 17).
Vậy giờ đây, Maccô mời gọi chúng ta cùng ngài hướng nhìn về Đức Giêsu như vị Mục Tử Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo; như Môsê mới của một Xuất hành mới; như Đấng Chúa sai đến để quy tụ một dân mới và dưỡng nuôi họ bằng Lời và Lương thực của Người.
– Maccô kết luận: “Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Việc đầu tiên Người đáp ứng những nhu cầu của dân chúng là dạy dỗ, dùng lời có khả năng quy tụ, tập họp, sau đó là săn sóc và cung cấp lương thực cho dân.
J.Hervieux nhận xét: thánh sử đã hai lần ghi nhận tầm quan trọng của lời Thầy dạy dỗ (1,22; 4,1-2) không lần nào Maccô ghi rõ ràng nội dung lời dạy dỗ. Cả ở đây cũng vậy. Nhưng sự việc diễn ra lại mang nhiều ý nghĩa. Trước khi phân phát lương thực thì tiên vàn Đức Giêsu đã dùng lời mà quy tụ người ta lại. Trình thuật về hóa bánh xảy ra sau đó không được tách biệt với việc xảy ra lúc trước. Chính nhờ “Lời” mà Đức Giêsu quy tụ được đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Hội Thánh lúc ban đầu đã ghi nhớ rõ ràng và cẩn thận duy trì việc này. Trong cử hành nghi lễ bẻ bánh, Hội Thánh luôn đặt ‘hai bàn’ nối tiếp nhau: đầu tiên là bàn để Lời, rồi mời đến bàn để bánh. (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 95).
BÀI ĐỌC THÊM
(G.Bessière, trong ‘Dieu si proche’, năm B), Desclée de Brouwer, trang 125-126).
Kìa họ đang trở về, những con người mà Đức Giêsu đã sai đi trên mọi nẻo đường. Không mang theo lương thực, tiền bạc, bao bị. Họ chỉ được mang theo một cái áo và cây gậy đi đường. Các ông ra đi nhẹ nhàng như gió Thánh Linh. Nhưng các ông có quyền trừ quỷ, chữa người đau ốm khỏi bệnh. Các ông kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dứt khoát trở lại với Đấng hoán cải lòng người và có thể biến đổi toàn bộ xã hội.
Kìa họ đang trở về, những con người tay mang gậy. Các ông phải trở về báo cáo về chuyến đi của mình. Các ông quây quần bên Đức Giêsu “và kể lại cho người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy”. Các ông đã không chỉ nói suông mà còn hành động, như Đức Giêsu đã làm gương. Tin Mừng không chỉ ở trong những lời nói suông mà là bằng những việc làm: một cuộc sống chứng từ.
Chúa nói với các ông: chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút: Nhóm nhỏ đó cần tìm lại được những giây phút thân tình với Chúa, và được Người bồi dưỡng cho tâm hồn. Tiên vàn Chúa đã chọn các ông để các ông “ở với Người” (Mc 3,14) rồi mới sai các ông đi rao giảng. Ngày mai đây các ông sẽ lại phải ra đi, có mang gậy hay không nhưng hiện giờ thì còn cần phải được thưởng thức thêm hương vị của tình nghĩa rạng ngời, phải nói cho Người biết rằng hạt giống gieo đã mọc lên, phải nhận định cho rõ ràng hơn cái gì đã làm và cái gì còn phải làm. Phải ra đi, rồi phải biết lui về nơi yên tĩnh hoặc trong thanh vắng của tâm hồn, thiết tưởng luôn luôn là vấn đề sinh tử.
Đức Giêsu đã kéo các môn đệ của Người ra khỏi vòng xoáy của cơn lốc đám đông. Những kẻ lui người tới những cuộc chuyện trò, những lúc gặp gỡ không để cho các ông có thời giờ ăn uống nữa. Đức Giêsu vẫn là trọng tâm của phong trào quần chúng này. Người cố gắng “đồng hội, đồng thuyền”với các tông đồ. Khi thuyền các ngài cập nơi được kể là hoang vắng, “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông”. Người đã theo đúng chữ – “bồn chồn ruột gan”, như Người cũng đã cảm thấy khi đứng trước những người ốm đau hay tật nguyền. Bởi lẽ họ “như bầy chiên không người chăn dắt”, nghĩa là một quần chúng lạc đường đang trông mong một vị Thiên Sai nào đó. Cả một quần chúng bệnh hoạn.
Trong đám quần chúng này, Đức Giêsu sẽ khai sinh ra một dân tộc Người bắt đầu “dạy dỗ” họ, bởi lẽ “người ta sống không chỉ nhờ cơrn bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Dnl 8,3). Sau đó, Người sẽ hóa bánh ra nhiều và manna mới để làm giao ước mới cho một dân tộc đang trên đường xuất hành. Cả một tương lai bao la được cô đọng trong cảnh quá mạnh này.
(J.Rigal trong llfêtes ét Saisons”, số 483: “Để chuẩn bị tương lai Giáo Hội”, trang 11-12).
Thiết tưởng Hội Thánh sẽ đi lầm đường nếu vì nghĩ đến tương lai mình, mà chỉ lo lắng trước tiên cho sự sống còn của mình. Thiết tưởng Hội Thánh sẽ không tìm, được đường đi cho mình khi chỉ con đường trong sự thu mình vào nội bộ và cậy dựa vào việc củng cố hàng ngũ của mình.
Thách đố lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành, tất nhiên không phải là thách đố về số người điều hành, hay là về nguồn tài chánh, cho dù những vấn đề này có tầm quan trọng thế nào đi nữa. Đúng hơn chính là thách đố về nhiệt tình truyền giáo và sống tình huynh đệ, yêu thương đối với thế giới chung quanh ta.
Người ta cũng có thể nói được là Hội Thánh đánh mất đi lẽ sống của mình và tự tan rã, nếu chỉ quan tâm đến chính mình hơn là lo cho những con người nam nữ mà Hội Thánh được sai đến. Trái lại Hội Thánh được biến đổi, tìm được nhuệ khí mới, khi nỗ lực đối chiếu sứ điệp Tin Mừng với nếp sống duy thực của những con người thời nay, và với những thách đố của lịch sử. Cần nhắc lại rằng truyền giáo không nhằm bành trướng Hội Thánh mà nhắm mở rộng Nước Trời.
Mọi lựa chọn liên quan tới tương lai của Hội Thánh đều phải quy hướng trước nhất về mục tiêu truyền giáo. Điều này sẽ không bao giờ nói đủ. Được Chúa triệu vời, cộng đoàn Kitô hữu quy tự để cầu nguyện, đón nhận Lời Chúa, liên hệ Lời Chúa với những khát mong của con người thời nay. Bởi lẽ việc quy tụ luôn được bố trí để hướng tới sự ra đi, gần gũi, chia sẻ. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời tụ họp, tốt rồi, nhưng còn để hòa mình hơn vào cuộc sống thường ngày của mọi người, hầu làm chứng Tin Mừng Phúc Âm cho họ.
Công đồng Vatican II mở đầu Hiến chế Mục vụ “Gaudium et Spes” bằng những lời thấm thía sau đây: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay… cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô”.
Khi phác họa bản đồ mục vụ của địa phận, thiết tưởng phải tự hỏi xem làm thế nào để hiện thực hóa những lời kêu gọi này của Công đồng Vaticanô II trên một quy mô thật rộng rãi.
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu dã không ngần ngại sai các môn đồ đi phổ biến những dấu chỉ Nước Trời là lời mời gọi thống hối và những việc chữa lành bệnh tật, mặc dù các ông chưa đạt tới đức tin chân chính và sung mãn (chỉ có sau lễ Ngũ Tuần). Trong những trang Tin Mừng kế tiếp, ba lần Chúa Giêsu còn phải lay tỉnh họ vì họ chậm hiểu: coi những kẻ chai đá… các ngươi còn chưa hiểu ư?” (6,52; 7,18; 8,17.21). Chính Phêrô, dù đã biết Chúa Giêsu là ai (8,29), vẫn còn phải tìm hiểu thêm nhiều nữa (8,32). Như vậy không nhất thiết phải chờ cho đến khi thấu hiểu tất cả, học hỏi mọi điều mới khởi sự rao giảng và hành động trong Nước Chúa. Nhiều Kitô hữu có mặc cảm không đủ khả năng rao giảng và làm chứng cho đức tin, nên đổ trách nhiệm này cho các giáo sĩ, tu sĩ và các “chuyên viên”, trong khi đó họ bỏ qua bao nhiêu cơ hội tốt: dạy giáo lý cho trẻ em, chia sẻ Tin Mừng với các nhóm. chuẩn bị phụng vụ sửa soạn cho các kẻ sắp lãnh bí tích rửa tội, hôn nhân, Xức dầu, thăm viếng các bệnh nhân, an ủi những người sầu khổ v.v…
2) Chúa Giêsu thích lui vào nơi hoang vắng (1,35, 6,46).
Sau chuyến đi truyền giáo về, các môn đồ sung sướng kể lại những gì đã làm và đã rao giảng (x. Lc 10,17): Chúa Giêsu không khen ngợi cũng chẳng phiền trách, Người chỉ bảo họ tìm nơi hoang vắng, như Người thường làm, để nghỉ ngơi, thẩm định, suy nghĩ về nhung biến cố mà họ đã sống, đã gặp. Vì trong cuộc sống hoạt động náo nhiệt, họ đã có thể quên kết quả đích thực của kinh nghiệm vừa trải qua là biết chính Chúa Giêsu hơn. Điều này chỉ có thể làm được bằng việc cầu nguyện rong thinh lặng thanh vắng, như Chúa Giêsu đã làm.
3) Quần chúng đang khao khát chân lý. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để đến với Chúa Gíêsu. Và Chúa Giêsu đã muốn đáp ứng nhu cầu này của họ trước tiên. Nhiều lần trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một kế hoạch, bỏ một lộ trình dự tính, để dừng lại bên một đám tang, một người bệnh, một bờ giếng. Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thì giờ thích thú nghe môn đồ thân yêu kể chuyện truyền giáo, Người đã có thể dẫn các ông đi vào một nơi riêng không ai quấy rầy, để nghỉ ngơi tâm sự với họ. Nhưng không, Người đã muốn trước hết đáp ứng nhu cầu sâu xa của quần chúng.
89. Chú giải của William Barclay
THƯƠNG CẢM VỚI ĐÁM ĐÔNG (Mc 6,30-34)
Khi các môn đệ hoàn thành sứ mạng trở về, họ phúc trình công tác với Chúa Giêsu. Nhu cầu của quần chúng muốn được nghe Chúa Giêsu thì rất lớn, đến nỗi các ông chẳng có thì giờ dùng bữa; cho nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ tìm một nơi vắng vẻ phía bên kia bờ biển hồ để thầy trò có thì giờ yên tĩnh nghỉ ngơi.
Tại đây chúng ta thấy điều có thể gọi là nhịp điệu của đời sống. Vì đời sống là một hành trình liên tục từ chỗ gặp loài người đến nơi gặp Chúa, để rồi từ nơi gặp Chúa trở về gặp loài người. Nó tương tự như nhịp điệu của giấc ngủ và công việc. Chúng ta sẽ không thể làm việc, nếu không có đủ thì giờ nghỉ ngơi thích hợp, nhưng chúng ta cũng không thể ngủ nếu chưa làm việc cho đến khi đi mệt mỏi.
Trong nếp sống hằng ngày, có hai nguy cơ. Một là có cơ nguy hoạt động quá sức. Không ai có thể làm việc mà không nghỉ ngơi, cũng như chẳng ai có thể sống đạo nếu không dành thì giờ để được sống riêng biệt với Chúa. Có thể tất cả rắc rối của đời sống là do chúng ta không dành thì giờ để Chúa phán dạy mình, vì chúng ta không biết yên lặng lắng nghe. Chúng ta không để Chúa bồi bổ lại năng lực cho mình, vì chúng ta không dành thì giờ nào riêng ra để chờ đợi, trông mong nơi Ngài cả. Làm thế nào chúng ta có thể đương đầu nổi các gánh nặng của đời sống, nếu không được tiếp xúc với Đấng là Chúa tể của mọi đời sống? Làm sao chúng ta làm nổi công việc cho Chúa nếu không được sức lực Ngài ban cho? Và làm sao chúng ta có thể nhận được sức lực ấy nếu không gặp gỡ riêng với Thiên Chúa? Hai là, có nguy cơ của việc thoái thác quá nhiều. Lòng tin kính mà không tạo ra được hành động thì không phải là tin kính đích thực. Chúng ta đừng bao giờ đi tìm hiệp thông với Chúa để trốn tránh hiệp thông với con người. Nhịp điệu của đời sống là luân phiên gặp gỡ Chúa trong nơi kín đáo, phục vụ người ta ngoài phố chợ.
Nhưng Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài đã không tìm được sự nghỉ ngơi mong muốn. Đám đông thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài ra đi. Từ chỗ họ đến nơi mà Chúa Giêsu với các môn đệ vừa tới cách xa bốn dặm đường vượt biển bằng thuyền, nhưng nếu phải đi bộ đường vòng thì đường dài đến mười dặm. Vào ngày lặng gió hay có gió ngược thì một chiếc thuyền vượt quãng đuờng này phải tốn khá thời gian. Còn một người khỏe chân có thể đi bộ vòng bờ hồ và sẽ đến nơi trước khi thuyền cặp bến. Đó chính là việc đã xảy ra ở đây. Cho nên lúc gặp Chúa Giêsu và các môn đệ vừa bước ra khỏi thuyền, thì chính đám đông mà các Ngài muốn tránh mặt đẻ tìm thì giờ nghỉ ngơi, họ đã chờ đợi sẵn đó rồi.
Nếu là một người thường chắc phải cảm thấy hết sức phiền hà. Chúa Giêsu đang rất cần được nghỉ ngơi và rất đáng được nghỉ ngơi, lại không được cho nghỉ ngơi. Đời sống riêng tư của Ngài đã bị xâm phạm. Nếu là người thường, chắc không được vui, nhưng Chúa Giêsu lại rất cảm động và thương xót đám đông. Ngài nhìn họ, họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ có Ngài mới ban cho họ được, họ cần quá nhiều điều mà một mình Ngài không đáp ứng kịp, dưới mắt Ngài thì họ như chiên không có kẻ chăn. Ngụ ý muốn nói gì?
1/ Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đường đi. Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta sẽ bị lạc lõng trong cuộc sống. Hiệu trưởng Cairns nói về những người họ cảm thấy “như trẻ con đi lạc trong mưa”. Dante có một câu nói rằng “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể khiến chúng ta bị bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn, chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.
2/ Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này, chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta cần sức lực để có thể vững buớc, cần có nguồn cảm hứng để nâng chúng ta vượt ra khỏi chính mình và vượt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm ở những nơi khác, tâm trí chúng ta chưa thể thỏa mãn, tấm lòng chúng ta vẫn chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực cho đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.
3/ Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ cả với bọn trộm cướp lẫn với đám thú rừng. Nếu cuộc đời dạy khôn chúng ta điều gì, thì đó là chúng ta không thể sống một mình, phải biết rõ không thể tự mình mà sống. Không ai có thể tự vệ đối với những cám dỗ tấn công mình, với điều gian ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian mà giữ được áo xống mình khỏi ô nhiễm của đời này. Không có Ngài, chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Con người rất yếu đuối. Hứa nhiều mà chẳng giữ đươc bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Đúng là không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15:5), và Chúa đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Thế nên, sách Huấn ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23:1-3). Rất nhiều thứ nguy hiểm vây quanh chúng ta hằng ngày, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:4-6).
Ai cũng mong muốn được sống an bình thư thái, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thể hạnh phúc nói: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” [Tv 22 (23):2-3]. Và rồi vui mừng với niềm tin tưởng thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” [Tv 22 (23):4]. Không nói Chúa cũng biết, nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơn và không thể không bày tỏ điều đó ra: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” [Tv 22 (23):5]. Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để cùng vui mừng với nhau: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” [Tv 22 (23):6].
Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu “và con tim đã vui trở lại” (ca khúc của Ns Đức Huy).
Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Vì yếu đối, vì sa ngã, vì tội lỗi mà chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được Ngài thương nhận là con cái. Thật hạnh phúc biết bao! Đó là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân đời đời!
Con cái phải lìa xa cha mẹ là nỗi khổ, yêu nhau mà không được gần nhau là nỗi khổ. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau, niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.
Thật vậy, chính Ngài là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do-thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2:14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2:18).
Theo tường thuật của Thánh sử Mác-cô, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy. Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Công việc bận rộn, làm gì cũng mệt, làm ít mệt ít, làm nhiều mệt nhiều. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm (tĩnh tâm hoặc cấm phòng) để không chỉ để phục hồi thể lý mà quan trọng hơn là phục hồi tinh thần, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an. Cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”.
Hôm đó, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời hay ý đẹp, dạy chân lý cao siêu, làm những việc kỳ diệu, mà chắc hẳn Ngài ăn nói rất có duyên và chí lý nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy. Chính Ngài đã từng khuyên nhủ: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10:16).
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế. Như Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17). Là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi trong đồng xanh yêu thương của Chúa khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con biết cùng dìu nhau vào Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Một danh nhân đã nhận định: “Chỉ có những người biết yêu thương thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Một câu nói khá nhẹ nhàng mà lại khiến lòng người “nhức nhối” lắm.
Trong những ngày vừa qua, các phương tiện truyền thông “nóng lên” về chuyện những người có “máu lạnh” – tài xế cho xe ủi đất cán chết một phụ nữ trong vụ tranh chấp đất đai ở Hải Dương, hoặc sát thủ Nguyễn Hải Dương ra tay hạ sát 6 nạn nhân tại Bình Phước. Họ là ai? Họ là con người nhưng không hề biết chạnh lòng thương người khác.
Ai cũng phải yêu thương vì đã được Thiên Chúa xót thương. Không yêu thương là ích kỷ, là chống lại chính Thiên Chúa. Mà dám chống lại Thiên Chúa thì số phận học sẽ như thế nào? Chắc hẳn ai cũng biết. Người đời cũng vẫn nói: “Không sợ người hại, mà chỉ sợ Trời hại”. Chắc chắn “chạy trời không khỏi nắng”.
Bất cứ ai không biết chạnh lòng trước cảnh khổ của người khác thì đều là kẻ bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nếu người đó là người lãnh trọng trách chăm lo cho người khác. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!
Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!
Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!
Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!
Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa” (Gr 23:2-4). Vâng, Thiên Chúa luôn thích những chữ T kỳ diệu: Thật Thà, Thanh Thản, Từ Từ Truy Tìm, Thẳng Thắn Trách Tới Tấp, Triệt Tiêu Tụi Tà Tâm,…
Người dám nói thẳng sẽ khiến người nghe rát tai, thế nên người chói tai sẽ ghét người nói thật và tìm cách xa lánh, trù dập. Thường thì người ta thích “che chắn” cho nhau bằng nhiều kiểu tinh vi lắm – gọi là phe cánh, vây cánh, đồng bọn. Thật khó mà phát hiện. Thời nay, những cái giả nhìn còn đẹp hơn cái thật – từ hàng hóa đến con người, chuyên gia còn khó phân biệt, huống chi người không chuyên. Nhưng rồi điều gì đến cũng đến, công lý mãi là công lý, sự thật mãi là sự thật: “Này, sẽ tới những ngày Ta làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23:5-6).
Miệng nói là một chuyện, tay có làm hay không lại là chuyện khác. Vì thế, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan để tỉnh táo và có thể “xem quả mà biết cây” (Mt 12:33). Cuộc sống quá nhiêu khê, cả xã hội và Giáo Hội, chúng ta chỉ còn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Chân thành tín thác vào Thiên Chúa thì chúng ta sẽ an tâm, lỡ có gặp “hàng giả” cũng không lo bị tác hại: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Có được Chúa không phải dễ, vì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì phù phiếm, xa hoa, vinh thân phì da.
Phải thực sự can đảm mới có thể từ bỏ mọi thứ. Từ bỏ mình để có Chúa, được là thân nhân của Ngài. Thánh Phaolô phân tích: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận “chính Người là bình an của chúng ta” và giải thích chi tiết: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2:14-15).
Chúa Giêsu là mối liên kết, là “dấu cộng” nối lại những gì tách rời: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2:16-18). Đó là sự no thỏa tâm linh, no thỏa để tâm linh phát triển và trưởng thành, cũng như thân xác cần được no thỏa để duy trì sự sống thể lý.
Trình thuật Tin Mừng Mc 6:30-44 (tương đương Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13) tường trình phép lạ “bánh hoá nhiều” lần thứ nhất mà Chúa Giêsu đã làm vì chạnh lòng thương dân chúng, những người vì mê say Ngài “nói chuyện” mà bỏ ăn quên uống. Và Ngài biết họ đang đói lắm.
Chiều hôm đó, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Nhưng Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Ngài biết công việc mục vụ vất vả lắm, vất vả thì phải mệt, Ngài thương các ông lắm, vì công việc cần làm mà không có giờ ăn lót dạ. Thế nên Ngài bảo các ông cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi “chiến đấu” tiếp.
Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa, dù đó là nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng vì Chúa và vì tha nhân mà họ chấp nhận hy sinh. Sau đó, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Nhưng thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên người ta từ khắp các thành cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, thậm chí còn đến trước cả các ngài. Thế mới chắc cú! Điều đó cho thấy sức hút của Chúa Giêsu rất mạnh, dù nhìn bề ngoài Ngài rất “bụi”, chẳng có gì “nổi bật”.
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Chạnh lòng thương là điều kiện tiên quyết để có thể dẫn tới hành động cụ thể. Rồi Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. Ngài dạy họ cách sống vì thương xót họ, thương xót vô điều kiện.
Nói đến chuyện chăm sóc mục vụ, chúng ta không thể không liên tưởng tới cuộc đời Thánh LM Gioan Maria Vianney (1786-1859, Pháp quốc). Cuộc đời ngài thể hiện rõ nét một mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hành động theo đúng Thánh Ý Chúa, chính xác như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Thánh Gioan Vianney lo mục vụ giải tội mà bỏ cả ăn uống, ngủ ít, hy sinh cả những thứ cơ bản nhất của mình, đói thì chỉ ăn mấy củ khoai lót dạ mà thôi. Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được giải hòa với Thiên Chúa. Và Ngài không hề nghĩ tới chuyện nghỉ hưu. Thật đáng khâm phục biết bao!
Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm. Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự nhận lỗi mình chứ đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…
Lúc sinh thời, Thánh GH Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!
Hình ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô: Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,… nhưng vẫn cương trực, thẳng thắn và dứt khoát.
Lo cho thân xác được no ấm thì cũng phải lo cho linh hồn no thỏa. Muốn như vậy thì phải can đảm và dứt khoát – nghĩa là không sợ gì hoặc sợ ai. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã động viên chúng ta 365 lần: “Đừng sợ!”. Con số “kỷ lục” này chia đủ cho số ngày của một năm, điều đó cho chúng ta thấy rằng ngày nào Thiên Chúa cũng động viên chúng ta can đảm sống hiền như chiên giữa bầy sói, hiền lành nhưng vẫn cương quyết bảo vệ sự thật để làm chứng nhân của Thiên Chúa.
Trong Tông thư Laudato Si (Chúc Tụng Thiên Chúa), ĐGH Phanxicô có đề cập một cách sống độc đáo theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô: “Hãy sống khôn ngoan, hãy suy nghĩ sâu sắc, hãy yêu thương rộng lòng”. Ước gì mỗi chúng ta đều biết thể hiện lòng thương xót đối với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn, những người bị xã hội ruồng bỏ, có làm vậy thì chúng ta mới xứng đáng nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Lòng Chúa Thương Xót, đời đời con ca tụng – Misericordias Domini in aeternum cantabo” (Tv 89:1).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng xót thương, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ (Tv 51:12) để con biết thương xót tha nhân như chính mình. Xin cho các Kitô hữu luôn cố gắng sống xứng đáng kiếp người trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mọi thứ đều có màu sắc đặc trưng: cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, xanh, đỏ, tía, xám, trắng, đen,… Tuy nhiên, yêu thương là “chất” trừu tượng, vô hình, làm sao biết nó có màu sắc gì? Đúng vậy, nhưng người ta vẫn “điểm tô” cho nó bằng loại màu sắc đẹp đẽ: màu hồng, màu xanh. Riêng những người thất tình, có lẽ họ thấy tình yêu màu xám xịt hoặc đen thui. Còn những ai yêu Chúa thì chắc chắn KHÔNG BAO GIỜ bị thất tình – nghĩa là tình yêu luôn có màu hồng hoặc xanh biếc, khả dĩ quyến rũ lòng người: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20:7).
Ai trong chúng ta cũng bị Thiên Chúa quyến rũ như vậy. Thế nhưng con người rất yếu đuối, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu. Mỗi ngày té lên té xuống bao lần. Cả đời biết bao lần ăn năn mà vẫn chưa “nên người”. Quả thật, không có Ơn Chúa thì con người không thể làm được gì (Ga 15:5), nhưng Ngài đòi buộc chúng ta phải “từ bỏ mọi sự” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27).
Thế nên, sách Huấn ca có những lời cầu nguyện để chúng ta học hỏi: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Chúa Tể đời con, xin đừng để mặc con chiều theo sở thích của môi miệng, đừng để nó làm con vấp ngã. Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều, con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười” (Hc 23:1-3).
Hằng ngày luôn có nhiều thứ nguy hiểm rình rập vây quanh chúng ta, sơ sảy một chút là “mắc mưu ma chước quỷ” ngay lập tức. Vì thế, chúng ta không chỉ phải cảnh giác mọi sự mà còn phải canh chừng chính mình: “Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mắt con trâng tráo, xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:4-6). Và Kitô giáo quên cầu nguyện: “Xin Chúa đừng bắt con phải chết cùng quân tội lỗi, với bọn ác nhân. Miệng thì những nói bình an, mà lòng thâm độc chỉ toan hại người” (Tv 28:3).
Không ai lại không mong muốn được sống thư thái trong sự hòa bình đích thực, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy ở nơi Thiên Chúa. Muốn vậy thì phải biết khước từ tội lỗi và sống phó thác cho Ngài quan phòng. Khi đó, chúng ta có thể sung sướng minh định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23:1). Thật vậy, chúng ta không thể im lặng khi niềm vui dâng trào, nên phải thổ lộ: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:2-3). Đó là chia sẻ niềm vui thánh đức với tha nhân.
Cứ thế và cứ thế, càng gia tăng niềm vui mừng càng thêm niềm tin tưởng để thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23:4). Không nói Chúa cũng biết – vì Ngài thấu suốt mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), nhưng bổn phận người hàm ơn phải biết ơn và không thể không bày tỏ điều đó: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:5). Niềm hạnh phúc đó còn được “khoe” với người khác, đó là chia sẻ với tha nhân để chung hưởng vui mừng với nhau: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6).
Cuộc đời luôn biến đổi và mang nhiều màu sắc, người đời gọi là “lên voi, xuống chó”. Sau thời gian sống u buồn ảm đạm vì vắng bóng Thiên Chúa, giờ đây chúng ta sống bình an trong niềm hạnh phúc kỳ diệu để rồi con tim lại thấy vui mừng: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).
Vừa giải thích vừa xác định, Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2:13). Chỉ vì yếu đuối mà sa ngã, phạm tội; và tội lỗi khiến chúng ta xa cách Chúa, nhưng nhờ giá Máu cứu chuộc của Ngài mà chúng ta lại được tiếp cận Ngài, được phục hồi quyền làm con cái của Ngài. Niềm hạnh phúc thật lớn lao. Đó không phải là công của chúng ta, mà là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy phát xuất từ Thánh Tâm nhân từ của Đức Giêsu. Chúng ta thật diễm phúc, bởi vì nếu không có lòng thương xót đó thì chúng ta phải trầm luân mãi mãi. Cuộc đời của chúng ta đang xám xịt trở thành hồng thắm, đang đen thui hóa ra trắng ngần. Kỳ lạ thay!
Cuộc đời là bể khổ mênh mông. Yêu mà khổ te tua đã đành, không yêu mà cũng khổ tả tơi. Thánh Gióp đã than oán về sinh nhật của mình: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời… Phải chi ngày ấy là đêm tối… Phải chi đêm ấy bị tối tăm xâm nhập, không được kể vào niên lịch, không được tính trong số các tháng” (G 3:3-6). Một loạt “phải chi” thật não nuột!
Cái khổ cứ cộng thêm rồi nhân lên, chẳng bao giờ trừ bớt. Con cái phải lìa xa cha mẹ thì khổ sở lắm, hai người yêu nhau mà không được gần nhau thì khổ vô cùng. Khổ thì mệt. Mệt tinh thần kéo theo mệt thể lý. Mệt thì mỏi. Thế nên mệt dạng nào cũng cần được nghỉ ngơi hợp lý. Khi gia đình đoàn tụ, khi những người yêu nhau được gần nhau, niềm vui bừng lên và dâng cao như nước thủy triều.
Than thì cứ than, thở vẫn phải thở. Hãy cứ bình tĩnh, rồi đâu lại vào đấy. Thật vậy, chính Thiên Chúa vẫn mãi là bình an của chúng ta: “Ngài đã liên kết dân Do-thái và dân ngoại thành một; Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Ngài đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật” (Ep 2:14-15). Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Ngài đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài. Hai “đối thủ” hài hòa và sống hòa bình trên cánh đồng xanh mướt yêu thương. Đó là “nhờ thập giá mà Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2:16). Ngài đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho chúng ta là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Rồi cũng chính nhờ Ngài, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha (Ep 2:18).
Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Deus meus et omnia – Thiên Chúa của tôi và tất cả của tôi”. Thánh nhân là người rất nghèo mà lại trở nên rất giàu. Đó là cách sống tín thác, sống khôn ngoan, bởi vì nhờ đức tin mà được nên công chính (Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6). Thánh Phêrô cảnh báo: “Hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa” (2 Pr 3:17).
Thông thường, cái gì cũng có hai mặt. Chuyện yêu thương cũng thế, có khoảng sáng và khoảng tối – như một bức tranh có màu sáng và tối vậy. Cả hai đều cần để hỗ trợ nhau.
Yêu thương cũng có lúc vui vẻ, lúc buồn bã; lúc hăng hái, lúc chán nản; lúc khỏe khoắn, lúc mệt mỏi. Mệt thì phải nghỉ để “nạp” năng lượng tinh thần. Theo tường thuật của Thánh sử Mác-cô, hôm đó các Tông Đồ tụ họp xung quanh Thầy Giêsu, kể lại cho Ngài biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy. Và Ngài bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Đó là một dạng tĩnh tâm cần thiết lắm.
Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6:34), tránh trời không khỏi nắng. Ngày nào cũng có việc bận rộn, làm gì cũng mệt – làm ít, mệt ít; làm nhiều, mệt nhiều; thậm chí không làm cũng… mệt. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài cũng rất tâm lý nên thương các ông mà bảo các ông “nghỉ ngơi đôi chút”, tức là Ngài bảo chúng ta làm gì thì cũng cần có những giây phút tịnh tâm (tĩnh tâm hoặc cấm phòng) để không chỉ PHỤC HỒI THỂ LÝ mà quan trọng hơn là PHỤC HỒI TINH THẦN, đặc biệt là tâm sự với Chúa để tâm hồn được nghỉ ngơi và bình an. Cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận nói: “Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động”. Chúa Giêsu cũng căn dặn Thánh Faustina: “Hãy tựa đầu vào vai Ta, hãy nghỉ ngơi và lấy lại sức, Ta luôn ở bên con” (Nhật ký, số 498).
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng, hôm đó kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Thế nên thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy thầy trò đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.
Thật kỳ lạ, Chúa Giêsu thu hút mọi người không chỉ vì Ngài luôn nói lời thiêng ý thánh, đơn giản mà thâm thúy, giáo huấn chân lý cao siêu nhưng vẫn phù hợp với mọi trình độ, thực hiện những việc lạ lùng,… mà chắc hẳn Ngài còn ăn nói rất có duyên (cả âm và sắc), rất chí lý, thế nên người ta mới tâm phục khẩu phục như vậy. Cuộc sống luôn nhiêu khê, thế nên Chúa Giêsu đã khuyên nhủ về bí quyết sống: “Khôn như rắn, hiền như bồ câu” (Mt 10:16). Đó là cách “sống khôn”, mà sống khôn đâu dễ gì. Người ta có bí quyết thú vị này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Còn Lão Tử phân tích: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện”. Nghĩa là “người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không thiện”. Đó cũng là dạng yêu thương mang màu sắc lạ.
Khi Thầy trò ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì CHẠNH LÒNG THƯƠNG, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6:34). Thánh Tâm thương xót của Ngài không thể chịu được khi thấy người ta nghèo khổ và vất vưởng giữa cuộc đời, thế nên Ngài luôn động lòng trắc ẩn, và Ngài muốn chúng ta cũng phải biết xót thương nhau như vậy, không chỉ xót thương bằng lời nói suông mà còn phải thể hiện bằng hành động thực tế, cách thức mà Thánh Giacôbê đã xác định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17).
Chỉ là ích kỷ nếu tôi được nghỉ ngơi nơi đồng xanh yêu thương của Chúa trong khi người khác phải long đong khốn khó, cũng là ích kỷ nếu tôi chỉ lo cho phần rỗi của tôi mà bỏ mặc người khác. Đó là vô cảm tâm linh. Muốn lên Thiên Đàng một mình là ích kỷ, mà người ích kỷ thì làm sao mà vào Nước Trời chứ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết sống khôn để có thể chết thiêng, biết kết hợp và cân bằng giữa hoạt động với cầu nguyện. Xin giúp chúng con luôn đồng hành với nhau và dìu bước nhau vào Miền Đất Hứa mà Ngài đã hứa ban. Xin tô thắm cuộc đời chúng con bằng màu sắc yêu thương tươi thắm của Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
“Có thực mới vực được đạo”. Đó là câu người ta thường nói, cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết cơ bản nhất để duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường.
Chúa Giêsu là người rất thực tế. Ngài chăm lo từ những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, và chính Ngài cũng đã xác định tại Bêtania: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người ta khinh miệt, và vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608-1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869-1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8-9).
Chuyện ăn uống bình thường mà quan trọng. Điều đó liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365-290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13-29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác” (Gr 23:1). Là mục tử thì PHẢI chăm lo cho đoàn chiên. Đã không chăm lo cho chiên mà lại cứ tìm cách “vỗ béo” mình, bằng cách này hay cách nọ, thì không chỉ bất xứng mà chỉ là “thợ chiên” (người chăn thuê), thật đáng nguyền rủa! Và còn đáng nguyền rủa hơn nếu mục tử đó lại còn làm cho đoàn chiên tản mác!
Thật đáng giật mình với lời chia sẻ của ĐGM G.B. Bùi Tuần: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa” (Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay). Sự thật vẫn thường hay phũ phàng như thế đấy! Ai sẽ là người dám thay đổi, dám chấn chỉnh, dám nói thẳng nói thật? Chắc chắn phải thực sự can đảm lắm lắm!
Thánh GH Grêgôriô (540?-604) thẳng thắn và cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, CẤM lấy tiền từ nhiều loại lễ, nhưng ngài lại lấy tiền của Tòa Thánh để giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã dám đi đối chất với vua Lombard. Ngài đúng là vị mục tử đích thực!
Thánh Phaolô cũng xác nhận: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Chúng ta lại tiếp tục giật mình nữa!
Vì thế, để lên án các mục tử – những người chăn dắt dân Chúa, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhi